Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Phân tích tác dụng nghiệp thị trường mở ở việt nam từ năm 2000 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.54 KB, 38 trang )

Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
DANH SÁCH SINH VIÊN NHÓM 09

STT HỌ TÊN MSSV GHI CHÚ
1 Đỗ Thị Trang 11022943
2 ĐỗThu Trang 11016413
3 Hoàng Thị Trang 11014203 NT
4 Nguyễn Minh Trang 11019503
5 Nguyễn Thị Trang 11011913
6 Nguyễn thu Trang 11021883
7 Lê Anh Tuấn 11019413
8 Lê Ngọc Trường 11026613
ĐỀ TÀI: Phân tích tác dụng nghiệp thị trường mở ở việt nam từ năm
2000-2011.
SVTH: 1
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
MỤC LỤC
1
LỜI MỞ ĐẦU 4
2.3. Tác dụng của nghiệp vụ Omo tại Việt Nam 25
2.3.1 Kiềm chế lạm phát và thực hiện có hiệu quả các mục tiêu khác của 25
CSTT 25
2.3.2 Điều tiết linh hoạt vốn khả dụng cho các TCTD 25
2.3.3 Làm tăng khả năng điều tiết lãi suất thị trường của NHNN Việt Nam 26
2.3.4 Các chủ thể tham gia nghiệp vụ thị trường mở đã tăng lên về số lượng và đa dạng về loại hình 27
Xuất phát từ nhu cầu vốn khả dụng 6 tháng đầu năm và các điều kiện tham gia thị trường của các TCTD,
cho thấy các TCTD có đủ điều kiện đã tham gia và đều có khả năng trúng thầu. Điều này càng khuyến
khích các TCTD nắm giữ GTCG và tăng tính cạnh tranh trên thị trường 27
2.3.5 OMO giúp NHNN có được nguồn thông tin về tình hình nguồn vốn của các TCTD và về tình hình thị
trường tiền tệ nói chung, làm cơ sở cho việc điều hành CSTT 27
2.3.6. Hoạt động OMO đã góp phần phát triển thị trường tiền tệ, hỗ trợ các TCTD sử dụng vốn có hiệu quả.


27
2.3.7 Công tác phân tích, dự báo vốn khả dụng của các TCTD làm cơ sở cho việc quyết định giao dịch
OMO ngày càng được tăng cường 28
2.4. Đánh giá về nghiệp vụ OMO 28
2.4.1 Một số hạn chế 28
2.4.2 Nguyên nhân của hạn chế 29
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TẠI VIỆT NAM 31
3.1. Giải pháp 31
3. 1.1. Bổ sung thêm hàng hoá giao dịch trên thị trường mở 31
3.1. 2. Đa dạng hoá các kỳ hạn giao dịch và tiến tới giao dịch nhiều kỳ hạn trong một phiên 31
3.1.3. Tăng tần suất giao dịch trên thị trường mở 32
3.1.4. Cải tiến, nâng cấp và hoàn thiện hạ tầng công nghệ cho thị trường mở 32
3.1.5. Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến, thông tin rộng rãi về OMO để thu hút thêm các TCTD
tham gia thị trường mở 32
3.1.6. Nâng cao năng lực cán bộ xây dựng và điều hành nghiệp vụ thị trường mở 33
3.1.7. Mở rộng các thành viên thị trường mở 33
3.1.8. Công nhận chữ ký điện tử trong các giao dịch thị trường mở 33
3.1.9. Tăng hiệu quả của phương thức giao dịch hợp đồng mua lại 34
3.1.10. Nâng cao khả năng dự báo vốn khả dụng 34
3.1.11 Xây dựng thị trường tiền tệ năng động, đặc biệt là thị trường liên ngân hàng 34
3.2. Kiến nghị 35
SVTH: Nhóm 2
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
:
SVTH: Nhóm 3
STT Ký Hiệu Tên Từ Viết Tắt
1 OMO Nghiệp vụ thị Trường Mở
(Open Market Operations)

2 NHTW Ngân hàng Trung ương
3 TCTD Tổ chức tín dụng
4 GTCG Giấy tờ có giá
5 NHNN Ngân hàng Nhà nước
6 NHTM Ngân hàng thương mại
7 CSTT Chính sách tiền tệ
8 TPKB Tín phiếu kho bạc
9 TTM Thị trường mở
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế việt nam sau gần 20 năm đổi mới đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng và to lớn, nhu cầu quản lý kinh tế vĩ mô đã trở thành
một đòi hỏi tất yếu khách quan của mọi quốc gia, mọi dân tộc. Để đáp ứng được nhu
cầu sống còn đó, việc xây dựng đồng bộ hệ thống các chính sách, các công cụ quản lý
kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng giữ một vai trò đặc biệt quan
trọng. Có thể nói, trong các công cụ để thực thi chính sách tiền tệ, công cụ nghiệp vụ
thị trường mở là công cụ tỏ ra hiệu quả và có nhiều ưu điểm hơn cả.
Thực tế điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong những năm qua cho thấy
công cụ nghiệp vụ thị trường mở đang ngày một chứng tỏ được vị thế của mình,
hướng tới thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ góp phần quan trọng vào việc
điều tiết và kiểm soát lượng tiền cung ứng của ngân hàng nhà nước. Tuy vậy, việc áp
dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, biểu
hiện ở hiệu quả áp dụng còn rất thấp số lượng cacs tổ chức tín dụng tham gia ít, doanh
số giao dịch nhỏ, hàng hóa giao dịch chưa nhiều, các quy định về quy trình, xử lý
thông tin còn chưa hoàn thiện. Do đó, trong thời gian tới, việc tiếp tục hoàn thiện và
tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng công cụ nghiệp vụ thị trường
mở ở Việt Nam là một đòi hỏi cấp thiết. Xuất phát từ thực tế khách quan đó, chúng em
chọn đề tài: “Phân tích tác dụng của nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam năm
2000- 2011” làm bài tiểu luận của nhóm với mong muốn đóng góp ý kiến của sinh
viên vào việc sử dụng Nghiệp vụ thị trường mở trong nền kinh tế thị trường và một số

kiến nghị giúp nền kinh tế ngày càng hoàn thiện.
SVTH: Nhóm 4
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
- Phân tích, đánh giá hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của ngân hành
nhà nước việt nam từ năm 2000 đến nay.
- Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về chính sách tiền tệ, công cụ chính
sách tiền tệ và nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng ttruowng ương.
- Đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở
của ngân hàng nhà nước việt nam từ năm 2000 đến nay.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Đối tượng nghiên cứu: tác dụng nghiệp vụ thị trường mở đối với nền kinh
tế thị trường của ngân hành nhà nước.
Phạm vi nghiên cứu: thực trạng hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của
ngân hàng nhà nước việt nam trong 11 năm qua.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊM CỨU:
Trong quá trình tìm hiểu và làm bài tiểu luận, các phương pháp nghiên
cứu đã sủ dụng là phương pháp luận duy vật biện chứng, phương phấp duy vật
lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê… Ngoài ra, trong bài còn sử
dụng một số biểu, bảng để minh hoajvaf một số phương pháp khác.
SVTH: Nhóm 5
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHIỆP VỤ
THỊ TRƯỜNG MỞ
1.1. Sự ra đời và khái niệm của nghiệp vụ thị trường mở
1.1.1. Sự ra đời của ghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở được hình thành đầu tiên ở nước Anh vào năm 1914.
Đây là kết quả tìm kiếm của Ngân hàng trung ương Anh nhằm thay thế cho công cụ lãi
suất tái chiết khấu kém hiệu lực, đặc biệt khi lãi suất thị trường tăng giảm liên tục,
vượt ra khỏi khả năng chi phối của lãi suất chiết khấu. Cách thức đầu tiên được áp

