Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

ĐỀ CƯƠNG MÔN LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (590.76 KB, 51 trang )

ĐỀ CƢƠNG ÔN TẬP
LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ

I. Câu hỏi lý thuyết
Câu 1: Các tác động tích cực của tư tưởng tự do kinh tế tới các nước .
Chủ nghĩa tự do ngày càng thâm nhập sâu hơn trong các nước, cả trên
phương diện kinh tế cũng như chính trị, huy động được các thiết kế tài chính quốc tế
như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO)… Nhận diện chủ nghĩa tự do mới là điều rất cần thiết trong bối cảnh chủ
nghĩa tự do đang tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế vĩ mô, đến chính trị và sinh hoạt
quốc gia và quốc tế.
Mô hình kinh tế tự do mới đề cao vai trò cá nhân. Thật vậy, một xã hội muốn
phát triển thịnh vượng trước hết phải phát huy tính độc lập, sáng tạo của mọi cá nhân
và muốn làm được như vậy phải có một môi trường xã hội tự do, thông thoáng. Sự can
thiệp quá sâu của Nhà nước có thể dẫn đến tình trạng mất đi tự do và khả năng tự chủ,
sáng tạo của cá nhân. Chính sách kinh tế dựa trên tư tưởng thị trường tự do với yếu tố
chủ đạo của tư tưởng này là cần hạn chế vai trò của Chính phủ và thay thế bằng các
lực lượng thị trường. Nền kinh tế của CHLB Đức sau khi áp dụng lí thuyết nền kinh tế
thị trường xã hội đã có những đổi mới đáng kể như :
- Đưa nước Đức từ một nước thua trận trong chiến tranh thế giới thứ hai trở thành một
nước cường quốc kinh tế. Sau Thế chiến thứ hai kinh tế và xã hội Đức nằm ở đáy thấp.
Sau cuộc cải cách tiền tệ năm 1948 việc tái xây dựng kinh tế đã thành công trong cái
gọi là điều huyền diệu kinh tế (Wirtschaftswunder), đồng thời người dân được bảo vệ
bởi một nhà nước xã hội. Nước Đức trở thành nước xuất khẩu đứng đầu; năng suất và
chất lượng các sản phẩm Đức, đặc biệt là của ngành chế tạo máy, đã và vẫn luôn là tốt
trên thế giới. Suốt cho đến đầu thập niên 1970 kinh tế Tây Đức hầu như tăng trưởng
liên tục nhưng bắt đầu từ suy thoái kinh tế đầu thập niên 1980 mức tăng trưởng ngày
càng kém đi. Sau đấy là 8 năm liền tăng trưởng, được giữ ở mức trung bình là 1,5% từ
sau khi tái thống nhất. Tỷ lệ thất nghiệp nằm không ngừng ở mức độ cao.
- Sau khi tái thống nhất nước Đức tạm thời phải gánh vác thêm nền kinh tế suy tàn của
các tiểu bang mới. Việc này chủ yếu được trang trải bằng cách mượn thêm nợ mới và


chuyển một số khoản phí tổn vào các hệ thống bảo vệ xã hội. Sau mười năm tái thống
nhất Đức, có thể nhận ra được nhiều tiến bộ to lớn trong việc nâng cao mức sống của
người dân Đông Đức, một nền kinh tế thị trường được thiết lập và hệ thống hạ tầng cơ
sở được cải tiến. Nhưng đồng thời quá trình cân bằng giữa Đông và Tây kéo dài lâu
hơn là dự định ban đầu, theo một số thước đo nhất định quá trình này đã dừng lại từ
giữa thập niên 1990. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Đông Đức thấp hơn ở Tây Đức, tỷ
lệ thất nghiệp cao gấp hai lần, vì thế nhiều lao động có tay nghề đi tìm việc làm ở Tây
Đức. Năng suất lao động ở Đông Đức vẫn ở mức thấp. Lượng tiêu dùng ở Đông Đức
phụ thuộc trực tiếp vào số tiền chi viện từ Tây Đức, hằng năm vào khoảng 65 tỷ $ hay
hơn 4% tổng sản phẩm quốc nội của Tây Đức.
- Nền kinh tế Đức đã đảm bảo được sự tự do cá nhân, các doanh nghiệp được tự do
trao đổi cả trong và ngoài nước giúp nền kinh tế Đức phát triển: Trong năm 2004 –
cũng như năm trước đó – Pháp đứng đầu trong danh sách các nước Đức xuất khẩu
sang, trước Mỹ và Anh. Trong năm 2004 tổng giá trị hàng hóa Đức xuất sang Pháp là
75,3 tỷ euro (chiếm tỷ lệ 10,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu), sang Mỹ là 64,8 tỷ
euro (8,8%) và sang Anh 61,1 tỷ euro (8,3%).
Về nhập khẩu ba nước đứng đầu – cũng như năm trước đó – là Pháp (52,2 tỷ euro;
chiếm tỷ lệ 9,0% trong tổng kim ngạch nhập khẩu), Hà Lan 847,9 tỷ euro; 8,3%) và
Mỹ (40,3 tỷ euro; 7,0%).
- Đức đã thực hiện hai mục tiêu là tự do cá nhân và đoàn kết xã hội và kết hợp được
khả năng công nghiệp lớn mạnh dựa trên công nghiệp hiện đại với sự phát triển thương
mại thế giới mở rộng. Để đạt được những thành tựu đó Đức đã coi trọng năng suất cao,
coi trọng nguồn nhân lực và việc đào tạo nhân lực và đào tạo bồi dưỡng con người, coi
trọng nghiên cứu _ triển khai, quan tâm mạnh đến các vấn đề xã hội.
Chủ nghĩa tự do kinh tế mới đã đem lại những thành công nhất định ở các nước phát
triển và đang phát triển. Sự thắng lợi của nền kinh tế theo chủ nghĩa tự do mới được
minh chứng bằng sự thăng hoa của kinh tế Mỹ nửa sau thập kỷ 90 với tăng trưởng kéo
dài, tỷ lệ thất nghiệp khá thấp và ít lạm phát, sản lượng và năng suất cao hơn.
-Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đo lường toàn bộ sản lượng hàng hóa và dịch vụ
trong một năm cụ thể. Tổng sản lượng này của Mỹ tăng liên tục, từ hơn 3,4 nghìn tỷ

USD năm 1983 lên khoảng 8,5 nghìn tỷ USD năm 1998. Tuy những số liệu này giúp
đánh giá tình trạng lành mạnh của nền kinh tế, nhưng chúng không đo được hết mọi
phương diện của phúc lợi quốc gia. GDP cho biết giá trị thị trường của hàng hóa và
dịch vụ mà một nền kinh tế tạo ra, nhưng nó không đo được chất lượng cuộc sống của
một quốc gia. Và một vài biến số quan trọng - ví dụ như sự bình an và hạnh phúc cá
nhân, hoặc môi trường trong sạch hay sức khỏe tốt - hoàn toàn nằm ngoài phạm vi của
nó.
-Hệ thống doanh nghiệp tự do của Mỹ nhấn mạnh đến sở hữu tư nhân. Các doanh
nghiệp tư nhân tạo ra phần lớn hàng hóa và dịch vụ, và gần hai phần ba tổng sản lượng
kinh tế của quốc gia là dành cho tiêu dùng cá nhân (một phần ba còn lại được mua bởi
chính phủ và doanh nghiệp). Trên thực tế, vai trò của người tiêu dùng lớn đến mức
quốc gia này thỉnh thoảng được mô tả là có một “nền kinh tế tiêu dùng”.
-Sự nhấn mạnh này đối với sở hữu tư nhân xuất phát một phần từ niềm tin của người
Mỹ về tự do cá nhân. Ngay từ thời lập quốc, người Mỹ đã lo sợ quyền lực quá mức
của chính phủ, và họ luôn tìm cách hạn chế uy quyền của chính phủ đối với cá nhân -
bao gồm cả vai trò của chính phủ trong lĩnh vực kinh tế. Hơn nữa, người Mỹ nhìn
chung đều tin rằng một nền kinh tế được đặc trưng bởi sở hữu tư nhân dường như hoạt
động hiệu quả hơn so với nền kinh tế đặc trưng bởi sở hữu nhà nước.
- Mô hình kinh tế tự do mới ở Mỹ giúp tăng tính cạnh tranh cao giữa các doanh nghiệp
dẫn đến nền sản xuất sẽ hiệu quả hơn, hàng hóa sẽ đa dạng và phong phú hơn, giúp
cho đồng vốn lưu thông dễ dàng hơn. Điều đó giúp cho các nước đang phát triển thu
hút được nhiều vốn đầu tư từ đó hấp thu, tiếp cận nhanh hơn với khoa học – công nghệ
cao, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho dân bản xứ đồng thời nâng cao thu nhập, mức
sống người dân.
Vào giữa năm 1986, Việt Nam bắt đầu chuyển từ nền kinh tế kế hoach hoá tập
trung sang nền kinh tế thị trường. Các mục tiêu về cải cách này là tự do hoá giá cả, loại
bỏ sự trợ cấp cho người sản xuất, cho phép doanh nghiệp đặt giá và tự do hoá thương
mại; ủng hộ quyền tài sản cá nhân, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và khu vực
tư nhân, tự do hoá các doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích đầu tư trực tiếp nước
ngoài, đa dạng hoá các mối quan hệ kinh tế với nước ngoài

