Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH TIỀN tệ của NGÂN HÀNG NHÀ nước VIỆT NAM để hạn CHẾ lạm PHÁT TRONG năm 2008 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.23 KB, 36 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
CƠ SỞ THANH HÓA – KHOA KINH TẾ

BÀI TIỂU LUẬN
NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
ĐỀ TÀI :
PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM ĐỂ HẠN CHẾ LẠM PHÁT
TRONG NĂM 2008 - 2012
GIÁO VIÊN HD : TH.S LÊ THÙY LINH
SINH VIÊN TH : NGUYỄN THỊ VÂN
MSSV : 11035253
LỚP : CDTN13TH
THANH HÓA, THÁNG 06 NĂM 2014.
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN













Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương


MỤC LỤC
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
LỜI NÓI ĐẦU
Có thể nói, trong chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước thì chính sách tiền
tệ (CSTT) của ngân hàng trung ương (NHTW) đóng vai trò rất quan trọng. Do
nắm trong tay các công cụ đế điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông mà qua
đó có thế tác động đến hầu hết mọi hoạt động kinh tế xã hội và ảnh hưởng trực
tiếp tới sự cân bằng ngân sách nhà nước (NSNN), cán cân thanh toán quốc tế và
sự ốn định của nền kinh tế quốc gia.
Trong nền kinh tế phát triến nhanh của nước ta hiện nay luôn tiềm ấn nguy
cơ lạm phát cao, do đó một công cụ điều tiết vĩ mô hiệu nghiệm như CSTT được
tận dụng trước tiên với hiệu suất cao cũng là điều tất yếu. Việc sử dụng CSTT
như thế nào và hướng mục tiêu của CSTT ra sao là một trong những vấn đề rất
quan trọng mà NHTW cần hướng tới.
Điều hành các giải pháp tín dụng linh hoạt theo hướng mở rộng tín dụng đi
đôi với an toàn hoạt động của TCTD, phù hợp vói mục tiêu điều hành chính sách
tiền tệ, đồng thời tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho
hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý,
đặc biệt là kiềm chế lạm phát.
Để nắm được chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô của NHNN và tác động và
vai trò của những chính sách đó trong việc ổn định giá cả kiềm chế lạm phát,
cùng với những gì đã được học ở trường Đại học Công nghiệp TP.Hồ Chí Minh
em đã chọn đề tài “ Phân tích chính sách tiền tệ của NHNN VN để giảm lạm
phát trong giai đoạn 2008 - 2012 ” . Trong phạm vi bài tiểu luận này em xin
phân tích chính sách tiền tệ của NHNN VN , đồng thời phân tích những tác động
của CSTT nhằm kiểm soát lạm phát trong những năm gần đây.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253 Trang 4
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
CHƯƠNG 1 :

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN
TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
1.1. Khái quát về chính sách tiền tệ và lạm phát
1.1.1.Lạm phát
Là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế.Trong một
nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng
tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của
một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì
người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một
quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ
trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này
vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với
lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì
được người ta gọi là sự "ổn định giá cả".
1.1.2. Tác động của lạm phát.
Các hiệu ứng tích cực:
Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ
tăng giá mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ
"dầu bôi trơn" đế miêu tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải
làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm
đi. Điều này khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được
tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm.
Các hiệu ứng tiêu cực
Đối với lạm phát dự kiến được: Trong trường hợp lạm phát có thể được dự
kiến trước thì các thực thế tham gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với
nó, tuy vậy nó vẫn gây ra những tốn thất cho xã hội.
Chi phí da giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền
và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253 Trang 5
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương

làm cho người ta giữ ít tiền hơn hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải
thường xuyên đến ngân hàng đế rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ
"chi phí mòn giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời
gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát.
Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh
nghiệp sẽ mất thêm chi phí đế in ấn, phát hành bảng giá sản phâm.
Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp
do lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực
đơn) còn doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí
thực đơn thì giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so
với doanh nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bố nguồn lực dựa trên
giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi
mô.
Lạm phát có thể làm thay đối nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý
muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm
phát. Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi
nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập
trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.
Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng đế làm
thước đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co
giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.
Đối với lạm phát không dự kiến được:
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải
giữa các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường
được lập trên lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay
được hưởng lợi còn người cho vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến
người cho vay sẽ được lợi còn người đi vay chịu thiệt hại. Lạm phát không dự
kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác động của nó rất lớn. Các nhà
kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu cực của lạm
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253 Trang 6

Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát gây ra là không
đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức vừa
phải. Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã hội của nó thông qua việc phân
phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán rõ ràng là rất lớn và do vậy
chính phủ của tất cả các nước đều tìm cách chống lại loại lạm phát này.
Nhìn chung, khi lạm phát ở mức cao sẽ có ảnh hưởng xấu tới xã hội. Do
đó, Chính phủ phải có giải pháp khắc phục, kiềm chế và kiếm soát lạm phát. Có
nhiều giải pháp đế kiểm soát lạm phát nhưng ở tiểu luận này tôi chỉ xin phân
tích giải pháp sử dụng chính sách tiền tệ đế kiếm soát lạm phát.
1.2. Chính sách tiền tệ.
Khái niệm:
Là quá trình quản lý hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay ngân hàng trung
ương đế đạt được những mục đích đặc biệt- như kiềm chế lạm phát, duy trì ốn
định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính
sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể
trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở, qui định mức dự
trữ bắt buộc, hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối.
1.3. Các công cụ của chính sách tiền tệ.
Công cụ tái cấp vốn: Là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương
đối với các Ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng
thương mại, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo
cơ sở cho Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán
của họ.
Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt Buộc: Là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô
hiệu hóa trên tống số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toan
(cho vay) của các Ngân hàng thương mại.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Là hoạt động Ngân hàng Trung ương
mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về
giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253 Trang 7
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng thương
mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
Công cụ lãi suất tín dụng: Đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực
hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đối lãi suất không trục tiếp làm tăng thêm
hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm
sản xuất. Nó là 1 công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng
thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thế của Ngân hàng Trung ương
nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất
định.
Công cụ hạn mức tín dụng: là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành
chính của Ngân hàng Trung ương đế khống chế mức tăng khối lượng tín dụng
của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng
Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng
cho nền kinh tế.
Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và
đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biếu hiên quan
hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bấy điều tiết cung cầu
ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh
trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản
xuất, xuất nhập khấu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán
quốc tế, thu hút vốn dầu tư, dự trữ của đất nước, về thực chất tỷ giá không phải
là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đối lượng tiền tệ trong
lun thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang
chuyến đối coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
1.4. Chính sách tiền tệ với kiểm soát lạm phát.
Chính sách tiền tệ thắt chặt là việc chủ động giảm cung đầu tư và cắt giảm
cầu tiêu dùng được tài trợ bởi tín dụng cá nhân. Xét trên tương quan tài sản và
tiêu dùng, các cá nhân sẽ giảm chi tiêu và tăng tỷ lệ tiết kiệm đế dành cho tiêu