dụng để nhằm tăng lãi suất thị trường là bán chứng khoán Chính phủ đồng thời hứa
mua lại nó vào một ngày xác định trong tương lai hoặc vay trên thị trường (thực chất
là một khoản vay từ nhà chiết khấu, hoặc từ người môi giới với đảm bảo bằng chứng
khoán Chính phủ).
Ngoài ra, NHTW Anh còn áp dụng thêm một số phương pháp khác có cùng ảnh
hưởng như bán hẳn các chứng khoán Chính phủ hoặc vay từ các NHTM hoặc vay từ
những người gửi tiền đặc biệt.
Bằng các biện pháp nói trên, lãi suất thị trường đã tăng lên do lượng tiền trung
ương giảm đi tương ứng với khối lượng vay hoặc bán chứng khoán.
Cho đến nay, nghiệp vụ thị trường mở đã được áp dụng phổ biến ở hầu hết các
Ngân hàng trung ương trên thế giới, từ những nước phát triển cho đến những nước
đang phát triển với vai trò là một công cụ điều hành chính sách tiền tệ hiệu quả nhất. Ở
Việt Nam, nghiệp vụ thị trường mở được ngân hàng nhà nước việt nam đưa vào hoạt
động từ ngày 12 tháng 07 năm 2000.
1.1.2. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở (Open Market Operation – OMO) là hoạt động mua
bán các giấy tờ có giá như tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, tín phiếu NHTW,
chứng chỉ tiền gửi…trên thị trường tiền tệ, nhằm thay đổi cơ số tiền tệ mà đặc biệt là
tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng, trên cơ sở đó tác động đến lượng tiền cung ứng
và lãi suất ngắn hạn.
OMO là một trong các công cụ CSTT có hiệu quả cao và hiên đang được các
nước trên thế giới sử dụng. Mặc dù OMO được sử dụng phổ biến nhưng việc đưa ra
SVTH: Nhóm 6
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
một khía niệm trung không thống nhất, nó được thế hiện ở sự khác nhauveef hành hóa
gioa dịch, các đối tượng tham gia thị truowngfvaf ác loại gioa dịc trên thị trường.
Về thực chất, thông qua hành vi mua bán này, các NHTW đã tác động trực tiếp
đến dự trữ của hệ thống ngân hàng và gián tiếp đến lãi suất thị trường, vì thế ảnh
hưởng đến các điều kiện tiền tệ của nền kinh tế qua những ảnh hưởng về giá và lượng.
1.2. Hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở và chủ thể tham gia

1.2.1. Hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở
Có rất nhiều chủng loại chứng khoán được giao dịch trong nghiệp vụ thị trường
mở. Tuy nhiên ở mỗi nước khác nhau lại có một loại chứng khoán đặc trưng riêng
được sử rộng rãi. Nhưng OMO được hiểu là nghiệp vụ mua bán các chứng khoán
chính phủ của NHTW và không giới hạn cụ thể về chủng loại cũng như thời hạn các
GTCG giao dịch, nhưng bao gồm các loại chủ yếu sau:
Tín phiếu kho bạc: là loại chứng khoán Chính phủ được phát hành để bù đắp
những thiếu hụt tạm thời trong năm tài chính có thời hạn dưới 12 tháng. Đây cũng là
công cụ chủ yếu của OMO ở hầu hết NHTW các nước do tính thanh khoản cao của nó.
Ngoài ra, do được định kỳ phát hành với khối lượng lớn, nên loại chứng khoán này có
thể thoả mãn nhu cầu can thiệp của NHTW với những liều lượng rất linh hoạt.
Việc sủ dụng tín phiếu kho bạc trong OMO có những ưu điểm nhất định. Khi
NHTW bán tín phiếu kho bạc thay cho việc phát hành tín phiếu NHTW để thực hiện
CSTT thắt chặt thì gánh nặng về thực hiện CSTT sẽ chuyển sang ngân sách và được
thể hiện rõ ràng trên số liệu ngân sách. Mặt khác khi thị trường tiền tệ chưa phát triển,
số dư tín phiếu kho bạc lại khá lớn thì việc sử dụng tín phiếu kho bạc để thực hiện
CSTT sẽ giảm rủi ro của việc phân tách thị trường.
Chứng chỉ tiền gửi: là giấy nhận nợ do ngân hàng và các định chế tài chính phi
ngân hàng phát hành, xác nhận một một món tiền đã được gửi vào ngân hàng trong
một thời gian nhất định với một mức lãi suất định trước. Thời hạn của chứng chỉ tiền
gửi thường là ngắn hạn (cũng có trường hợp thời hạn lên tới 3-5 năm). Sự ra đời của
chứng chỉ tiền gửi đã đánh dấu sự thay đổi cơ bản trong cơ chế quản lý ngân hàng,
cung cấp một hình thức huy động vốn mới, chủ động cho ngân hàng thay vì phải phụ
thuộc vào người gửi tiền như trước. Chính vì tính ưu việt này, chứng chỉ tiền gửi được
sử dụng như một hàng hoá phổ biến cho nghiệp vụ thị trường mở.
SVTH: Nhóm 7
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
Trái phiếu chính phủ: là giấy nhận nợ dài hạn được chính phủ phát hành nhằm
bù đắp thiếu hụt Ngân sách Nhà nước. Do tính an toàn, khối lượng phát hành, tính ổn
định trong phát hành và khả năng tác động trực tiếp đến giá cả của trái phiếu kho bạc

trên thị trường tài chính, nên mặc dù là chứng khoán dài hạn, Trái phiếu Chính phủ
vẫn được sử dụng phổ biến trong OMO.
Tín phiếu ngân hàng trung ương:Tín phiếu NHTW là loại GTCG ngắn hạn do
NHTW phát hành để làm công cụ cho OMO. Việc sử dụng tín phiếu NHTW làm hàng
hoá trên thị trường mở có một số ưu điểm như tăng cường tính độc lập của NHTW
trong việc thực thi CSTT và là công cụ linh hoạt cho việc quản lý vốn khả dụng
Tuy nhiên, việc phát hành tín phiếu NHTW để thực thi CSTT sẽ làm cho chi
phí hoạt động của NHTW tăng lên, mặc dù NHTW hoạt động không vì mục tiêu lợi
nhuận. Việc sử dụng tín phiếu NHTW đòi hỏi phải có sự phối hợp nhất định với Bộ
Tài chính. Khi NHTW và Bộ Tài chính đồng thời phát hành tín phiếu NHTW và tín
phiếu kho bạc, nếu lãi suất chênh lệch thì các đối tác trên thị trường mở sẽ tập trung
mua loại tín phiếu có lãi suất cao hơn. Khi đó sẽ có sự phân khúc giữa thị trường tín
phiếu kho bạc và thị trường tín
Thương phiếu: là giấy ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh
toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định hay có thể
hiểu như một giấy nhận nợ được phát hành bởi các doanh nghiệp nhằm bổ sung nhu
cầu vốn ngắn hạn. Do được đảm bảo bằng luật và pháp lệnh thương phiếu (ở các nước)
cùng với cơ chế bảo lãnh của ngân hàng, bởi vậy thương phiếu có tính chuyển nhượng
cao và được chấp nhận dễ dàng trong quan hệ thanh toán trực tiếp giữa ngân hàng và
các tổ chức phi ngân hàng. Việc mua bán thương phiếu của NHTW sẽ ảnh hưởng
mạnh đến dự trữ của các ngân hàng hoặc tiền gửi của các khách hàng tại các NHTM.
Trái phiếu chính quyền địa phương: loại trái phiếu này tương tự như trái phiếu
chính phủ nhưng khác biệt về thời hạn và các điều kiện ưu đãi có liên quan. Thông
thường, những người sở hữu loại trái phiếu này được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập từ
trái phiếu.
Có thể thấy rằng, hàng hóa trên thị trường mở có xu hướng ngày càng đa dạng
hoá do tác động của những nhân tố sau:
Một là, cùng với xu hướng toàn cầu hoá thị trường tài chính và sự xuất hiện
ngày càng nhiều các tổ chức cung cấp tài chính mới, tính cạnh tranh trên thị trường tài
SVTH: Nhóm 8

Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
chính ngày càng trở nên gay gắt. Thực tế này đặt các tổ chức tài chính dưới một sức
Ðạp mạnh mẽ, đòi hỏi họ phải không ngừng tìm kiếm các công cụ thu hút vốn mới
thoả mãn nhu cầu về tất cả các mặt: thời hạn, mức độ rủi ro, mức sinh lời và cách thức
thanh toán nợ. Đây chính là một nhân tố quan trọng làm thay đổi cơ cấu hàng hoá trên
thị trường mở.
Hai là, nhu cầu ngày càng phức tạp của khách hàng và mức độ khẩn trương của
cuộc sống đã tạo sức Ðạp cho sự phát triển nhanh chóng của công nghệ ngân hàng.
Đây cũng là động lực quan trọng cho sù ra đời của các sản phẩm tài chính mới, tạo nên
sự thay đổi trong chủng loại hàng hoá trên thị trường mở.
1.2.2. Thành viên nghiệp vụ thị trường mở
Thị trường mở là một thị trường có tính chất mở nên các thành viên thị trường rất
đa dạng với các mục đích khác nhau. Nhìn chung, mọi nhà đầu tư đều có thể là đối tác
giao dịch với NHTW trong các giao dịch OMO nếu thoả mãn những tiêu chuẩn cụ thể
của NHTW ở các nước. Các tiêu chuẩn này nhằm mục đích: (i) Các đối tác phải đảm
bảo độ tin cậy nhất định và (ii) Việc giao dịch với các đối tác phải có hiệu quả xét trên
khía cạnh can thiệp của NHTW. Thông thường, thành viên OMO bao gồm:
Ngân hàng trung ương: NHTW là người tổ chức, xây dựng và vận hành hoạt
động của thị trường mở theo các mục tiêu CSTT. NHTW là người quyết định lựa chọn
sử dụng các loại OMO và tần suất sử dụng OMO. NHTW tham gia thị trường thông
qua việc mua bán các GTCG nhằm tác động đến dự trữ của hệ thống ngân hàng để
đảm bảo khả năng thanh toán và gián tiếp tác động đến các lãi suất thị trường theo
mục tiêu CSTT. NHTW cũng là người can thiệp thị trường khi cần thiết thông qua
thực hiện chức năng người cho vay cuối cùng nhằm kiểm soát tiền tệ, đảm bảo đủ
phương tiện thanh toán cho các TCTD cũng như nhu cầu tín dụng của nền kinh tế.
Như vậy, NHTW tham gia thị trường mở không phải vì mục tiêu kinh doanh mà
để quản lý, chi phối, điều tiết thị trường làm cho CSTT được thực hiện theo các mục
tiêu xác định của nó.
Các đối tác chính trên thị trường mở thường:
• Các ngân hàng thương mại:

Xét ở cả hai phương diện độ tin cậy và hiệu quả, các NHTM là đối tác quan
trọng trong OMO của NHTW. Họ tham gia thị trường nhằm điều hoà mức dự trữ ngân
quỹ để duy trì khả năng thanh toán của mình và cho vay các khoản vốn dư thừa để
SVTH: Nhóm 9
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
kiếm lãi. Đồng thời thông qua đó, các NHTM thực hiện các nghiệp vụ môi giới và
kinh doanh chứng khoán.
Do có mạng lưới hệ thống hoạt động rộng và được gắn kết thành hệthống qua
trung tâm thanh toán nên mỗi sự thay đổi dự trữ của ngận hàng sẽ gây ảnh hưởng
nhiều chiều đến khối lượng tiền cung ứng theo mong muốn của NHTW. Những ảnh
hưởng này sẽ càng mạnh hơn và mang tính quyết định đến hiệu quả của chính sách
tiền tệ trong điều kiện tỷ trọng dư nợ của ngân hàng chiếm đa số trên thị trường tài
chính như ở các nước đang phát triển.
• Các tổ chức tài chính phi ngân hàng: Bên cạnh các NHTM, các tổ chức tài
chính phi ngân hàng cũng tham gia vào TTM nhằm tăng thêm thu nhập qua việc sử
dụng vốn để mua, bán các chứng khoán có giá ngắn hoặc dài hạn. Đây có thể là các
công ty bảo hiểm, công ty tài chính, các quỹ đầu tư và các định chế tài chính khác
Các tổ chức này thường có khối lượng chứng khoán lớn với một danh mục cơ cấu đầu
tư thường xuyên thay đổi nhằm đảm bảo mức sinh lời cao nhất và rủi ro dự tính thấp
nhất. Khác với các NHTM, hành vi giao dịch của NHTW với các đối tác này có tác
dụng trực tiếp tới khối lượng tiền cung ứng hoặc lãi suất thị trường qua sự biến động
giá cả của các loại chứng khoán được giao dịch.
• Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn: các đối tác này thường nắm
trong tay các thương phiếu, tín phiếu, trái phiếu Chính phủ hoặc là ngoại tệ. Nhu cầu
chính của họ là bán các chứng khoán (bán hẳn hoặc là tạm thời) để đổi ra tiền mặt
hoặc là để kiếm lời trong một thời gian ngắn. Mặt khác, với những doanh nghiệp lớn
có vốn nhàn rỗi tạm thời, họ có thể mua các loại chứng khoán ngắn hạn như tín phiếu
Kho bạc, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi để tăng thêm thu nhập. Những hoạt động này
có thể được các doanh nghiệp trực tiếp thực hiện hoặc được tiến hành thông qua môi
giới chuyên nghiệp hay sự môi giới của các NHTM.

• Các hộ gia đình cũng là một đối tác tham gia vào TTM với những động cơ
chính là phục vụ cho mục đích giao dịch, phòng ngõa rủi ro và để kiếm lợi nhờ sự thay
đổi về lãi suất dự đoán. Tuy nhiên, so với các đối tác trên, sự tham gia của đối tác này
vào TTM là rất hạn chế bởi độ tin cậy của nó thấp. Thông thường, sự giao dịch của các
hộ gia đình trên thị trường mở được thực hiện qua các công ty chứng khoán.
SVTH: Nhóm 10
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
• Các nhà giao dịch sơ cấp: với tư cách là người trung gian trong việc mua
bán các giấy tờ có giá giữa NHTW với các đối tác khác, các đối tác này tham gia vào
thị trường mở nhằm hưởng chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Ngoài ra, họ cũng
tham gia thị trường mở cho chính mình khi họ có quỹ chứng khoán riêng để giao dịch
với NHTW. Các người giao dịch thường là các công ty chứng khoán chuyên nghiệp.
Thực tế cho thấy ở hầu hết các nước trên thế giới, 70% giao dịch của NHTW trên thị
trường được thực hiện thông qua vai trò của những đối tác này.
Điều kiện tham gia:
Các tổ chức tín dụng khi tham gia vào thị trường mở phải đảm bảo các điều
kiện sau:
- Là hội sở chính, có tài khoản giao dịch tại NHNN
- Được thành lập và hoạt động kinh doanh theo luật pháp hiện hành của việt
nam.
- Phải có tài khoản tiền gửi không kỳ hạn tại sở giao dịch ngân hàng nhà nước
việt nam, hoặc tại chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố trực thuộc.
-Trang bị đầy đủ các phưng tiện kỹ thuật hiện đại để giao dịch trên thị trường
mở với ngân hàng nhà nước.
-Có phiếu đăng ký tham gia thị trường mở, được ngân hàng nhà nước chấp
nhận và cấp mã số giao dịch, mã khóa, mã chữ ký của người đại diện để tiến hành
giaio dịch trên thị trường mở.
1.3. Các loại hình nghiệp vụ thị trường mở và phương thức hoạt động của
nghiệp vụ thị trường mở
1.3.1. Các nghiệp vụ thị trường mở