-Từ năm 1922 đến năm 1996, thực trạng kinh tế bắt đầu thể hiện dấu hiệu tích cực.
GDP tăng bình quân 8.9 % mỗi năm. Năm 1996 nền kinh tế Việt nam thể hiện dấu
hiệu tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm bởi vì chính phủ vẫn coi các doanh nghiệp nhà
nước như là lực lượng quan trọng trong nền kinh tế. Khủng hoảng tài chính Châu Á
năm 1997 diễn ra, điều này đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế trong các năm
sau. Chúng ta có thể thấy trong hình sau:
Tự do hoá thương mại đã đóng góp vào tăng trưởng nhanh của hàng hoá xuất khẩu
trong giai đoạn 1993-1997, thương mại quốc tế đã mở rộng mạnh mẽ kể từ năm 1990.
Hàng hoá xuất khẩu tăng với tốc độ trung bình hàng năm là 24,7% trong giai đoạn từ
1990 đến 2001, trong khi đó hàng hoá nhập khẩu tăng 92,2% cùng kỳ. Tổng hàng hoá
xuất khẩu đạt 15.207 triệu đôla vào năm 2001 và tổng hàng hóa nhập khẩu đạt 16.200
triệu đôla trong cùng năm.
Luật đầu tiên về Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài đã được ban hành ngày 29/12/1987.
Kể từ dó đến nay Luật này đã được sửa đổi nhiều lần vào năm 1990, 1992, và trước
khi Luật mới về Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài được Quốc hội Việt nam thông qua vào
tháng 6/2000. Các tổ chức tư nhân được phép thành lập liên doanh với nhà đầu tư nước
ngoài kể từ năm 1992. Các thủ tục cấp giấy phép đầu tư dần dần được hoàn thiện, thời
gian để nhận được giấy phép đầu tư ngắn hơn từ một vài năm xuống còn một vài
tháng, kể từ ngày nhận được hồ sơ xin cấp đầy đủ. Nhằm thu hút nhiều hơn FDI, nhiều
cản trở đối với nhà đầu tư nước ngoài đã được dỡ bỏ và môi trường đầu tư thuận lợi
hơn. Do đó, Việt nam đã thu hút được một lượng đáng kể dòng FDI chảy vào Việt
Nam. FDI ở Việt Nam đã tăng trưởng rất nhanh từ năm 1988 đến năm 1995. Vào năm
1997, khủng hoảng tài chính Châu Á xảy ra, dòng FDI chảy vào Việt nam giảm. Để
ngăn cản sự giảm sút của dòng vốn FDI chảy vào, chính phủ Việt nam đã ban hành
Luật Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài mới vào tháng 6/2000. Chúng ta có thể thấy điều
này dưới hình sau:
Vào năm 1986, Việt nam thực hiện cải cách khu vực nông nghiệp. Đất đai được
trả lại các hộ gia đình nông dân và được phép sử dụng trong thời gian dài, các hợp tác
xã nông nghiệp được giải thể. Điều này đã khuyến khích nông dân tăng gia sản xuất
nông nghiệp và đóng góp vào sự gia tăng nhanh chóng của xuất khẩu gạo. Trong thời

kỳ 1977-1980, Việt Nam phải nhập khẩu 3 triệu tấn gạo hàng năm. Đến năm 1988,
Việt nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ ba trên thế giới. Trong suốt cơ chế
hợp tác, sản xuất gạo bị đình trệ, đặc biệt vào năm 1977 và 1978. Mặc dù sản xuất gạo
vào năm 1979 đã phục hồi, nhưng vẫn không đạt được mức 1976. Để đáp ứng nhu cầu
trong nước, Việt Nam buộc phải nhập khẩu một lượng lớn gạo. Chúng ta thấy rằng cơ
kế hợp tác xã đã thất bại:
Trong năm 1988 chính phủ Việt Nam chính thức công nhận tầm quan trọng của
khu vực tư nhân và phát triển nó. Vào năm 1990 Luật Doanh nghiệp có hiệu lực, đã
đưa ra khung pháp lý cho sự phát triển của khu vực tư nhân. Vào năm 1992 Hiến pháp
mới khẳng định lại sự hợp pháp của khu vực tư nhân. Kết quả là số lượng các doanh
nghiệp tư nhân tăng mạnh mẽ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp tư nhân ở Việt nam không
được đối xử công bằng so với các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp tư nhân
vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị trường, tiếp cập ngân hàng. Vào năm 1997
khủng hoảng tài chính khu vực xảy ra. Nền kinh tế Việt nam gặp khó khăn. Phản ứng
lại trước tình hình này, chính phủ Việt nam đã ban hành Luật Doanh nghiệp mới vào
1/1/2000. Luật mới này dỡ bỏ rào cản tham gia đối với các doanh nghiệp tư nhân, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân tham gia dễ dàng hơn. Chi phí đăng ký kinh
doanh đã giảm mạnh mẽ; thời gian đăng ký kinh doanh cũng được rút ngắn lại. Đồng
thời luật này công nhận sự tự do kinh doanh, huỷ bỏ 180 giấy phép trong lĩnh vực kinh
doanh. Kết quả là, số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ gia tăng mạnh mẽ từ tháng
1/2000 đến tháng 8/2001. Trong suốt năm 2000, 14.400 doanh nghiệp vừa và nhỏ mới
và 140.000 hộ kinh doanh được đăng ký.
Vì vậy nếu Việt Nam áp dụng các thể chế và các chính sách phù hợp với tự do
kinh tế, khi đó sẽ tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của hành vi doanh nhân và
sự phát triển hành vi doanh nhân này tạo ra sự phát hiện mới, điều này sẽ tạo ra động
lực cho sự tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, nền kinh tế Việt Nam đình trệ khi chính phủ
dựng lên rào cản để giảm tự do kinh tế và khi đó điều này cản trở hành vi kinh doanh.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam là hình thành và phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước. Chủ trương
này dựa trên quan điểm “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta là xây dựng một Nhà nước vì dân, một nền kinh tế
công bằng, một xã hội không còn đói nghèo, dốt nát và kém văn hóa. Đây là mục tiêu
quan trọng mà Việt Nam hướng tới chứ không phải một kiểu tự do hại người lợi mình,
cạnh tranh không lành mạnh, lấy bất bình đẳng làm động lực của phát triển, lấy thị
trường làm thống soái, đặt cá nhân quyền thế và giàu sang lên trên hết.

Câu 2: Hãy cho biết lý luận có vai trò nền tảng trong học thuyết giá trị lao động của
K.MARX
Các nhà kinh tế học trước Mác chỉ phân biệt rõ hai thuộc tính của hàng hoá :giá trị sử
dụng và giá trị trao đổi có mâu thuẫn(Simondi).trái lại ,Mác khẳng định rằng hàng hóa
là sự thống nhất biện chứng giữa hai thuộc tính :giá trj sử dụng và giá trị. Ông là người
đầu tiên đưa ra lý luận về tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá,là lao động cụ
thể và lao động trừu tượng. đây là chía khoá để giải quyết một loạt các vấn đề khác
trong kinh tế chính trị như:chất lượng,sự hình thành các bộ phận giá trị (c+v+m) giá
trị hàng hoá ;nguồn gốc của giá trị và giá trị sử dụng.
sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính :giá trị và giá trị sử dụng là do lao động của người sản
xuất ra hàng hoá đó có tính hai mặt.chính tinh hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá
quyết định tính hai mặt cua bản than hàng hoá.
+lao động cụ thể là những lao động gắn với nhưng nghề nghiệp chuyên môn cụ thể và
mỗi lao động cụ thể thì có đối tượng khác nhau ,sản phẩm khac nhau, công cụ khác
nhau,trình độ khác nhau .do đó tạo ra những sản phẩm có giá trị sử dụng khác
nhau.chính vì vậy lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng.
VD :lao động cụ thể của người thợ môc,mục đích là sản xuất cái bàn ,cái ghế, đối
tượng lao động là gỗ,phương pháp của anh ta là các thao tác về cưa,về bào,khoan
đục;phương tiện sử dụng là cái cưa,cái đục,cái bào,cái khoan,kết quả là tạo ra cái
bàn,cái ghế.
+lao động trừu tượng là sau khi gạt bỏ tất cả những hình thức cụ thể thì giữa các lao
động xuất hiên điểm chung đồng nhất đó là tiêu hao sức lao đông , đó là cơ sở để trao
đổi các hàng háo cho nhau.lao động trừu tượng tạo ra giá trị cua hàng hoá.
Lưọng giá trị hàng hoá được xét cả về mạt chất và lượng:

Chất giá trị của hàng hoá là do lao động trừu tượng của người sản xuất hàng háo kết
tinh trong hàng hoá.vậy,lượng giá trị của hàng hoá là do lượng lao đông hao phí để sản
xuất ra hàng hoá đó quyết định.