dùng tương lai. Do vậy, trong ngắn hạn thắt chặt tiền tệ ảnh hưởng về phía cầu
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253 Trang 8
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
của thị trường và làm suy giảm sản lượng và giá cả. Do chi phí vốn tăng cao,
nhà sản xuất sẽ cắt giảm vốn đầu tư và tín dụng lưu động đế giảm sản lượng
tương ứng.
Trong trường hợp thắt chặt tiền tệ cần thực hiện từng bước đế đảm bảo
rằng thị trường tiền tệ không bị sốc, đảm bảo sự ổn định hệ thống tài chính và
kiểm tra mức độ chịu đựng của thị trường tiền tệ.
Do chính sách tiền tệ có độ trễ nhất định từ các chính sách (khoảng hai
quý), nên hiệu quả chống lạm phát của chính sách thắt chặt tiền tệ chúng ta chưa
hy vọng có một kết quả ngay.
Thắt chặt tiền tệ không có nghĩa rằng lạm phát gia tăng do chi phí vốn tăng
cao, đẩy giá hàng hóa tăng. Trên thực tế tổng chi phí vốn sẽ giảm do doanh
nghiệp sẽ cắt giảm vốn lưu động và nhân sự và chi phí nói chung để đáp ứng
mức cầu mới yếu hơn.
Điều này có nghĩa rằng, các nhà sản xuất sẽ phải chấp nhận mức tăng giá
cân bằng thấp hơn mức tăng giá trước đây. Điều này hoàn toàn ngược lại với
quan điếm cho rằng lãi suất cao sẽ dẫn tới chi phí vốn doanh nghiệp cao. Một
điều hoàn toàn bình thường là với mức lãi suất cao, doanh nghiệp sẽ ngừng và
giảm vay tiền, tức là điều chỉnh hành vi, chứ không phải là chấp nhận mức chi
phí cao và tiếp tục sản xuất.
Câu hỏi đặt ra là mức thắt chặt như thế nào là đủ?
Không thế có một câu trả lời chính xác, nó tùy thuộc vào niềm tin của thị
trường với hiệu quả của chính sách tiền tệ. Nhiều người cho rằng, thị trường
chưa tin chính sách kiểm soát lạm phát với bằng chứng giá cả tăng ngay sau khi
tỷ giá và giá xăng tăng, phớt lờ tuyên bố kiềm chế lạm phát của Chính phủ và
Ngân hàng Nhà nước.
Tuy nhiên, đó chỉ là bề nối và thực tế cho thấy đây là một phản ứng bình
thường của thị trường với một số hàng thiết yếu chứ không phải với nhiều mặt

hàng khác. Đồng thời chính sách tiền tệ có độ trễ và cần sự kiếm chứng trong
thời gian tới. Như vậy, việc giá tăng do tỷ giá và giá xăng không phản ánh được
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253 Trang 9
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
tính hiệu quả của chính sách tiền tệ.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253 Trang 10
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
CHƯƠNG 2 :
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM
2.1. Chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2012.
2.1.1 Năm 2008.
Tình hình kinh tế : Năm 2008 là năm mà tình hình kinh tế có nhiều biến
động lớn. Ba tháng đầu năm nền kinh tế đang trên đà phát triển và chưa nhận ra
được dấu hiệu của khủng hoảng kinh tế. Sáu tháng tiếp theo, chúng ta bắt đầu
nhận ra sự bất ôn trong nền kinh tế và có những biện pháp ngăn chặn. Ba tháng
cuối năm là thời gian khủng hoảng kinh tế bộc lộ rõ và lan rộng. Giai đoạn này
chúng ta tập trung vào "chữa bệnh".
Với tình hình chung là bất động sản trong vòng vài tháng đã tăng lên chóng
mặt, tăng lên 2 đến 3 lần so với năm 2007 đã tạo thành những bong bóng BĐS
đc dọa đầu tư.
Thị trường chứng khoán biến động thất thường nhưng hiện có xu hướng đi
xuống 30%.
Muốn thúc đây tăng trưởng kinh tế phải có vốn đầu tư. Tuy nhiên dòng
vốn chủ yếu đê thúc đây đầu tư hiện nay là vốn tín dụng ngân hàng. Vô tình
chúng ta vướng vào một vòng mang tên "tín dụng".
Với mục tiêu kiêm chế lạm phát, hỗ trợ thị trường chứng khoán, kiềm hãm
sự tăng trưởng nóng của thị trường BĐS. NHNN đứng trước một bài toán khó
trong công cuộc điều hành chính sách tiền tệ.
Tất cả khó khăn trên đặt lên vai trò chính sách tiền tệ của NHNN.

