TRƯỜNG ……………….
KHOA………………..
----------
SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN TÁI SẢN XUẤT XÃ
HỘI DO MÁC THỰC HIỆN TRONG LỊCH SỬ
CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ VỚI VIỆC NHẬN
THỨC VẤN ĐỀ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ HIỆN
NAY
1
SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN TÁI SẢN XUẤT XÃ HỘI DO MÁC THỰC
HIỆN TRONG LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ VỚI VIỆC
NHẬN THỨC VẤN ĐỀ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ HIỆN NAY
Phạm Nguyễn Ngọc Anh – Học viện chính trị
MỞ ĐẦU
Xã hội không thể ngừng tiêu dùng, nên không thể ngừng sản xuất. Do vậy,
bất cứ quá trình sản xuất xã hội nào, nếu xét theo tiến trình đổi mới không ngừng
của nó, chứ không phải xét theo hình thái từng lúc, thì đồng thời đều là quá trình
tái sản xuất. Trong lịch sử tư tưởng kinh tế của nhân loại đã có nhiều nhà kinh tế
đề cập đến tái sản xuất xã hội. Tiêu biểu phải kể đến đó là nhà kinh tế người
Pháp F.Quesnay với “biểu kinh tế F.Quesnay” nổi tiếng; Adam.Smith cũng để
lại trong lịch sử tư tưởng kinh tế những đóng góp nhất định về tái sản xuất;David
Ricardo với “lý thuyết thực hiện”; đại biểu kinh tế cổ điển cuối cùng của Pháp
J.Sismondi người đã đưa ra những lời cảnh báo về sản xuất thừa và khủng hoảng
kinh tế…Tuy nhiên người đã tạo nên bước ngoặt cách mạng, khoa học trong
kinh tế chính trị nói chung và trong lý luận về tái sản xuất nói riêng không ai
khác đó chính là Các Mác. Nhà lý luận kiệt xuất của nhân loại đã có những phát
kiến và dự báo thiên tài với những lập luận sắc bén, khoa học, Người đã chứng
minh quá trình khủng hoảng kinh tế dưới Chủ nghĩa tư bản là một tất yếu khách
quan, từ đó vạch ra bản chất và sự tất yếu diệt vong của Chủ nghĩa tư bản – điều
mà các nhà lý luận nói chung và các nhà kinh tế chính trị nói riêng trước đó
không làm được, hoặc không thoát ra được gánh nặng giai cấp của mình.
Vào ngày 5-11-2008, trong lúc viếng thăm trường Kinh tế Luân Đôn
(London School of Economics) nổi tiếng, nữ hoàng Anh Elizabeth II hỏi các nhà
kinh tế hiện diện: “Tại sao không ai tiên đoán được cuộc khủng hoảng tín dụng
2
hiện nay?”. Thật ra câu hỏi của nữ hoàng Anh cũng là câu hỏi của hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Nhân loại vừa mới trải qua những ngày
đen tối có tính chu kỳ.
Một lần nữa nghiên cứu lý luận tái sản xuất trong lịch sử tư tưởng kinh tế
để có cái nhìn khách quan, toàn diện với cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay. Với chút ít
tham vọng đó tác giả chọn chủ đề : “Sự phát triển lý luận tái sản xuất xã hội do Mác thực hiện
trong lịch sử các học thuyết kinh tế với việc nhận thức vấn đề khủng hoảng kinh
tế hiện nay” làm nội dung thu hoạch môn học của mình.
NỘI DUNG
Như đã trình bày, trong dòng chảy của lịch sử tư tưởng kinh tế đã có nhiều
trường phái, nhà kinh tế đề cập đến tái sản xuất xã hội. Đây chính là những tiền
đề về mặt lý luận cho Các Mác kế thừa và phát triển học thuyết về tái sản xuất xã
hội của mình.
Sự phát triển kinh tế vào nửa cuối thế kỷ XVIII ở Châu Âu được chuyển
dần trọng tâm sang sản xuất, vai trò của thương nghiệp bị giảm sút, các lý thuyết
của chủ nghĩa trọng thương bị mất sức thuyết phục, làm xuất hiện cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa trọng thương. Trong điều kiện đó, ở nước Anh ra đời kinh tế
chính trị tư sản cổ điển, còn ở nước Pháp ra đời trường phái trọng nông hay chủ
nghĩa trọng nông, thường gọi là kinh tế chính trị tư sản cổ điển Pháp. Đại biểu
tiêu biểu cho trường phái trọng nông của Pháp đó chính là F.Quesnay – người đã
đặt những viên gạch đầu tiên trong việc xây dựng nên lý luận về tái sản xuất.