1.3.1.1. Nghiệp vụ giao dịch chứng từ có giá:
a. Các hình thức giao dịch:

Các giao dịch không hoàn lại (hay các giao dịch mua đứt bán đoạn):
Các giao dịch không hoàn lại bao gồm các nghiệp vụ liên quan đến việc NHTW
mua hoặc bán các chứng từ có giá theo phương thức mua đứt bán đoạn, qua đó làm
chuyển hẳn quyển sở hữu đối với các chứng khoán được giao dịch. Do các chứng từ có
giá này có ảnh hưởng dài hạn tới dự trữ của các ngân hàng, nên hình thức này chỉ thích
hợp trong trường hợp NHTW muốn điều chỉnh cơ cấu hoặc can thiệp vào thị trường
nhằm thay đổi các điều kiện tiền tệ. Khi những thay đổi của thị trường tiền tệ chỉ là
SVTH: Nhóm 11
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
tạm thời, việc áp dụng hình thức giao dịch này có thể làm chệch hướng của chiến lược,
chính sách tiền tệ bởi các tác động dài hạn của nó.
Các chứng từ có giá được sử dụng trong các giao dịch không hoàn lại phải đáp
ứng một số điều kiện nhất định như: nó phải là một công cụ nợ, có mức rủi ro thấp và
phải được phát hành bởi các tổ chức đủ điều kiện. Tuy nhiên, các quy định này chỉ có
tính tương đối và thường được áp dụng khác nhau ở các nước.
Mức lãi suất trong các giao dịch không hoàn lại được xác định theo lãi suất thị
trường và được thể hiện bằng mức lãi suất thỏa thuận (trong các giao dịch song
phương), lãi suất đấu thầu (trong đầu thầu lãi suất) hoặc lãi suất công bố của NHTW
(trong đầu thầu khối lượng).

Các giao dịch có hoàn lại (giao dịch có kỳ hạn):
Trong hình thức giao dịch này, phương pháp được áp dụng chủ yếu cho các
mục đích giao dịch tạm thời là các hợp đồng mua lại (repos). Nó được sử dụng khi
NHTW thực hiện một giao dịch theo hợp đồng mua lại, tức là mua chứng khoán từ
người môi giới trên thị trường với một cam kết sẽ mua lại vào một ngày xác định trong
tương lai của người môi giới.
Hợp đồng mua lại có thể được sơ đồ hoá như hình dưới đây

t = 0 NHTW Tiền M1 Người giao dịch

Tín phiếu kho bạc - Mua lại TPKB
t= T Tiền M2 - M2 > M1
Khi NHTW muốn rút bớt dự trữ từ hệ thống ngân hàng, hợp đồng mua lại đảo
ngược sẽ được áp dụng tức NHTW sẽ bán chứng khoán cho người giao dịch với cam
kết của người này về việc sẽ bán lại nó vào một ngày xác định trong tương lai. Sự
chênh lệch giá bán chứng khoán tại thời điểm t = 0 và t = T là lãi suất của khoản vay
Repos.
SVTH: Nhóm 12
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:

t =0 NHTW Tín phiếu Kho Bạc NGƯỜI GIAO DỊCH

Tiền

Bán lại TPKB

t = T Tiền
Do các bên tham gia hợp đồng mua lại hành động theo các hướng đối lập nhau
nên hợp đồng mua lại của bên này là hợp đồng đảo ngược của bên kia. Bởi thế, một
hợp đồng được gọi là mua lại hay đảo ngược phải xuất phát từ vị trí của người giao
dịch.
Thông thường, hợp đồng mua lại được sử dụng trong khoảng thời gian rất ngắn,
thường là qua đêm với t = 1 ngày nhưng cũng có khi dài hơn với t > 1 ngày và được
gọi là Repos có thời hạn. Ngoài ra, trong trường hợp loại Repos mở, thời hạn t sẽ
không được xác định trước mà được hai bên thoả thuận lại vào mỗi ngày. Về thực
chất, giao dịch theo hợp đồng Repos là một khoản cho vay có đảm bảo bằng các chứng
khoán có tính thị trường cao.
Các giao dịch có hoàn lại được sử dụng chủ yếu trong nghiệp vụ thị trường mở

vì đây là công cụ có hiệu quả nhất để bù đắp hoặc triệt tiêu những ảnh hưởng không
dự tính trước đến dự trữ của các ngân hàng, đồng thời rút ngắn thời gian thông báo, do
đó mà làm giảm bớt biến động của thị trường trước các quyết định hàng ngày của
NHTW. Hơn nữa, chi phí giao dịch cho một hợp đồng mua lại thường rẻ hơn so với
các hợp đồng mua đứt bán đoạn. Ngoài ra, nó còn thích hợp trong trường hợp các định
hướng chính sách tiền tệ không hoàn hảo dẫn đến việc phải sử dụng các giải pháp khắc
phục.
b. Điều kiện của các chứng từ có giá được chấp nhận trong giao dịch:
SVTH: Nhóm 13
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
Về thực chất, nghiệp vụ giao dịch chứng từ có giá của NHTW là một hợp đồng
vay và cho vay có đảm bảo bằng các chứng từ có giá. Bởi vậy, các chứng từ có giá
được chấp nhận trong giao dịch phải thoả mãn các điều kiện nhất định với mục đích
bảo vệ NHTW khỏi các rủi ro tiềm ẩn. Ngoài ra, do các giao dịch không hoàn lại có
ảnh hưởng đến cơ cấu tài sản có của NHTW và các đối tác một cách dài hạn, nên việc
áp dụng các điều kiện trên đối với các chứng từ trong giao dịch này chặt chẽ hơn so
với các giao dịch có hoàn lại.
Điều kiện đối với các chứng từ có giá trong giao dịch không hoàn lại:
- Là các công nợ do NHTW, Kho bạc và các chủ thể khác phát hành.
- Có thể chuyển nhượng được.
- Người phát hành là các chủ thể khác phải thoả mãn các điều kiện nhất định
để đảm bảo khả năng thanh toán của chứng từ khi đáo hạn.
Điều kiện đối với các chứng từ có giá trong hợp đồng mua lại:
- Là công cụ nợ hoặc các cổ phiếu.
- Có thể chuyển nhượng hoặc không thể chuyển nhượng được.
- Người phát hành phải đảm bảo các điều kiện nhất định về tài chính.
1.3.1.2. Phát hành chứng chỉ nợ của Ngân hàng trung ương
Các chứng chỉ nợ của NHTW thường được phát hành nhằm hấp thụ khả năng
thanh toán đang dư thừa của NHTW. Nó thích hợp để điều chỉnh lượng vốn khả dụng
dư thừa trong nền kinh tế, đặc biệt khi các công cụ OMO khác chưa phát huy tác dụng.