Câu 3: Vì sao sau khi áp dụng học thuyết keynes một thời gian thì lạm phát trở nên
nghiêm trọng ?
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp và suy thoái
diễn ra một cách phổ biến và ngày càng nghiêm trọng ở các nước tư bản. Thực tiễn đó
đã chứng tỏ rằng lý thuyết “Bàn tay vô hình” và “Tự điều chỉnh kinh tế” của các
trường phái phái cổ điển và tân cổ điển không còn phù hợp, không đảm bảo cho nền
kinh tế được phát triển một cách cân đối, ổn định. Cơ chế thị trường tự do tỏ ra không
còn hữu hiệu, vì vậy phải có sự can thiệp tích cực của nhà nước vào các hoạt động
kinh tế để chống đỡ khủng hoảng và giải quyết những mâu thuẫn.
Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ và tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực
lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa đưa đến một đòi hỏi khách quan là phải có sự điều tiết
của nhà nước vào quá trình phát triển kinh tế. Trong bối cảnh đó, nhu cầu phải có các
lý thuyết kinh tế mới thích ứng, để cứu vãn nền kinh tế tư bản khỏi sự sụp đổ, trở nên
bức thiết. Thuyết “Chủ nghĩa tư bản được điều tiết”, “Tăng cường vai trò kinh tế của
nhà nước” xuất hiện, và người sáng lập ra nó chính là John Maynard Keynes.
Học thuyết kinh tế của Keynes ra đời với các lý thuyết về việc làm,và các điều
chính kinh tế vĩ mô của Nhà nước, lãi suất, tiền tệ, đặc biệt Keynes coi nguyên lý cầu
là nền tảng của phát triển kinh tế đã giải quyết được cơ bản các vấn đề khủng hoảng ,
suy thoái kinh tế của các nước TBCN thời bấy giờ.Đưa các nước TBCN thoát khỏi các
cuộc khủng hoảng kinh tế lớn( 1929-1933). Tuy nhiên một thời gian sau khi áp dụng
học thuyết Keynes thì các nước TBCN lại lâm vào một tình trạng chung là lạm phát trở
nên nghiêm trọng.
Vậy nguyên nhân của hiện tượng này là gì? Tại sao các nước TBCN đã cơ bản thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế nhưng lại lâm vào tình trạng lạm phát gia tăng, nghiêm
trọng? Sau đây chúng ta sẽ cùng làm rõ vấn đề này.
Để hiểu được vì sao thời kì lúc bấy giờ lạm phát gia tăng chúng ta cần hiểu được

lạm phát là gì? Nguyên nhân gây ra lạm phát?
Trong kinh tế học, thuật ngữ “lạm phát” được dùng để chỉ sự tăng lên theo thời gian
của mức giá chung hầu hết các hàng hoá và dịch vụ so với thời điểm một năm trước
đó. Như vậy tình trạng lạm phát được đánh giá bằng cách so sánh giá cả của một loại
hàng hoá vào hai thời điểm khác nhau, với giả thiết chất lượng không thay đổi.
Khi giá trị của hàng hoá và dịch vụ tăng lên, đồng nghĩa với sức mua của đồng tiền
giảm đi, và với cùng một số tiền nhất định, người ta chỉ có thể mua được số lượng
hàng hoá ít hơn so với năm trước. Có nhiều dạng lạm phát khác nhau, như lạm phát
một con số (single-digit inflation), lạm phát hai con số (double-digit inflation), lạm
phát phi mã (galloping inflation), siêu lạm phát (hyper inflation)
Một ví dụ điển hình của siêu lạm phát là vào năm 1913, tức là ngay trước khi chiến
tranh thế giới nổ ra, một USD có giá trị tương đương với 4 mark Đức, nhưng chỉ 10
năm sau, một USD đổi được tới 4 tỉ mark. Vào thời đó, báo chí đã đăng tải những
tranh ảnh biếm họa về vấn đề này: người ta vẽ cảnh một người đẩy một xe tiền đến
chợ chỉ để mua một chai sữa, hay một bức tranh khác cho thấy ngày đó đồng mark
Đức được dùng làm giấy dán tường hoặc dùng như một loại nhiên liệu.
Lý thuyết của Keynes đề cao vấn đề tiêu dùng, coi tiêu dùng là giải pháp hữu hiệu
của tăng trưởng kinh tế, vì thế nội dung chủ yếu của học thuyết Keynes là lý thuyết
trọng cầu, với các chính sách kích cầu.Gia tăng tiêu dùng, tăng chi tiêu công của chính
phủ. Nguyên lý cầu của keynes khẳng định rằng, lượng cung hàng hóa là do lượng cầu
quyết định. Do đó, vào những thời kỳ suy thoái kinh tế, nếu tăng lượng cầu đầu tư
hàng hóa công cộng (tăng chi tiêu công cộng), thì sản xuất và việc làm sẽ tăng theo,
nhờ đó giúp cho nền kinh tế ra khỏi thời kỳ suy thoái.
Trong lịch sử, cuộc khủng hoảng kinh tế dài nhất nổ ra giữa những năm 1970, 1980
và kết thúc trong vòng 16 tháng. Trước tình hình này, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đang
tìm cách thuyết phục các nước áp dụng các gói kích cầu cho nền kinh tế thông qua chi
tiêu của chính phủ cỡ khoảng 2% GDP. Không chỉ một vài nước, mà đồng loạt các nền
kinh tế từ mới nổi cho đến phát triển, trong đó có Việt Nam, đã có kế hoạch kích cầu
bằng ngân sách nhà nước.
Tổng thống mới của Mỹ, Barack Obama dự tính dùng 819 tỉ đô la để thực hiện kích

cầu, khoản kích cầu lớn nhất kể từ sau những năm 1950, vào việc xây dựng và phát
triển hạ tầng như hệ thống đường cao tốc liên bang, trường học, Internet, công nghệ
trong lĩnh vực năng lượng. Các nước châu Âu đang lo lắng về nguy cơ thâm hụt ngân
sách trên diện rộng kéo dài sau khủng hoảng nhưng lãnh đạo các nước trong khu vực
đã đi đầu trong vấn đề kích cầu mặc dù hệ thống phúc lợi xã hội của châu Âu khá tốt
và phần nào đã có hiệu ứng kích cầu. Tương tự, ở châu Á, Trung Quốc, Hàn Quốc,
Nhật Bản và cả Việt Nam đều công bố thực hiện các gói kích cầu ở các quy mô khác
nhau. Trung Quốc dự tính chi 586 tỉ đôla để cải thiện cơ sở hạ tầng như đường sắt, sân
bay. Việt Nam cũng có kế hoạch huy động số tiền tương đương 1-6 tỉ đô la cho nhiệm
vụ kích cầu.
Tuy nhiên kích cầu lại kéo theo những vấn đề kinh tế nóng bỏng khác.Thâm hụt
ngân sách là điều khó tránh khỏi ở những nước có kế hoạch kích cầu trên quy mô lớn.
Thâm hụt ngân sách có thể dẫn tới việc lãi suất tăng, đầu tư vào các khu vực tư nhân
(khu vực có hiệu quả sử dụng vốn cao, từ đó có thể cải thiện tình hình xã hội)
giảm.Hàng tý đôla chi tiêu công cộng được sủ dụng sẽ không tránh khỏi việc lãng phí
tiền đầu tư vào những dự án không cần thiết. Hơn nữa, các gói kích cầu đều chủ yếu
tập trung vào cơ sở hạ tầng, trong khi đó các dự án liên quan đến cơ sở hạ tầng luôn
chậm tiến độ và vượt dự toán như dự án đường cao tốc Big Dig ở Boston đã phải mất
hơn 20 năm mới hoàn thành, vượt dự toán 5 lần. Nhật cũng đã lãng phí tiền đầu tư vào
các sân bay ít dùng, cầu đường dẫn đến các đảo ít người.
Những năm 1960, 1970 kích cầu theo học thuyết Keynes tiếp tục phổ biến khắp
nơi trên thế giới mà kết quả là nền kinh tế Mỹ, châu Âu và một số nền kinh tế khác ở
châu Mỹ Latin đã phát triển hơn. Tuy nhiên kéo theo đó là nền kinh tế Mỹ Latin
thường xuyên trong tình trạng lạm phát phi mã. Chỉ số chung về lạm phát và thất
nghiệp ở Mỹ cũng luôn ở mức cao, lên đến 20,8% năm 1980, tăng hơn 10% so với 10
năm trước đó.
Tuy nhiên, chi tiêu công quá đà là một giải pháp không bền vững khi hệ thống tài
chính của nhiều nước châu Âu như Bồ Đào Nha, Ý, Ai-len, Hy Lạp, Tây Ban Nha và
nhiều khả năng có thêm Hungary - đang lung lay. Các nước này rơi vào cuộc khủng
hoảng nợ và tình trạng lạm phát kéo dài, ngày càng nghiêm trọng.

