MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận về thị trường cổ phiếu
1. Khái niệm về cổ phiếu
a. Cp phổ thông
b.Cp ưu đãi
2. Đặc điểm của Cổ phiếu
3. Những thành tựu đạt được
4. Các mặt hạn chế
II. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu ở thị trường Việt Nam.
1. Các yếu tố kinh tế
2. Yếu tố phi kinh tế
III. Một số giải pháp phát triển thị trường cổ phiếu Việt Nam.
1. Phát triển quy mô, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các loại hàng hóa để
đáp ứng nhu cầu thị trường
2. Phát triển thị trường cổ phiếu theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh về cấu trúc,
được quản lý, giám sát bởi Nhà nước và có khả năng liên kết với thị
trường khu vực và quốc tế
3. Phát triển hệ thống nhà đầu tư trong và ngoài nước
4. Tăng cường công tác thanh tra giám sát hoạt động của của các tổ chức tham
gia thị trường, xử lý nghiêm các vi phạm về công bố thông tin,
IV.Kết luận
1
LỜI MỞ ĐẦU
Một đất nước được coi là phát triển thực sự nếu thị trường tài chính của
nước đó hoạt động nhanh nhạy và hiệu quả. Là hạt nhân trung tâm của Thị
trường tài chính, thị trường chứng khoán luôn thể hiện tốt vai trò tạo vốn và chu
chuyển vốn linh hoạt hơn trong nền kinh tế, là cầu nối giữa một bên là các nhà
đầu tư với bên kia là các doanh nghiệp cần vốn kinh doanh.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán thế giới, thị trường
chứng khoán Việt Nam cũng đang có những bước chuyển đổi mạnh mẽ và đó
cũng là xu thế tất yếu khi Việt Nam chủ động bước vào hội nhập với nền kinh tế
quốc tế. Ra đời vào năm 2000 thuật ngữ “Thị trường cổ phiếu” còn khá mới mẻ
đối với công chúng Việt Nam. Trong khi đó ở nhiều nước trên thế giới, thị
trường cổ phiếu đã phát triển rất sôi động. Trải qua 10 năm phát triển, thị trường
cổ phiếu ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu khả quan, huy động được
một nguồn lực đáng kể cho phát triển kinh tế đất nước.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG CỔ PHIẾU
1. Khái niệm về cổ phiếu
Cổ phiếu là giấy chứng nhận số tiền nhà đầu tư đóng góp vào công ty phát
hành. Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ
xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó.
Nguời nắm giữ cổ phiếu trở thành cổ đông và đồng thời là chủ sở hữu của
công ty phát hành.
Cổ phiếu là bằng chứng và là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu của cổ
đông đối với công ty cổ phần. Quyền sở hữu của cổ đông trong công ty cổ phần
tương ứng với số lượng cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Vì vậy, cổ phiếu còn
được gọi là chứng khoán vốn.
2
Khi nói đến cổ phiếu của một công ty, người ta thường nói đến cổ phiếu
phổ thông (cổ phiếu thường) và cổ phiếu ưu đãi.
a.Cổ phiếu phổ thông
Cổ phiếu phổ thông (Cổ phiếu thường) là chứng chỉ xác nhận quyền sở
hữu của cổ đông đối với công ty và xác nhận cho phép cổ đông được hưởng các
quyền lợi thông thường trong công ty.
Người nắm giữ cổ phiếu thường là cổ đông thường và là đồng sở hữu của
công ty cổ phần. Cổ phiếu thường có những đặc điểm chủ yếu sau:
• Là loại cổ phiếu có thu nhập phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh của
công ty.
• Cổ phiếu của công ty không có thời hạn hoàn trả, vì đây không phải là
khoản nợ đối với công ty.
• Cổ đông được chia phần giá trị tài sản còn lại khi thanh lý công ty sau khi
công ty đã thanh toán các khoản nợ và thanh toán cho các cổ đông ưu đãi.
• Người góp vốn vào công ty không được quyền trực tiếp rút vốn ra khỏi
công ty, nhưng được quyền chuyển nhượng sở hữu cổ phần dưới hình thức bán
lại cổ phiếu hay dưới hình thức quà tặng hay để lại cho người thừa kế.
• Được quyền ưu tiên mua cổ phiếu khi công ty phát hành cổ phiếu mới để
tăng vốn.
• Được quyền triệu tập đại hội đồng cổ đông bất thường theo luật định.
• Cổ đông thường cũng phải gánh chịu những rủi ro mà công ty gặp phải,
tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm giới hạn trong phạm vi số
lượng vốn góp vào công ty.
Các hình thức giá trị của Cổ phiếu thường
• Mệnh giá của cổ phiếu thường: Mệnh giá hay còn gọi là giá trị danh
nghĩa là giá trị mà công ty cổ phần ấn định cho một cổ phiếu và được ghi trên
cổ phiếu.
• Giá trị sổ sách của cổ phiếu thường là giá trị của cổ phiếu được xác định
dựa trên cơ sở số liệu sổ sách kế toán của công ty.
3
Việc xem xét giá trị sổ sách, cho phép Cổ đông thấy được số giá trị tăng
thêm của cổ phiếu thường sau một thời gian công ty hoạt động so với số vốn
góp ban đầu.
• Giá trị thị trường: là giá trị thị trường hiện tại của cổ phiếu thường, được
thể hiện trong giao dịch cuối cùng đã được ghi nhận. Giá thị trường của cổ
phiếu được xác định bởi quan hệ cung - cầu trên thị trường. Giá trị thị trường cổ
phiếu của một công ty phụ thuộc rất nhiều yếu tố, do vậy nó thường xuyên biến
động.
b.Cổ phiếu ưu đãi
Cổ phiếu ưu đãi là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong một công ty,
đồng thời cho phép người nắm giữ loại cổ phiếu này được hưởng một số quyền
lợi ưu tiên hơn so với cổ đông phổ thông. Người nắm giữ cổ phiếu ưu đãi được
gọi là cổ đông ưu đãi của công ty.
Cổ đông nắm giữ cổ phiếu ưu đãi có các quyền lợi sau:
• Quyền được nhận cổ tức trước các cổ đông thường
• Quyền ưu tiên được thanh toán trước, khi giải thể hay thanh lý công ty,
nhưng sau người có trái phiếu.
• Tương tự như cổ phiếu phổ thông, nhưng cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi
không được tham gia bầu cử, ứng cử vào Hội đồng Quản trị và quyết định
những vấn đề quan trọng của công ty.
• Cổ phiếu ưu đãi có thể có mệnh giá hoặc không có mệnh giá và mệnh giá
của nó cũng không ảnh hưởng tới giá thị trường của cổ phiếu ưu đãi.
• Tuy cổ tức của cổ phiếu ưu đãi là cố định, nhưng cổ đông ưu đãi cũng chỉ
được nhận cổ tức khi công ty làm ăn có lợi nhuận.
2. Đặc điểm của Cổ phiếu
Không có kỳ hạn và không hoàn vốn
Cổ phiếu là chứng nhận góp vốn của các cổ đông vào công ty cổ phần. Chỉ
có chiều góp vào, không thể hiện thời hạn hoàn vốn; không có kỳ hạn. (Khi
công ty phá sản hoặc giải thể, thì sẽ không còn tồn tại cổ phiếu).
4
Cổ tức không ổn định và phụ thuộc vào kết quả SXKD của doanh nghiệp
Cổ tức cổ phiếu thường tùy thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp, và vì kết quả kinh doanh không ổn định nên cổ tức cũng không thể cố
định. Khi doanh nghiệp làm ăn phát đạt thì cổ đông được hưởng lợi nhuận nhiều
hơn so với các loại chứng khoán khác có lãi suất cố định. Ngược lại, khi làm ăn
khó khăn hoặc thua lỗ, cổ tức có thể rất thấp hoặc không có cổ tức.