Có thể nói rằng, năm 2008 là năm mà nền kinh tế trong nước có những biến
động rất lớn. Năm 2008, thị trường ngân hàng trong nước đã trải qua những biến
động chưa từng có về lãi suất, tỷ giá Thực hiện chính sách tài chính tiền tệ linh
hoạt, hiệu quả, lúc thắt chặt, lúc nới lỏng. Việc thắt chặt tiền tệ đầu năm và nới
lỏng dần cuối năm đã tạo nên tần suất điều chỉnh chính sách nhiều chưa từng có
trong lịch sử.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253 Trang 11
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, trong vòng 3 tuần đầu của tháng
2 năm 2008 NHTM đã thực hiện đồng thời 4 biện pháp thắt chặt tiền tệ của
NHN
Thứ nhất : Quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11 % đồng thời
mở rộng thêm phạm vi tiền gửi dự trữ bắt buộc.
Thứ hai : Phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc. Ba NHTM
nhà nước lớn nhất, mỗi ngân hàng phải mua 3000 tỷ đồng.Các loại tín phiếu
trước đây được giao dịch trên thị trường mở với NHNN thì giờ NHNN nói rõ là
không được vay tái cấp vốn
Thứ ba : Từ tháng 2/2008 các loại lãi suất chủ đạo của NHNN tăng hơn
trước
Thứ tư : NHNN ban hành quỵết định sổ 03/2008/ỌĐ-NHNN ngày
1/2/2008 về sửa đổi chỉ thị về cho vay chứng khoán. Quyết định 03 còn thắt chặt
về cho vay chứng khoán hơn Chỉ thị 03 trước.
Với 4 quyết định được coi là cứng rắn và kiên quyết nói trên trong điều hành
CSTT của NHNN đã gây ra các tác động sốc và phản ứng tiêu cực tức thì của thị
trường tiền tệ và của NHTM. Có thế nói đây là một cú phanh gấp trong quá trình
tụt dốc của nền kinh tế nhằm ngăn chặn vật giá leo thang và lạm phát.
Như vậy, trên đây là điều chỉnh mở rộng nghiệp vụ thị trường mở của
NHNN nhằm thu hồi lượng tiền mặt quá lớn đồng thời thắt chặt tín dụng của các
NHTM
Lãi suất: Lãi suất biến động mạnh và liên tục tăng cao trong những tháng

đầu năm và giải dần trong những tháng cuối năm:
Trong những tháng đầu năm 2008, đặc biệt là trong khoảng thời gian
tháng 2/2008 đến tháng 5/2008, lãi suất huy động liên tục tăng cao trong cuộc
chạy đua về lãi suất Tuy nhiên, những tháng cuối năm, lãi suất thị trường có
xu hướng giảm: Lãi suất huy động và cho vay bằng VND giảm 2,5%-3%/năm.
Tác động của việc thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt: việc thực thi
chính sách thắt chặt tiền tệ của NHTW thông qua công cụ dự trữ bắt buộc, phát
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253 Trang 12
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
hành tín phiếu bắt buộc và công cụ lãi suất, đã tác động trực tiếp đến thị trường
tiền tệ và hoạt động kinh doanh của các NHTM, theo hướng làm giảm quy mô
nguồn vốn; giảm khả năng cho vay. Quá trình này tác động làm tăng chi phí
kinh doanh, tăng lãi suất cho vay của các NHTM và trực tiếp đến thanh khoản
của các NHTM trong thời gian này.
Tỷ giá: Tỷ giá trên thị trường diễn biến phức tạp và chia thành 4 giai đoạn:
Giai đoạn đầu (3 tháng đầu năm từ 01/01/2008 - 25/03/2008): Tỷ giá liên
tục giảm, dưới mức.Tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng liên tục sụt
giảm (từ mức 16.112 đồng xuông 15.960 đồng, mức thấp nhất là 15.560
đồng/USD). Trên thị trường tự do, USD dao động từ mức 15.700 – 16.000
đồng/USD.
Nguyên nhân là thời điêm này đang ở giai đoạn gần tết Dương lịch, do đó
lượng kiều hối chuyên về nước khá lớn. Thứ hai, các nhà đầu tư dự kiến VND sẽ
tăng giá so với USD, cộng thêm chênh lệch lãi suất lớn giữa USD và VND nên
các nhà đầu tư đẩy mạnh việc bán USD chuyến qua VND. Tập trung vào các đối
tượng là nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ Việt Nam (1,4
tỷ USD), các doanh nghiệp xuất khâu vay USD đê phục vụ sản xuất kinh
doanh Các NHTM lúc này cũng đẩy mạnh bán USD.
Trong khoảng thời gian này, Chính phủ và NHNN đang đẩy mạnh việc
kiềm chế lạm phát, sử dụng biện pháp tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất cơ bản từ
8,25%/năm (tháng 12/2007) lên 8,75%/năm (tháng 2/2008). NHNN không thực