Các chứng chỉ nợ có thể được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ
trên cơ sở quy định chuẩn mực về mệnh giá và thời hạn.
Trong trường hợp này, khối lượng chứng chỉ nợ trúng thầu được hạch toán vào
tài khoản lưu ký chứng khoán tại NHTW hoặc trung tâm lưu ký chứng khoán. Các
chứng chỉ nợ được phát hành dưới hình thức chiết khấu, nghĩa là giá phát hành thấp
hơn mệnh giá. Khi đáo hạn, người sở hữu sẽ được hưởng số tiền thanh toán bằng mệnh
giá của chứng chỉ nợ. Khoản chênh lệch giữa giá phát hành và mệnh giá là lãi suất
phát sinh trên giá phát hành.
1.3.1.3. Giao dịch hoán đổi ngoại tệ
Cũng như giao dịch có hoàn lại, giao dịch hoán đổi ngoại tệ cũng gồm có hai
loại giao dịch là giao dịch giao ngay và giao dịch có kỳ hạn giữa đồng nội tệ và đồng
ngoại tệ. Thông qua loại giao dịch này, NHTW có thể gây ảnh hưởng đến lượng vốn
SVTH: Nhóm 14
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
khả dụng của nền kinh tế trong khoảng thời gian cần thiết tuỳ thuộc vào thời hạn của
hợp đồng kỳ hạn.
Theo nguyên tắc của nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ trên thị trường ngoại hối,
NHTW và các đối tác sẽ cùng thoả thuận các điểm swap để xác định tỷ giá có kỳ hạn
từ tỷ giá giao ngay trong mỗi giao dịch hoán đổi ngoại tệ. Việc sử dụng nghiệp vụ này
có thể làm tăng thêm khả năng thanh toán của (mua ngoại tệ trao ngay và bán có kỳ
hạn) hoặc hấp thụ khả năng thanh toán (bán ngoại tệ trao ngay và mua có kỳ hạn) nền
kinh tế.
1.3.1.4. Giao dịch hoán đổi chứng khoán đến hạn
Nghiệp vụ giao dịch hoán đổi chứng khoán đến hạn được thực hiện khi NHTW
muốn hoán đổi các chứng khoán Chính phủ thuộc sở hữu của nó đã đến hạn bằng các
chứng khoán Chính phủ mới phát hành. Nếu giá trị các chứng khoán Chính phủ đến
hạn lớn hơn giá trị các chứng khoán Chính phủ mới thay thế, dự trữ của hệ thống ngân
hàng sẽ tăng lên, và ngược lại, khi giá trị các chứng khoán mới thay thế lớn hơn lượng
chứng khoán đến hạn, dự trữ của hệ thống ngân hàng sẽ giảm xuống.
1.3.2. Phương thức hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở

1.3.2.1. Phương thức giao dịch song phương
Theo nghĩa chung nhất, giao dịch song phương là giao dịch được thực hiện trực
tiếp giữa NHTW với một số đối tác được lùa chọn mà không thông qua thủ tục đấu
thầu.
Như vậy, có thể hiểu giao dịch song phương theo hai cách sau:
Một là, đó là các giao dịch trực tiếp giữa NHTW với các đối tác. Điều quan
trọng trong hình thức giao dịch này là phải lùa chọn được đối tác giao dịch có hiệu quả
nhất. Các giao dịch này được sử dụng đối với các hợp đồng có hoàn lại và không hoàn
lại trong giao dịch hoán đổi ngoại tệ và trong huy động tiền gửi có kỳ hạn.
Hai là, đó là các giao dịch thực hiện thông qua Sở giao dịch chứng khoán hoặc
các đại lý thị trường. Đối với các giao dịch này, các đối tác không bị giới hạn và có thể
điều chỉnh các thủ tục giao dịch cho phù hợp với tập quán thị trường. Trong giao dịch
này, NHTW đóng vai trò như những người tham gia khác trên thị trường chứng khoán.
Thông thường, các giao dịch song phương không được thông báo ra trước công
chúng và ngày can thiệp là tuỳ thuộc vào quyết định của NHTW.
1.3.2.2. Giao dịch theo phương thức đấu thầu
SVTH: Nhóm 15
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
• Đấu thầu khối lượng (đấu thầu với lãi suất cố định):
Trong hình thức đấu thầu này, các tổ chức đấu thầu chỉ việc đăng ký số tiền trên
cơ sở chấp nhận mức lãi suất do NHTW niêm yết từ trước. Việc phân phối đối với một
phiên thầu có lãi suất cố định được tiến hành như sau: Trước hết, toàn bộ sổ đăng ký
đặt thầu được cộng lại với nhau. Nếu tổng số đặt thầu nhỏ hơn hoặc bằng giá trị lượng
tiền được NHTW cung ứng hoặc hấp thụ thì toàn bộ các đơn đặt thầu đều được phân
phối. Nếu các đơn đặt hàng lớn hơn số lượng được phân phối thì các đơn đặt thầu sẽ
được phân phối theo tỷ lệ phân phối nhất định.
• Đấu thầu lãi suất:
Theo hình thức này, trên cơ sở khối lượng tiền cần cung ứng hoặc hấp thụ đã
được NHTW thông báo, các tổ chức tham gia đấu thầu tự đăng ký số tiền ứng với mỗi
mức lãi suất do chính mình lùa chọn.

Đối với đấu thầu nhằm cung ứng thêm vốn khả dụng, các khối lượng đặt thầu
được sắp xếp theo thứ tự và được phân phối theo các mức lãi suất từ cao xuống thấp.
Nghĩa là, những số lượng đăng ký thầu ứng với lãi suất cao sẽ được ưu tiên phân phối
trước cho đến khi số lượng phân phối được sử dụng hết. (Đối với đấu thầu để hấp thụ
khả năng thanh toán thì các quy trình phân bổ thầu diễn ra theo chiều hướng ngược
lại).
Trong đấu thầu lãi suất, NHTW có thể áp dụng hình thức một giá hoặc nhiều
giá. Theo hình thức một giá, lãi suất trúng thầu sẽ là mức lãi suất thấp nhất mà tại đó
NHTW đạt đủ khối lượng vốn khả dụng cần cung ứng, hoặc lãi suất cao nhất mà tại đó
NHTW đạt đủ khối lượng vốn khả dụng cần hấp thụ. Còn theo hình thức nhiều giá, lãi
suất trúng thầu là tất cả các mức lãi suất lớn hơn hoặc bằng mức lãi suất trúng thầu
thấp nhất trong trường hợp thứ nhất và tất cả mức lãi suất nhỏ hơn hoặc bằng mức lãi
suất trúng thầu cao nhất trong trường hợp thứ hai.
• Đấu thầu hoán đổi ngoại tệ theo điểm swap:
Đối với đấu thầu hoán đổi ngoại tệ nhằm cung ứng khả năng thanh toán, các
đơn vị dự thầu được sắp xếp theo điểm swap tăng dần. Chiều hướng tăng lên của điểm
swap phụ thuộc dấu của điểm swap. Đến lượt nó, dấu của điểm swap lại phụ thuộc vào
hiệu số giữa mức lãi suất USD và lãi suất VND. Nếu lãi suất USD > lãi suất VND thì
điểm swap có dấu (+), ngược lại nó có dấu (-). Căn cứ vào đó, tỷ giá có kỳ hạn được
SVTH: Nhóm 16
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
xác định từ tỷ giá giao ngay + (-) điểm swap. Số lượng đặt thầu sẽ được thoả mãn theo
thứ tự điểm swap tăng dần. Tại điểm swap trúng thầu cao nhất, số lượng tiền cung ứng
nhỏ hơn số đặt thầu thì tiến hành phân bổ thầu theo nguyên tắc của đấu thầu lãi suất.
Đối với trường hợp hấp thụ khả năng thanh toán, các đơn dự thầu được xét theo
thứ tự điểm swap giảm dần. Sự chênh lệch giữa số đặt thầu tại điểm swap thấp nhất
với lượng tiền dự định hấp thụ sẽ được phân bổ theo nguyên tắc của đấu thầu lãi suất.
1.4. Quy trình hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở
Trong bất cứ một phiên giao dịch nào trên TTM, muốn được thực hiện thông
suốt, mọi phiên giao dịch cần phải được tiến hành theo một quy trình khép kín và phải