Khi phá sản, cổ đông là người cuối cùng nhận được giá trị còn lại của tài
sản thanh lý
Giá cổ phiếu biến động rất mạnh
Giá biến động nhiều nhất là trên thị trường thứ cấp, do giá chịu sự tác động
của nhiều nhân tố, và nhân tố quan trọng đó là kết quả kinh doanh của công ty.
Bên cạnh đó, theo quan điểm của những nhà đầu tư, Cổ phiếu có các đặc
điểm sau:
Tính thanh khoản cao
Cổ phiếu có khả năng chuyển hóa thành tiền mặt dễ dàng. Tuy nhiên tính
thanh khoản của cổ phiếu phụ thuộc vào các yếu tố sau:
• Thứ nhất, kết quả kinh doanh của tổ chức phát hành (công ty có cổ phiếu
niêm yết).
• Thứ hai, là mối quan hệ cung - cầu trên thị trường chứng khoán
Có tính Lưu thông
Tính lưu thông khiến cổ phiếu có giá trị như một loại tài sản thực sư, nếu
như tính thanh khoản giúp cho chủ sở hữu cổ phiếu chuyển cổ phiếu thành tiền
mặt khi cần thiết thì tính lưu thông giúp chủ sở hữu cổ phiếu thực hiện được
nhiều hoạt động như thừa kế tặng cho để thục hiện nghĩa vụ tài sản của mình.
Tính Tư bản giả
Cổ phiếu có tính tư bản giả tức là cổ phiếu có giá trị như tiền. Tuy nhiên cổ
phiếu không phải là tiền và nó chỉ có giá trị khi được đảm bảo bằng tiền. Mệnh
giá của cổ phiếu không phản ánh đúng giá trị của cổ phiếu.
Tính Rủi ro cao
5
Tính rủi ro phụ thuộc vào thông tin và tình hình phát triển, chính trị. Giá trị
cổ phiếu luôn biến động theo các yếu tố này.
Thị trường cổ phiếu là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các cổ phiếu
giữa tổ chức phát hành và người mua chứng khoán, hoặc các cổ đông với nhau,
hoặc giữa cổ đông với người có nhu cầu mua cổ phiếu đó.
3. Những thành tựu đạt được
Trong 10 năm phát triển, thị trường cổ phiếu Việt Nam đã có bước phát
triển khá vượt bậc, đóng góp đáng kể cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
Việt Nam thời gian qua. Nhìn chung, thị trường cổ phiếu trong gần 10 năm đã
đạt được một số kết quả sau:
Thị trường cổ phiếu năm 2000 chỉ có hai cổ phiếu niêm yết với giá trị giao
dịch 70 triệu đồng/phiên. Hoạt động phát hành huy động vốn qua thị trường cổ
phiếu thực tế chỉ mới phát sinh từ năm 2006 trở lại đây. Trong năm 2006, có 44
công ty cổ phần thực hiện việc chào bán hơn 203 triệu cổ phiếu. Tuy nhiên, hoạt
động phát hành mới thực sự bùng nổ vào năm 2007, khi có gần 200 đợt phát
hành của 192 công ty và 4 ngân hàng thương mại được đăng ký với UBCKNN
với tổng lượng vốn huy động lên đến gần 40.000 tỷ VND.
Trong năm 2008, do sự suy giảm của thị trường chứng khoán, tổng số vốn
huy động chỉ đạt hơn 14.300 tỷ đồng thông qua hơn 100 đợt chào bán chứng
khoán ra công chúng. Thị trường hồi phục vào năm 2009 đã tạo điều kiện cho
hoạt động phát hành qua thị trường chứng khoán, đặc biệt là phát hành cổ phiếu.
Tổng số vốn huy động qua phát hành cổ phiếu năm 2009 đã tăng hơn 50% so
với 2008, đạt 21.724 tỷ đồng. Những thành tích trên thị trường thứ cấp đã tác
động tích cực đến thị trường phát hành, nhiều công ty đại chúng, đặc biệt là các
công ty niêm yết đã tăng vốn lên từ hàng chục đến hàng trăm lần. Riêng 2 năm
2008-2009 đã có 35.000 tỷ đồng giá trị cổ phiếu (tính theo mệnh giá) được phát
hành ra công chúng, góp phần làm lành mạnh cơ cấu tài chính của doanh
nghiệp.
Ngoài ra, công tác cổ phần hoá DNNN đã được gắn kết với việc huy động
6
vốn từ công chúng đầu tư, góp phần thúc đẩy nhanh việc sắp xếp khu vực
DNNN theo tiến trình cải cách nền kinh tế của Chính phủ và huy động vốn cho
ngân sách nhà nước. Thực tế, việc gắn kết công tác cổ phần hóa DNNN với
công tác tạo hàng cho thị trường cổ phiếu là nhân tố chủ đạo quyết định thành
công trong việc tạo ra một nguồn hàng phong phú, góp phần thúc đẩy tăng
trưởng quy mô của thị trường.
Hệ thống trung gian của định chế thị trường cổ phiếu Việt Nam tăng mạnh
về số lượng và chất lượng; đến nay có 105 công ty chứng khoán và 46 công ty
quản lý quỹ hoạt động trên thị trường. Đồng thời hệ thống các nhà đầu tư trong
và ngoài nước phát triển mạnh; năm đầu khai trương thị trường có 3.000 tài
khoản, đến nay đạt 926.000 tài khoản. Vốn đầu tư gián tiếp của các nhà đầu tư
nước ngoài đạt gần 7 tỷ USD.
4. Các mặt hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thị trường cổ phiếu vẫn tồn tại một
số hạn chế sau:
a) Số lượng và chất lượng hạn chế của cổ phiếu niêm yết trên Sở giao dịch
Chứng khoán
Hạn chế lớn nhất của thị trường là chưa có một lượng hàng hóa đủ lớn về
quy mô cũng như cơ cấu nếu so sánh 600 mã chứng khoán niêm yết và đăng ký
giao dịch với khoảng 4.000 công ty đại chúng. Sau 10 năm hoạt động, với 600
công ty được niêm yết vào thời điểm hiện tại, quy mô của thị trường cổ phiếu ở
Việt Nam còn nhỏ so với nhu cầu vốn của nền kinh tế. Nhiều công ty niêm yết
hiện là các công ty quy mô nhỏ với số vốn khoảng vài chục tỷ đồng, chưa đủ
gây ra sức hút đối với các nhà đầu tư.
b) Thiếu vắng sự tham gia tích cực của những nhà đầu tư tổ chức trên thị
trường
Về phía cầu, nhiều nhà đầu tư cổ phiếu trên thị trường Việt Nam là cá nhân
và mang tính đầu cơ hơn là đầu tư, góp phần tạo tính bất ổn định của thị trường.
Điều này làm cho chính các doanh nghiệp ngần ngại khi quyết định huy động
7
vốn qua thị trường cổ phiếu. Những nhà đầu tư tổ chức Việt Nam cũng như
nước ngoài chưa tham gia nhiều vào mua cổ phiếu của các công ty niêm yết,
một phần là do tính kém hấp dẫn của các cổ phiếu trên thị trường, nhưng cũng
một phần do những khó khăn, phức tạp liên quan đến khuôn khổ pháp lý.
Những khó khăn đó là khung pháp lý về bảo vệ quyền lợi cổ đông thiểu số chưa
đầy đủ, thiếu các chuẩn mực về công khai minh bạch thông tin, các quy định
chưa rõ ràng về chế độ thuế đối với nhà đầu tư, quỹ đầu tư nước ngoài, các hạn
chế về hạn mức đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, v.v.
c) Hoạt động của mua bán cổ phiếu trên thị trường phi chính thức lớn hơn
nhiều lần so với thị trường chính thức và không được kiểm soát thích đáng.