hiện mua ngoại tệ USD nhằm hạn chế việc bơm tiền ra lưu thông, tăng biên độ
tỷ giá USD/VND từ 0,75%/năm lên 1%/năm trong ngày 10/03/2008.
Giai đoạn 2 (từ 26/03 - 16/07): Tăng với tổc độ chóng mặt tạo cơn sốt
USD trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do.
Trong giai đoạn này, tỷ giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa
tháng 6, đỉnh điêm lên đến 19.400 đồng/USD vào ngày 18/06, cách hơn 2.600
đồng so với mức trần. Tâm lý hoang mang cộng với động thái đầu cơ của giới
buôn ngoại tệ trên thị trường tự do đẩy USD cùng với giá vàng tăng mạnh lên
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253 Trang 13
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
gần 19 triệu đồng/lượng.Tỷ giá lên đỉnh ngày 18/06, sau đó giảm dần. Ngày
27/06, NHNN tăng biên độ USD/VND từ 1% lên 2%.
Nguyên nhân USD tăng mạnh trong giai đoạn này chủ yếu do tâm lý bất
ổn của doanh nghiệp và người dân khi thấy USD tăng nhanh dẫn đến trạng thái
găm ngoại tệ của giới đầu cơ. Nhu cầu mua ngoại tệ trả các khoản nợ của cả DN
xuất và nhập khấu đến hạn cao; Tăng nhập khấu vàng do chênh lệch lớn giữa giá
vàng trong nước và quốc tế.
Nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu rút vốn khỏi Việt Nam bằng việc bán Trái
phiếu chính phủ khi lo ngại về tình hình kinh tế và do tình hình thanh khoản
thấp trên thị trường thế giới đấy nhu cầu mua USD chuyến vốn về nước lên cao
(bán ròng 0,86 tỷ USD).
Cung ngoại tệ thấp do NHNN không cho phép cho vay ngoại tệ đối với
doanh nghiệp xuất khấu (theo quyết định sổ 09/2008/ỌĐ, NHNN không cho
phép vay đề chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu, vay thực hiện dự án sản xuất xuất
khẩu) giảm hiện tượng doanh nghiệp xuất khẩu vay ngoại tế bán lại trên thị
trường.
Giai đoạn 3 (từ 17/07 - 15/10): Giảm mạnh và dần đi vào bình ổn.
Nhờ có sự can thiệp kịp thời của NHNN, cơn sốt USD đã được chặn đứng,
tỷ giá giảm mạnh từ 19.400 đồng/USD xuống 16.400 đồng/USD và giao dịch
bình ổn quanh mức 16.600 đồng trong giai đoạn từ tháng 8 - tháng 11. Nhận

thấy tình trạng sổt USD đã ở mức báo động, lần đầu tiên trong lịch sử, NHNN
đã công khai công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD khi các thông tin
trên thị trường cho rằng USD đang trở nên khan hiếm.Đồng thời lúc này, NHNN
đã ban hành một loạt các chính sách nhằm bình ổn thị trường ngoại tệ như kiêm
soát chặt các đại lý thu đôi ngoại tệ (cấm mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do
không đăng ký với các NHTM), cấm mua bán USD thông qua ngoại tệ khác đê
lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng; bán ngoại tệ can
thiệp thị trường thông qua các NHTM
Giai đoạn 4 (từ 16/10 đến nay): tỷ giá USD tăng trở lại.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253 Trang 14
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
Tỷ giá USDVND tăng đột ngột trở lại từ mức 16.600 lên mức cao nhất là
16.998 sau đó giảm nhẹ. Giao dịch nằm trong biên độ tỷ giá. Tuy nhiên cung
hạn chế, cầu ngoại tệ vẫn lớn. Sau khi NHNN tăng biên độ tỷ giá từ 2% lên 3%
trong ngày 7/11/2008, tăng tới mức 17.440 đồng/USD.
Nguyên nhân: Trong khoảng thời gian từ tháng 10 - tháng 11, nhà đâu tư
nước ngoài đây mạnh việc bán ra chứng khoán trong đó bán trái phiếu (700 triệu
USD), cố phiếu (100 triệu USD). Nhu cầu mua ngoại tệ của khối nhà đầu tư
nước ngoài tăng cao khi muốn đảm bảo thanh khoản của tổ chức tại chính quôc.
Nhu câu mua USD của các ngân hàng nước ngoài cũng tăng mạnh (khoảng 40
triệu USD/ngày).Cầu USD trên thị trường tự do tăng cao bởi khi NHNN không
cho phép nhập vàng thì hiện tượng nhập lậu vàng gia tăng, làm tăng cầu USD đê
nhập khẩu (do USD là đồng tiền thanh toán chính).
NHNN bán hơn 1 tỷ USD cho các NHTM đáp ứng nhu cầu nhập khấu
một số mặt hàng thiết Dự trừ bắt buộc.
Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, tháng 2/2008 NHNN điều chỉnh
tăng 1% tỷ lệ DTBB đối với tất cả các kỳ hạn, áp dụng cho cả tiền gửi VND và
ngoại tệ đối với hầu hết các TCTD.
Những tháng cuối năm 2008, đế ngăn chặn suy giảm kinh tế, NHNN đã
điều chỉnh giảm tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng VND từ 11% xuống 6% và

tiền gửi bằng ngoại tệ từ 11% xuống 7%.
Như vậy, năm 2008 là năm hệ thống Ngân hàng Việt Nam phải đối mặt
với những khó khăn, thách thức chưa từng có trong hơn hai mươi năm đoi
mới.Trước bối cảnh phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước trong 6 tháng
đầu năm 2008, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có những phản ứng kịp thời,
sử dụng đồng bộ và quyết liệt về điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm
kiềm chế lạm phát có hiệu quả và ôn định kinh tế vĩ mô. Các công cụ chính sách
tiền tệ được điều hành linh hoạt đế hút tiền từ lưu thông nhưng vẫn đảm bảo tính
thanh khoản cho nền kinh tế, điều hành linh hoạt tỷ giá theo túi hiệu thị trường.
Ngân hàng Nhà nước đã tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253 Trang 15
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
thị trường ngoại hối và của các tô chức tín dụng, hạn chế tăng trưởng tín dụng
quá nóng có thê gây mất an toàn hệ thống của các tô chức tín dụng. Đen cuối
năm 2008, đe chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, chính sách tiền tệ thắt chặt
được chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng. Chính sách ten tệ chưa thể
nói là cực chuẩn nhưng có thể nói là thành công.
Tuy nhiên, do Chính phủ không dự đoán được tình hình khủng hoảng xảy
ra nên việc áp dụng CSTT của NHNN được thực hiện trong bị động và tình hình
căng thẳng, Việc thắt chặt CSTT đột ngột trong giai đoạn đầu sẽ tạo ra cú sốc
lớn và gây ra các phản ứng tiêu cực tức thời của thị trường tiền tệ và của
NHTM. Thêm vào đó, sự mâu thuẫn giữa các mục tiêu trong ngắn hạn sẽ khiến
cho nền kinh tế trong ngắn hạn không thể thực hiện được tất cả các mục tiêu của
chính sách tiền tệ.
2.1.2. Năm 2009.
Tình hình kinh tế: Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp
nhiều khó khăn, thách thức. Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn
trong năm 2008 đã đây kinh tế thế giới vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp
đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn, thị trường lao động và tác động
tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội khác của nước ta. chính sách tiền tệ