có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ phận điều hành cũng như sự tham gia của các
thành viên trên TTM. Quy trình OMO có thể được khái quát thành các bước sau đây:
Bước một là căn cứ vào của ban điều hành OMO, bộ phận đấu thầu của sở giao
dịch NHNN sẽ lập thông báo mua hoặc bán giấy tờ có giá ngắn hạn để trình giám đốc
sở giao dịch ký rồi sau đó thông báo cho bên mua hoặc bên mua giấy tờ có giá (các
thành viên của OMO và các chi nhánh NHNN) qua mạng máy vi tính. Thời gian quy
định cho việc truyền mạng là từ 13 đến 14h30 của ngày thông báo.
Bước hai là các TCTD muốn tham gia giao dịch OMO phải thực hiện việc đăng
kí lưu giữ giấy tờ có giá tại sở giao dịch NHNN hoặc chi nhánh NHNN tỉnh thành phố
chậm nhất là vào 9h sáng của ngày giao dịch.
Bước thứ ba là các TCTD cần phải xem xét và ra quyết định về việc tham gia
dự thầu sau khi nhân được thông báo của bộ phần đấu thầu về giấy tờ có giá mà
NHNN muốn mua hoặc muốn bán. Nếu quyết định tham gia dự thầu, các TCTD phải
lập và gửi đơn dự thầu qua mạng máy tính tới sở giao dịch từ 8h đến 10h của ngày đấu
thầu.
Bước thứ tư được gọi là khâu nhận thông tin về lưu trữ giấy tờ có giá. Từ 9h
đến 10h sáng của ngày đấu thầu, bộ phận lưu trữ giấy tờ có giá thuộc sở giao dịch và
các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố sẽ thông báo thông tin về tình hình lưu trữ giấy
tờ có giá của các TCTD sẽ tham gia đấu thầu.
Bước thứ năm là khâu tổ chức đấu thầu. Dưới sự chứng kiến của ban điều hành
OMO, sở giao dịch NHNN sẽ tiến hành tổ chức đấu thầu theo các bước cụ thể gồm:
tổng hợp số liệu, chon các đơn dự thầu hợp lệ, điều chỉnh số liệu dự thầu, lập bảng
tổng hợp dự thầu, quyết định kết quả đấu thầu và cuối cùng là phân bổ thầu.
SVTH: Nhóm 17
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
Bước thứ 6 là NHNN phải thông báo kết quả đấu thầu cho các TCTD tham gia
đấu thầu và các chi nhánh NHNN. Việc thông báo này được thực hiện qua mạng máy
tính hoặc Fax chậm nhất là 14h của ngày đấu thầu và bao gồm các nội dung về ngày
đấu thầu, khối lượng tróng thầu, khối lượng không tróng thầu, lãi suất tróng thầu, số
tiền thanh toán và ngày thanh toán. Đây sẽ là căn cứ cho việc thực hiện giao, nhận và

thanh toán giấy tờ có giá trong nghiệp vụ mua bán hẳn và căn cứ để lập hợp đồng
trong nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn.
Bước thứ bảy là bên bán, dùa trên thông báo kết quả xét thầu, phải có trách
nhiệm lập hợp đồng bán và mua lại theo mẫu và gửi cho bên mua chậm nhất là 15h
của ngày đấu thầu. Khi nhận được hợp đồng này, bên mua phải ký tên đóng dấu trên
bản hợp đồng và gửi lại cho bên bán trước 15h30 cùng ngày. Bộ phận OMO sẽ chuyển
bản hợp đồng mua bán lại cho các bộ phân liên quan của sở giao dịch trước 16h30
cùng ngày.
Bước thứ tám đó là việc thanh toán và chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá
sẽ được tiến hành tuỳ thuộc vào phương thức mua, bán của phiên giao dịch. Trong
ngày làm việc tiếp theo của phiên đấu thầu, bộ phận thanh toán và lưu trữ giấy tờ có
giá sẽ căn cứ vào thông báo kết quả tróng thầu để thực hiện các công việc cần thiết
trong khâu thanh toán.
Bước cuối cùng là việc kết thúc hợp đồng giao dịch kỳ hạn, trong đó tại ngày
kết thúc thời hạn hợp đồng mua bán lại, bên bán sẽ chuyển tiền cho bên mua để nhận
lại quyền sở hữu giấy tờ có giá đã bán trước đó. Ngoài ra, nếu bên bán trong hợp đồng
là tổ chức tín dụng nhưng đến ngày đáo hạn vẫn không thể thanh toán thì NHNN sẽ
trích tài khoản của TCTD đó tại NHNN để thu hồi. Sau 10 ngày kể từ ngày đến hạn
thanh toán mà các TCTD vẫn không có đủ khả năng thanh toán thì số lượng giấy tờ có
giá này sẽ được NHNN bán đi để thu hồi lại vốn.
CHƯƠNG 2. THỰC TẾ ÁP DỤNG CỦA HOẠT ĐỘNG
NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TẠI VIỆT NAM 11 NĂM QUA
Với chức năng là một bộ phận cấu thành trong cơ cấu hoạt động nghiệp vụ
TTM tại NHNN, hơn 11 năm qua, Sở Giao dịch NHNN đã tổ chức thực hiện thành
công các phiên giao dịch nghiệp vụ TTM theo chỉ đạo của Ban Điều hành, góp phần
ổn định thị trường tiền tệ và hoàn thành mục tiêu CSTT.
SVTH: Nhóm 18
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
Hoạt động nghiệp vụ TTM tại Sở Giao dịch bao gồm các phương thức mua kỳ
hạn, bán kỳ hạn, mua hẳn và bán hẳn thông qua hai hình thức đấu thầu là đấu thầu

