Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

thực trạng viết câu tiếng việt mắc lỗi của sinh viên trung quốc chuyên ngành tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (936.99 KB, 102 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM







MÃ Á LỆ (MA YALI)




THỰC TRẠNG VIẾT CÂU TIẾNG VIỆT
MẮC LỖI CỦA SINH VIÊN TRUNG QUỐC
CHUYÊN NGÀNH TIẾNG VIỆT





LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ










THÁI NGUYÊN, NĂM 2011


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM







MÃ Á LỆ (MA YALI)



THỰC TRẠNG VIẾT CÂU TIẾNG VIỆT
MẮC LỖI CỦA SINH VIÊN TRUNG QUỐC
CHUYÊN NGÀNH TIẾNG VIỆT




CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ : 60 22 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS ĐÀO THỊ VÂN




THÁI NGUYÊN, NĂM 2011


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
khảo sát, điều tra, kết luận trong luận văn là trung thực và chưa từng công bố
ở bất kì công trình nào khác.


Tác giả





MÃ Á LỆ (MA YALI)














Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô giáo đã nhiệt tình chỉ bảo cho
tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Đào Thị Vân, người đã
tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới các anh chị đồng nghiệp,
các bạn học viên trong lớp đã động viên, chia sẻ và giúp đỡ tôi hoàn thành

công trình nghiên cứu đầu tay này.

TÁC GIẢ




MÃ Á LỆ (MA YALI)




i
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục i
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt iii
Danh mục các bảng iv
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 11
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN 11
1.1. Tổng quan lí thuyết về lỗi trong học ngoại ngữ 11
1.1.1. Khái niệm về lỗi sử dụng ngoại ngữ, những quan niệm khác nhau
về lỗi sử dụng ngoại ngữ 11

1.1.2. Các cách phân loại lỗi 26
1.2. Sơ lược về câu mắc lỗi, các loại câu mắc lỗi thường gặp 30
1.2.1. Sơ lược về câu mắc lỗi 30
1.2.2. Phân loại câu mắc lỗi 31
1.3. Tiểu kết 36
Chƣơng 2 KHẢO SÁT CÂU TIẾNG VIỆT MẮC LỖI 37
TRONG MỘT SỐ BÀI THI VÀ KIỂM TRA CỦA SINH VIÊN
TRUNG QUỐC CHUYÊN NGÀNH TIẾNG VIỆT 37
2.1. Kết quả khảo sát trong một số bài thi và kiểm tra của sinh viên Trung
Quốc tiếng Việt 37
2.1.1. Nhận xét chung 37
2.1.2. Kết quả số liệu điều tra 38
2.2. Phân loại và miêu tả các kiểu câu TV mắc lỗi đã thống kê 40
2.2.1. Các kiểu câu TV mắc lỗi được phân loại dựa vào tổng số lỗi xuất
hiện trong một câu 41
ii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


2.2.2. Các câu TV mắc lỗi được phân loại theo đặc trưng của lỗi 46
2.3. Tiểu kết 68
Chƣơng 3 NGUYÊN NHÂN SINH VIÊN TRUNG QUỐC VIẾT CÂU
TIẾNG VIỆT MẮC LỖI, HƢỚNG SỬA LỖI 70
3.1. Nguyên nhân sinh viên Trung Quốc viết câu tiếng Việt mắc lỗi 70
3.1. 1. Nguyên nhân thứ nhất: Do hiểu biết L2 của người học còn hạn chế 71
3.1.2. Nguyên nhân thứ hai: Do sự tương đồng hay khác biệt giữa L1 và
L2 dẫn tới lỗi chuyển di tiêu cực từ L1 (ở đây là tiếng Hán) sang L2 (ở
đây là tiếng Việt) hoặc chuyển di tiêu cực trong nội tại tiếng Việt. 72
3.1.3. Lỗi do ý thức sử dụng ngôn ngữ của người học chưa tốt 73
3.2. Về vấn đề sửa câu mắc lỗi cho ngƣời học L2 73

3.2.1. Nguyên tắc sửa lỗi 74
3.2.2. Qui trình sửa lỗi 75
3.3. Tiểu kết 88
KẾT LUẬN 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO 91










iii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TT
VIẾT TẮT
VIẾT ĐẦY ĐỦ
1
TQ
Trung Quốc
2
TV

tiếng Việt
3
L1
Ngôn ngữ thứ nhất
4
L2
Ngôn ngữ thứ hai
5
ĐTKS
Đối tượng khảo sát
6
SLTK
Số liệu thống kê
7
KQKS
Kết quả khảo sát

iv
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU


Bảng biểu
Nội dung
trang
1
Bảng 2.1.a

Bảng tổng kết số câu TV mắc lỗi mà SV TQ đã viết
39
2
Bảng 2.1.b
Bảng tổng kết số liệu xuất hiện lỗi theo từng khóa
40
3
Bảng 2.1.c
Bảng tổng kết số lượt xuất hiện lỗi tính bình quân
trên một bài
40
4
Bảng 2.2.a
Bảng tổng kết kiểu câu mắc một lỗi
42
5
Bảng 2.2.b
Bảng tổng kết kiểu câu mắc hai lỗi
43
6
Bảng 2.2.c
Bảng tổng kết kiểu câu mắc ba lỗi
44
7
Bảng 2.2.d
Bảng tổng kết kiểu câu mắc bốn lỗi
45
8
Bảng 2.2.e
Bảng tổng kết các kiểu câu mắc lỗi tính theo số lượt

lỗi/câu
46
9
Bảng 2.3
Bảng tổng hợp các kiểu câu mắc lỗi phân loại theo
đặc trưng của lỗi
48
10
Bảng 2.3.a
Bảng tổng kết kiểu câu mắc lỗi chính tả theo các khóa.
49
11
Bảng 2.3.b
Bảng tổng kết các câu mắc lỗi từ ngữ
53
12
Bảng 2.3.c
Bảng tổng kết số lượng câu sai cấu trúc đã thống kê
57
13
Bảng 2.3.d
Bảng tổng kết số lượng câu sai ngữ nghĩa đã thống kê
61
14
Bảng 2.3.e
Bảng tổng kết các câu mắc lỗi liên kết
64
15
Bảng 2.3.f
Bảng tổng kết câu mắc lỗi tổng hợp