(CSTT) đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất
cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế Nhìn nhận một cách khách quan có thể thấy, lạm phát cao năm 2008,
cùng với sự đảo chiều của vốn đầu tư nước ngoài và thâm hụt mạnh cán cân
thương mại (12,783 tỷ USD) đã có tác động mạnh đến tâm lý các nhà đầu tư trên
thị trường ngoại hối, gây những biến động khó lường đến tỷ giá.
Thêm vào đó, giải pháp hỗ trợ lãi suất có tác động tích cực hỗ trợ doanh
nghiệp phục hồi sản xuất, làm khởi sắc TTCK, bất động sản và thị trường tín
dụng, nhưng cũng gây sức ép tăng khối lượng tiền trong nền kinh tế, tín dụng
tăng trưởng cao và áp lực giảm giá VND.
2009 - Khó khăn đã vượt qua. Trước những tác động bất lợi như vậy, Ngân
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253 Trang 16
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
hàng Nhà nước (NHNN) đã thực thi CSTT một cách linh hoạt phối họp đồng bộ
với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường.
Từ đầu năm 2009 đến nay, đê tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư
trong xã hội tiêp cận được với vốn vay của hệ thống ngân hàng theo tinh thần
của các gói giải pháp kích cầu của Chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các
NHTM hoạt động ôn định và hiệu quả, NHNN đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ
14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%.
Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn, tuy nhiên 6 tháng đầu năm
2009, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh
nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ.
Mặt khác do tác động phụ của chính sách hồ trợ lãi suất cho vay bằng VND
và việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không
muốn vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND đe mua ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu
mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng.
Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, NHNN đã triên khai
quyết liệt nhiều giải pháp như mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán

USD/VND của các ngân hàng thương mại từ +/-3% lên +1-5% so với tỷ giá bình
quân liên ngân hàng cùng phối hợp với các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ
trên thị trường như bán ngoại tệ hồ trợ nhu cầu nhập khấu các mặt hàng thiết yếu
đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống; điều hòa ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ
trên ngân hàng.
Đồng thời, trình Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính bán nguồn ngoại
tệ thu được từ phát hành trái phiếu Chính phủ cho NHNN; đề nghị một số doanh
nghiệp nhập khâu lớn chuyên từ mua ngoại tệ sang vay bằng ngoại tệ; phối hợp
chặt chẽ với Bộ Công thương trong việc kiêm soát nhập siêu và đáp ứng các nhu
cầu ngoại tệ thiết yếu của nền kinh tế.
Các biện pháp chấn chỉnh hoạt động ngoại hối cũng được tăng cường như
phối hợp với các bộ, ngành kiêm tra, xử lý vi phạm đổi với các hành vi quảng
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253 Trang 17
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
cáo, niêm yết giá hàng hóa bằng ngoại tệ, mua, bán ngoại tệ trái phép; tăng
cường kiêm tra hoạt động mua bán ngoại tệ của các ngân hàng thương mại và
hoạt động của các đại lý đối ngoại tệ, xử lý nghiêm các vi phạm.
Đặc biệt, áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của
các doanh nghiệp và người dân như đấy mạnh công tác tuyên truyền và công bố
công khai, rộng rãi các thông tin về tình hình ngoại hối, tỷ giá; yêu cầu các
NHTM nhà nước giảm lãi suất cho vay và huy động bằng ngoại tệ (lãi suất cho
vay giảm từ mức 6-6,5%/năm xuống không quá 4%/năm kể từ ngày 15/4/2009
và giảm tiếp xuổng mức không quá 3%/năm kê từ ngày 01/6/2009, lãi suất huy
động giảm xuống mức không quá 1,5%/năm kế từ ngày 01/6/2009).
Đồng thời đề nghị Hiệp hội Ngân hàng yêu cầu các NHTM cô phần đồng
thuận giảm lãi suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ như các NHTM nhà nước
ke từ ngày 8/6/2009. Các biện pháp trên đã có tác động giảm áp lực thiếu cung
ngoại tệ trên thị trường, giữ được thị trường ổn định.
Tuy nhiên, diễn biến kinh tế những tháng cuối năm vẫn tiếp tục là thách
thức cho thực thi CSTT như thâm hụt cán cân thương mại không được cải thiện

mà vẫn tiếp tục gia tăng (theo số liệu của Tong cục Hải quan 11 tháng tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt 113,6 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ
năm 2008, trong đó, xuất khẩu là 51,33 tỷ USD, giảm 11,5% và nhập khẩu là
62,28 tỷ USD, giảm 17%.
Cán cân thương mại hàng hóa 11 tháng thâm hụt 10,95 tỷ USD bằng 21,3%
xuất khấu), nguồn bù đắp cho thâm hụt này suy giảm như nguồn đầu tư trực tiếp
nước ngoài giảm sút mạnh so với năm 2008, đầu tư gián tiếp nước ngoài không
tăng mà còn giảm; nguồn kiều hối cũng giảm do khủng hoảng kinh tế toàn cầu
do vậy dẫn đến thâm hụt cán cân thanh toán, tình hình này tiếp tục gây bất lợi
cho việc ôn định tỷ giá.
Thêm vào đó, thâm hụt ngân sách tăng cao, năm 2009 mức thâm hụt ngân
sách ở mức 6,5% GDP buộc ngân sách phải vay nợ nhiều, qua đó mà gây áp lực
giám giá VND.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253 Trang 18
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
Trên thị trường tiền tệ xuất hiện những hiện tượng bất cập, mâu thuẫn
nhau: Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu vay von
của doanh nghiệp, VND vẫn khan hiếm, biếu hiện ở áp lực tăng lãi suất, thanh
khoản VND mỏng manh.
Sự khan hiếm tiền đồng về mặt lý thuyết là làm cho VND lên giá. Nhưng
chính sách điều tiết vĩ mô thì lãi suất lại thấp (lãi suất cho vay hỗ trợ, trần lãi
suất cho vay ) gây áp lực giám giá VND, đồng thời kích thích nhu cầu sử dụng
tiền đồng, tăng nhu cầu tín dụng, gây ra vòng xoáy khan hiếm tiền đồng, gây áp
lực cho NHNN phải cung ứng thêm tiền đồng. Điều này tiếp tục gây áp lực giám
giá VND. Đồng thời, sự biến động mạnh của giá vàng cũng có những tác động
bất lợi đến tỷ giá.
Trước tình hình này, ngày 26/11, NHNN đã kịp thời điều chỉnh tỷ giá, nâng
tỷ giá công bố lên 17.980 VND/USD, tăng 5,4% so với ngày trước đó, thu hẹp
biên độ tỷ giá từ +1-5% xuống còn +/-3%, đồng thời yêu cầu các tô chức tín
dụng thực hiện nghiêm biên độ tỷ giá.