khối lượng và đấu thầu lãi suất. Việc tổ chức đấu thầu này thể hiện rõ tính thị trường
trong quan hệ giữa NHNN với các TCTD.
Sở Giao dịch là đơn vị thực hiện công tác đấu thầu, thực hiện giao dịch, lưu ký
GTCG và thực hiện nhiệm vụ thông tin, báo cáo kết quả hoạt động nghiệp vụ TTM.
Qua đó, có thể thấy rằng, Sở Giao dịch giữ một vị trí hết sức quan trọng trong cơ cấu
tổ chức nghiệp vụ TTM tại NHNN. Trên thực tế, thời gian qua, các bộ phận nghiệp vụ
tại Sở Giao dịch như Phòng Nghiệp vụ Thị trường tiền tệ (Bộ phận thanh toán) và
Phòng Kế toán (Bộ phận lưu ký) đã có nhiều cố gắng, góp phần thực hiện thành công
các phiên giao dịch theo quy định, tạo sự nhanh chóng và thông thoáng đối với dòng
tiền vào/ra giữa NHNN và các TCTD.
Kết quả hoạt động nghiệp vụ TTM tại Sở Giao dịch kể từ khi đưa vào sử dụng
đến nay có thể tạm chia thành hai thời điểm như sau:
Thời gian từ năm 2000 - tháng 11/2007
2.1. Thực Trạng hoạt động nghiệp vụ thị trường mở từ năm 2000 - tháng
11/2007.
Có thể nói, đây là giai đoạn nghiệp vụ TTM bắt đầu triển khai và phát triển tại
Việt Nam. Ngay khi Thống đốc NHNN phê duyệt Đề án triển khai nghiệp vụ TTM
theo Quyết định số 340/1999/QĐ-NHNN14 ngày 30/9/1999, Sở Giao dịch đã triển
khai nhiệm vụ liên quan tới hoạt động nghiệp vụ TTM tại Sở Giao dịch như việc mở
tài khoản lưu ký cho thành viên, xây dựng văn bản hướng dẫn quy trình nghiệp vụ
TTM, phối hợp với Cục Công nghệ tin học xây dựng và đưa vào sử dụng phần mềm
giao dịch phục vụ công tác xét thầu, phân bổ thầu và báo cáo kết quả các phiên đấu
thầu…
Thời gian đầu, khi nghiệp vụ TTM được đưa vào giao dịch trên thị trường tiền
tệ là khoảng thời gian khó khăn đối với những cán bộ làm công tác nghiệp vụ TTM tại
Sở Giao dịch, do các văn bản quy phạm pháp luật mới ở giai đoạn đầu ban hành nên
vừa thực hiện, vừa phải điều chỉnh, bổ sung cho hoàn thiện và phù hợp với tình hình
thành viên, xu hướng phát triển của thị trường. Hơn nữa, hệ thống công nghệ thông tin
phục vụ cho nghiệp vụ này còn đơn giản, một số thao tác vẫn phải thực hiện bán thủ
công. Số lượng thành viên tham gia chưa đông, chủ yếu tập trung vào một số ngân

SVTH: Nhóm 19
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
hàng thương mại (NHTM) Nhà nước và NHTM cổ phần lớn, do lượng nắm giữ GTCG
còn ít, khối lượng giao dịch chưa nhiều.
Do điều kiện về công nghệ ứng dụng trong công tác xét thầu, phân bổ thầu…
chưa hiện đại nên một số khâu vẫn còn phải thực hiện thủ công như việc thông báo kết
quả trúng thầu hay hợp đồng mua, bán lại GTCG… vẫn còn phải thực hiện bằng văn
bản, do đó, để đảm bảo việc hạch toán của thành viên được nhanh chóng, bộ phận
nghiệp vụ thường phải gửi qua đường FAX cho thành viên, bản chính gửi qua đường
bưu điện…; việc in ấn, lưu trữ số liệu lịch sử từ cách chiết xuất các bảng biểu thống kê
của các phiên cũ cũng chưa thuận lợi do khó truy cập khi xuất hiện thông báo đấu thầu
của phiên hiện thời; việc tổng hợp số liệu báo cáo còn phải thực hiện bằng thủ công,
tổng hợp số liệu từng phiên qua bảng Excel rất bất tiện,…
Với sự nỗ lực không ngừng của đội ngũ cán bộ trong Sở Giao dịch, mặc dù
nghiệp vụ TTM là một công cụ điều hành chính sách hoàn toàn mới và được vận hành
lần đầu tiên ở Việt Nam đã thu hút đông đảo thành viên là các TCTD tham gia, Sở
Giao dịch đã thực hiện được 700 phiên giao dịch nghiệp vụ TTM, khối lượng trúng
thầu đạt 324.977 tỷ đồng, chiếm hơn 73% khối lượng dự kiến của NHNN. Trong đó,
khối lượng trúng thầu của các phiên mua kỳ hạn chiếm tới 68%/tổng khối lượng giao
dịch. Chi tiết như sau: (Bảng 1)
BẢNG 1: KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ TTM
(Từ năm 2000 đến năm 2007)
Đơn vị: Tỷ đồng
SVTH: Nhóm 20
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
Nguồn: Sở Giao dịch NHNN
Nhìn vào số liệu ở Bảng 1 cho thấy, kết quả hoạt động hết sức ấn tượng, cả về
sự đa dạng trong các phương thức giao dịch cũng như khối lượng trúng thầu tăng
mạnh mẽ qua từng năm. Cụ thể, năm 2000, khối lượng trúng thầu mới chỉ là 1.904 tỷ
đồng, thì đến năm 2007, khối lượng trúng thầu đạt 417.977 tỷ đồng. Trong 7 năm qua

(2000 - 2007), NHNN đã bơm tiền ra lưu thông qua việc mua kỳ hạn và mua hẳn
GTCG là 281.389 tỷ đồng, hút tiền về từ lưu thông qua việc bán kỳ hạn và bán hẳn
GTCG là 461.406 tỷ đồng.
Xuất phát từ thực tiễn hoạt động nghiệp vụ TTM, trong thời gian này, Sở Giao
dịch phối hợp với các đơn vị liên quan ban hành một số văn bản pháp luật, tạo hành
lang pháp lý thuận lợi và thông thoáng theo quy định của pháp luật trong các giao dịch
nghiệp vụ TTM giữa NHNN và các thành viên thị trường, từ khâu cấp giấy phép công
nhận thành viên tới tiếp nhận đơn dự thầu, phân bổ thầu, thông báo kết quả đấu thầu…
Chính vì lẽ đó, số thành viên thị trường giai đoạn này cũng có sự tăng vọt, từ 18 thành
viên (năm 2000), đến năm 2007 là 48 thành viên.
2.2. Thực Trạng hoạt động nghiệp vụ thị trường mở từ tháng 11/2007 đến
2011.
Đây là giai đoạn giao dịch trực tuyến nghiệp vụ TTM giữa Sở Giao dịch với
thành viên thị trường.
SVTH: Nhóm 21
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
Đứng trước yêu cầu đổi mới mạnh mẽ của hoạt động ngân hàng và sự phát triển
nhanh chóng của công nghệ thông tin, từ năm 2003, Sở Giao dịch đã được Thống đốc
NHNN giao Chủ đầu tư Dự án “Trang thiết bị máy móc, nối mạng và thiết kế phần
mềm nghiệp vụ thị trường tiền tệ và lưu ký GTCG tại Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà
nước - Giai đoạn I” do Quỹ Hỗ trợ Pháp và Ngân hàng Phát triển Châu Á tài trợ (gọi
tắt là Dự án AFD). Đây là dự án sử dụng công nghệ Web, cho phép các giao dịch thị
trường tiền tệ nói chung và các giao dịch nghiệp vụ TTM được kết nối trực tiếp giữa
NHNN và các thành viên, nhanh chóng và hiệu quả…
Sau 3 năm triển khai dự án AFD, cùng với sự phối hợp của các Vụ, Cục của
NHNN và nhà thầu FPT, tháng 11/2007, chương trình chính thức đưa vào sử dụng.
Đến nay, chương trình đã đáp ứng được quy mô giao dịch ngày càng tăng cả về số
lượng thành viên cũng như khối lượng GTCG tham gia giao dịch của mỗi phiên. Với
sự hỗ trợ của công nghệ, của hệ thống văn bản đồng bộ, NHNN có thể đưa vào sử
dụng nhiều hình thức giao dịch mua/bán GTCG trong một ngày và cũng đã tổ chức