67

1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu ngày một phát triển, việc giao
lưu văn hoá giữa các nước cũng được mở rộng không ngừng. Một điều dễ
nhận thấy là trong mấy năm gần đây, sinh viên các nước theo học ngoại ngữ
khá đông, trong đó có không ít sinh viên Việt Nam học Hán ngữ và ngược lại,
con số sinh viên Trung Quốc(TQ) học tiếng Việt cũng không phải là nhỏ.
1.2. Thực tế sử dụng tiếng Việt của sinh viên TQ học chuyên ngành
Tiếng Việt cho thấy, câu tiếng Việt mà các em viết còn mắc lỗi khá nhiều và
khá đa dạng, như câu mắc lỗi chính tả, câu mắc lỗi dùng từ, câu mắc lỗi cấu
trúc, v.v…
Có thể nói, khi học ngoại ngữ, nếu lỗi bị vi phạm nhiều lần mà không
được lưu ý, điều chỉnh thì người học (bản thân người mắc lỗi và cả những
người không mắc lỗi trong lớp học) vô hình chung tự cho rằng nói, viết như
thế là đúng và do vậy, những lỗi đó có nhiều nguy cơ trở thành cố tật. Một khi
lỗi biến thành cố tật thì không những khó sửa chữa mà còn trở thành nguyên
nhân quan trọng cản trở sự thành công của người học ngoại ngữ nói chung
trong đó có cả sinh viên TQ khi học tiếng Việt.
Vì lẽ đó, người dạy và người học ngoại ngữ cần phải phát hiện ra các lỗi
sử dụng ngôn ngữ thứ hai với tư cách là một ngoại ngữ, biết tìm ra nguyên
nhân cũng như cách khắc phục những lỗi đó.
1.3. Chọn đề tài “ Thực trạng viết câu tiếng Việt mắc lỗi của sinh viên
Trung Quốc chuyên ngành Tiếng Việt” để nghiên cứu, người viết hi vọng sẽ
góp phần làm rõ thêm các kiểu câu mắc lỗi, xu hướng và nguyên nhân viết

câu mắc lỗi trên bình diện lí luận, đồng thời luận văn có thể dùng làm tài liệu
tham khảo cho giáo viên và học sinh TQ khi dạy- học tiếng Việt.
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về việc nghiên cứu lỗi sử dụng ngôn ngữ thứ 2 của người học ngoại ngữ
Trước khi ngành Phân tích đối chiếu (CA- Contrastive Analysis) ra đời
(khoảng giữa thế kỉ XIX), hướng nghiên cứu về lỗi sử dụng ngôn ngữ thứ 2 -
ngoại ngữ (L2) của người học (NH) ngoại ngữ chưa được giới nghiên cứu
ngôn ngữ học quan tâm một cách thoả đáng.
Ngành phân tích đối chiếu ra đời và đã lấy trường tâm lí hành vi luận
(behaviorism) làm căn cứ lí luận khi đưa ra quan điểm: lực cản duy nhất khiến
người học ngoại ngữ không đạt kết quả như mong muốn là sự can thiệp không
nên có của thói quen từ tiếng mẹ đẻ hay ngôn ngữ thứ nhất (L1) của người học;
và tất cả lỗi trong quá trình học ngoại ngữ là do sự khác biệt giữa L1 và L2. Sự
khác biệt giữa hai ngôn ngữ (L1 và L2) chẳng những là nguyên nhân gây ra lỗi
mà còn là bức tường rào tạo ra những khó khăn cho người học. Chính vì vậy,
việc đối chiếu L1 và L2, chỉ ra được sự khác nhau giữa chúng sẽ là chìa khoá
giải quyết vấn đề phát hiện lỗi và sửa lỗi khi học ngôn ngữ thứ hai.
Quan điểm nói trên của lí thuyết ngành phân tích đối chiếu đã gây ra sự
hoài nghi về nguyên nhân gây lỗi của người học L2 trong giới nghiên cứu ngôn
ngữ và thúc đẩy hàng loạt các công trình nghiên cứu lỗi L2 của người học tiếng
Anh ra đời vào đầu những năm 70, thế kỉ trước của các học giả nước ngoài.
- Grauberg, W.(1971), “ An error analysis in the German of first-year
univesity students” in Perren and Trim (eds) 1971(“Phân tích lỗi trong tiếng
Đức của sinh viên năm thứ nhất” Perren, Trim (và 1 số tác giả), 1971).
- George, H. (1972), Common errors in language learning: insights from
English, Rowley mass: Newbury House(Lỗi thường gặp khi học ngôn ngữ:

những thấu hiểu khi học Tiếng Anh, Rowley Maass: Nhà xuất bản Newbury).
- Dulay, H and M. Burt (1984), “ You can‟t learn without goofing, An
analysis of children‟s second language errors‟, in Error Analysis edited by
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Jack C. Richards, London and New York: Longman, 95-123 (“Bạn không thể
học mà không mắc lỗi, phân tích lỗi khi học ngôn ngữ thứ hai của trẻ‟, Phân
tích lỗi, biên tập Jack C. Richards, Nhà xuất bản Longman tại London và New
York, 95-123).
- Tran Thi Chau (1974), “Error analysis, contrastive analysis and
students‟ perception: a study of difficulty in second language learning”,
International Review of applied Lingguistics 13, 43-119 (“Phân tích lỗi, so
sánh đối chiếu và nhận thức của người học: một nghiên cứu về những khó
khăn khi học ngôn ngữ thứ hai” Tổng quan về Ngôn ngữ ứng dụng trên thế
giới, số13, 43-119).
Kết quả nghiên cứu của các công trình dẫn trên cho thấy, yếu tố L1 chỉ là
một trong những nguyên nhân gây lỗi của người học. Hơn nữa, tỉ lệ mắc lỗi
do nguyên nhân này cũng chỉ chiếm một phần không lớn lắm và rất khác nhau
giữa các công trình. Theo tác giả W.Grauberg, tỉ lệ mắc lỗi do sự khác biệt
giữa L1 và L2 là 36%, còn của tác giả Tran Thi Chau là 51% và của tác giả H.
Dulay và M. Burt chỉ có 3%. (23, tr.6).
Gần đây, hướng nghiên cứu trên thế giới đã bắt đầu đi vào tìm hiểu lỗi
trong từng kĩ năng, nhất là kĩ năng viết của người học (trên cứ liệu nghiên cứu
lỗi của người học tiếng Anh).
Có thể dẫn ra một số tác giả tiêu biểu như:
- Cohen, A. (1987), “Student processing of feedback on their compositions”
in Wendon, A. and J. Rubin (eds), Learner strategies in learning, 57-69, UK:
Prentice Hall International (“Cách xử lý của sinh viên đối với những nhận xét

bài luận của mình”, Chiến lược của người học trong học tập, 57-69, Nhà xuất
bản quốc tế Prentice Hall tại Anh).
- Cumming, A. (1989), “Writing expertise and second language proficiency”,
Language learning, 39, 81-141 (“Viết tinh thông và sự thành thạo ngôn ngữ
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


thứ hai”, Học ngôn ngữ, 39, 81-141).
- Ferris, D. (1995), “Student reactions to teacher response in multiple-draft
comprosition classrooms”, TESOL quarterly, 31,315-339 (Những phản ứng
của sinh viên đối với những hồi đáp của giáo viên trong những lớp học viết
luận với phương pháp sửa bản thảo nhiều lần, TESOL hàng quý, 31,315-339).
- Sengupta, S. (2000), “An investigation into the effects of revision
strategy instruction on L2 secondary school learners”, System 28, 97-113
(“Nghiên cứu hiệu quả của việc hướng dẫn học theo phương pháp ôn tập đối
với học sinh phổ thông học tiếng nước ngoài” System 28, 97-113).
- Myles, J. (2002), “Second language writing and research: the writing
process and error analysis in student texts”, TESL-EJ 6(2), w w w.kyoto-su.ac,
retrieved on 6 October, 2005(“Viết ngôn ngữ thứ 2 và nghiên cứu: quá trình
viết và phân tích lỗi trong các bài viết của sinh viên”, TESL-EJ6 (2),
www.kyoto-su.ac, trích xuất ngày 6/10/2005).
Theo Johanne Myles, lỗi tỉ lệ thuận với mức độ phức tạp nội dung bài
viết và bốn nguyên nhân chính gây ra lỗi trong khi viết là: 1) Chuyển di L1
(tức chuyển di tiếng mẹ đẻ), 2) Áp dụng thái quá quy tắc, 3) Người học không
chắc chắn về nội dung ý tưởng (tức không xác định rõ nội dung bài viết), và 4)
Thiếu nhận thức về câu, cấu trúc văn bản.
Ở Việt Nam, trong hơn chục năm trở lại đây đã có một số công trình
nghiên cứu lỗi của người học ngoại ngữ (cũng dựa trên ngữ liệu lỗi của người
học tiếng Anh), như:

- Phạm Đăng Bình (2001), “Một số quan niệm khác nhau về lỗi trong
quá trình dạy và học tiếng nước ngoài”, Ngôn ngữ, số 14, 59-66.
- Phạm Đăng Bình (2002), “Thử đề xuất một cách phân loại lỗi của
người học ngoại ngữ nhìn từ góc độ dụng học giao thoa ngôn ngữ - văn hoá”,
Ngôn ngữ, số 9, 58-72.
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


- Phạm Đăng Bình (2003), “Khảo sát lỗi giao thoa ngôn ngữ - văn hoá
trong diễn ngôn của người Việt học tiếng Anh”, Luận án TS Ngữ Văn.
Ngoài những công trình của tác giả Phạm Đăng Bình vừa dẫn, còn một
số bài viết của một vài tác giả khác cũng bàn về lỗi của người Việt khi học
tiếng Anh, xin dẫn ra dưới đây:
- Cao Thị Thu (2004), “Phân biệt cách dùng một số động từ tiếng Anh
thường bị mắc lỗi ở người Việt”, Ngôn ngữ, số 10, 72-77.
- Trần Kim Phượng (2005), “ Những lỗi thường gặp về trật tự từ ở người
Việt học tiếng Anh”, Ngôn ngữ & Đời sống, số 10, 28-29.
- Hoàng Tuyết Minh (2005), “ Lỗi thường mắc của học viên người Việt
khi sử dụng những động từ nhóm Become”, Hội thảo Quốc tế Ngôn ngữ học
Liên Á VI, 444 - 451.
- Đỗ Minh Hùng (2007), “Lỗi ngữ pháp tiếng Anh thường gặp của người
Việt Nam”, Luận án TS Ngữ Văn, ĐHQG Tp HCM- 2007.
Theo tác giả Phạm Đăng Bình, “… mặc dù việc học tiếng Anh ngoại ngữ
đã có từ lâu, (nhưng- chúng tôi thêm từ này- Mã Á Lệ) hoạt động nghiên cứu
lỗi của người Việt học TA ngoại ngữ chưa nhiều, chưa có hệ thống, và cũng
chưa có các đầu sách chuyên sâu về vấn đề này.” (9, tr.11).
Luận án tiến sĩ của tác giả Phạm Đăng Bình đã đánh dấu một bước tiến
mới cần ghi nhận: tác giả đã phân tích lỗi của người học ngoại ngữ từ nhiều
góc độ: Từ các lí thuyết của ngôn ngữ học cấu trúc hành vi luận, ngôn ngữ