Việc bán cổ phiếu cho công chúng ở bên ngoài thị trường giao dịch chứng
khoán (thị trường phi tập trung OTC) diễn ra khá sôi động, nhưng hiện chưa có
quy định pháp luật nào kiểm soát hoạt động này. Theo ước tính, số lượng doanh
nghiệp huy động vốn cổ đông từ công chúng trên thị trường không chính thức
này gấp khoảng 30 lần số doanh nghiệp niêm yết chính thức. 2 trong số khoảng
1.000 DNNN đã được cổ phần hóa, chỉ có chưa tới 3% đã niêm yết, như vậy có
thể cho rằng một số lượng lớn cổ phiếu của các doanh nghiệp này đang được
mua bán trên thị trường không chính thức. Ở các nền kinh tế phát triển, thị
trường OTC thường cũng có quy mô lớn hơn gấp nhiều lần thị trường tập trung,
song thị trường này được kiểm soát bởi các luật lệ khá chặt chẽ nhằm bảo vệ
quyền lợi của nhà đầu tư. Các luật lệ này vẫn chưa được thiết lập ở Việt Nam.
Lo lắng chung từ phía quản lý nhà nước cũng như giới doanh nghiệp là thị
trường phi chính thức không được kiểm soát này có nguy cơ sụp đổ cao và có
thể gián tiếp làm tổn hại cho thị trường chính thức mới manh nha phát triển.
d) Quy mô nhỏ và mức độ công khai thông tin thấp của các doanh nghiệp Việt
Nam
Các công ty tư nhân của Việt Nam mới phát triển trong vòng hơn một thập kỷ
qua, đặc biệt là từ năm 2000. Vì vậy, hầu hết các công ty tư nhân đều ở một quy
mô nhỏ hoặc rất nhỏ và thường được quản lý theo kiểu gia đình. Hơn nữa, nhiều
8
doanh nghiệp tư nhân Việt Nam thường tìm cách duy trì chế độ nhiều sổ sách và
không công khai thông tin. Ví dụ, số doanh nghiệp báo cáo tài chính theo quy
định của Luật Doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 15-20%.3 Nguyên nhân của tình
hình này không chỉ do ý định chủ quan, thói quen của doanh nghiệp mà còn do
sự thiếu vắng khung pháp lý và các chuẩn mực về công khai thông tin, kiểm
toán, kế toán của Việt Nam. Các vấn đề này tiếp tục là trở ngại đối với nhà
đầu tư và không khuyến khích được hoạt động huy động vốn cổ đông.
II. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu ở thị trường Việt Nam.
Có rất nhiều yếu tố tác động đến thị trường chứng khoán nói chung và giá
cổ phiếu nói riêng, nhưng vế cơ bản có thể chia chúng thành hai nhóm yếu tố là
yếu tố kinh tế và yếu tố phi kinh tế:
1. Các yếu tố kinh tế
a) Tăng trưởng kinh tế
Khi nền kinh tế tăng trưởng thì hầu như các ngành các lĩnh vực đều bị
ảnh hưởng. Và giá của cổ phiếu cũng nằm trong số đó, giá cổ phiếu có xu
hướng tăng khi nền kinh tế tăng trưởng và có xu hướng giảm khi nền kinh tế
kém phát triển. Như các bạn đều biết Việt Nam là một quốc gia có tốc độ phát
triển cao ( 8,3% năm 2006) cộng với nền chính trị ổn định và mức thu hút các
nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài là một trong những nguyên nhân khiến thị
trường chứng khoán Việt Nam có bước tiến nhảy vọt nói chung và giá cổ phiếu
tăng nói riêng. Tuy nhiên không phải giá cổ phiếu nào cũng tăng và giá lúc nào
cũng tăng mà nó còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác nữa. Việc giữ vững tốc
độ tăng trưởng cao của nền kinh tế trong nhiều năm liền có tác dụng giữ cho thị
trường chứng khoán ổn định, tăng cường niềm tin của nhà đầu tư cả trong và
ngoài nước. Tuy nhiên, để có thể trông chờ vào một sự khởi sắc của thị trường
thì chỉ có thể vào cuối năm khi các nhà đầu tư có thể dự đoán kết quả kinh
doanh của từng doanh nghiệp.
b) Quan hệ cung cầu
9
Trong kinh doanh, quy luật cung cầu luôn có ảnh hưởng rất lớn đến giá
thành sản phẩm, và đầu tư chứng khoán cũng không phải là một ngoại lệ. Giá cổ
phiếu cũng chịu tác động từ quy luật cung cầu. William J. Oneil – một nhâ đầu
tư chứng khoán thành công tại Mỹ, là cha đẻ của phương pháp phân tích và lựa
chọn cổ phiếu hiệu quả CAN SLIM, cho rằng cổ phiếu của các công ty đại
chúng, có quy mô lớn, sản phẩm chất lượng không phải lúc nào cũng đáng để
mua, bởi lượng cầu của những cổ phiếu này khá lớn, trong khi nguồn cung lại ít
nên giá thường bị đẩy lên cao giả tạo, không phản ánh đúng giá trị thực tế của
cổ phiếu cũng như rất khó sinh lợi nhuận lớn.
Chính những cổ phiếu có số lượng lưu hành thấp trên thị trường mới có
nhiều triển vọng và có khả năng tăng giá hơn so với các cổ phiếu có số lượng
lưu hành lớn. Từ đó suy ra, cổ phiếu được các nhà quản trị hàng đầu nắm giữ
với tỷ lệ lớn thường là những cổ phiếu có độ an toàn cao. William đặc biệt lưu ý
tới các cổ phiếu được công ty mua lại và cổ phiếu của các công ty có tỷ lệ nợ
dài hạn trên vốn tự có vừa phải, bởi theo ông thì tỷ lệ này càng cao bao nhiêu
công ty sẽ càng phải đương đầu với áp lực trả lãi trong tương lai nhiều bấy
nhiêu. Các nhà đầu tư nên so sánh tỷ số này ở công ty mình dự định đầu tư với
tỷ số nợ bình quân ở các công ty trong cùng ngành, đồng thời phân tích thêm
khả năng thanh toán để có đánh giá xác thực hơn về mức độ nợ của công ty.
Về nguồn cung, giá cổ phiếu có thể bị ảnh hưởng bởi những yếu tố sau:
Yếu tố thứ nhất là "Cơn lốc" IPO các doanh nghiệp lớn. Nó sẽ thu hút một
nguồn vốn ước tính khoảng 5 tỷ USD của các nhà đầu tư. Như vậy, thị trường
tập trung ít nhiều sẽ bị ảnh hưởng từ đợt IPO này. Các nhà đầu tư có nhiều cơ
hội để lựa chọn những cổ phiếu tốt, các blue- chips trên sàn niêm yết không còn
là yếu tố lựa chọn duy nhất. Giá các cổ phiếu trên sàn có thể sẽ tiếp tục đi ngang
và giảm chút ít như vài tuần gần đây. Cổ phiếu doanh nghiệp nhỏ sẽ có sự phân
loại, chỉ có doanh nghiệp nào có kết quả kinh doanh tốt mới được quan tâm.
Yếu tố thứ hai là vấn đề cổ phần hóa, những thông tin trong những ngày
cuối năm cho thấy, năm 2007 và 2008 sẽ có một lượng cung cổ phiếu, chứng
10
chỉ quỹ đầu tư, trái phiếu chuyển đổi khổng lồ tung ra thị trường chứng khoán
Việt Nam, cụ thể: Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định (ngày 29/12/2006)
phê duyệt danh sách 53 tập đoàn, tổng công ty nhà nước sẽ thực hiện cổ phần
hóa trong giai đoạn 2007-2010. Nhiều chuyên gia thị trường chứng khoán nhận
định, 2 cổ phiếu “bia rượu” lớn sau khi cổ phần hóa và lên sàn sẽ tạo ra sự kiện
lớn hơn nhiều sự kiện Vinamilk và Sacombank lên sàn trong năm 2006. Cổ
phiếu của MobiFone và Vinafone cũng sẽ xuất hiện trên thị trường OTC và có
thể lên sàn vào cuối năm 2007, sau khi Thứ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông
Trần Đức Lai khẳng định MobiFone chắc chắn sẽ cổ phần hóa xong trong năm
2007. Năm 2007 có thể sẽ là năm “đại náo” cổ phiếu của 4 ngân hàng quốc
doanh trên thị trường chứng khoán Việt Nam: Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam, Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL, Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam
và Ngân hàng Công thương Việt Nam sẽ có mặt trên thị trường.