Bên cạnh đó, các tô chức tín dụng có trạng thái ngoại tệ từ âm 5% trở
xuống lại được NHNN bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng
cam kết cung cấp đủ ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khấu, đặc biệt ưu
tiên những mặt hàng nhập khấu phục vụ sản xuất.
Đồng thời với điều chỉnh tỷ giá, NHNN đã thực hiện nâng các mức lãi suất
chỉ đạo lên thêm 1%. Đây là giải pháp có tính đồng bộ, phù họp với tình hình
thực tế, vừa có tác dụng tiếp tục duy trì tăng trưởng của nền kinh tế đồng thời
chủ động ngăn chặn nguy cơ lạm phát và trước mắt ốn định thị trường ngoại hối.
Như vậy, có thể nói những khó khăn nhất đã qua, năm 2009 mặc dù phải
đối mặt với rất nhiều thách thức trong quá trình thực thi CSTT, nhưng với sự
điều hành linh hoạt, sự ứng phó kịp thời với những biến động của tình hình, về
cơ bản CSTT đã đạt được mục tiêu của năm 2009 là kiềm chế lạm phát từ mức
19,98% năm 2008 xuống còn 6,52%, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức 5,2% và
CSTT đã góp phần quan trọng vào ôn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, nền kinh tế
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253 Trang 19
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ và đòi hỏi CSTT của NHNN phái có phản ứng
kịp thời để ngăn chặn.
2.1.3. Năm 2010
Tình hình kinh tế: Trong giai đoạn 2010 nền kinh tế thế giới phục hồi sau
khủng hoảng tài chính, tăng trưởng kinh tế 4,8%, thương mại tăng 11,4%. Năm
2010, theo đánh giá của Chính phủ, kinh tế nước ta tiếp tục đà phục hồi và tăng
trưởng khá. Kinh tế trong nước tăng trưởng cao (6,78%) nhờ động lực đầu tư
(vốn đầu tư toàn xã hội tăng 12,9%), xuất khấu (25,5%) và tiêu dùng (tông mức
bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng 24,5%); các cân đối lớn của nền kinh tế và an
sinh xã hội cơ bản được đảm bảo.
NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận trọng,
phù hợp với Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và bám sát tình hình
thực tế, góp phần quan trọng đê thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, thể hiện
cụ thể là:

Với mục tiêu duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng
trưởng kinh tế bền vững trong năm 2010, chủ động đối phó với diễn biến phức
tạp của thị trường tài chính và kinh tế thế giới, Ngân hàng Nhà nước đã quyết
định điều chỉnh lãi suất cơ bản tăng từ 7%/năm lên 8%/năm, tăng lãi suất tái cấp
vốn tăng từ 7%/năm lên 8%/năm, lãi suất chiết khấu tăng từ 5%/năm lên
6%/năm áp dụng từ 1/12/2009.
Phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương triển khai Nghị định số
41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 về chính sách tín dụng phục vụ phát triên nông
nghiệp và nông thôn, trong đó quy định hộ sản xuất và hợp tác xã vay vốn từ 50-
500 triệu đồng không phải thế chấp, cầm cố tài sản; ban hành cơ chế khuyến
khích các to chức tín dụng (TCTD) mở rộng cho vay vốn đổi với nông nghiệp và
nông thôn với lãi suất thấp hơn lĩnh vực khác, thông qua giảm dự trữ bắt buộc,
cho vay tái cấp vốn, mở rộng mạng lưới TCTD. Bên cạnh đó, NHNN chỉ đạo
các TCTD tập trung vốn cho vay đối với xuất khau, doanh nghiệp nhở và vừa,
khắc phục hậu quả thiên tai. Tín dụng đối với nền kinh tế tăng 27,65% (giảm
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253 Trang 20
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
dần trong 3 tháng cuối năm); tín dụng đối với nông nghiệp và nông thôn tăng
23,2%, cao hơn năm 2009 (18,8%).
Trong 10 tháng đầu năm, lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn ôn định ở
mức 8%/năm, kết hợp với điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và giám
sát việc thực hiện các tỷ lệ an toàn của TCTD, đã điều tiết lãi suất huy động và
cho vay giảm dần theo chỉ đạo của Chính phủ (đến cuối tháng 10, lãi suất huy
động VND bình quân 10,44%/năm, cho vay 13,18%/năm).
Hai tháng cuối năm, NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản và tái cấp von tăng
1%/năm, kết hợp với điều hành chặt chẽ lượng tiền cung ứng, quy định trần lãi
suất huy động VND 14%/năm đe ổn định thị trường tiền tệ, đã làm tăng lãi suất
thị trường và giảm cầu tín dụng (cuối tháng 12, lãi suất huy động VND bình
quân 12,44%/năm, cho vay 14,96%/năm, cho vay nông nghiệp nông thôn, xuất
khấu 12-14%/năm; lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng 9,5 - 12%/năm).