Chính những điều này đã nêu bật hạn chế của một trong những quan điểm cốt lõi
của Keynes - chi tiêu của chính phủ nhằm kích thích kinh tế sẽ mang lại hiệu quả.
Nhưng như chúng ta đã thấy, không phải lúc nào một chính phủ chi tiêu nhiều hơn
cũng thu được nhiều thuế hơn cho ngân sách.Học thuyết Keynes đề cao tiêu dùng, chi
tiêu công, coi tiêu dùng là vấn đề cốt lõi của tăng trưởng kinh tế tuy nhiên đã mắc phái
một sai lầm là những chi tiêu công cộng lại có thể gây ra mức thâm hụt ngân sách cao
và gây ra tình trạng lạm phát nghiêm trọng.Ở đây chúng ta có thể thấy rõ Keynes đã
lựa chọn giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát.keynes đã lựa chọn tăng trưởng kinh tế
và chấp nhận sự lạm phát.Tăng chi tiêu mở rộng tiêu dùng và tất yếu sau đó các nước
lâm vào tình trạng lạm phát kéo dài.Chấp nhận tăng chi tiêu công kích thích tiêu dùng,
việc làm đòng nghĩa với việc ngân sách thâm hụt với những khoản nợ khổng lồ và kéo
theo đó là tình trạng lạm phát.
Như vậy có thể nói rằng, học thuyết kinh tế của Keynes đã giải quyết được các vấn
đề tạm thời mang tính chất ngắn hạn là kích cầu- tăng trưởng kinh tế mà lại để lại hậu
quả những khoản nợ ngân sách khổng lồ tất yếu kéo theo đó là lạm phát – một vấn đề
kinh tế nóng bỏng của mọi thời đại.Điều này giải thích cho chúng ta rằng vì sao sau
một thời gian áp dụng học thuyết Keynes thì các nước lại lâm vào tình trạng lạm phát
nghiêm trọng.

Câu 4: Tại sao nói Keynes đã “dùng đại bác bắn vào cơ chế thị trường” ?
Nói Keynes đã “dùng đại bác bắn vào cơ chế thị trường” vì các học thuyết kinh
tế của ông đã quá coi nhẹ cơ chế thị trường. Đó là một trong những hạn chế đáng tiếc
trong các học thuyết kinh tế của Keynes.
a.Biểu hiện của việc coi nhẹ cơ chế thị trƣờng:
Việc quá coi nhẹ cơ chế thị trường của ông được thể hiện ở việc ông đã đánh
giá quá cao vai trò của nhà nước mà ông lại bỏ qua sự vận động linh hoạt, biến đổi
không ngừng của cơ chế thị trường:
Trái ngược với quan điểm của trường phái cổ điển và tân cổ điển về vai trò của
Nhà nước với thị trường, Keynes khẳng định : cần có Nhà nước trong việc điều tiết
nền Kinh tế thị trường, vai trò đó thể hiện tập trung ở việc điều chỉnh tổng cầu ( bao

gồm tổng cầu về tiêu dùng và tổng cầu về đầu tư). Chỉ có vậy nền kinh tế mới có thể
thoát khỏi khủng hoảng và thất nghiệp.
* Tổng cầu đầu tƣ: Trên cơ sở phát triển những nguyên nhân gây ra thiếu hụt
về đầu tư (lãi suất, hiệu quả giới hạn trung bình đầu tư), Keynes đưa ra những thí
nghiệm mà tập trung nhất là việc sử dụng ngân sách nhà nước để khuyến khích đầu tư
tư nhân và bản thân Nhà nước cần chủ động đầu tư cụ thể:
 Nhà nước cần thực hiện tăng thêm những lá đơn đặt hàng đối với các công ty.
Trước hết là những công ty lớn về các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng, sản
xuất hàng tiêu dùng…Ông cho rằng việc thực hiện những đơn đặt hàng như vậy là
biện pháp chủ động tăng cầu về tư liệu tiêu dùng và cầu về sức lao động.
 Tăng cường trợ cấp tín dụng về ngân sách để đảm bảo tỷ suất lợi nhuận và lợi
nhuận cho các tổ chức độc quyền cũng có nghĩa là đảm bảo hiệu quả đầu tư ở mức
có lợi cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp lớn để họ yên tâm đầu tư.
Các biện pháp mà Nhà nước cần áp dụng là giảm lãi suất, thực hiện tín dụng ưu
đãi đối với những chương trình trọng điểm, giảm thuế đối với các doanh nghiệp.
 Thực hiện “ lạm phát có mức độ”. Ông cho rằng để đầu tư, việc giảm lãi suất cần
phải tăng thêm một số lượng tiền tệ vào lĩnh vực lưu thông( Để bù đắp thiếu hụt
ngân sách Nhà nước, ông chủ trương in thêm tiềnđể cấp phát cho ngân sách hoạt
động, mở rộng đầu tư Nhà nước và đảm bảo chi tiêu cho cổ phần). Đây là biện
pháp hữu hiệu để kích thích thị trường và không có gì nguy hiểm. Khi nền kinh tế
đạt tới trạng thái cân bằng mới, sản lượng và việc làm cao hơn thì lạm phát sẽ tự
động ngừng lại.
 Cùng với các biện pháp trên thì Sử dụng công cụ thuế để điều tiết nền kinh tế :
tăng thuế để điều tiết bớt một phần tiết kiệm từ thu nhập của người lao động , đưa
vào ngân sách để Nhà nước mở rông đầu tư, giảm thuế với nhà đầu tư để tăng đầu
tư.
 Thực hiện khuyến khích mở rộng các hình thức đầu tư như đầu tư vào việc sản
xuất các phương tiện kinh doanh (Tạo việc làm, mở nhiều hình thức đầu tư để giải
quyết việc làm, tăng thu nhập, chống khủng hoảng, có thể với nghề ăn bám như
sản xuất vũ khí, chạy đua vũ trang).

*Tổng cầu về tiêu dùng: Để nâng cao hiệu quả tiêu dùng, J.M.Keynes cho
rằng cần phải kích thích tiêu dùng cá nhân của các tầng lớp dân cư, đặc biệt là khuyến
khích sự tiêu xài xa hoa của các tầng lớp giàu có thực hiện quân sự hóa nền kinh tế.
b. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế này:
Ngay từ đầu trong cách tiếp cận vấn đề của Keynes, ông đã xuất phát và đi thẳng
vào quan điểm giá cả, tiền lương ổn định, cứng nhắc, không có sự biến động. Theo
quan điểm của Keynes, các chính sách tiền tệ và tài khóa có thể thay thế cho giá cả
tiền lương linh hoạt, kích thích nền kinh tế trong thời kì suy thoái, làm giảm tổng cầu
trong thời gian khủng hoảng kinh tế, nhằm ngăn chặn các xu hướng lạm phát. Những
người thuộc trường phái Keynes tin tưởng rằng: chính phủ có thể tác động đến hoạt
động kinh tế thực sự, bằng cách thi hành các chính sách tiền tệ hay tài khóa nhằm thay
đổi tổng cầu trong hoạt động kinh tế bị đình trệ. Hoăc kìm chế chi tiêu trong thời kì
lạm phát. Khi chi tiêu chính phủ tăng, giảm thuế hay tăng cung tiền, tất cả đều tạo sẩn
phẩm hơn và vì vậy khuyến khích đầu tư.
Trong khi thực tế lại hoàn toàn ngược lại. Thị trường không đứng yên, nó không
ngừng biến động giữa hai đại lượng cung và cầu hàng hóa. Khi cung không đổi mà cầu
lại tăng thì lẽ đương nhiên giá hàng hóa sẽ phải tăng hay khi cung tăng cầu không đổi,
giá hàng hóa sẽ giảm xuống. Các sự tác động ấy sẽ kéo cung- cầu về vị trí cân bằng,
ổn định nền kinh tế. Về vấn đề tiền lương, khi cung hàng hóa tăng các nhà sản xuất
cần một lượng lớn sức lao động, lúc này tiền lương sẽ tăng. Ngược lại, khi cung hàng
hóa giảm làm giảm cầu về nguồn lao động dẫn tới tiền lương giảm. Nhưng đấy là sự
điều tiết khách quan của thị trường mà Keynes đã không nhìn ra khi quá kì vọng vào
bàn tay Nhà nước.


