PHÂN TÍCH TỔNG QUAN
VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
I- Sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam.
1. Sự hình thành và phát triển của TTCKVN.
Hội nhập và phát triển kinh tế đang là xu hướng chung của nền kinh tế thế
giới. Nó tạo cho chúng ta cơ hội học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu vốn, công nghệ
khoa học-kĩ thuật, tác phong làm việc, quản lý,... của các nước có nền kinh tế phát
triển. Tuy nhiên, bên cạnh đó việc phát huy các yếu tố nội lực cũng cần hêt sức
quan tâm, đánh giá nó một cách chính sác để sử dụng nó sao cho hiệu quả. Trong
các yếu tố nội lực này cần phải đặc biệt quan tâm đến nguồn vốn – yếu tố mà các
nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng đang rất thiếu. Trong khi đó
vốn trong nền kinh tế quốc dân chủ yếu được tập trung ở các cá nhân, tổ chức. Vì
vậy, để thu hút được nguồn vốn dư thừa trong công chúng, trong các tổ chức ta cần
phải thành lập một cơ quan chuyên về huy động và sử dụng nguồn vốn này. Tổ
chức đó chỉ có thể là thị trường chứng khoán. Vấn đề này, đã được nghiên cứu,
xây dựng đề án thành lập TTCK đã được nhiều cơ quan Nhà nước, các Viện
nghiên cứu phối hợp đề xuất với Chính phủ. Điều này được đánh dấu bằng các sự
kiện sau:
- Quyết định số 207/QĐ-TCCB ngày 6/11/1993 của Thống đốc Ngân hàng
nhà nước về việc thành lập Ban Nghiên cứu xây dựng và phát triển thị trường vốn
thuộc Ngân hàng Nhà nước. Đây là bước đi quan trọng, đặt nền móng cho thị
trường chứng khoán Việt Nam. Tuy nhiên trong phạm vi của ngân hàng nhà nước
nó không thể phát huy hết chức năng của mình điều này dẫn đến một bước đi mới.
-Tháng 9/1994, Chính phủ quyết định thành lập Ban soạn thảo Pháp lệnh về
chứng khoán và TTCK. Có thể nói đây là bước đi vô cùng quan trọng làm cơ sở
đi đến thống nhất, hoàn thiện chức năng quản lý nhà nước về thị trường chứng
khoán.
1
- Nghị định số 75/CP ngày 28/11/1996 của Chính phủ đã quyết định thành
lập UBCKNN (ủy ban chứng khoán nhà nước). Cơ quan này có chức năng thực
hiện tổ chức quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán: thanh
tra, giám sát, cấp giấy phép, đăng kí phát hành và kinh doanh chứng khoán…
- Ngày 11 tháng 07 năm 1998, Chính phủ ra Quyết định số 127/1998/QÐ-
TTg thành lập hai Trung tâm giao dịch chứng khoán trực thuộc Uỷ ban chứng
khoán Nhà nước. Đó là:
+ Trung tâm giao dịch Thành Phố Hồ Chí Minh chính thức đi vào vận hành
ngày 20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Có
thể nói sự ra đời của TTGDTP.HCM là một sự kiện kinh tế quan trọng thể hiện sự
phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Nó trở thành một công cụ, một hình thức huy
động và luân chuyển vốn cho nền kinh tế nước nhá, tạo cơ hội thuận lợi cho sự
phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, sự ra đời của TTGDTP.HCM cũng gặp rất
nhiều khó khăn, đó là: hệ thống pháp luật của Việt Nam thời điểm này còn chưa
thật sự hoàn thiện, các văn bản pháp luật còn nhiều bất cật chồng chéo, đăc biệt
trong lĩnh vực chứng khoán đối với chúng ta còn hoàn toàn mới mẻ, sự hiểu biết
còn hạn chế, kinh nghiệm chưa nhiều, trong khi đó đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn
chế về chuyên môn và cách thức quản lý…Song nhờ có sự quan tâm của Chính
phủ và Các bộ ngành liên quan mà tổ chức này hoạt động tương đối tốt, tạo niểm
tin cho nhà đầu tư và công chúng, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
+ Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội ( TTGDCKHN)
Sự ra đời của trung tâm này đáp ứng kĩ vọng rất lớn của các nhà đầu tư và
các tổ chức cần huy động vốn nó đáp ưng nhu cầu huy động và sử dụng vốn của
các tổ chức ở phía Bắc, đánh dấu bước tiến phù hợp của thị trường chúng khoán
Việt Nam.