Về phía cầu, giá cổ phiếu sẽ bị ảnh hưởng bởi một số nhân tố sau: Ngày
28/12, Chính phủ ban hành nghị định quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh ngoại
hối, trong đó quy định: người không cư trú là nhà đầu tư nước ngoài phải mở tài
khoản vốn đầu tư gián tiếp bằng đồng Việt Nam tại các tổ chức tín dụng được
phép để thực hiện đầu tư tại Việt Nam và được dùng tài khoản VND này để mua
ngoại tệ tại các tổ chức tín dụng để chuyển ra nước ngoài. Như vậy, dòng vốn
đầu tư gián tiếp nước ngoài từ năm 2007 sẽ rất thuận lợi vào Việt Nam và cũng
tiềm ẩn khả năng rút vốn ồ ạt chuyển ra nước ngoài khi có một “cú sốc” nào đó
xảy ra. Tuy nhiên, theo TS. Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển
ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước), các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
thời gian gần đây là các nhà đầu tư tương đối lớn, nhà đầu tư chiến lược, họ kỳ
vọng vào lợi nhuận lâu dài, tỷ lệ vốn đầu tư gián tiếp ngắn hạn của nước ngoài
vào Việt Nam chỉ khoảng 1%, không đáng kể.
Do thị trường chứng khoán Việt Nam “bùng nổ” trong năm 2006 nên
nhiều quỹ đầu tư đã và đang đổ hàng tỷ USD đầu tư gián tiếp vào Việt Nam.
Trong năm 2007, chủ yếu là vốn của các quỹ đầu tư, tập đoàn tài chính và ngân
11
hàng lớn với chiến lược đầu tư dài hạn. Nhu cầu của nước ngoài đầu tư vào
chứng khoán Việt Nam không hề giảm độ nóng. Theo HSBC, trên thế giới hiện
có 43 quỹ chuyên đầu tư vào Việt Nam, trong đó có 23 quỹ mới thành lập từ
tháng 11 năm ngoái. Tổng giá trị tài sản ròng (NAV) của tất cả các quỹ đầu tư
vào Việt Nam hiện lên đến 5,6 tỉ đô la Mỹ. Những tháng gần đây, các quỹ đầu
tư vào Việt Nam liên tiếp ra đời ở Nhật, Hàn Quốc, Singapore, Malaysia và
Israel. Chỉ riêng tại Hàn Quốc, số tiền mà các quỹ này gọi được đã là 871 triệu
đô la Mỹ (xem bảng). Ông Chy Jang Oak, Chủ tịch bộ phận thị trường chứng
khoán của Korea Exchange, trong chuyến thăm TPHCM tháng 4 vừa qua, cho
TBKTSG biết Việt Nam đang là đề tài nóng của giới đầu tư tài chính Seoul. Họ
đánh giá cao sự tăng trưởng của các công ty niêm yết Việt Nam. Ông Chy Jang
Oak thậm chí nói rằng Sở Giao dịch chứng khoán Hàn Quốc sẽ giúp giảm bớt
chi phí cho các công ty Việt Nam niêm yết trên thị trường Hàn Quốc.
Một yếu tố nữa có thể tác động không nhỏ đến cầu trên thị trường chứng
khoán năm 2007: ngày 29/12/2006, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã hoàn tất
dự thảo về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy định về các tỷ lệ đảm bảo
an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Trong đó, có quy định làm xôn
xao giới kinh doanh cổ phiếu, đó là cấm không cho các ngân hàng cho vay
doanh nghiệp mà ngân hàng nắm quyền kiểm soát hoạt động trong lĩnh vực tiềm
ẩm rủi ro cao là kinh doanh chứng khoán, không được cho vay không có bảo
đảm đối với các khoản vay nhằm đầu tư kinh doanh chứng khoán. Nếu quy định
trên được chính thức ban hành và có hiệu lực thì nguồn cầu đầu tư vào cổ phiếu
sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ.
Mặt khác, sự "ấm" lên của thị trường bất động sản đã làm giảm lượng vốn
đầu tư vào thị trường chứng khoán và thậm chí nó còn hút một phần vốn từ thị
trường chứng khoán chuyển sang. Các nhà đầu tư có nhiều cơ hội để lựa chọn
giữa hai thị trường này.
Diễn biến giá cổ phiếu hiện bị tác động chủ yếu bởi quy luật cung cầu.
Tuy nhiên, cầu cũng có loại thật và ảo. Cầu ảo dễ dàng được tạo ra bởi những
12
nhà đầu tư nắm trong tay khối lượng cổ phiếu lớn hoặc tài khoản đầy tiền. Cầu
ảo được tạo ra bằng những lệnh mua mà người đặt biết chắc chắn rằng lệnh đó
không được khớp hoặc có khớp thì cũng chỉ được một khối lượng rất thấp. Với
quy trình khớp lệnh định kỳ, lệnh nhập phải thông qua công đoạn thủ công tại
sàn và trình tự ưu tiên khớp theo thời gian đặt lệnh. Nhà đầu tư có ý định tạo
cầu ảo căn cứ vào diễn biến giao dịch để đặt lệnh sát giờ khớp, thường là trong
đợt giao dịch thứ ba, đủ để lệnh được vào hệ thống nhưng không được khớp.
Như vậy, khối lượng này sẽ trở thành dư mua nhưng lại không phản ánh đúng
nhu cầu thị trường mà mang tính chất đổ thêm dầu vào lửa. Nhà đầu tư ít kinh
nghiệm chỉ biết căn cứ vào khối lượng dư mua thông báo lên tới hàng trăm ngàn
cổ phiếu để cho rằng cầu đang rất lớn nghĩa là giá sẽ còn tăng. Mánh này đặc
biệt phát huy tác dụng trong thời điểm lượng bán quá ít và giá liên tục khớp
mức trần."Anh ơi bao nhiêu thì mua được"? Đó là câu hỏi rất thường thấy tại
các sàn giao dịch vì phần đông nhà đầu tư mới tham gia rất ít kinh nghiệm, thậm
chí còn chưa đọc thông bảng giao dịch điện tử. Kỹ thuật “rải đinh" tung hoả mù
trên bảng giao dịch đã được nhiều nhà đầu tư lão luyện "bật mí" từ lâu và không
còn là bí mật, thậm chí người nước ngoài cũng học được và sử dụng.
Điểm cân bằng của thị trường sẽ phụ thuộc nhiều vào cung cầu. Cung
hiện ra sao? Nguồn cung đang tăng lên (IPO các doanh nghiệp tầm cỡ), nhưng
điểm rơi của nguồn cung dường như chưa đúng lúc. Hai tháng cuối năm ngoái,
nguồn cung tăng cấp tập với hàng chục công ty lên sàn, nhưng cầu còn tăng
mạnh hơn do khi ấy thị trường đang trên đà đi lên. Bây giờ khi cung được tung
ra ở thời điểm thị trường đang xuống dốc, thì hàng hóa chất lượng tốt vẫn có
nhu cầu, song sẽ đẩy nhanh sự phân hóa cổ phiếu. Nói ngắn gọn là cầu vẫn đang
rình rập chờ, sẵn sàng vào, nhưng không vào với bất cứ giá nào.
c) Hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập của các doanh nghiệp
Giá của cổ phiếu hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả hoạt động
kinh doanh hay sức khỏe của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp hoạt động ổn
13
định mà không gặp phải những biến cố bất ngờ dẫn đến phải thanh lý hay phá
sản thì dòng tiền mà người nắm giữ cổ phiếu nhận được là cổ tức được chia
hàng năm. Con số này có sự dao động và đôi khi cũng có những khoản bất
thường nào đó, nhưng nhìn chung bình quân trong dài hạn nó chính là lợi nhuận
từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Về bản chất, giá cổ phiếu do dòng
tiền này và sự biến động của nó quyết định và sự nóng lên của thị trường là do
sự tăng giá của các cổ phiếu gây ra.