II. Câu hỏi mở.
Câu 1. Giá trị hàng hoá chính là sự phản ánh giá trị tiền tệ cũng nhƣ ánh sáng
mặt trăng là sự phản chiếu A/S mặt trời.
W.P( 1632 - 1687) là một trong những người sáng lập ra học thuyết kinh tế trường
phái cổ điển anh. Ông là người áp dụng phương pháp mới trong nghiên cứu khoa học

được gọi là phương pháp khoa học tự nhiên . W.Petty có công lao to lớn trong việc nêu
ra lí luận về giá trị lao động. Ông đã đưa ra các phạm trù về giá cả hàng hoá. Gồm giá
cả tự nhiên và giá cả chính trị. Tuy vậy lí thuyết giá trị lao động của ông còn nhiều hạn
chế, chưa phân biệt được các phạm trù giá trị giá cả và giá trị
ông tập trung nghiên cứu về giá cả một bên là hàng hoá, một bên là tiền tức là ông mới
chú ý nghiên cứu về mặt lượng. Ông chỉ giới hạn lao động tạo ra giá trị phụ thuộc lao
động khai thác vàng và bạc. Ông so sánh giá lao động khai thác vàng và bạc với lao
động khác, lao động khác chỉ tạo nên của cải ở mức độ so sánh với lao động tạo ra
tiền.
Như vậy W.Petty cho rằng lao động tạo ra tiền mới là lao động tạo ra giá trị nên giá trị
hàng hoá phụ thuộc vào giá trị của tiền, giá trị hàng hoá là sự phản ánh giá trị của tiền
tệ “ như ánh sáng mặt trăng là sự phản chiếu của ánh sáng mặt trời “ ông đã không
thấy được rằng tiền đo làm thời gian tách làm hai, một bên là hàng hoá thông thường,
một bên là tiễn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị.
* “ lao động là cha còn đất đai là mẹ của của cải” đây là luận điểm nổi tiếng trong lí
thuyết giá trị lao động của ông .
- Xét về mặt của cải (giá trị sử dụng) thì ông đã nêu lên được nguồn gốc của cải. Đó là
lao động của con người. Kết hợp với yếu tố tự nhiên. Điều này phản ánh TLSX để tạo
ra của cải
- Xét về phương diện giá trị thì luận điểm trên là sai. Chính Petty cho rằng giá trị thời
gian lao động hao phí quy định nhưng sau đó lại cho rằng 2 yếu tố xác định giá trị đó
là lao động và tự nhiên.
Ông đã nhầm lẫn lao động với tư cách là nguồn gốc của giá trị với lao động tư cách là
nguồn gốc của giá trị sử dụng. Ông chưa phát hiện được tính hai mặt của hoạt động
sản xuất hàng hoá đó là lao động cụ thể sản xuất lao động trừu tượng. Lao động cụ thể
tạo ra giá trị sử dụng còn lao động trìu tượng tạo ra giá trị.

Câu 2. W. Petty là nhà kinh tế học phản ánh bƣớc quá độ từ CNTT sang KTCT
từ cổ điển.
* Lý luận giá trị W.Petty

Trong tác phẩm bàn về thuế khoá và lệ phí (1662) W.Petty nghiên cứu về giá cả chia
giá cả thành hai loại giá cả tự nhiên và giá cả chính trị.
- Giá cả tự nhiên do hao phí lao động quy định và năng suất lao động có ảnh hưởng
đến mức hao phí đó. Giá cả tự nhiên là giá trị của hàng hoá. Như vậy ông là người đầu
tiên tìm thấy cơ sở của giá cả tự nhiên là lao động , thấy được quan hệ giữa lượng giá
trị và năng suất lao động * Kết luận: Số lượng lao động = nhau bỏ vào sản xuất là cơ
sở để so sánh giá trị hàng hóa, giá cả tự nhiên (giá trị), tỷ lệ nghịch với NS lao động
khai thác vàng và bạc
- Giá cả chính trị chính là giá cả thị trường của hàng hoá phụ thuộc vào nhiều yếu tố
ngẫu nhiên và khó xác định . CP lao động trong giá cả chính trị thường cao hơn chi phí
lao động trong giá cả tự nhiên .
- Tuy nhiên lí thuyết gt lao động của ông chịu ảnh hưởng của CNTT. Ông chỉ tập
chung nghiên cứu mặt lượng , nghĩa là nghiên cứu về giá cả một bên là hàng hóa, một
bên là tiền tệ. Ông giới hạn giả thiết đào tạo giá trị trọng lao động khai thác vàng và
bạc. Các loại lao động khác chỉ so sánh với lao động tạo ra tiền tệ. Giá trị hàng hoá là
sự phản ánh giá trị tiền tệ .
- Mặc dù bị ảnh hưởng của phái TT nhưng trong trường phái thị trường chỉ thoả mãn
với việc đơn thuần đưa ra những biện pháp kinh tế hay chỉ mưu tả lại những hiện
tượng kinh tế theo kinh nghiệm như W.Petty đã tiếp cận với các quy luật khách quan
=) nghiên cứu lĩnh vực sản xuất .
- Trong những t/y đầu tiên W.Petty còn mang nặng tư tưởng TT nhưng trong t/y cuối
cùng của ông thì không còn dấu vết của CNTT. Ông là người đầu tiên nhấn mạnh t/c
khách quan của những quy luật tác động trong XHTB

Câu 3. Ptty là ngƣời đặt nền móng cho giá trị lao động .
Trình bày lí luận giá trị lao động : Giá cả tự nhiên và giá cả chính trị (câu 2) - Ông là
người đầu tiên đã tìm thấy chỉ số của giá cả tự nhiên là lao động, thấy được quan hệ
giữa lượng giá trị và năng suất lao động (tỷ lệ nghịch )
-) Hạn chế mang nặng
- Lí luận này của ông đã được Ađam Smith kế thừa và phát triển ông đã đưa ra 1 nghị

định giá trị trao đổi là do lao động quyết định, giá trị là do hao phí lao động để sản
xuất ra hàng hoá quyết định. Đây là K/n đúng đắn về giá trị nhưng ông vấp phải vđ giá
cả sản xuất.
- Đến Ricando, ông đã phân biệt được hai thuộc tính của hàng hoá và đã đưa ra đủ lắt
đầy đủ :
“ giá trị của hàng hoá hay số lượng của một hàng hoá nào đó khác mà hàng hoá đó trao
đổi là do số lượng lao động tương đối cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó quyết định
“ông thấy rõ nguyên nhân của hàng hóa có giá trị trao đổi. Ông đã CáCH MạNG một
cách tài tình rằng giá trị hàng hoá giảm khi năng suất lao động tăng lên (dự đoán thiên
tài của W. Petty đã được ông luận chứng )
- Chỉ khi đến Ma rkitng mới phân biệt số 2 thuộc tính của hàng hoá đó là giá trị sử
dụng và giá trị có sự thống nhất biện chứng. Đây là chìa để khoá giải quyết một loạt
các vấn đề trong KINH Tế có.
Như vậy. W. Petty đã đặt nền móng cho hàng hoá giá trị. Từ những lí luận của ông ,
các nhà kinh tế học đã kế thừa và phát triển lí luận đó và khi được hoàn thiện bởi Ma
rk. đây là công lao to lớn của ông.

Câu 4.Ad. Smith là nhà lí luận giá trị lao động song lí luận giá trị của ông vẫn
chƣa đƣơc nhiều và sai lầm.
* Lí luận giá trị của Adam. Smith.
AdamSmith (1723- 1790) đã mở ra giai đoạn phát triển mới của sự phát triển các học
thuyết kinh tế. Ông đi sâu phân tích bản chất để tìm ra các quy luật sự vận động của
các hiện tượng và các quá trình kinh tế .
So với W.Petty và trường phái trọng nông, lý thuyết giả thiết lao động của A.Smith có
bước tiến đáng kể .
Cũng chỉ ra rằng tất cả các loại lao động sản xuất đều tạo ra giá trị . lao động là thước
đo cuối cùng của giá trị.
- Phân biệt rõ ràng giá trị sử dụng và giá trị trao đổi và kđịnh. Giá trị sử dụng không
quy định giá trị trao đổi. Ông bác bỏ quan điểm ích lợi quyết định giá trị trao đổi.
- Khi phân tích giá trị hàng hoá: Giá trị được biểu hiện ở giá trị trao đổi của hàng hoá

trong mối quan hệ với số lượng hàng hoá khác, còn trong nền sản xuất hàng hoá phát
triển nó được biểu hiện ở tiền.
- Ông chỉ ra lượng giá trị hàng hoá do lao động hao phí lao động trung bình cần thiết
quy định . Lao động giản đơn và lao động phức tạp ảnh hưởng khác nhau đến lượng
giá trị hàng hoá. Trong cùng một thời gian, lao động chuyên môn, phức tạp xẽ tạo ra
một lượng giá trị nhiều hơn so với lao động có chuyên môn hay lao động giản đơn.
- Phân biệt giá cả tự nhiên và giá cả thị trường : giá cả tự nhiên là biểu hiện = tiền của
giá trị. Ông khảng định hàng hoá được bán theo giá cả tự nhiên, nếu giá cả đó ngang
với mức cần thiết để trả cho tiền lương, địa tô, và lợi nhuận . Theo ông giá cả tự nhiên
là Truy tâm, giá cả thị trường là giá bán thực tế của hàng hoá giá cả này nhất trí với giá
cả tự nhiên khi được đưa ra thị trường với số lượng đủ “thoả mãn lượng cầu thực tế’’.
Giá cả tự nhiên có tính chất khách quan còn giá cả thị trường phụ thuộc vào những yếu
tố như quan hệ cung cầu và các loại quan hệ đường khác .
* Mâu thuẫn và sai lầm :
- Đưa ra hai định nghĩa :+ “giá trị toàn điểm là do lao động quy định, giá trị là do hao
phí lao động để sản xuất ra hàng hoá qđ”.
+ Giá trị của một hàng hóa = số lượng lao động mà nhờ hàng hoá đó có thể mua được .
-) Đây là điều sai lầm, luẩn quẩn của Ađam. Smith. Ông đã đưa vào hiện tượng, một
bên là chủ nghĩa lao động cho nhà tư bản, một bên là nhà tư bản trả lương cho công
nhân.
- Về cấu thành lượng giá trị hàng hoá : Theo ông trong sản xuất tư bản chủ nghĩa, tiền
lương, lợi nhuận và địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập, cũng như của
mọi giá trị tác động. A. Smith coi tiền lương, lợi nhuận và địa tô là nguồn gốc đầu tiên
của mọi thu nhập, đó là quan điểm đúng đắn. Song ông lại lầm ở chỗ coi các khoản thu
nhập là nguồn gốc đầu tiên của mọi giá trị tác động. Ông đã lẫn lộn hai vấn đề hình
thành giá trị và phân phối giá trị, hơn nữa, ông cũng xem thường tư bản bất biến â; coi
giá trị có (v+m)

Câu 5. A. Smith đã sai lầm trong quan niệm về cơ cấu giá trị, rica.rdo đã khắc
phục và sửa chữa sai lầm đó nhƣng vẫn chƣa triệt để.