học chức năng, tâm lí học ngôn ngữ, ngôn ngữ học đối chiếu đến lí thuyết
giao tiếp liên văn hoá đều được tác giả vận dụng để phân tích các kiểu lỗi.
Phải khẳng định rằng, đóng góp quan trọng dễ nhận thấy của tác giả là đã đề
xuất cách phân loại lỗi từ góc độ dụng học giao thoa ngôn ngữ - văn hoá
chung cho tất cả các đối tượng học ngoại ngữ, bất kể người học có ngôn ngữ
mẹ đẻ là gì.
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Tác giả Lê Tuyết Ngọc, qua khảo sát lỗi tiếng Anh của 100 sinh viên ở
trường ĐH Công nghệ Hà Nội, đã chia các lỗi này thành 7 loại và qui về 3
nguyên nhân gây lỗi, là: 1) Chương trình và tài liệu giảng dạy không hoàn
toàn thích hợp; 2) Giáo viên chưa đạt trình độ chuẩn hoặc thiếu kinh nghiệm
giảng dạy; và 3) Người học chưa được cung cấp đầy đủ kiến thức về ngữ pháp
tiếng Anh và kĩ năng viết.
Tác giả Đỗ Minh Hùng đã tập trung khảo sát ba bộ phận ngữ pháp thường
mắc lỗi nhiều nhất trong sử dụng tiếng Anh của người học ngoại ngữ, cụ thể ở
đây là lỗi của người Việt về sử dụng giới từ, mạo từ và thì dựa trên lí thuyết
phân tích lỗi, ngữ hệ trung gian và chiến lược học tiếng của người học L2.
Tóm lại, việc nghiên cứu lỗi của người học ngoại ngữ đã được giới
nghiên cứu ngôn ngữ học quan tâm nhưng vẫn còn chưa hoàn toàn đồng nhất
về quan điểm nguyên nhân mắc lỗi của người học ngoại ngữ. Các công trình
chủ yếu là dành tìm hiểu những lỗi sử dụng L2 - ở đây là tiếng Anh - của
người học. Kết quả nghiên cứu về lỗi ngữ pháp tiếng Anh ở các nước nhìn
chung đều thống nhất ở chỗ không cho ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ hay việc
chuyển di tiêu cực của người học là nguyên nhân duy nhất gây ra lỗi sử dụng
L2. Hơn nữa, mỗi công trình tuy đều cố gắng chỉ ra một vài kiểu lỗi với
những góc nhìn khác nhau nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào tổng kết
các loại lỗi và các nguyên nhân gây lỗi một cách đầy đủ, toàn diện.

2.2. Về tình hình nghiên cứu lỗi sử dụng tiếng Việt
Có thể nói ngay rằng, đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về
việc sử dụng tiếng Việt không đúng. Đối tượng sử dụng tiếng Việt ở đây là
những người dùng tiếng Việt nói chung: Đó có thể là người Việt Nam với tư
cách là người sử dụng L1, có thể là người nước ngoài với tư cách là người sử
dụng L2.
Đã có những công trình in thành sách và dùng làm giáo trình thực hành ở
một số trường Đại học, Cao đẳng, xin liệt kê một vài công trình tiêu biểu:
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


(1) Diệp Quang Ban,1976, „Tìm cách giúp thêm cho học sinh viết đúng
câu tiếng Việt‟, Ngôn ngữ, số 3 - 1976;
(2) Nguyễn Đức Dân(1995), Tiếng Việt (thực hành), Tp Hồ Chí Minh:
Đại học Tổng hợp, TP. HCM;
(3) Nguyễn Đức Dân, Trần Thị Ngọc Lang(1992, 1993), Câu sai và câu
mơ hồ, Nxb GD;
(4) Nguyễn Minh Thuyết(1974), Mấy gợi ý về việc phân tích và sửa lỗi
ngữ pháp cho học sinh, Ngôn ngữ, số 1 - 1975;
(5) Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp(1997), Tiếng Việt thực hành
Nxb ĐH Quốc Gia HN.
Đến nay chúng tôi mới tìm thấy một số công trình nghiên cứu những lỗi sử
dụng tiếng Việt của người Trung Quốc nói chung và của sinh viên Trung Quốc
chuyên ngành Tiếng Việt nói riêng, xin dẫn một vài công trình tiêu biểu:
(1) Lê Xảo Bình (2004), Lỗi của người Trung Quốc tiếng Việt nhìn từ
góc độ xuyên văn hoá (xét về khía cạnh từ vựng), Luận văn Thạc sĩ.
(2) 杨洁(2009),‘中国学生学习越南交际文化过程中的中越文化差异思考’,