Điều chỉnh tỷ giá mua - bán ngoại tệ của các TCTD tăng 5,52%; thực hiện
các biện pháp ôn định thị trường ngoại tệ, như kết hối ngoại tệ đối với 7 tập
đoàn, tổng công ty nhà nước, quy định trần lãi suất tiền gửi của tổ chức kinh tể
bằng USD 1%/năm, bán ngoại tệ cho nhập khấu mặt hàng thiết yếu, chỉ đạo các
TCTD hạn chế cho vay nhập khấu mặt hàng không thiết yếu và không khuyến
khích. Thị trường ngoại tệ và tỷ giá tương đối ôn định trong hơn 9 tháng đầu
năm; từ tháng 10, tỷ giá thị trường tăng phù hợp với điều kiện kinh tế vĩ mô.
Thực hiện các giải pháp kiểm soát chặt chẽ thị trường vàng ngay từ đầu
năm. Đóng cửa sàn giao dịch vàng và chấm dứt kinh doanh vàng trên tài khoản
ở nước ngoài; điều hành xuất - nhập khấu vàng phù hợp với nhu cầu thị trường;
ban hành Thông tư số 22/2010/TT-NHNN ngày 29/10/2010 thu hẹp huy động và
cho vay bằng vàng; phối hợp với các bộ, ngành chống đầu cơ, buôn lậu vàng.
Giá vàng trong nước tăng bám sát giá thế giới, hiện tượng tâm lý đám đông và
đầu cơ có xu hướng giảm.
Giám sát chặt chẽ diễn biến thị trường tiên tệ và thực hiện các giải pháp
đảm bảo an toàn hệ thống. Hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM, ban hành quy
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253 Trang 21
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
định mới phù hợp với thông lệ, chuấn mực quốc tế và điều kiện thực tế của hệ
thống TCTD nước ta về tỷ lệ an toàn, cấp giấy phép thành lập và hoạt động
NHTM cổ phần, sáp nhập, họp nhất, mua lại TCTD, quản trị kinh doanh của
NHTM; giãn tiến độ tăng vốn điều lệ của các TCTD theo Nghị định
141/2006/NĐ-CP đến cuối năm 2011; Cơ quan Thanh tra giám sát, NHNN chi
nhánh tỉnh, thành phố tăng cường thanh tra, kiểm tra các TCTD. Năm 2011, tài
sản có của hệ thống TCTD tăng 28%, tỷ lệ an toàn kinh doanh phù họp với quy
định của NHNN, tỷ lệ nợ xấu khoảng 2,5%; tình hình thanh khoản và lãi suất thị
trường tiền tệ trong nửa cuối tháng 12 tương đối ổn định.
Tiếp tục hỗ trợ lãi suất đổi với các khoản vay được giải ngân năm 2009 và
các khoản cho vay năm 2010 theo Quyết định số 2072/QĐ-TTg ngày
11/12/2009 và Quyết định số 2213/QĐ-TTg ngày 31/12/2009; cuối tháng 12, dư

nợ cho vay hỗ trợ lãi suất khoảng 95.000 tỷ đồng, trong đó cho vay hỗ trợ lãi
suất lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn 8.000 tỷ đồng, cho vay hộ nghèo và đối
tượng chính sách 28.000 tỷ đồng.
Phối hợp giải pháp trong điều hành chính sách tiền tệ với chính sách tài
khoá, các NHTM sử dụng số vốn dự trữ thanh toán đe mua trái phiếu Chính phủ,
ngân sách Nhà nước có vốn đê đầu tư phát triển, tăng tỷ lệ vốn hóa thị trường
vốn và thanh khoản của thị trường tiền tệ.
Nâng cao tần suất, chất lượng và hiệu quả của công tác truyền thông về điều
hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Tình hình điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng nôi lên các
vấn đề cần được quan tâm sau:
Thứ nhất, việc điều hành chính sách tiền tệ đảm bảo hài hòa giữa ổn định
kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế cho nên khả năng linh hoạt chưa ở mức cao.
Thứ hai,thị trường tiền tệ và ngoại hối chưa ổn định, kỷ cương pháp luật
trên thị trường chưa nghiêm.
Thứ tư, tỷ trọng tín dụng đối với lĩnh vực phi sản xuất (kinh doanh chứng
khoản, bất động sản, tiêu dùng) giảm chậm; tín dụng có sức ép tăng, nếu không
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253 Trang 22
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
kiếm soát chặt chẽ sẽ vượt xa mục tiêu 25%, ảnh hưởng xấu đến lạm phát và cán
cân thanh toán quốc tế.
Thứ năm, năng lực tài chính, quản trị kinh doanh và khả năng cạnh tranh
của các TCTD còn hạn chế; tính tương trợ cộng đồng và liên kết hệ thống TCTD
còn yếu, nợ xấu tăng.
Nhìn chung, thị trường tiền tệ, tín dụng trong năm 2010 – 2011 tương đổi
ổn định và diễn biến phù họp với yêu cầu phát triên kinh tế- xã hội.Tính đến
31/12/2010, tăng trưởng tín dụng ước đạt 29,81%, tông dư nợ tăng 27,6%; tông
phương tiện thanh toán tăng 25,3% so với cuối năm 2009. Sau khi thực hiện cơ
chế lãi suất thỏa thuận và các biện pháp điều hành tiền tộ linh hoạt của NHNN,
lãi suất huy động và cho vay VND của các NHTM giảm dần. Hiện nay, các ngân