Về mối liên hệ giữa giá cổ phiếu và hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty, giá cổ phiếu đôi khi xảy ra trước biến động hoạt động kinh doanh, đôi
khi xảy ra sau. Thời gian xảy ra và mức độ biến động này có sự chênh lệch đáng
kể qua theo dõi tình hình. Qua một thời gian dài, nhiều người cho rằng giá cổ
phiếu phổ thông thay đổi trước hoạt động kinh doanh.
Thu nhập của công ty hay lợi nhuận của công ty được coi là nhân tố quan
trọng nhất tác động tới giá cổ phiếu Những nhà kinh doanh và nhà đầu tư mua
và bán cổ phiếu chủ yếu dựa trên cơ sở dự đoán về mức thu nhập. Tuy nhiên,
giá cổ phiếu không phải lúc nào cũng có mối quan hệ chặt chẽ với thu nhập. Có
những thời điểm, giá cổ phiếu tăng nhanh hơn thu nhập; vào những thời điểm
khác, nó bị tụt lại đằng sau thu nhập. Đôi khi trên thực tế, nó lại biến động theo
chiều hướng ngược lại với thu nhập. Do vậy, dù một người theo dõi rất sát thị
trường đã dự đoán đúng xu hướng thay đổi của thu nhập, nhưng không có gì
bảo đảm rằng anh ta có thể dự đoán chính xác xu hướng biến đổi của giá cổ
phiếu.
d) Cổ tức
Mua cổ phiếu cũng chính là một cách đầu tư. Mục đích cuối cùng là
nhằm thu được lợi nhuận cao. Cổ đông sẽ được hưởng cổ tức và phần chênh
lệch giữa giá bán và giá mua cổ phiếu. Họ mong đợi vào mức chênh lệch hơn là
cổ tức được hưởng. Tuy nhiên, cổ tức cũng được đánh giá là nhân tố cơ bản tác
động đến giá cổ phiếu. Trong tất cả các nhân tố sử dụng để giải thích về sự biến
14
động giá hàng ngày của từng cổ phiếu, các thông tin về cổ tức luôn được xếp ở
vị trí quan trọng gần đầu.
Cổ tức là khoản tiền mà các công ty trích ra từ lợi nhuận để trả cho cổ
đông. Người ta thường tính cổ tức trên một cổ phiếu. Khi mua cổ phiếu, các nhà
đầu tư thường chọn mua cổ phiếu có cổ tức cao hơn. Ví dụ, cổ phiếu A có cổ
tức 2USD/năm, cổ phiếu B có cổ tức là 3USD/năm. Như vậy, cổ phiếu B sẽ
được nhiều nhà đầu tư chú ý hơn. Do đó, giá cổ phiếu B có thể sẽ cao hơn cổ
phiếu A. Tuy nhiên, điều đó chưa hẳn đã đúng hoàn toàn. Khi so sánh cổ tức
giữa các công ty, bạn lại phải quan tâm tới tỷ suất cổ tức. Tỷ suất cổ tức là một
tỷ lệ phần trăm giữa cổ tức và thị giá cổ phiếu. Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ cổ tức
bạn sẽ nhận được so với số tiền bạn phải trả để mua cổ phiếu. Ví dụ ở trên, đối
với cổ phiếu A, nếu bạn nhận được 2 USD/năm từ mỗi cổ phiếu và thị giá cổ
phiếu là 50 USD thì tỷ suất cổ tức sẽ là 2 USD/50 USD = 4%. Đối với cổ phiếu
B, thị giá cổ phiếu là 100 USD thì tỷ suất cổ tức là 3 USD/100 USD = 3%. Rõ
ràng đầu tư vào cổ phiếu A sẽ hiệu quả hơn cổ phiếu B. Vì khi bỏ ra 1 USD sẽ
thu được 0,04 USD với cổ phiếu A, nhưng chỉ thu được 0,03 USD với cổ phiếu
B.
Tuy nhiên, những cổ phiếu có tỷ suất cổ tức cao chưa hẳn đã là sự lựa
chọn tốt nhất. Giả sử, cổ phiếu A nói trên có cổ tức 2 USD và tỷ suất cổ tức 4%,
tức là cao hơn hẳn tỷ suất trung bình của thị trường (2%). Điều này không có
nghĩa là mua cổ phiếu đó là tốt nhất. Hãy xem xét điều gì sẽ xảy ra nếu công ty
đó không thực hiện được kế hoạch thu nhập và giá cổ phiếu sụt trong vòng 1
đêm từ 50 USD xuống còn 40 USD một cổ phiếu. Điều đó có nghĩa là giá cổ
phiếu giảm 20% và đẩy tỷ suất cổ tức lên tới 5% (2 USD/40 USD). Liệu bạn có
muốn đầu tư vào một cổ phiếu như vậy chỉ vì tỷ suất cổ tức cao hơn? Có lẽ là
không. Ngay cả những cổ phiếu mang lại nhiều cổ tức, thì bạn cũng phải chắc
chắn là công ty đó không có vấn đề gì về tài chính. Vì thế, yếu tố cổ tức chưa
hẳn đã tác động đến giá cổ phiếu theo tỷ lệ thuận mà còn do ảnh hưởng của các
nhân tố khác.
15
Một chỉ số nữa về cổ tức cũng ảnh hưởng không nhỏ tới giá cổ phiếu, đó
là tỷ lệ trả cổ tức. Khi bạn tìm mua những cổ phiếu có tỷ suất cổ tức cao, cần
xem xét tỷ lệ trả cổ tức của công ty. Chỉ số này thể hiện tỷ lệ phần trăm lợi
nhuận được trích ra để trả cho cổ đông dưới hình thức cổ tức. Nếu tỷ lệ này
vượt quá 75% có nghĩa là công ty không tái đầu tư lợi nhuận một cách hợp lý.
Một tỷ lệ trả cổ tức cao thường hàm ý là thu nhập của công ty được sử dụng
phần lớn để trả cho cổ đông và có nghĩa là công ty đang cố gắng thu hút các nhà
đầu tư mua cổ phiếu của mình. Do đó, tỷ lệ này phải ở mức hợp lý mới có thể
thu hút các cổ đông và làm cho giá cổ phiếu đó tăng.
Không phải bất cứ cổ phần nào cũng đem lại cho bạn cổ tức. Nếu một
công ty đang tăng trưởng nhanh có thể làm lợi cho các cổ đông bằng cách tái
đầu tư. Trong trường hợp đó, công ty sẽ không trả cổ tức hoặc trả với tỷ lệ cổ
tức rất thấp. Ví dụ, công ty Microsoft không trả cổ tức nhưng các cổ đông của
công ty không hề phàn nàn gì về điều này. Và cổ phiếu của công ty vẫn luôn
đứng trong danh sách những cổ phiếu có giá cao nhất. Một cổ phiếu không được
trả cổ tức không hẳn là cổ phiếu của công ty đang làm ăn thua lỗ.
Vì vậy, cổ tức không đóng vai trò quan trọng đối với loại cổ phiếu tăng
trưởng. Cổ phiếu tăng trưởng là loại cổ phiếu mà người ta coi sự tăng giá của
chúng là rất quan trọng, thường xuyên mang lại lợi suất đầu tư cuối cùng lớn
hơn nhiều so với cổ tức hiện tại. Một công ty tăng trưởng có khả năng sử dụng
số vốn này có hiệu quả hơn cho các cổ đông, là những người luôn phải tìm kiếm
cơ hội đầu tư. Nguyên tắc quan trọng là doanh nghiệp nên xác định và duy trì cổ
tức nên ở mức khá thấp và chỉ nên tăng mức cổ tức khi có những khoản thu
nhập tăng thêm.