日南国,

(Dương Khiết, Những suy nghĩ vê sự khác biệt giữa văn hóa Việt Nam
và Trung Quốc trong qua trình học tập văn hóa giao tiếp của sinh viên Trung
Quốc, Nam quốc hôm nay.) NO. 09, 136-139.
(3) 李雪宁(2008),‘分析汉越词异同与语言教学’,
东南亚纵横
,(Lý Tuyết Ninh,
Phân tích sự giống nhau và khác nhau về từ Hán Việt và giảng dạy ngôn ngữ,
Tung hoành Đông Nam Á), NO. 7, 71-73.
(4) 徐智敏(2011),‘越南语基础阶段教学法探讨’,
南宁职业技术学院学报,
(Từ
Trí Mẫn, Thảo luận nghiên cứu về phương pháp dạy - học tiếng Viêt trình độ
cơ sở, Học báo Kỹ thuật Chuyên nghiệp Nam Ninh), NO. 1, 64-67.
(5) 石宝洁(2000),‘越南语语言习得难点分析’,
解放军外国语学院学报
,(Thạch
bảo khiết, phân tích những chỗ khó học về tiếng Việt, Học báo Học viên
Ngoại ngữ Giải phóng quân)NO.2, 61-63.
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Tóm lại, các công trình vừa dẫn đều ít nhiều nhắc đến lỗi sử dụng tiếng
Việt của người Việt hoặc người nước ngoài xong chưa có một công trình nào
dành riêng nghiên cứu về việc viết câu tiếng Việt mắc lỗi một cách toàn diện.
Có thể nói thêm, đến nay, vấn đề nghiên cứu thực trạng sinh viên Trung Quốc
viết câu tiếng Việt mắc lỗi vẫn đang còn là vấn đề bỏ ngỏ, cần được quan tâm
nghiên cứu.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những câu tiếng Việt mắc lỗi mà
sinh viên Trung Quốc chuyên ngành tiếng Việt thường viết (dựa trên đối tượng
khảo sát là bài thi và bài kiểm tra của sinh viên học chuyên ngành Tiếng Việt,
khoa Ngoại ngữ, Học viện Văn Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng khảo sát: Có thể khảo sát câu tiếng Việt mắc lỗi mà sinh
viên Trung Quốc thường viết trên nhiều kiểu văn bản, như bài thi, bài kiểm tra,
đơn từ, bài văn nghị luận, v.v…nhưng như đã nói ở trên, luận văn này chỉ
khảo sát trong một số bài thi và bài kiểm tra thường kì của sinh viên học
chuyên ngành Tiếng Việt, khoa Ngoại ngữ, Học viện Văn sơn, Vân Nam,
Trung Quốc.
- Về nội dung nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu năm kiểu câu
tiếng Việt mắc lỗi mà sinh viên Trung Quốc thường mắc, đó là: 1) Câu mắc
lỗi về chính tả; 2) Câu mắc lỗi dùng từ; 3) Câu mắc lỗi về ngữ nghĩa; 4) Câu
mắc lỗi về cấu trúc, và 5) Câu mắc lỗi về liên kết.
4. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1.Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm trả lời các câu hỏi sau:
(1) Những kiểu câu tiếng Việt mắc lỗi mà sinh viên Trung Quốc thường
9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


viết là gì?
(2) Nguyên nhân nào gây nên những kiểu câu mắc lỗi đó ở người viết (cụ
thể là sinh viên TQ)?
(3) Việc sửa những câu mắc lỗi nên theo định hướng nào?
(4) Luận văn có thể được dùng vào việc gì?
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích nói trên, luận văn đặt ra một số nhiệm vụ chính sau đây:

(1)Nghiên cứu và lựa chọn những vấn đề lí thuyết làm căn cứ lí luận cho
việc xử lí đề tài;
(2) Khảo sát, thống kê những câu tiếng Việt mắc lỗi mà các em sinh viên
thuộc đối tượng nói ở mục 3.1;
(3) Phân loại, miêu tả, phân tích và tổng kết các kiểu câu mắc lỗi theo
từng tiêu chí đã định trước;
(4) Tìm nguyên nhân khiến các em viết câu tiếng Việt mắc lỗi, trên cơ sở
đó thử đề xuất một số phương hướng khắc phục.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Thực hiện đề tài này, người viết sử dụng một số phương pháp và thủ
pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp thống kê, phân loại: Phương pháp nghiên cứu này được
dùng để thống kê và phân loại những câu mắc lỗi trên bài kiểm tra của sinh
viên TQ thuộc đối tượng đã nói ở mục 3.1.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp phân tích được dùng
để phân tích các câu mắc lỗi đã thống kê để tìm ra các loại lỗi.
Phương pháp tổng hợp được dùng để tổng kết các kiểu câu mắc lỗi theo
từng tiêu chí và kết luận những kết quả đã nghiên cứu được.
- Thủ pháp so sánh, đối chiếu: Thủ pháp so sánh, đối chiếu được dùng để
so sánh những điểm đồng nhất và khác biệt giữa L1 và L2 hay sự đồng nhất
10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


và khác biệt giữa 2 nền văn hoá để tìm ra nguyên nhân và cách sửa những câu
mắc lỗi.
6. Bố cục của luận văn:
Ngoài các phần: Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận

Chƣơng 2: Khảo sát câu tiếng Việt mắc lỗi trên một số bài thi và bài
kiểm tra của sinh viên Trung Quốc chuyên ngành tiếng Việt
Chƣơng 3: Nguyên nhân viết câu tiếng Việt mắc lỗi của sinh viên TQ
học chuyên ngành Tiếng Việt và hướng sửa lỗi
Kết Luận
Tài liệu tham khảo
11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN

Để thực hiện đề tài này, luận văn đã tiếp thu có chọn lọc một số lí thuyết
của các nhà nghiên cứu đi trước để làm căn cứ lí luận, đó là:
1. Lí thuyết về lỗi trong học ngoại ngữ;
2. Lí thuyết về câu, quan điểm về lỗi câu, các kiểu lỗi câu;
1.1. Tổng quan lí thuyết về lỗi trong học ngoại ngữ
1.1.1. Khái niệm về lỗi sử dụng ngoại ngữ, những quan niệm khác nhau về
lỗi sử dụng ngoại ngữ
a) Khái niệm lỗi sử dụng ngoại ngữ
Đã có khá nhiều định nghĩa cũng như quan niệm về lỗi sử dụng ngoại ngữ
(ngôn ngữ thứ 2 - L2). Ở đây xin dẫn 2 định nghĩa được nhiều người nhắc đến:
Theo tác giả Allwright, D.and K.M.Bailey, “Lỗi của người học ngoại ngữ
là tạo ra một sản phẩm hình thức ngôn ngữ đi lệch chuẩn của hình thức ngôn
ngữ đúng”. (23, tr 24).
Theo Brown, H.D, “ Lỗi là hiện tượng vi phạm quy tắc ngữ pháp của người
bản ngữ, phản ánh năng lực ngôn ngữ trung gian của người học”. (23, tr 24).

Luận văn này theo quan điểm của nhóm tác giả thứ nhất về khái niệm lỗi
sử dụng ngoại ngữ của người học.
b) Những quan niệm khác nhau về lỗi ngƣời học sử dụng L2
b.1. Lỗi theo quan điểm hành vi luận:
Brown, H.D, Chomsky, N . Ellis. R là ba nhà ngôn ngữ học tiêu biểu
theo quan điểm hành vi luận khi xem xét lỗi của người học ngoại ngữ.
Theo thuyết hành vi, thói quen có hai đặc tính cơ bản:1) Thói quen thể
hiện qua hành vi, cử chỉ, động tác và có thể quan sát được giống như những
sự vật hiện hữu trong thế giới khách quan; 2) Thói quen có tính tự động, máy
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


móc. Vì có tính tự động, máy móc cho nên một khi thói quen đã được xác lập
thì nó rất khó bị tiêu diệt khi có môi trường tạo lập thói quen mới tương tự.
Các nhà tâm lí học hành vi luận cho rằng, việc tạo lập thói quen có thể
thực hiện bằng hai cách: 1) Thông qua cơ chế bắt chước, mô phỏng; và 2)
Thông qua cơ chế khuyến khích, tăng cường.
Áp dụng hai nguyên lí này trong dạy - học ngoại ngữ, người dạy có thể
giúp người học tạo lập kích thích, phản ứng cho đến khi trở thành tự động, Ví
dụ, dạy và luyện phát âm chẳng hạn, người học thực hiện phản ứng khi được
nhận kích thích từ bên ngoài (chẳng hạn như nghe được âm nào đó do giáo
viên phát ra), họ sẽ bắt chước đến khi âm được luyện trở thành kĩ năng, tức có
thể phát ra như một thói quen khi cần.
Lí thuyết hành vi là lí thuyết của việc học nói chung và học ngoại ngữ
nói riêng. Hành vi luận khẳng định rằng việc học ngoại ngữ (L2) là việc tạo
lập những thói quen mới khi người học đã có sẵn những thói quen cũ của
tiếng mẹ đẻ (L1). Vì vậy, quá trình hình thành thói quen mới khi sử dụng L2
tất yếu sẽ chịu sự tác động và ảnh hưởng của thói quen cũ từ L1 mà lí do đã
nói ở trên (thói quen hay phản ứng cũ rất khó bị loại bỏ triệt để nếu trong quá

trình tạo thói quen mới có điều kiện tương tự).
Từ cách nhìn này, các nhà ngôn ngữ học theo quan điểm của lí thuyết
hành vi luận đã cho nguyên nhân mắc lỗi của người học khi học ngoại ngữ
chính là do sự chuyển di thói quen trong sử dụng tiếng mẹ đẻ của họ. Một
điều cực đoan của các nhà hành vi luận là đã xem lỗi sử dụng L2 của người
học là một cái xấu do người học thiếu tập trung, lơ đãng trong học tập và
không biết ngăn ngừa sự can thiệp của thói quen cũ đã có khi sử dụng L1. Vì
xem lỗi là một biểu hiện của thói xấu trong quá trình thụ đắc L2 nên các nhà
hành vi luận nhấn mạnh tới việc phải giúp người học L2 sửa chữa, loại trừ lỗi
trước khi nó trở thành thói quen.
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


b.2. Lỗi theo quan điểm phân tích, đối chiếu
Vì ra đời trên cơ sở của trường phái tâm lí hành vi luận nên cái nhìn của
các nhà ngôn ngữ học đối chiếu về lỗi của người học ngoại ngữ tuy không
hoàn toàn đồng nhất nhưng cũng có vài điểm cơ bản trùng với quan điểm của
các nhà hành vi luận.
Các nhà nghiên cứu theo quan điểm phân tích, đối chiếu cho rằng, không
nên mắc lỗi trong quá trình học ngoại ngữ. Cần phải nghiêm khắc sửa chữa
lỗi khi thụ đắc L2. Theo các nhà ngôn ngữ học phân tích đối chiếu, nguyên
nhân chính gây ra lỗi của người học ngoại ngữ là sự khác biệt giữa hai ngôn
ngữ, tức khác biệt giữa tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ thứ 2 - ngoại ngữ mà người
học đang tiến hành thụ đắc. Vì thế, khi dạy - học ngôn ngữ thứ hai, cần phải
so sánh, đối chiếu hai ngôn ngữ để tìm ra sự khác biệt giữa chúng, trên cơ sở
đó giải thích, dự đoán các lỗi mà người học đã hoặc có thể mắc phải. Và một
khi đã tìm ra nguyên nhân mắc lỗi của người học thì người dạy có thể tìm ra
hướng khắc phục các lỗi cho họ.
Tóm lại, khác với các nhà ngôn ngữ học theo quan điểm hành vi luận