hàng đã thực hiện đồng thuận lãi suất huy động VND không vượt quá 14%/năm;
lãi suất cho vay bình quân 15,27%/năm.
Thị trường ngoại tệ, thị trường vàng đã dần ổn định, nguồn cung ngoại tệ
được cải thiện đáng kể, tỷ giá diễn biến phù hợp với mục tiêu khuyến khích xuất
khấu, góp phần hạn chế nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Giá
vàng trong nước diễn biến tương đối sát với giá vàng thế giới, chênh lệch giá
vàng trong nước và thế giới đã được thu hẹp.
Từ thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ năm 2010 và các năm gần đây,
NHNN rút ra một sổ kinh nghiệm cho điều hành năm tới:
Một là, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận
trọng nhằm mục tiêu hàng đầu là ôn định kinh tế vĩ mô; sử dụng đồng bộ, hài
hòa các công cụ vận hành theo cơ chế thị trường, kết hợp với các quy định quy
phạm pháp luật đe ôn định thị trường tiền tệ, kiểm soát tín dụng và tông phương
tiện thanh toán gia tăng ở mức hợp lý.
Hai là, tạo điều kiện cho các TCTD huy động vốn trong và ngoài nước, đi
đôi với chuyên dịch cơ cấu và nâng cao chất lượng tín dụng đê tập trung vốn cho
lĩnh vực sản xuất, nhất là lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh
nghiệp nhỏ và vừa.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253 Trang 23
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
Ba là, thông tin ra thị trường một cách công khai, minh bạch, kịp thời và
nhất quán về điều hành chính sách tiền tệ, đê củng cổ lòng tin và sự đồng thuận
của cộng đồng doanh nghiệp, dân cư, các nhà đầu tư ở trong và ngoài nước.
Bốn là, tiếp tục cơ cấu lại hệ thống TCTD phù hợp với các chuấn mực an
toàn, hiệu quả của thông lệ quốc tế, với các bước đi thích họp; đảm bảo kỷ
cương trong điều hành.
Năm là, phối hợp ngay từ đầu năm kế hoạch các giải pháp cụ thế trong điều
hành chính sách tiền tệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
2.1.4. Năm 2011.
Tình hình kinh tế : về những giải pháp chủ yếu tập trung chỉ đạo, điều

hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2011, Phó Thủ tướng
Nguyễn Sinh Hùng cho rằng, nền kinh tế sẽ phải đối mặt với những khó khăn,
thách thức mới, lớn hơn so với dự báo cuối 2010, tiềm ấn nguy cơ bất ôn kinh tế
vĩ mô.’’NHNN sẽ điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận trọng
nhằm mục tiêu hàng đầu là kiếm soát lạm phát và ôn định kinh tế vĩ mô, góp
phần tăng trưởng kinh tế." - Đây là một định hướng chiến lược mới, thay cho hỗ
trợ tăng trưởng của chinh sách tiền tệ năm 2010”.
Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 379/QĐ-NHNN về lãi suất
tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán
điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ
của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng.
Theo quyết định trên, Ngân hàng Nhà nước quy định các mức lãi suất tái
cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử
liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân
hàng Nhà nước đổi với các ngân hàng là 12,0%/ năm.
Như vậy, đây là lần thứ hai kể từ đầu năm Ngân hàng Nhà nước tăng một
số loại lãi suất điều hành. Lần trước, ngày 17/2, mức tăng lãi suất tái cấp vốn là
từ 9%/năm lên 11 %/năm, lần này thì từ 11% lên 12%.
Đáng chú ý là trong lần điều chỉnh này, lãi suất tái chiết khấu được tăng
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253 Trang 24
Bài tiểu luận môn Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương
mạnh, từ 7%/năm lên 12%/năm. 9/4/2012, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(NHNN) đã ban hành Quyết định số 750/ỌĐ-NHNN điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc bằng ngoại tệ từ 4% lên 6% đối với các tô chức tín dụng. Quyết định
này có hiệu lực kể từ kỳ duy trì dự trữ bắt buộc tháng 5/2012.
Tuy nhiên, thực tế sau 3 tháng đầu năm 2012, tăng trưởng tín dụng vẫn
còn cao, lạm phát chưa có dấu hiệu giảm.Con số tăng trưởng tín dụng quý
1/2012 tính đến gần cuối tháng 3 khoảng 4,3% và trong những ngày cuối tháng
3 các ngân hàng hầu như cũng ít giải ngân nên khó có thể vượt ngưỡng 5%. Do
vậy, biện pháp tăng dự trữ bắt buộc khó có thể xảy ra, nhưng với việc tăng các

mức lãi suất chỉ đạo như vừa qua, và nếu NHNN tiếp tục tăng các loại lãi suất
này, chắc chắn sẽ tác động trực tiếp tới lãi suất huy động và cho vay trên thị
trường của các ngân hàng.
2.1.5. Năm 2012.
Tác động của việc thắt chặt CSTT trong năm 2011 vẫn có tác động mạnh
đến nền kinh tế 2012. Đứng trước nguy cơ giảm phát và suy thoái kinh tế, trong
năm 2012 CSTT đã được điều hành khá thận trọng để có thể khôi phục lại nền
kinh tế trên nguyên tắc kiểm soát và kiềm chế lạm phát. Mục tiêu hàng đầu của
CSTT trong giai đoạn này là giảm lãi suất; đảm bảo mức dư nợ và cơ cấu tăng
trưởng hợp lý. Cụ thể:
Về lãi suất :Trong những tháng đầu năm 2012 trước xu hướng giảm của
CPI và lạm phát kỳ vọng, NHNN đã bắt đầu kéo giảm đồng loạt các lãi suất chính
sách và trần lãi suất huy động. Tình hình thanh khoản ở một số ngân hàng dần được
cải thiện. Tình từ đầu năm 2012 đến thời điểm cuối năm, lãi suất tái cấp vốn
giảm từ 15%/năm xuống còn 10%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 13%/năm
xuống còn 8%/năm; trần lãi suất huy động kỳ hạn ngắn ngày giảm từ 14%/năm
xuống còn 9%/năm. Song song với động thái kéo giảm trần lãi suất huy động;
Ngân hàng NN cũng áp dụng giảm trần lãi suất cho vay (duy trì ở mức
13%/năm) đối với 4 lĩnh vực ưu tiên: nông nghiệp, nông thôn; sản xuất kinh
doanh hàng xuất khẩu; phục vụ sản xuất kinh doanh của DNVNH; phát triển
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Vân – MSSV: 11035253 Trang 25

×