Học thuyết này được trình bày tập trung trong “Biểu kinh tế”(1752) và “Phân
tích biểu kinh tế” (1766). Lần đầu tiên trong lịch sử kinh tế chính trị F.Quesnay
đã phân tích quá trình tái sản xuất tư bản xã hội trong một sơ đồ khái quát, giản
đơn nhưng có sức tổng hợp cao, vô số những hành vi lưu thông cá biệt được tổng
hợp lại thành một sự vận động phổ biến (quy luật) có tính chất xã hội. Các Mác
đánh giá rất cao “Biểu kinh tế”, coi đó là tư tưởng thiên tài
3
Để nghiên cứu tái sản xuất trên quy mô toàn xã hội F.Quesnay đã áp dụng
khá thành công phương pháp trừu tượng hóa khoa học. “Biểu kinh tế” được
nghiên cứu trên những giả định sau:
- Chỉ nghiên cứu tái sản xuất giản đơn, bởi như Mác phân tích sau này
nghiên cứu tái sản xuất giản đơn là nghiên cứu yếu tố hiện thực của tích lũy, của
tái sản xật mở rộng
- Lấy tư bản hàng hóa làm điểm xuất phát, sau này Các Mác cũng đã làm
như vậy
- Không tính đến biến động về giá cả ( giá cả bằng giá trị)
- Không tính đến ngoại thương, đây là giả định cần thiết mà sau này
J.Sismondi và phái dân túy Nga đã không hiểu khi phân tích lý luận tái sản xuất
- Tái sản xuất là quá trình thực hiện tổng sản phẩm xã hội cả về hiện vật
và giá trị. Quá trình lưu thông sản phẩm gắn với lưu thông tiền tệ, tiền tệ trở về
điểm xuất phát ban đầu khi hết một chu kỳ tái sản xuất.
- Trao đổi tổng sản phẩm xã hội là sự trao đổi giữa ba giai cấp: Giai cấp sở
hữu, giai cấp sản xuất, giai cấp không sản xuất
- Giá trị tổng sản phẩm xã hội gồm 7 tỷ Frăng, trong đó 5 tỷ là sản phẩm
nông nghiệp, 2 tỷ là sản phẩm của giai cấp không sản xuất. Trong 5 tỷ sản phẩm
nông nghiệp có :( 1 tỷ để bù đắp tư bản ứng trước đầu tiên, 2 tỷ để bù đắp khoản
ứng ra hằng năm, 2 tỷ sản phẩm thuần túy nộp cho giai cấp sở hữu )
- Trong 2 tỷ sản phẩm công nghiệp có ( 1 tỷ bù đắp hao phí nguyên vật
liệu, 1 tỷ bù đắp tư liệu tiêu dùng)
- Để lưu thông 7 tỷ sản phẩm trên, giai cấp sản xuất có 2 tỷ tiền mặt với tư
cách là tiền tô để trả cho giai cấp sở hữu
4
“ Biểu kinh tế” của F.Quesnay phân tích quá trình vận động của tổng sản
phẩm xã hội trong tái sản xuất giản đơn được thể hiện thông qua 5 hành vi:
+ Hành vi 1: Giai cấp sở hữu dùng một tỷ tiền tô để mua nông phẩm của
giai cấp sản xuất, vậy là một tỷ nông phẩm ra khỏi lưu thông và đi vào tiêu dùng
của giai cấp sở hữu
+ Hành vi 2: Giai cấp sở hữu dùng một tỷ tiền tô còn lại để mua một tỷ
hàng công nghệ của giai cấp sản xuất, vậy là một tỷ trong hai tỷ sản phẩm công
nghiệp đi vào tiêu dùng của giai cấp sở hữu.
+ Hành vi 3: Sau khi nhận một tỷ tiền của giai cấp sở hữu, giai cấp không
sản xuất đem tiến đó mua tư liệu sinh hoạt ( nông phẩm) của giai cấp sản xuất.