thành công từ 2-3 phiên giao dịch trong ngày. Đồng thời với việc tổ chức thường
xuyên các phiên giao dịch nghiệp vụ TTM, Sở Giao dịch cũng tổ chức thành công các
phiên đấu thầu TPKB nhằm tăng cường số lượng GTCG của các TCTD, bổ sung hàng
hóa cho các giao dịch nghiệp vụ TTM.
 Về thành viên: Trong hơn 4 năm, tổng số lượt thành viên tham gia các
phiên nghiệp vụ TTM đạt 16.924 lượt và số thành viên tham gia tăng mạnh qua từng
năm (năm 2008 là 3.208; năm 2009 là 3.121; năm 2010 là 6.106; 9 tháng đầu năm
2011 là 3.906). Trong các phiên giao dịch, bên cạnh các thành viên là NHTM Nhà
nước thì số thành viên là các NHTM cổ phần và ngân hàng liên doanh, ngân hàng
nước ngoài tăng mạnh. Từ năm 2010 đến nay, còn có sự tham gia của các thành viên
thuộc khối ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài. Khối lượng GTCG của các
thành viên trong mỗi phiên giao dịch ngày càng đa dạng gồm trái phiếu Chính phủ, trái
phiếu Chính quyền địa phương (TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh), tín phiếu NHNN,
trái phiếu của các ngân hàng chính sách (Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng Chính sách
xã hội) (Sơ đồ 1)
Sơ đồ 1: Cơ cấu thành viên tham gia các phiên giao dịch nghiệp vụ TTM 9 tháng
đầu năm 2011
SVTH: Nhóm 22
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
 Về khối lượng giao dịch: Đây là thời kỳ nền kinh tế trong nước chịu rất
nhiều sự tác động tiêu cực bởi sự bất ổn tài chính của các nước trên thế giới và vấn đề
nợ công của khu vực Châu Âu. Đặc biệt là thời điểm những tháng cuối năm 2008 đầu
năm 2009, các ngân hàng gặp khó khăn về thanh khoản, khi đó, NHNN đã thực hiện
cung một khối lượng tiền đáng kể để hỗ trợ các ngân hàng. Có thời điểm, lãi suất trên
thị trường liên ngân hàng lên tới hơn 40%/năm, NHNN kịp thời can thiệp thông qua
nghiệp vụ TTM bằng việc tăng lượng cung tiền và áp dụng phương pháp đấu thầu
khối lượng, dường như ngay lập tức, lãi suất liên ngân hàng giảm quanh mức
20%/năm.
Chính vì vậy, NHNN chủ yếu chào thầu đối với các phiên mua kỳ hạn GTCG
để tiếp tục hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng, khối lượng trúng thầu mua kỳ hạn

GTCG là 6.455.551 tỷ đồng, chiếm tới 98,5%/tổng khối lượng trúng thầu trong giao
dịch nghiệp vụ TTM; tần xuất giao dịch các phiên tăng đáng kể bình quân NHNN đã
tổ chức gần 384 phiên/năm. Đến nay, sau hàng loạt giải pháp và biện pháp hỗ trợ từ
Chính phủ và NHNN, tình hình thanh khoản của các ngân hàng đã có sự cải biến rõ
rệt, thị trường tiền tệ không còn “nóng” như trước. (Bảng 2, Đồ thị 1)
BẢNG 2: KẾT QUẢ GIAO DỊCH NGHIỆP VỤ TTM TỪ NĂM 2008 ĐẾN 2011
Đơn vị: Tỷ đồng
SVTH: Nhóm 23
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
Nguồn: Sở Giao dịch NHNN
Đồ thị 1: Lãi suất trúng thầu bình quân các phiên giao dịch nghiệp vụ TTM
Từ năm 2008 đến nay
Như vậy, hơn 10 năm qua, với sự chỉ đạo sát sao của Ban Giám đốc và sự phấn
đấu không ngừng của đội ngũ cán bộ làm công tác nghiệp vụ TTM tại Sở Giao dịch,
Sở Giao dịch đã có những đóng góp to lớn vào thành công chung đối với hoạt động
nghiệp vụ TTM của NHNN.
Trong thời gian tới, Sở Giao dịch tập trung đầu tư, đổi mới công nghệ, sử dụng
các trang thiết bị hiện đại vào các giao dịch nghiệp vụ TTM, tổ chức thành công các
phiên giao dịch, đảm bảo đúng quy trình và an toàn tài sản theo quy định. Công tác
hạch toán, thanh toán nhanh chóng, kịp thời, chính xác đảm bảo tăng nhanh lượng vốn
vào lưu thông, đáp ứng nhu cầu thanh khoản của các TCTD và thực hiện các mục tiêu
CSTT.
SVTH: Nhóm 24
Tiểu luận Nghiệp vụ ngân hàng TW GVHD:
Cùng với việc thực hiện thành công hoạt động nghiệp vụ TTM, Sở Giao dịch
cũng không ngừng tăng cường công tác tuyên truyền, tập huấn về hoạt động nghiệp vụ
TTM cho các thành viên thị trường với các hình thức phong phú, đa dạng trên các
phương tiện thông tin đại chúng để giúp công chúng hiểu thêm về nghiệp vụ TTM
cũng như hoạt động của Sở Giao dịch. Từ đó, góp phần vào việc thực hiện tốt nhiệm
vụ được giao, ngày càng khẳng định tầm quan trọng của Sở Giao dịch, một tố thành

quan trọng trong cơ cấu hoạt động nghiệp vụ TTM của NHNN thời gian qua. Đồng
thời, càng làm nổi bật tính ưu việt, sự vượt trội của công cụ nghiệp vụ TTM trong điều
hành CSTT tại Việt Nam.
2.3. Tác dụng của nghiệp vụ Omo tại Việt Nam.
2.3.1 Kiềm chế lạm phát và thực hiện có hiệu quả các mục tiêu khác của
CSTT.
Trong 6 tháng đầu năm 2011 nói riêng và giai đoạn 2008 - 2011 nói chung,
NHNN điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả công cụ nghiệp vụ thị trường mở. cùng
với các công cụ chính sách tiền tệ khác, bước đầu đã kiềm chế lạm phát và thực hiện
kiềm chế lạm phát thì tín dụng đã được tập trung ưu tiên cho lĩnh vực sản xuất. Riêng
lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, xuất khẩu tăng trưởng tín dụng đã đạt 25% (trong khi
tăng chung chỉ là 6,92%). Đối với khu vực phi sản xuất, nếu như cuối năm 2010, tỷ
trọng tín dụng chiếm 18,87% thì đến cuối tháng 6/2011, chỉ còn chiếm 16,91%. Rõ
ràng, kết quả thực hiện nhiệm vụ đang đi đúng hướng theo mục tiêu điều hành của
Chính phủ và NHNN có hiệu quả các mục tiêu khác của CSTT. Lượng tiền cung ứng
và rút về của thị trường mở có sự phối hợp chặt chẽ với các công cụ khác của CSTT
nhằm phát tín hiệu điều hành CSTT
2.3.2 Điều tiết linh hoạt vốn khả dụng cho các TCTD.
Qua nghiệp vụ thị trường mở; NHNN đã điều tiết linh hoạt vốn khả dụng cho
các TCTD.
Nghiệp vụ thị trường mở có vai trò quan trọng trong việc điều tiết cung cầu về
vốn ngắn hạn cho các TCTD nhằm hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời
sống của các chủ thể trong nền kinh tế. Có thể nhận thấy nghiệp vụ thị trường mở Việt
Nam đã góp phần nhất định trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, nhất là trong
điều kiện hiện nay. Sau khi thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011
và gần 5 tháng thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ, kết quả ban đầu đạt được rất
SVTH: Nhóm 25

×