Việc thanh toán, chi trả cổ tức cho cổ đông, có khả năng bằng tiền mặt
hoặc không dùng tiền mặt, dưới 2 hình thức:
♦ Chi trả cổ tức bằng cổ phiếu, giữ tiền mặt cho đầu tư phát triển, nếu mức chi
trả đó chiếm tỷ lệ nhỏ, khoảng 2-5% tổng số cổ phiếu đã phát hành, thì nhà đầu
tư không chú ý đến "loãng giá" (giá cổ phiếu sẽ giảm xuống), ảnh hưởng không
16
đáng kể đến thu nhập. Nhà đầu tư yên tâm khi họ nhận được cổ phiếu nhiều
hơn; nhưng thực tế họ không nhận được gì, vì khi công bố trả cổ tức bằng cổ
phiếu, thì giá cổ phiếu sẽ giảm xuống tương ứng với tỷ lệ trả cổ tức bằng cổ
phiếu.
♦ Chi trả cổ tức bằng tách cổ phiếu. Tách cổ phiếu sẽ làm tăng số lượng cổ
phiếu đang lưu hành và làm giảm mệnh giá cổ phiếu tương ứng với tỷ lệ tách.
Do đó, giá cổ phiếu trên thị trường cũng sẽ giảm tương ứng và giao dịch được
thực hiện dễ dàng hơn. Việc tách cổ phiếu thường được thực hiện khi giá cổ
phiếu trên thị trường tăng quá cao làm cho các giao dịch sẽ khó thực hiện và
điều này sẽ làm giảm tính thanh khoản của cổ phiếu. Vì vậy, khi giá cổ phiếu
tăng cao trên thị trường thì việc tách cổ phiếu là cần thiết để tạo điều kiện thuận
lợi cho việc giao dịch cổ phiếu. Đồng thời, sau khi tách giá cổ phiếu thường có
xu hướng tăng lên. Mặt khác, sau khi tách cổ phiếu, số lượng cổ phiếu được
giao dịch trên thị trường tăng lên có thể làm tăng số lượng cổ đông của công ty.
Qua đó góp phần làm hạn chế khả năng công ty bị thâu tóm.
Ví dụ, một công ty cổ phần ABC có 1 triệu cổ phiếu đang lưu hành, mệnh
giá 10.000 đồng/cổ phiếu (tổng giá trị niêm yết là 10 tỷ đồng) và giá thị trường
tại thời điểm hiện tại là 100.000 đồng/cổ phiếu. Công ty tiến hành tách cổ phiếu
theo tỷ lệ 1:2 (nghĩa là người sở hữu 1 cổ phiếu cũ sẽ nhận được 2 cổ phiếu
mới, khi đó tổng số cổ phiếu mới của công ty sẽ là 2 triệu cổ phiếu mệnh giá
5.000 đồng/cổ phiếu, tổng giá trị niêm yết vẫn là 10 tỷ đồng nhưng giá thị
trường của cổ phiếu mới sẽ dao động ở mức 50.000 đồng/cổ phiếu. Cho đến
nay, nghiệp vụ tách, gộp cổ phiếu chưa xảy ra trên thị trường chứng khoán Việt
Nam. Nhưng nhiều nhà đầu tư rất quan tâm đến nghiệp vụ tách, gộp cổ phiếu
của các công ty cổ phần như trường hợp Công ty cổ phần Cáp và Vật liệu viễn
thông (SACOM) vừa có dự định tách cổ phiếu để nâng cao giá trị công ty. Do
đó, rất có thể trong tương lai gần, giá cổ phiếu của công ty này sẽ tăng sau khi
tách. Như vậy, các tổ chức phát hành vẫn giữ lại được nguồn vốn bên trong để
đầu tư phát triển, đồng thời tăng thêm cổ phiếu cho các cổ đông, nguồn cung
17
cấp cổ phiếu cho thị trường tăng, do đó làm giảm biến động giá cả thị trường,
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư.
e) Lãi suất
Mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu là gián tiếp và luôn thay đổi.
Nguyên nhân là do luồng thu nhập từ cổ phiếu có thể thay đổi theo lãi suất và
chúng ta không thể chắc chắn liệu sự thay đổi của luồng thu nhập này có làm
tăng hay bù đắp cho mức biến động về lãi suất hay không. Lãi suất tăng sẽ rất
có khả năng làm giảm giá các loại cổ phiếu trên thị trường. Người mua cổ phiếu
của công ty mới niêm yết thường trông chờ cổ tức thấp thôi. Nhưng đổi lại, họ
mong giá cổ phiếu sẽ tăng trên thị trường chứng khoán.
Để giải thích rõ chiều hưởng ảnh hưởng của lãi suất tới giá cổ phiếu cần phải
xem xét các khả năng có thể xảy ra khi tỷ lệ lạm phát tăng, cụ thể như sau:
♦ Lãi suất tăng do tỷ lệ lạm phát tăng và thu nhập công ty theo đó cũng tăng vì
công ty có thể tăng giá cho phù hợp với mức tăng của chi phí. Trong trường hợp
này, giá cổ phiếu có thể khá ổn định vì ảnh hưởng tiêu cực của việc tăng tỷ suất
lợi nhuận đã được đền bù một phần hay toàn bộ bởi phần tăng của tỷ lệ tăng
trưởng thu nhập và cổ tức.
♦ Lãi suất tăng, nhưng luồng thu nhập dự tính thay đổi rất ít do công ty không
có khả năng tăng giá để phù hợp với chi phí tăng. Do vậy, giá cổ phiếu giảm. Tỷ
suất lợi nhuận quy định có thể tăng nhưng tỷ lệ tăng trưởng của cổ tức là không
đổi, nên mức chênh lệch giữa hai nhân tố này càng lớn.
♦ Lãi suất tăng trong khi luồng thu nhập giảm vì các nguyên nhân làm tăng lãi
suất lại gây tác động xấu tới thu nhập của công ty. Cụ thể là khi xảy ra lạm phát
thì chi phí sản xuất tăng, nhưng nhiều công ty không thể tăng giá, dẫn tới biên
độ lợi nhuận giảm. Tác động của một loạt các sự kiện này là rất xấu đến giá cổ
phiếu. Trong những trường hợp này, giá cổ phiếu sẽ sụt nghiêm trọng vì tỷ suất
lợi nhuận giảm khi cổ tức giảm, dẫn tới chênh lệch giữa lãi suất và giá cổ phiếu
càng lớn.
18
Đối với những trường hợp ngược lại, đó là khi lạm phát và lãi suất giảm
sẽ dẫn đến kết quả ngược với các trường hợp trên. Mối quan hệ giữa lạm phát,
lãi suất và giá cổ phiếu là một vấn đề đòi hỏi phải có kinh nghiệm vì ảnh hưởng
của chúng thay đổi theo từng thời kỳ. Do vậy, mặc dù mối quan hệ giữa lạm
phát, lãi suất và thu nhập từ cổ phiếu là tiêu cực, nhưng điều này không phải lúc
nào cũng đúng. Hơn nữa, ngay cả khi điều này là đúng trên toàn bộ thị trường,
thì vẫn tồn tại một số ngành nhất định có thể có thu nhập và cổ tức tạo ảnh
hưởng tích cực từ những biến động về lạm phát và lãi suất. Trong trường hợp
này, giá cổ phiếu có mối quan hệ tốt với lạm phát và lái suất.
f) Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO
Khi Việt Nam gia nhập vào tổ chức thương mại này, nền kinh tế Việt
Nam sẽ có cơ hội phát triển và nó sẽ kéo theo sự phát triển của các công ty và
nhiều thị trường, nhất là thị trường chứng khoán. Kinh nghiệm từ Trung Quốc
cho thấy khi quốc gia này trở thành thành viên của WTO, giá của một số cổ
phiếu tăng trưởng nhiều lần so với trước 2001. Cổ phiếu Việt Nam cũng sẽ tăng
trưởng như thế khi mà giá hiện nay chỉ cao hơn vài chục lần đến vài trăm lần
mệnh giá. Giá cổ phiếu sẽ tiếp tục tăng trong tương lai. Chính vì vậy mà nhiều
nhà đầu tư nước ngoài vào đây và họ đánh giá được tiềm năng cũng như sự hấp
dẫn của thị trường này.