- Nêu lí luận của A. Smith về cơ cấu giá trị (câu trên)
Hạn chế: chỉ có v+m, không có c.
- David. Ricardo đã gạt bỏ tính không triệt để, không nhất quan điểm về các xác định
giá trị của A. Smith ( giả thiết bàng lao động mua được ). D. Ricardo kiên định với
quan điểm: lao động là nguồn gốc giá trị, công lao to lớn của ông đã được đứng trên
quan điểm đó để xác định lí luận khoa học của mình. Đồng thời ông cũng phê phán A.
smith cho rằng giá trị là do các nguồn gốc thu nhập hợp thành. Theo ông giá trị hàng
hoá không phải do các nguồn thu nhập hợp thành mà ngược lại được phân thành các
nguồn thu nhập.
Về cơ cấu giá trị hàng hóa, ông cũng có ý kiến khác với sai lầm giáo diễn của A.Smith
bỏ c ra ngoài giả thiết hàng hoá. Ông cho rằng : giả thiết hàng hoá không chỉ do lao
động trực tiếp tạo ra mà còn là lao động cần thiết trước đó nữa như máy móc, nhà
xưởng ( tức ông chỉ biết có C1 - chỉ có đến Mã mới hoàn chỉnh được công thức tính
giả thiết hàng hoá = c+vm.
- Ricardo đã có những nhận xét tiến gần đến lợi nhuận lq, ông cho rằng những tư bản
có đại lượng = nhau thì đem lại lợi nhuận như nhau. Nhưng cũng không chứng minh
được vì ông hiểu được giá cả sản xuất. Theo ông sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị là
ngoại lệ, trên thực tế chỉ có giá trị chứ không có giá cả sản xuất. Mã đã chỉ ra cơ cấu lẻ
háo giá trị thặng dư thành lợi nhuận bg và giá trị hàng hoá thành giá cả sản xuất trong
điề kiện tự do cạnh tranh. Từ đó Mã đã giải quyết được nhiều vấn đề mà các nhà kthh
trước không vượt qua được.

Câu 6. Theo A. Smith tiền lƣơng, lợi nhuận, địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của
mọi thu nhập và cũng là ba nguồn gốc đầu tiên của mọi giá trị thời điểm.
=) xem câu 4.

Câu 7. Keynes là ngƣời sáng lập ra lí thuyết kinh tế vĩ mô hiện đại. Dùng lí thuyết
việc làm để chứng minh.
- Theo Keyne, vấn đề quan trọng nhất, nguy hiểm nhất đối với chủ nghĩa tư bản là khối
lượng thất nghiệp và việc làm. Vì vậy vị trí trung tâm trong lí thuyết kinh tế của ông là

“ lí thuyết việc làm”. lý thuyết của ông đã mở ra cả một gia đình mới trong tiến trình
phát triển lí luận kinh tế tư bản ( cả về chức năng tư tưởng lẫn thực tiễn ). Trong đó
phải kể đến lí thuyết kinh tế vĩ mô, về hệ thống điều tiết của đường Nhà nước, ông
biểu hiện lợi ích và là công trình sư của chủ nghĩa tư bản đường Nhà nước.
- Đặc điểm nổi bật của học thuyết Keynes là đưa ra phương pháp phân tích vĩ mô.
Theo ông việc phân tích kinh tế phải xuất phát từ những các mọi lượng lớn để tìm ra
công cụ tác động vào khuynh hướng, làm phát triển mọi lượng.
- Keynes đưa ra mô hình kinh tế vĩ mô với mọi đại lượng
+ Đại lượng xuất phát: không phát triển hoặc phát triển chậm( như các nguồn v/c: TL
sản xuất, số lượng slđ, trình độ chuyên môn hoá của chủ nghĩa, cơ cấu chế độ xã hội )
+ Đại lượng khả biến độc lập: những khuynh hướng tâm lí ( tiết kiệm, tđ, đầu tư )
nhóm này là cơ sở hoạt động của mô hình,là đòn bảy cho sự hoạt động của các tổ chức
kinh tế.
+ Đại lượng khả biến phụ thuộc vào: cụ thể hoá tình trạng của nền kinh tế ( số lượng,
quản gia, thu nhập quân dân.)
R= c+s
Q= c+I I=S
R= Q
 việc điều tiết vĩ mô nhằm giải quyết việc làm, tăng thu nhập đòi hỏi tăng I, giảm S.
Có như vậy mới giải quyết được khối lượng thất nghiệp.
* Lí thuyết về việc làm của Keynes
Khi việc làm phát triển lên thì thu nhập thực tế phát triển -) phát triển tiêu dùng nhưng
tốc độ phát triển tiêu dùng chậm hơn tốc độ phát triển thu nhâp nên có khuynh hướng
tiết kiệm một phần thu nhập. Do đó các doanh nghiệp xẽ bị thua lỗ nếu sử dụng toàn
bộ số lượng lao động tăng thêm. Nếu muốn khắc phục tình trạng này cần phải kích
thích quần chúng tiêu dùng thêm phần tiết kiệm của họ, và cần phải có một lượng tái
bản đầu tư để kích thích các chủ doanh nghiệp sử dụng số lượng lao động phát triển
thêm. Khối lượng tái bản đầu tư phụ thuộc vào sở thích đầu tư của nhà kinh doanh mà
sở thích đầu tư phụ thuộc vào hiệu quả giới hạn của TB (hiệu quả giới hạn của TB có
xu hướng giảm đến khi bằng lãi suất ) do đó để phân tích lí thuyết chung về việc làm

phải sáng tỏ các lí thuyết về khuynh hướng tiêu dùng, hiệu quả giới hạn của TB.
- Khuynh hướng tiêu dùng giới hạn:
* Khuynh hướng tiêu dùng phụ thuộc vào : thu nhập, nhân tố khách quan ảnh hưởng
tới thu nhập sự hoạt động phát triển tiền cùng danh nghĩa, sự phát triển chênh lệch
giữa thu nhập với thu nhập vậy những nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến khuynh hướng
như dự phòng dùng cho tương lai.
+ Khuynh hướng tiết kiệm phụ thuộc vào : động lực kinh doanh, động lực tiền mặt,
động lực cải tiến và động lực thận trọng về tài chính.
-) Khuynh hướng sử dụng giới hạn là khuynh hướng phân chia thu nhập tăng thêm
cho tiêu dùng -ký hiêụ dc/ dR =)
khuynh hướng này có su hướng giảm dần nghĩa là cùng với sự tăng lên của thu nhập
thì tiêu dùng tăng lên nhưng với tốc độ chậm hơn, vì phần thu nhập tăng thêm đem
phân chia cho tiêu dùng ít hơn. Từ đó tạo khoảng cách giữa tiêu dùng và thu nhập đó
là tiết kiệm. Khi đó khuynh hướng tiêu dùng giới hạn giảm dần còn khuynh hướng tiết
kiệm giới hạn tăng dần -) sự thiếu hụt cần tác động là xu hướng vĩnh viễn của mọi nền
sản xuất =) gây ra khủng hoảng, thất nghiệp.
- Lãi suât và hiệu quả giới hạn của tư bản.
+ Lãi suất của sự trả công cho số tiền vay. Nó là phần thưởng cho “sở thích chi tiêu tư
bản” trong nền kinh tế, lãi suất tỷ lệ nghịch với số lượng tiền cần thiết trong lưu thông
( i tăng, I giảm).
+ Theo đã tăng lên của vốn đầu tư thì “ hiệu quả của tư bản “ sẽ giảm dần và nó được
gọi là “hiệu quả giới hạn của tư bản “ “ vậy hiệu quả giới hạn tư bản” là quan hệ giữa
phần lời triển vọng được đảm bảo bằng đơn vị bổ sung của tư bản và cỏ phần để sản
xuất ra đơn vị đó.
- Số nhân đầu tư : số nhân là tỉ số giữa tốc độ tăng thu nhập và tăng đầu tư. Nó xử
dụng sự gia tăng đầu tư để làm cho gia tăng thu nhập lên bao nhiêu lần.
Nếu dR: gia tăng thu nhập
DI: gia tăng đầu tư
K: số nhân
=)K= dR/dI vì ds=dI