Tháng 6/2004, Bộ tài chính ra Thông báo số 136/TB/BTC với nội dung là
hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam theo đó xẽ định hướng
TTGDCKHN thành thị trường gao dich phi tập trung (OTC).
2
Ngày 8/3/2005 TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương hoạt động, đánh
dấu một bước phát triển mới của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Ngày 19 tháng 02 năm 2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
66/2004/NĐ-CP chuyển Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước vào Bộ Tài chính. Đây là
bước tiến quan trọng hợp lý của TTCKVN. Bởi hiện tại thị trường của chúng ta
còn nhỏ lẻ sơ khai, còn nhiều hạn chế về kiến thức và cách quản lý nên chưa thể
tách ra thành một tổ chức hoạt động độc lập (bài học rút ra từ kinh nghiệm về sự
thất bại của thị trường chứng khoán Thái Lan.). Với sự quản lý của Bộ Tài Chính
sẽ làm cho thị trường của chúng ta hoạt động ổn định hơn, nhạy bén và hiệu quả
và an toàn hơn.
Như vậy, có thể nói sự ra đời của TTCKVN được đánh dấu bởi sự ra đời của
hai trung tâm giao dịch chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh và trung tâm giao
dịch chứng khoán Hà Nội. Điều này đã thể hiện chúng ta đã có những bước tiến
quan trọng về phương thức huy động vốn này. Nó cho phép ta huy động và sử
dụng vốn có hiệu quả cao hơn, hạn chế các hiện tượng làm thất thoát tài sản của
nhà nước và tập thể, đặc biệt là hiện tượng chảy vốn ra nước ngoái.
2. Chức năng, nhiệm vụ của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thị trường chứng khoán nói chung và thị trường chứng khoán Việt Nam nói
riêng đều có chức năng và nhiệm vụ như sau:
+ Mục đích chính của thị trường này là thực hiện chức năng dẫn vốn từ các
cá nhân, tổ chức có nguồn vốn dư thừa mà không sử dụng đến hay không có cơ
hội đầu tư để sinh lợi đến những người cần vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh hay
là những người có cơ hội đầu tư sinh lợi. Những người đi vay vốn trực tiếp từ
người cho vay này bằng cách phát hành hay bán cho họ những chứng khoán của
mình. Các chứng khoán này xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ hợp pháp
bao gồm các điều kiện về thu nhập và tài sản trong một thời gian nào đó.
+ Truyền tải và cập nhật thông tin đến cho các nhà đầu tư để họ có thể đánh
3
giá tình hình hoạt động sản suất kinh doanh của các doanh nghiệp trên thị
trường.Từ đó mà họ có niêm tin đầu tư vào các tổ chức mà họ kì vọng là mang lại
cho họ lợi nhuận cao nhất.
+ Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cớ cơ hội thu hút vốn từ các nhà đầu
tư trong và ngoài nước. Khi có áp lực về vốn làm cho họ phải tích cức sản xuất,
đổi mới tư duy sản xuất bằng các phương pháp hiện đại, tiên tiến thì mới có thể
cạnh tranh được trên thị trường. Điều này làm cho họ phải có các phương án sản
xuất sao cho nguồn vốn mình bỏ ra mang lại hiệu quả cao nhât, tối ưu nhất.
Như vậy, ta thấy TTCK có chức năng và nhiệm vụ rất quan trọng đối với
nền kinh tế đang phát triển nhưng lại rất thiếu vốn như Việt Nam. Chính vì thế nó
góp phần làm cho hệ thông huy động vốn trên thị trường tiền tệ hoạt động trơn tru,
hiệu quả hơn. Thúc đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất
nước.
II- Đánh giá chung về thị trường chứng khoán Việt Nam.
1.Quy mô thị trường chứng khoán Việt Nam.