Như vậy giai cấp sản xuất đã thực hiện được 2/5 số sản phẩm của mình.
+ Hành vi 4: Giai cấp sản xuất dùng một tỷ tiền vừa thu được để mua
TLSX của giai cấp không sản xuất, vậy là giai cấp không sản xuất đã thực hiện
xong hai tỷ công nghệ phẩm
+ Hành vi 5: Giai cấp không sản xuất dùng một tỷ tiền vừa nhận được để
mua nguyên liệu của giai cấp sản xuất.
Kết quả 5 hành vi trên là giai cấp sản xuất đã bán được 3 tỷ nông phẩm, 2
tỷ còn lại dùng để bù đắp chi phí hằng năm( tư bản lưu động) và thu về được 2 tỷ
tiền mặt để trả cho giai cấp sở hữu với tư cách tiền tô. Và như vậy quá trình tái
sản xuất năm sau đã đầy đủ các yếu tố để diễn ra một cách trôi chảy…
“Biểu kinh tế” được đánh giá là một trong những cống hiến to lớn đối với
lịch sử tư tưởng kinh tế của nhân loại. khi nhận xét về “Biểu kinh tế” C.Mác đã
khẳng định những công lao to lớn của F.Quesnay đó là:
5
- Đã sử dụng khá thành thạo phương pháp trừu tượng hóa khoa học. Đã
đưa ra những giả định cơ bản là đúng vì chỉ trên cơ sở những giả định đó mới
nghiên cứu quá trình tái sản xuất tư bản xã hội
- Đã phân tích sự vận động của tổng sản phẩm xã hội trên cả hai mặt giá
trị và hiện vật, nghiên cứu sự vận động của sản phẩm kết hợp với sự vận động
ngược chiều của tiền tệ.
- Phân tích sự lưu thông tiền tệ phải theo quy luật tiền bỏ vào lưu thông
phải quay về điểm xuất phát ban đầu, vì nếu tiền không quay về điểm xuất phát
ban đầu thì quá trình tái sản xuất sẽ không diễn ra
Mặc dù có những đóng góp to lớn cho sư phát triển của khoa học kinh tế
song “Biểu kinh tế” của F.Quesnay cũng còn bộc lộ một số hạn chế :
- Gán cho giai cấp sở hữu một chức năng kinh tế là tạo ra cú huých đầu
tiên để quá trình thực hiện tổng sản phẩm xã hội được tiến hành( dùng tiền tô để
mua hàng của giai cấp không sản xuất và sản xuất)
- Phân chia xã hội thành ba giai cấp trên cơ sở lý luận của sản phẩm thuần
túy là không đúng. Ông cho rằng chỉ có lĩnh vực nông nghiêp là lĩnh vực sản
xuất còn các lĩnh vực khác là lĩnh vực không sản xuất. Khái niệm giai cấp không
sản xuất của ông rất tầm thường và không khoa học. Ông cũng cho rằng toàn bộ
sản phẩm thuần túy tiêu dùng hết nên không thể tái sản xuất mở rộng được. Điều
này gián tiếp F.Quesnay cho rằng dưới CNTB không có khủng hoảng kinh tế, và
như thế CNTB tồn tại vĩnh viễn như là xã hội cuối cùng trong lịch sử. Một cái
nhìn thiển cận, bảo thủ trì trệ của chủ nghĩa trong nông nói chung và của
F.Quesnay nói riêng.
6
- Không thấy được sự trao đổi trong nội bộ ngành công nghiệp, công
nghiệp không tiêu dùng sản phẩm của mình cũng như không bù đắp chi phí tư
liệu sản xuất của mình. Do vậy, họ không thể tái sản xuất.
Mặc dù vẫn còn tồn tại những hạn chế song “ Biểu kinh tế” được coi là
khởi thủy của học thuyết tái sản xuất tư bản xã hội mà sau này C.Mác tiếp tục
nghiên cứu phát triển. Cũng trên cơ sở học thuyết tái sản xuất của mình chủ
nghĩa Mác - Lê nin đã khẳng định rõ những mâu thuẫn của nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa chỉ ra sự diệt vong không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản.