hầu như chỉ quan tâm đến vai trò của thói quen khi phân tích nguyên nhân
mắc lỗi của người học, các nhà ngôn ngữ học đối chiếu đã có cái nhìn rộng
hơn khi xem xét lỗi của người học L2. Điều này thể hiện ở chỗ các nhà ngôn
ngữ học đối chiếu đã đứng trên cả bình diện tâm lí (lỗi của người học một
phần do thói quen) và bình diện ngôn ngữ (người học mắc lỗi một phần do sự
khác biệt giữa hai ngôn ngữ) để xem xét lỗi. Tuy nhiên, dường như các nhà
ngôn ngữ học đối chiếu có vẻ nghiêng về lí do thứ hai hơn, khi họ khẳng định
“ Tài liệu hiệu quả nhất là các tài liệu xây dựng trên cơ sở miêu tả một cách
khoa học ngôn ngữ đích (tức L2 – Mã Á Lệ), so sánh một cách chi tiết với hệ
thống ngôn ngữ mẹ đẻ của người học”. (45, tr 85).
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


b.3. Lỗi theo quan điểm giao thoa văn hoá
Trước khi tìm hiểu lỗi trên quan điểm giao thoa văn hoá, cần hiểu khái
niệm Văn hoá.
Cần phải nói ngay rằng, đến nay đã có khá nhiều định nghĩa về Văn hoá.
Tác giả Lê Xảo Bình (3, tr 11) đã đưa ra con số là hơn 160. Xin dẫn ra dưới
đây một số định nghĩa tiêu biểu:
Theo cuốn Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngũ học, H. 2000, khái niệm
văn hoá được hiểu như sau:
- Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình lịch sử;
- Những hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống tinh
thần- nói một cách tổng quát.
- Tri thức kiến thức khoa học;
- Trình độ cao trong sinh hoạt văn hoá xã hội, biểu hiện của văn minh;
- Nền văn hoá của một thời kì lịch sử cổ xưa được xác định trên cơ sở
một tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau.

Tác giả Damen. L đưa ra định nghĩa: Văn hoá (culture) là “ những kiểu
dạng hay mô hình sinh sống mà người học biết và cùng chia sẻ; những kiểu
dạng, mô hình diễn ra hàng ngày trong tất cả các lĩnh vực tương tác xã hội;
văn hoá là cơ chế thích nghi cơ bản của con người”. (23, tr 32).
Luận văn này tạm theo quan điểm của nhà nhân học người Anh, EB.
Tylor . Tác giả quan niệm: “Văn hoá hay văn minh hiểu theo nghĩa dân tộc
bao quát của nó, là một tổng thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ
thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và bất cứ năng lực và tập quán nào được
lĩnh hội bởi con người với tư cách là thành viên của xã hội”. (3; tr.11).
Giao tiếp bằng ngôn ngữ là một loại hình tương tác xã hội cơ bản nhất
của con người. Do đó, hoạt động ngôn ngữ tất yếu chịu sự chi phối của yếu tố
15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


văn hoá và ngược lại văn hoá cũng có tác động trở lại đối với ngôn ngữ. Đúng
như tác giả Lê Xảo Bình đã khẳng định: “Ngôn ngữ là sản phẩm tín hiệu phản
ánh hoạt động của con người, vì thế hoạt động của con người ảnh hưởng đến
mọi mặt của ngôn ngữ, kể cả cách quan niệm, tư duy, và diễn đạt ngôn
ngữ…” (3; tr.11).
Luận văn này không nhằm mục đích tìm hiểu mối quan hệ, ảnh hưởng
lẫn nhau giữa văn hoá và ngôn ngữ mà chỉ nhấn mạnh lỗi của người học ngoại
ngữ theo quan điểm giao thoa văn hoá.
Từ góc nhìn giao thoa văn hoá, tác giả Đỗ Minh Hùng cho rằng, “…
người học ngoại ngữ có thể mắc lỗi không phải đơn thuần vì sự khác biệt về
yếu tố bề mặt, yếu tố hình thức giữa L1 và L2, mà sự khác biệt về hai nền văn
hoá, sự hiểu biết về văn hoá trong L2 cũng là một nguyên nhân chính khác dẫn
đến hiện tượng vi phạm lỗi, cản trở hiệu năng giao tiếp của NH L2”. (23; tr.33).
Không phải đến bây giờ các nhà nghiên cứu ngôn ngữ mới chỉ ra một
trong những nguyên nhân dẫn đến lỗi sử dụng L2 của người học là sự khác biệt

về văn hoá mà ngay từ năm 1957, nhà ngôn ngữ học R. Lado đã tính đến sự khác
biệt về văn hoá khi so sánh các ngôn ngữ. Tác giả đã có lí khi khẳng định rằng:
“ Nếu so sánh ngoại ngữ và tiếng mẹ đẻ của người học, chỉ ra được sự giống và
khác nhau giữa hai ngôn ngữ và hai nền văn hoá thì giáo viên sẽ ý thức được
khó khăn thực sự của người học là gì và từ đó có thể dạy tốt hơn”. (46; 1).
Tác giả Lê Xảo Bình (3) cũng đã nêu được 11 kiểu lỗi dùng từ mà người
Trung Quốc thường mắc do nguyên nhân khác biệt giữa văn hoá của người
Việt và văn hoá của người Hán. Đặc biệt, những lỗi dùng từ này được tác giả
phân loại khá chi tiết theo tiêu chí từ loại, ví dụ như lỗi sử dụng đại từ xưng
hô, lỗi sử dụng một số động từ, lỗi sử dụng một số danh từ, lỗi sử dụng giới từ,
lỗi sử dụng số từ, lỗi sử dụng cảm từ,…
Tóm lại, chỉ ra sự khác biệt về văn hoá và thấy được đây là một trong
16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