1.1 Số lượng chứng chứng khoán.
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ,
thể hiện ở số lượng cổ phiếu, trái phiếu không ngừng được tăng lên. Lúc đầu khi
trung tâm giao dịch chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh chỉ có hai công ty được
niêm yết cổ phiếu và tổng giá trị thị trường là 270 tỷ đồng ( tương đương 16,8
triệu USD) thì đến ngày 27/11/2005 có 21 loại cổ phiếu được niêm yết với tổng
số vốn là 1.086 tỷ đồng, hai loại trái phiếu công ty với số vốn 157 tỷ đồng và 50
loại trái phiếu Chính phủ với số vốn là 5400 tỷ đồng ( như vậy có 73 loại chứng
khoán được phát hành trên thị trường với số vốn khoảng 6.600 tỷ đông. Như vậy
trong 5 năm số lượng chứng khoán lưu hành trên thị trường như vậy là quá chậm.
Điều này cũng thật dễ hiểu khi thị trường của chúng ta mới ở dạng sơ khai, non
trẻ, chưa thực sự thu hut được sự quan tâm của các nhà đầu tư. Mặt khác sự hiểu
4
biết của các cá nhân và tổ chức về thị trường này là còn tương đối mới mẻ dẫn đến
sự phát triển của thị trường là tương đối chậm. Tuy nhiên đến thởi điểm hiện nay
tại TTGDCKTP.HCM đã có tới 750 chứng khoán ( tăng hơn 10 lần so với thời
điểm này năm 2005) chứng khoán được lưu hành. Trong đó có 49 loại cổ phiếu
( tăng hơn 2.3 lần), một chứng chỉ và 700 loại trái phiếu ( tăng 16.45 lần). Như
vậy, trong một năm qua thị trường chứng khoán Việt Nam đã có bươc tiến vượt
bậc điều này đã chứng tỏ chúng ta đã có những bước đầu thành công trong việc
điều hành và quản lý thị trường này.
Tuy nhiên với tốc độ tăng này trong 3 tháng 7, tháng 8, tháng 9 năm 2006
đem so với các nước trong khu vực thì ta thấy thị trường của chúng ta quá nhỏ bé.
Theo số liệu của Bloomberg thì trung bình trong 3 tháng này chỉ có 6,6 triệu USD
giá trị cổ phiếu được giao dịch hàng ngày tại trung tâm giao dich TP Hồ Chí Minh,
trong khi đó tại Thái Lan là 314 triệu USD, Hồng Kông là 3,2 tỷ USD. Điều này
cũng thật dễ hiểu bởi thị trường của chúng ta còn quá nhỏ bé, số lượng chứng
khoán được niêm yết còn hạn chế. Trong khi đó các nhà đầu tư chủ yếu là các cá
nhân nhỏ lẻ, còn các nhà đầu tư lớn như các tổ chức trong và ngoái nước thì chưa
thật sự sẵn sàng bởi cơ sở hạ tầng và hệ thống pháp luật của chúng ta còn rất yếu
kém, các nhà đầu tư chuyên nghiệp và hàng hóa chât lượng cao còn thiếu.
Kể từ khi bắt đầu được thành lập và đi vào hoạt động tháng 7/2000 trong
một thời gian ngăn TTCK đã có sự phát triển không ổn định, “nong” bỏng, gây lến
các cơn sốt chứng khoán “ảo”. Năm 2000 chỉ số Vn-Index 100 điểm thì đến
25/6/2001 là 571 điểm, điều này làm cho các chuyên gia kinh tê hết sức ngạc
nhiên và bất ngờ. Song nó không tồn tại được lâu và nhanh chóng giảm xuống
dưới mức 140 điểm năm 2003, 150-200 điểm năm 2004. Tuy nhiến sang đến năm
2006 lại có sự biến động mạnh mẽ từ 3000 điểm cuối năm 2005 thì đến 25/4/2006
đạt 632 điểm, song đến ngày 1/8/2006 chỉ còn 399 điểm. Nguyên nhân chính là do
số lượng chứng khoán niêm yết trên thị trường còn rất ít nến khó có thể đánh giá
chính xác các biến động của chúng, mặt khác trong số lượng cổ phiếu được niêm
5