Công ty Merri Lynch (một trong những hãng tư vấn đầu tư nổi tiếng của
Mỹ) nói rằng chỉ cần bạn bỏ tiền đầu tư vào cổ phiếu blue-chip ở Việt Nam và
yên tâm 10 năm sau bạn sẽ kiếm được một khoản khá lớn mà không cần phải
làm gì. Công ty bluechip đó sẽ kiếm lời cho bạn. Câu nói này cho thấy đầu tư
vào thị trường chứng khoán Việt Nam siêu lợi nhuận như thế nào. Các nhà đầu
tư nước ngoài dám bỏ tiền ra để đầu tư vào cổ phiếu Việt Nam, lẽ nào người
Việt Nam lại không?
Thêm một lý do nữa để cho rằng bây giờ là thời điểm thích hợp để đầu tư
vào thị trường chứng khoán chính là thuế. Lợi nhuận kiếm được từ việc mua
19
bán cổ phiếu không bị đánh thuế, phải đến 2009 nhà đầu tư mới bị đánh thuế thu
nhập. Đầu tư cổ phiếu vì giá trị gia tăng của cổ phiếu trong tương lai. Các công
ty niêm yết sẽ không được ưu đãi thuế vào năm sau, điều này không quan trọng
lắm. Vấn đề là công ty niêm yết làm ăn như thế nào. Và đều này cũng không
làm ảnh hưởng lớn đến sự hấp dẫn của thị trường, vốn còn rất nhỏ bé nhưng lại
đầy tiềm năng.
Ngoài những yếu tố nói trên, có thể tính đến các yếu tố khác như mức trả
cổ tức, thông tin mua bán cổ phiếu của các thành viên trong ban lãnh đạo công
ty, thông tin tách gộp cổ phiếu, thông tin về việc phát hành thêm cổ phiếu, tin
đồn…Những người đầu tư chuyên nghiệp hơn có thể còn tìm hiểu các thông tin
liên quan đến chính sách của Chính phủ đối với thị trường chứng khoán, chính
sách cổ phần hoá DNNN, tình hình quản trị của công ty niêm yết, tên tuổi của
CTCK bảo lãnh phát hành hay tư vấn niêm yết cho công ty niêm yết.
2. Yếu tố phi kinh tế
a) Yếu tố chính trị
Kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị. Điều kiện chính trị là một trong
những yếu tố vĩ mô quan trọng, làm nền tảng cho sự biến động, tăng trưởng
cũng như phát triển của mọi nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán
nói riêng. Do đó, khi đề cập đến các nhân tố tác động tới xu thế giá chứng
khoán, chúng ta không thể bỏ qua những yếu tố trong môi trường chính trị hay
sự biến động của tình hình chính trị.
Tuy nhiên, trong điều kiện chính trị ổn định hiện nay của Việt Nam
(không có chiến tranh, không có các thay đổi chế độ chính trị…) đồng thời vào
thời điểm này khi thị trường chứng khoán non trẻ của Việt Nam chưa thực sự
hoà nhập với biến động của thị trường chứng khoán thế giới, yếu tố này hầu như
tác động rất ít tới sự biến động giá chứng khoán.
b) Yếu tố văn hoá
20
Nhắc đến văn hoá ở đây không có nghĩa chỉ là văn hoá xã hội truyền
thống hay yếu tố dân gian, dân tộc của Việt Nam. Mỗi một lĩnh vực từ đời sống,
xã hội hay kinh tế, kĩ thuật đều tồn tại một thứ văn hoá của riêng lĩnh vực ấy, ví
như văn hoá công ty, văn hoá ngành…Cũng như vậy, thị trường chứng khoán
Việt Nam mặc dù còn non trẻ, mới được thành lập từ năm 2000, chưa hoàn
thiện được văn hoá của mình nhưng cũng đã có những yếu tố riêng đặc trưng,
phần nào tác động tới xu thế giá chứng khoán.
Trước hết, việc ứng dụng các mô hình phân tích cơ bản và phân tích kỹ
thuật để dự báo tỷ suất sinh lợi chứng khoán là rất cần thiết đối với các nhà đầu
tư mang tính chuyên nghiệp. Tuy nhiên, những diễn biến trên thị trường chứng
khoán Việt Nam trong thời gian qua là bằng chứng cho thấy sự thiếu vắng các
công cụ dự báo này. Đa số các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt
Nam hiện nay là các nhà đầu tư cá nhân (chiếm 99%). Thông thường đối tượng
này trình độ hiểu biết còn hạn chế, họ chủ yếu thực hiện các quyết định đầu tư
một cách cảm tính hay theo trào lưu với tư tưởng chộp giật, đầu cơ. Hơn nữa,
việc ứng dụng các mô hình dự báo trên cũng còn những hạn chế do hàng hoá
trên thị trường chứng khoán Việt Nam nghèo nàn về chủng loại, ít ỏi về số
lượng và đặc biệt là thiếu các hàng hóa cao cấp để các nhà đầu tư có thể yên
tâm đầu tư lâu dài hay hấp dẫn các nhà đầu tư chuyên nghiệp có nguồn tài chính
lớn cộng với tình trạng rò rỉ thông tin, không công khai, minh bạch. Một số dư
luận còn cho thấy cứ đầu tư theo tâm lý bầy đàn còn chắc ăn hơn đầu tư theo
phân tích. Chính đặc điểm này khiến cho giá chứng khoán Việt Nam biến động
một cách khó lường và không phản ánh xác thực các thông tin trên thị trường
cũng như giá trị thực của nó.
Mặt khác, sự thay đổi về công nghệ, sự khác nhau trong phương thức
giao dịch, hệ thống giao dịch cũng gây ảnh hưởng tới giá chứng khoán. Gần đây
có hiện tượng một số cổ phiếu khi chuyển sàn lại tăng giá mạnh. Ví dụ cổ phiếu
PPC lúc còn ở sàn Hà Nội chỉ là 65.000 đồng, khi chuyển sang sàn TP.HCM lại
tăng lên 105.000 đồng. Đó chính là do sự khác nhau trong hệ thống giao dịch
21
giữa các sàn. Hệ thống giao dịch ở sàn Hà Nội (khớp lệnh báo giá) đòi hỏi nhà
đầu tư phải biết “định giá đúng”. Do khớp lệnh liên tục nên nếu người chơi
không biết định giá sẽ bị thiệt. Ví dụ thị trường đang định giá cao cổ phiếu đó,
nhưng nếu không biết nên nhà đầu tư bán với giá sàn thì ngay lập tức sẽ có
người mua. Trong khi đó tại sàn TP.HCM (khớp lệnh định kỳ), người bán này
có thể không bị thiệt do hệ thống giao dịch tìm ra mức giá thị trường, mà mức
giá này thường cao hơn mức giá sàn (trừ trường hợp thị trường giảm giá quá
mức). Cách khớp lệnh này đã giúp cho không ít nhà đầu tư lớn “làm giá” cổ
phiếu, tức là tạo ra cung cầu ảo, đẩy giá khớp lệnh lên cao. Hay ngược lại, giờ
đây, khi hệ thống công nghệ thông tin dần đáp ứng được các yêu cầu kĩ thuật
của việc khớp lệnh mới, thị trường thành phố Hồ Chí Minh chuẩn bị chuyển
sang phương thức khớp lệnh liên tục, tức một lệnh được tung ra mà có lệnh đối
ứng sẽ được khớp ngay, nếu các nhà đầu tư vẫn cứ giữ tôn chỉ đầu tư cũ: quyết
mua đặt giá trần, quyết bán đặt giá sàn thì giá chứng khoán chắc chắn sẽ biến
động khôn lường. Đến khi thói quen đầu tư thay đổi, các nhà đầu tư đã quen với
việc suy xét, xử lý, phân tích thông tin thị trường thì phương thức khớp lệnh
liên tục sẽ tránh được tình trạng giá lên cao do cung cầu ảo, từ đó phản ánh
đúng cung cầu thực tế hơn. Vì vậy mới có trường hợp khi chuyển cách thức
giao dịch, giá lại thay đổi quá nhanh. Các trung tâm giao dịch CK Hà Nội và
HCM đang ráo riết hợp tác, liên thông với thị trường Mỹ, London, Singapore
về nâng cấp cơ sở hạ tầng, đào tạo nhân lực, trao đổi kinh nghiệm nhằm hoàn
thiện hệ thống kĩ thuật cho các giao dịch chứng khoán.