những nguyên nhân sâu xa dẫn đến lỗi sử dụng L2 của người học là một bước
tiến của ngành ngôn ngữ học cả về mặt lí luận lẫn thực tiễn. Vì vậy, khi dạy
ngoại ngữ không nên bỏ qua yếu tố văn hoá trong việc phát hiện và sửa lỗi
cho người học.
b.4. Lỗi theo quan điểm phương pháp giao tiếp
Nếu như quan điểm dạy tiếng theo phương pháp cổ điển (dựa trên lí
thuyết cấu trúc luận) chỉ coi trọng việc dạy người học nắm hệ thống cấu trúc
của ngôn ngữ thì quan điểm dạy tiếng theo phương pháp giao tiếp lại vừa chú
ý tới việc dạy người học nắm hệ thống cấu trúc ngôn ngữ, vừa chú ý tới việc
rèn luyện thực hành kĩ năng giao tiếp cho họ.
Nội dung cốt lõi của phương pháp giao tiếp là: Giao tiếp hướng tới khả
năng truyền đạt nghĩa của ngôn ngữ; giao tiếp được áp dụng trong cả bốn kĩ
năng Nghe, nói , đọc, viết; và đặc biệt là bên cạnh tính chính xác trong hình
thức thì tính chất phù hợp trong sử dụng ngôn ngữ cần được lưu ý xem xét.

Dưới cái nhìn của phương pháp giao tiếp, lỗi sử dụng L2 của người học
không hoàn toàn là “thói xấu”, “cần phải kiên quyết loại bỏ ngay khi chưa
thành thói quen” mà “lỗi của người học L2 là một tín hiệu tích cực của quá
trình học tập. Lỗi cho biết người học đang tự mình tạo lập câu, phát ngôn để
trình bày ý muốn nói, chứ không hoàn toàn lặp lại chính xác những gì đã học
hoặc theo kiểu mẫu của người dạy…” (23; tr35). Những người theo quan
điểm phương pháp giao tiếp còn nhấn mạnh : “…vì đang trong quá trình học
tập nên những gì người học nói, viết chưa phải là những sản phẩm hoàn hảo,
tức lỗi là một phần tất yếu trong sản phẩm” (44; tr 65). Thậm chí, có tác giả
còn cho rằng, “ …không có lỗi tức là người học chưa học được gì mới và việc
sửa lỗi là một phần quan trọng của bài học” (44; tr 65). Hay, “Lỗi không là sự
ngu dốt, không cản trở hoạt năng trong học tập…, mà trái lại nó cho biết
người học đang thực hiện công việc học tập – nghiên cứu đang trong giai
17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


đoạn trải nghiệm cách hiểu, cách tri nhận của mình về những đặc tính hệ
thống L2 bằng cách vận dụng thử nghiệm những gì đã biết từ thực tế sử dụng
L1”. (23; tr.36).
Chiến lược giao tiếp liên quan trực tiếp đến hiện tượng vi phạm lỗi có
thể bao gồm hai trường hợp chủ yếu, đó là:1) Chuyển dịch tương ứng 1-1
giữa hai ngôn ngữ và 2) thay thế, giải thích.
- Về chiến lược chuyển dịch tương ứng 1-1: Tương ứng 1-1 ở đây bao
gồm cả số lượng và trật tự từ. Chiến lược chuyển dịch là chiến lược được sử
dụng nhiều nhất trong học ngoại ngữ bởi nó không gây khó khăn cho người
học. Song, chiến lược này trên thực tế chỉ giúp người học không mắc lỗi khi
hai ngôn ngữ (L1 và L2) có sự tương đồng trên cả ba bình diện: Kết học,
nghĩa học và dụng học. Điều đó cho ta thấy người TQ học tiếng Việt sử dụng
chiến lược chuyển dịch có nhiều bất lợi vì sự khác biệt khá lớn giữa hai ngôn

ngữ này, chẳng hạn như sự khác biệt về hệ thống ngữ âm, khác biệt về sự chia
cắt hiện thực khách quan của khá nhiều từ ngữ hay sự khác biệt về trật tự các
thành tố của câu…
- Về chiến lược thay thế / giải thích: Chiến lược này thường liên quan
đến vốn từ vựng của người học. Vì muốn nói bằng L2 nhưng không có từ
chính xác, người học phải chọn từ khác thay thế có nghĩa tương đương hoặc
giải thích dài dòng. Cả hai cách này đều sinh lỗi. Ví dụ, vì không nắm vững
nghĩa và cách sử dụng của từ giặt, từ gội và từ rửa trong tiếng Việt là ba từ có
nghĩa và cách sử dụng chỉ tương đương với một từ trong tiếng Hán – từ „洗
xi‟ . Từ „洗 xi‟ vừa có nghĩa là „rửa‟, vừa có nghĩa là „giặt‟ và „gội‟: giặt quần
áo, giặt chiếu, giặt chăn màn,…rửa mặt, rửa rau, rửa bát,…gội đầu. Cho nên
người Trung Quốc thường bị mắc lỗi khi dùng ba từ này. Có em đã dùng từ
giặt thay vì phải dùng từ rửa, ví dụ một em sinh viên đã nói: cô V giặt mặt
(rửa mặt) rất cẩn thận. Từ các ví dụ vừa dẫn có thể thấy rằng, chiến lược thay

×