Một nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển khác cung khá nổi tiếng với lý
thuyết về bàn tay vô hình đó chính là Adam Smith (1723-1790). Ông cũng đã dề
cập đến lý luận về tái sản xuất. Adam Smith một nhà kinh tế chính trị tư sản cổ
điển Anh. Các.Mác đã phân tích một cách sâu sắc phương pháp luận của Adam
Smith đó là phương pháp hai mặt: Một mặt, Adam Smith đi sâu tìm hiểu bản
chất bên trong của các hiện tượng, quá trình kinh tế, vạch rõ mối liên hệ bên
trong của chế độ tư bản, tìm hiểu những quy luật vận động của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa; mặt khác, ông vẫn thường dùng phương pháp mô tả , liệt kê, thuất
lại bằng khái niệm có tính chất công thức những biểu hiện bề ngoài của đời sống
kinh tế và do đó cũng thường dẫn đến những kết luận phi lý tầm thường. Hai
phương pháp này của Adam Smith luôn sống bên nhau, quyện chặt vào nhau và
thường xuyên mâu thuẫn với nhau. Vì vậy mà lý luận của ông thường có mâu
thuẫn, thiếu nhất quán. Phương pháp luận có tính hai mặt vừa khoa học, vừa tầm
thường của Adam Smith có ảnh hưởng tới kinh tế học tư sản sau này.
Vế lý luận tái sản xuất, Adam Smith dựa trên cơ sở lý luận về giá trị lao
động để xây dựng lý luận tái sản xuất, song cho rằng giá trị của hàng hóa bao
gồm các thu nhập: tiền lương, lợi nhuận. địa tô. Theo ông tiền lương, lợi nhuận,
7
địa tô là ba cái nguồn ban đầu của bất cứ thu nhập nào...tổng giá trị trao đổi hay
giá cả của sản phẩm hàng năm, nhất thiết phải chia thành ba bộ phận đó”. Như
vậy tổng giá trị của hàng hóa chỉ có V+m, chỉ bằng giá trị mới sáng tạo ra, còn
bộ phận giá trị cũ tham gia vào quá trình sản xuất đã bị Adam Smith loại ra khỏi
giá trị của hàng hóa. Ông coi giá trị của TLSX nằm trong tiền lương, lợi nhuận
và địa tô. Sai lầm của Adam Smith là ông đã lẫn lộn toàn bộ giá trị của sản phẩm
với giá trị mới sáng tạo ra; ông không thấy được tính hai mặt của lao động sản
xuất hàng hóa, không thấy được sự dịch chuyển giá trị cũ và sự sáng tạo ra giá trị
mới. Adam Smith đã đã vấp phải vấn đề cần phải phân biệt trong lý luận, đó là
hai hình thức lao động, một thứ cung cấp vật phẩm tiêu dùng, còn một thứ cung
cấp những sản phẩm không phải để tiêu dùng (máy móc, công cụ). Lê nin cho
rằng, chỉ cần tiến một bước nữa là thừa nhận hai hình thức tiêu dùng. Tiêu dùng
cho cá nhân và tiêu dùng cho sản xuất. Như vậy Adam Smith đã cò một bước
tiến dài so với những người trước ông. Ở ông đã có mầm móng thiên tài về sự
phân chia nền sản xuất thành hai khu vực. Chính C.Mác đã bắt gặp “gợi ý” của
Adam Smith và đã phát triển lên thành một lý luận đặc sắc về sự thực hiện sản
phẩm xã hội trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Về tái sản xuất mở rộng Các Mác
đánh giá cao Adam Smith đã phân biệt được tích lũy và cất trữ, tích lũy thì phải
dành một phần giá trị thặng dư để thuê thêm công nhân. Luận điểm này của
Adam Smith nói rõ nguồn gốc của tích lũy tư bản là lao động. nhưng ông đã
phạm sai lầm cho rằng việc tích lũy tư bản chỉ là việc biến giá trị thặng dư thành
tư bản khả biến phụ thêm, không có tư bản bất biến phụ thêm.
Lý luận về tái sản xuất của Adam Smith đã đề cập đến sản phẩm – chia
làm hai nhóm TLSX và TLTD, giá trị sản phẩm gốc gồm có C+V+m phân chia
nền sản xuất xã hội hai khu vực nhưng lí giải đầy đủ, đúng đắn những vấn đề này
8