Về bản chất, dao động giá chứng khoán bị ảnh hưởng bởi sự kết hợp của
nhiều nhân tố khác nhau mà hạt nhân chính là các yếu tố về khả năng thu nhập
công ty, là hiệu quả hoạt động của các công ty niêm yết. Tuy nhiên, khi thị
trường chứng khoán là một kênh tạo ra lợi nhuận hấp dẫn như thời gian qua thì
các doanh nghiệp không nằm ngoài cuộc chơi ấy, cũng tranh thủ cho mình
những khoản lợi nhuận nhằm gia tăng mức tỷ suất sinh lợi cho các cổ đông của
họ.
22
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
CỔ PHIẾU Ở VIỆT NAM
Để thực hiện các mục tiêu cụ thể theo định hướng phát triển thị trường
chứng khoán nói chung và thị trường cổ phiếu nói riêng của Nhà nước cần phải
đưa ra các giải pháp thực hiện, vừa khắc phục những điểm hạn chế còn tồn tại,
vừa hướng tới phát triển thị trường. Giải pháp thực hiện được chia thành các
nhóm chính, cụ thể như sau:
1. Phát triển quy mô, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các loại
hàng hóa để đáp ứng nhu cầu thị trường
Đẩy mạnh chương trình cổ phần hóa các doanh nghiệp, Tổng công ty,
ngân hàng thương mại nhà nước, gắn việc cổ phần hóa với niêm yết trên thị
trường chứng khoán; Mở rộng việc phát hành cổ phiếu mới để huy động vốn
trên thị trường. Đối với những doanh nghiệp đã cổ phần hóa đủ điều kiện phải
thực hiện việc niêm yết; đồng thời tiến hành rà soát, thực hiện ngay việc bán
tiếp phần vốn, thực hiện ngay việc bán tiếp phần vốn Nhà nước tại các doanh
nghiệp nhà nước không cần giữ cổ phần chi phối. Chuyển đổi các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài sang hình thức công ty cổ phần và niêm yết, giao dịch
trên thị trường chứng khoán. Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư chiến lược (trong
và ngoài nước) mua cổ phiếu của các doanh nghiệp nghiệp Việt Nam theo
phương thức thoả thuận, hoặc đấu giá giữa các nhà đầu tư chiến lược với nhau,
để cải thiện nhanh hơn về năng lực tài chính, chất lượng quản trị doanh nghiệp
2. Phát triển thị trường cổ phiếu theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh về
cấu trúc, được quản lý, giám sát bởi Nhà nước và có khả năng liên kết với
thị trường khu vực và quốc tế
Phát triển thị trường cổ phiếu theo nhiều cấp độ để đáp ứng nhu cầu phát
hành cổ phiếu, niêm yết, giao dịch của nhiều loại hình doanh nghiệp và đảm bảo
khả năng quản lý, giám sát của Nhà nước theo hướng tách biệt thị trường giao
23
dịch tập trung, thị trường OTC, thị trường đăng ký phát hành, giao dịch cho các
doanh nghiệp nhỏ và vừa; Nâng cấp đồng bộ hạ tầng kỹ thuật của thị trường
đảm bảo khả năng liên kết với thị trường các nước trong khu vực; Nghiên cứu
cơ chế giao dịch đối với các cổ phiếu không đủ điều kiện niêm yết theo mô hình
thỏa thuận thông qua các công ty chứng khoán; Các giao dịch tập trung thanh
toán và chuyển giao thông qua Trung tâm lưu ký chứng khoán, đồng thời thiết
lập cơ chế giám sát của Sở giao dịch chứng khoán trong việc công bố thông tin,
… để tăng cường tính công khai, minh bạch trên thị trường, đảm bảo sự quản lý,
giám sát của Nhà nước đối với các giao dịch, thu hẹp hoạt động trên thị trường
tự do.
3. Phát triển hệ thống nhà đầu tư trong và ngoài nước
Khuyến khích các định chế đầu tư chuyên nghiệp (ngân hàng, chứng
khoán, bảo hiểm…) tham gia đầu tư trên thị trường. Thực hiện lộ trình mở cửa
đối với các nhà đầu tư chuyên nghiệp nước ngoài vào thị trường Việt Nam theo
lộ trình đã cam kết; Đa dạng hóa các loại quỹ đầu tư, tạo điều kiện cho phép
Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Tiết kiệm bưu điện…. tham gia đầu tư trên thị
trường cổ phiếu; Từng bước phát triển các quỹ hưu trí tư nhân để thu hút các
vốn dân cư tham gia đầu tư; Khuyến khích việc thành lập các quỹ đầu tư ở nước
ngoài đầu tư dài hạn vào thị trường Việt Nam.
4. Tăng cường công tác thanh tra giám sát hoạt động của của các tổ
chức tham gia thị trường, xử lý nghiêm các vi phạm về công bố thông tin,
về tin đồn gây bất lợi cho hệ thống thị trường tài chính, về rò rỉ thông tin.
Để ngăn chặn việc rò rỉ thông tin: Một là, rà soát lại thông tư của Bộ Tài
chính hướng dẫn về việc công bố thông tin và áp dụng thống nhất cho việc công
bố thông tin trên thị trường; tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm khắc
việc công bố thông tin chậm, công bố thông tin không chính xác, để rò rỉ thông
tin bất luận là tổ chức hay cá nhân. Hai là; xử lý nghiêm khắc các cá nhân, tổ
chức, doanh nghiệp sử dụng phương tiện truyền thông (báo, chí, trang tin…)
đưa thông tin sai lệch, hoặc làm méo mó tin, hoặc thông tin bất lợi cho thị
24
trường mà không rõ nguồn gốc. Ba là; Về phía cơ quan quản lý nhà nước cần có
thông điệp rõ ràng, minh bạch về việc điều hành các chính sách kinh tế - tài
chính cũng như các thông tin vĩ mô để mọi người dân biết,hiểu đúng và chấp
hành nghiêm túc. Bốn là; Thu hẹp hoạt động của thị trường tự do bằng cách yêu
cầu các công ty đại chúng giao dịch trên thị trường tự do phải tuân thủ các yêu
cầu về kiểm toán, công bố thông tin, quản trị công ty như các doanh nghiệp đã
niêm yết. Điều này vừa giúp giảm thiểu rủi ro trong thanh toán, vừa làm cho các
giao dịch này được công khai, dễ kiểm soát, từng bước thu hút vào thị trường có
tổ chức. Mặt khác cũng cần cải tiến và nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền để người dân tiếp cận được thông tin kịp thời về cơ chế chính sách của
Nhà nước nói chung và thị trường cổ phiếu nói riêng.
25