=) K= dR/dI = dR/dS= dR/dr
dR/dR-dC/dR
1=
1-dC/dR
-) Mô hình số nhân phản ánh quan hệ giữa gia tăng thu nhập với gia tăng đầu tư theo
Keynesmỗi sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo sự gia tăng của cầu bổ sung cung, cầu
về TLSX. Do vậy làm tăng cầu tiêu dùng, tăng giá hàng, tăng việc làm cho công nhân.
Tất cản điều đó làm cho thu nhập tăng lên. Đến lượt nó, tăng thu nhập lại là tiền đề cho
tăng đầu tư mới.
* Các trường phái nhấn mạnh vai trò của Nhà nước.
- CNTT: Khi chủ nghĩa tư bản mới ra đời, tài sản đã dựa vào Nhà nước để tích luỹ vốn
vì Nhà nước nắm đường về ngoại thương, đề ra luật lệ, c/s, kiểm soát buôn bán giúp ts
thu được lợi nhuận từ hoạt động ngoại thương .
- Học thuyết của Keynes: trước cuộc khủng hoảng 29-33 -) đưa ra vai trò tất yếu của
Nhà nước. Nhà nước trong các c/s vĩ mô sẽ khắc phục khủng hoảng, ổn định tăng kinh
tế -) nhấn mạnh vai trò của Nhà nước.
- Chủ nghĩa tự do Kinh Tế : Nhà nước chỉ can thiệp vào kinh tế ở một mức độ nhất
định
VD: Nền kinh tế ở Đức, Nhà nước can thiệp theo hai nguyên tắc: hỗ trợ và tương hợp.
- Samuelson: coi trọng cả cơ chế tập thể và Nhà nước: Nhà nước phải có chức năng
can thiệp điều tiết kinh tế nhưng tôn trọng quy luật kinh tế kết quả của kinh tế tập thể.

Câu 8. Vai trò của Nhà nƣớc trong nền kinh tế hỗn hợp của Samuelson.
- Nguyên nhân: cơ chế tập thể tồn tại những khuyết tật vốn có như ô những MT mà
doang nghiệp không phải trả giá cho sự huỷ hoại đó, những thất bại thị trường do
đường gây ra, tệ nạn như khủng hoảng, thất nghiệp, phương pháp thu nhập bất bình
đẳng do hệ thống thông tin mang lại-) cần có sự can thiệp của Nhà nước
* Vai trò: 4 chức năng chính.
1. Thiết lập khuôn khổ PL: Cp đề ra các quy tắc trò chơi kinh tế mà các doang nghiệp,
người tiêu dùng và cả bản thân CP cũng phải tuân thủ. Bao gồm quy định về tài sản ,

quy tắc về hợp đồng, và hoạt động kinh doang trách nhiệm và cả những quy định trên
nhiều lĩnh vực khác nhau , đó là những nguyên tắc sử sự chuộc lỗi mọi người phải tuân
theo.
2. Sửa chữa những thất bại của tập thể để tạp thể hoạt động có hiệu quả:
- Sự can thiệp của CP để hạn chế đường, đảm bảo tích hiệu quả của cạnh tranh tập thể
- Nhà nước tác động bên ngoài cùng dẫn đến tính không hiệu quả của các hoạt động thị
trường và đòi hỏi Nhà nước phải can thiệp. Tác động bên ngoài xảy ra khi doanh
nghiệp hoặc con người tạo ra chi phí lợi ích cho doang nghiệp khác hoặc người khác
mà các doanh nghiệp hoặc các con người đó không nhận được đúng số tiền cần được
trả hoặc không phải trả.
- Cần phải đảm bảo việc sản xuất các hàng hoá công cộng. Tư nhân thường không
muốn sản xuất hàng hóa công do lợi ích giới hạn thu được là rất nhỏ, mà có nhiều hàng
hóa công cộng có ý nghĩa với Qgiá như Qp, Lp trật tự trong nước nếu không thể giao
cho tư nhân được. Do đó cổ phẩn phải sản xuất hàng hóa công cộng.
3. Đảm bảo sự công bằng :
Sự phân hoá, bất bình đẳng sinh ra từ cơ chế tập thể là tất yếu. CP phải thông qua cs
phân phối thu nhập,công cụ quan trọng nhất của Nhà nước là thuế luỹ tiến và lưới an
toàn bảo vệ người không may khỏi bị huỷ hoại về kinh tế. Đôi khi cp trợ cấp tiêu dùng,
trợ cấp thất nghiệp.
4. ổn định kinh tế vĩ mô: vấn đề nan giải cơ bản của kinh tế vĩ mô là : không nước nào
trong một thờ gian dài có thể được kinh doang tự do, lạm phát thất nghiệp và việc làm
đầy đủ. Nền kinh tế luôn gặp khủng hoảng chu kì. Do đó cp = bằng các công cụ vĩ mô
như c/s tài khoá, tiền tệ sẽ góp phần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô =) vai trò : duy
trì tăng trưởng ổn định, kiềm chế lạm phát.
+ Nhược điểm của bàn tay hữu hình đó là đường, bảo thủ trì trệ, có những khi sai lầm
về đường lối. Do vậy phải kết hợp cả hai cơ chế tập thể xác định giá cả sản lượng,
trong khi đó cổ phần điều tiết tập thể bằng các chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ.

Câu 9.Thời kì tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tƣ bản cũng là thời kì thống trị
của CNTT

- CNTT là hệ thống quan điểm tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản, mà trước
hết là tầng lớp tư sản thương nghiệp. Nó ra đời trong thời kì tan ra của PTSX phong
kiến. Đó là thời kì chuyển từ nền kinh tế giản đơn sang nền kinh tế hàng hoá tư bản
chủ nghĩa hay còn gọi là thời kì tích luỹ nguyên thuỷ tư bản.
- Thời kì tích luỹ nguyên thuỷ tư bản chủ nghĩa là thời kì tạo ra những tiền đề cho sự
ra đời của PTSX tư bản chủ nghĩa. K. Mã đã chỉ ra rằng để cho chủ nghĩa tư bản ra đời
thì phải cần có hai điều kiện đó là + Tích luỹ được một lượng tiền nhất định để trở
thành tư bản.+ Phải giải phóng được số lượng để trở thành hàng hoá slđ=) quan trọng
Hai tiền đề này có từ khi kinh tế hàng hoá ra đời , nhưng sự ra đời của nó rất chậm
chạp vì vậy khi giai cấp tư sản ra đời nó sử dụng phương pháp bạo lực như tước đoạt
những người sản xuất nhỏ, buôn bán nô lệ da đen Để thúc đẩy nhanh chóng sự ra
đời của hai tiền đề trên yêu cầu tập thể của thời kì này là sự ra đời của chủ nghĩa tập
thể, bởi lẽ thương nghiệp mang lại cho giai cấp tư sản nhiều lợi nhuận. Đặc biệt trong
thời kỳ này vơí những phát kiến địa lí đã làm thúc hoạt động ngoại thương từ đó cho
thấy sự quan trọng của hoạt động ngoại thương.
=) Đòi hỏi có học thuyết như vậy =) CNTT thống trị trong thời kì tích luỹ nguyên thuỷ
TB.
=) Vậy vấn đề tích luỹ tiền có ý nghĩa cực kì quan trọng cho sự ra đời của CNTB
CNTT là nhân chứng đầu tiên cho. Hãy tích luỹ nguyên thuỷ tư bản chủ nghĩa.
* Hạn chế và vai trò của CNTT.
- Nhà nước luận điểm của CNTT có rất ít g/c lí luận và thường được nêu lên dưới hình
thức lời khuyên thực tiễn về c/s kinh tế, lí luận mang nặng t/c kinh nghiệm, =) khó trở
thành lí luận chung được.( thiếu tính khoa học )
- CNTT chỉ bám sâu ở lĩnh vực lưu thông mà chưa đi sâu vào lĩnh vực sản xuất những
kết luận cho rằng “tích luỹ tiền tệ phải thông qua hoạt động thương mại, còn hàng hoá
chỉ là phương tiện làm tăng địa vị tiền tệ” là sai lầm vì lưu thông chỉ là một khâu trong
quá trình sản xuất, nên chủ nghĩa tập thể chỉ đến được cái vỏ bên ngoài mà chưa đi sâu
nội dung bên trong. Họ chưa thấy phải qua sản xuất mới có lợi nhuận.
- Trong lúc đánh giá cao ngthg, họ đánh giá thấp vai trò Nhà nước và chủ nghĩa. Coi
như ngành trung gian, chủ nghĩa không phải là nguồn gốc của cải (trừ chủ nghĩa khai

thác vàng, bạc)
- Họ chưa thấy được những quy luật kinh tế khách quan thống trị trong đời sống kinh
tế.
* Vai trò/s : Mặc dù chưa biết đến quy luật kinh tế và còn hạn chế về tính lí luận,
nhưng hệ thống quan điểm kinh tế của trường phái TT đã tạo ra những tiền đề lí luận
kinh tế xã hội cho các lí luận kinh tế tập thể sau này biểu này ở chỗ họ đưa ra quan
điểm: sự giàu có không phải là ở gtsd mà là tiền. Tư tưởng Nhà nước can thiệp pkt=)
sau này vận dụng.
- Đối với tập thể : chỉ ra biện pháp cho giai cấp tư sản tích luỹ được vốn sâm nhập vào
lực lượng sản xuất. Muốn tích luỹ được vốn thì phải làm kinh tế, hơn nữa trong cơ chế
tập thể phải tăng cả nội thương, lẫn ngoại thương

Câu10. Monchetien “nội thƣơng” một hệ thống ống dẫn, ngoại thƣơng máy bơm.
Muốn tăng của cải phải có ngoại thƣơng nhập dẫn của cải qua nội thƣơng.
- Tập thể của chủ nghĩa tập thể đó là họ coi trọng tiền tệ, họ coi tiền tệ như là thước đo
tiêu chuẩn của sự giàu có và mọi sự hùng mạnh của một quốc gia. Do đó mục đich
kinh tế của mỗi nước đó là phải tăng kl tiền tệ. Nhà nước càng nhiều tiền thì càng giàu
có; họ coi hàng hoá chỉ là phương tiện tăng kl tiền tệ. Họ coi tiền là đại b duy nhầt của
của cải, tiêu chuẩn để đánh giá mọi hinh thức hành nghề hoạt động nghề nghiệp,
những hoạt động nào mà không dẫn đến tích luỹ tập thể là hoạt động không có lợi,
hoạt động tiêu cực. Họ coi nghề nông là một nghề trung gian những hoạt động tích cực
và tích cực vì nghề nông không làm tăng hay giam của cải, hoạt động chủ nghĩa thì
không thể là nguồn gốc của cải ( trừ chủ nghĩa khai thác vàng bạc ) do đó nội thương
chỉ có tác dụng di chuyển của cải trong nước chức không thể làm tăng của cải trong
nưóc.
- Khối lượng tiền tệ chỉ có thể gia tăng = con đường ngoại thương. Trong hoạt động
ngoại thương phải thực hiện c/s xuất siêu( xuất nhiều, xuất ít) Học thuyết trọng thương
cho rằng lợi nhuận tạo ra cho lĩnh vực lưu thông nó là kết quả việc mua ít bán nhiều,
mua rẻ bán đắt mà có v.
=) Ngoại thương là động lực tăng kinh tế chủ yếu của một nước, không có ngoại

thương không thể tăng được của cải . Ngoại thương được ví như máy bơm đưa lượng
tiền nước ngoài vào trong nước
=) Quan điểm này đánh giá cao ngoại thương xem nhẹ nội thương vì ông chỉ chú ý đến
lĩnh vực lưu thông (T-H-T) mà chưa hiểu được toàn bộ quá trình sản xuất và bước
chuyển của việc tạo ra lợi nhuận đó là do gt sản xuất =) giải pháp số một là tăng cả nội
thương và ngạoi thương.
- Tích luỹ tiền tệ chỉ thực hiện được dưới sự giúp đỡ của Nhà nước. Nhà nước nắm độc
quyền về ngoại thương, thông qua việc tạo điều kiện pháp lí cho công ty thương mại
độc quyền buôn bán với nước ngoài.

Câu 11. “Thƣơng mại là hòn đá thử vàng để thử sự phồn thịnh của một quốc gia,
không có phép nào để kiếm tiền trừ thƣơng mại”
*Hoàn cảnh ra đời:
- Ra đời trong giai đoạn thể kỉ XVII - giai đoạn học thuyết về bảng cân đối thương
mại. Đại biểu điển hình là Thomas Mun (1571- 1641). Giám đốc công ty Đông ấn.
Hoạt động của công ty này đã dẫn đến việc xuất khẩu rất nhiều kim khí, điều mà học
thuyết tiền tệ phản đối ( học thuyết tiền tệ giữ để lượng tiền không ra nước ngoài )
- Bảng cân đối thương mại “ chúng ta phải giữ vững nguyên tắc là hàng năm bán cho
người nước ngoài lượng hàng hoá lớn hơn số lượng chúng ta phải mua vào của họ để
đạt được sự cân đối đó ông khuyên mở rộng cơ sở cho công nhân, thu hẹp tiêu dùng
quá mức hàng tiêu dùng của nước ngoài, đẩy mạnh cạnh tranh =) hạ giá thành, nâng
cao chất lượng hàng hoá Anh. Theo quan điểm của ông việc xuất khẩu tiên nhằm mục
đích buôn bán là chính đáng. Bởi vì “ vàng đẻ ra thương mại, còn thương mại làm ra
tiền tăng lên” tình trạng tiền thừa thãi trong nước là có hại, làm cho giá cả hàng hoá
tăng cao.
* Nhận xét
- Đúng: trong điều kiện phát triển kinh tế : Vận dụng như nước ta hiện nay.
- Sai: chưa đề cập đến quá trình sản xuất (giống cầu trên)
*ý nghĩa: Đối với nước ta trong điều kiện kinh tế tích luỹ vốn hiện nay cần tăng
thương mại, còn về lâu dài cần tăng sản xuất (giống câu 11)


Câu 12. “ Khối lƣợng tiền tệ chỉ có thể gia tăng bằng con đƣờng ngoại thƣơng,
trong họat động ngoại thƣơng phải thực hiện cs xuất siêu”
- Để có thể tích luỹ tiền tệ phải thông qua hoạt động thương mại, trước hết là ngoại
thương. Trong ngoại thương phải thực hiện xuất siêu, tiền sinh ra trong lưu thông, qua
trao đổi không ngang giá (quan điểm của chủ nghĩa tập thể).
- Bảng cân đối thương mại. Trong buôn bán thương mại phải đảm bảo xuất siêu để có
chênh lệch tăng tích luỹ tiền, T.Mun viết: “Chúng ta phải thường xuyên giữ vững
nguyên tắc là hàng năm bán cho người nước ngoài số lượng hàng hoá lớn hơn số
lượng hàng hoá chúng ta phải mua của họ”.
Nếu H1- T- H2=) H1>H2
T1- H - T2=) T1>T2
- Để có xuất siêu họ cho rằng chỉ xuất siêu thành phẩm chứ không xuất khẩu nguyên
liệu, thực hiện thương mại trung gian, mang tiền ra nước ngoài để mua rẻ ở nước này
bán đất ở nước khác, thực hiện c/s thuế qun bảo hộ, nhằm kiểm soát hàng hoá nhập
khẩu, khuyên khích tăng hàng hoá xuất khẩu.
- Quan điểm này cũng sai lầm vì chỉ tăng.
- Chỉ dùng trong điều kiện tăng kinh tế

Câu 13. Học thuyết về sản phẩm thuần tuý của phái trọng nông
- Đây là lí thuyết trọng tâm của trường phái trọng nông.
- “ Sản phẩm thuần tuý là số chênh lệch giữa hai sản phẩmvà chi phí sản xuất. Nó là số
dõi ra ngoài chi phí sản xuất. Nó được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp”
- Những người trọng nông cho rằng “ chủ nghĩa không tạo ra sản phẩm thuần tuý” theo
T.Ques ney có hai nguyên tắc hình thành giá trị tương ứng với hai lĩnh vực chủ nghĩa
và Nhà nước.
+ Trong lĩnh vực Nhà nước, giá trị hàng hóa = mọi cp, bao gồm, cp về hạt giống, cp về
súc vật cầy kéo, tiền lương công nhân, tiền lương nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp,
cp bổ xung của TBTN cộng với sản phẩm thuần tuý. Như vậy, sản phẩm thuần tuý chỉ
tạo ra trong lĩnh vực Nhà nước

+ Trong lĩnh vực công nhân, giá trị hàng hóa = mọi cp, bao gồm cp về nguyên liệu,
tiền lương công nhân, tiền lương nhà tư bản công nghiệp và cp bổ xung của TBTN=)
không tạo ra sản phẩm thuần tuý.
Nguyên nhân:
+ Trong công nhân: Quá trình tạo ra sản phẩm mới chỉ là quá trình kết hợp giản đơn
những nguyên tố cũ mà không có sự tăng thêm về chất nên không tạo ra sản phẩm
thuần tuý.
+ Trong Nhà nước: Nhờ có sự tác động của tự nhiên nên có sự tăng thêm về chất , tạo
ra chất mới -) tạo ra sản phẩm thuần tuý.
VD: Khi reo một hạt lúa -)trổ bông
-) cho hàng chục hạt lúa mới. Đó là sự tăng thêm về chất và như vậy chỉ có lĩnh vực
nhà nước mới tạo ra sản phẩm thuần tuý.
- Công lao của Quesney là đã cho rằng sản phẩm thuần tuý được tạo ra trong những
ngành nông nghiệp nghĩa là ông cũng đã gắn việc tìm tòi sản phẩm thuần tuý với lĩnh
vực sản xuất ( khác với chủ nghĩa tập thể là trong lĩnh vực lưu thông)=) đặt vấn đề một
cách khoa học .
- Tuy nhiên chưa giải quyết triệt để:
- Phái trọng nông đã giải thích của cải theo kiểu tự nhiên chủ nghĩa( trường phái tự
nhiên) và đã thụt lùi một bước so với CNTT. Phái trọng nông đã tầm thông hoá khái
niệm của cải, không thấy được tính chất hai mặt của nó “hiện vật và giá trị”.

×