Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

tích hợp giáo dục hướng nghiệp trong dạy học di truyền học (sinh học 12)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (991.34 KB, 101 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM







NGUYỄN THỊ HỒNG HOA







TÍCH HỢP GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP TRONG
DẠY HỌC DI TRUYỀN HỌC (SINH HỌC 12)







LUẬN VĂN THẠC SỸ GIÁO DỤC HỌC













Thái Nguyên – 2010


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM




NGUYỄN THỊ HỒNG HOA




TÍCH HỢP GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP TRONG

DẠY HỌC DI TRUYỀN HỌC (SINH HỌC 12)




Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học môn Sinh học
Mã số: 60.14.10





LUẬN VĂN THẠC SỸ GIÁO DỤC HỌC






NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS.NGUYỄN NHƯ ẤT





Thái Nguyên – 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS.Nguyễn Như Ất đã nhiệt

tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành
luận văn.
Xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ, giảng viên trong tổ bộ môn
Phương pháp giảng dạy Sinh học, Khoa Sinh – KTNN, trường Đại học Sư
phạm Thái Nguyên; tập thể cán bộ, giảng viên khoa Sau đại học, Đại học Thái
Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong thời gian học tập và
nghiên cứu tại trường.
Xin chân thành cảm ơn BGH, Tổ Hoá – Sinh trường THPT Phú Lương
và các đồng nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tác giả trong quá trình
thực nghiệm đề tài.
Cảm ơn những người thân trong gia đình và bạn bè đã quan tâm giúp
đỡ, động viên tác giả trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn.

Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Hồng Hoa


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


Chữ viết tắt
Xin đọc là
CNH
Công nghiệp hoá
CNSH
Công nghệ sinh học
CNTB

Công nghệ tế bào
GD
Giáo dục
GDHN
Giáo dục hướng nghiệp
GV
Giáo viên
HĐH
Hiện đại hoá
HS
Học sinh
SGK
Sách giáo khoa
SH
Sinh học
THPT
Trung học phổ thông
TN
Thực nghiệm
TNSP
Thực nghiệm sư phạm
XHCN
Xã hội chủ nghĩa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU …………………………………………………………………. 1
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP VÀ GDHN
THÔNG QUA BỘ MÔN SINH HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG

1.1. Một số khái niệm cơ bản …………………………………………… 5
1.2. Tổng quan về giáo dục hướng nghiệp ……………………………… 10
1.3. Điều tra về tình hình giáo dục hướng nghiệp ở trường THPT……… 19
Chương 2. TÍCH HỢP GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP TRONG DẠY HỌC
DI TRUYỀN HỌC (SINH HỌC 12) Ở TRƯỜNG THPT
2.1. Những vấn đề chung về giáo dục hướng nghiệp …………………… 24
2.2. Một số vấn đề lí luận về cách tiếp cận tích hợp trong GDHN …… 29
2.3. Phương pháp tích hợp GDHN trong dạy học di truyền học (SH 12) … 31
2.4. Một số ví dụ tích hợp GDHN trong dạy học di truyền học (SH 12) .… 46
Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
3.1. Mục đích, nhiệm vụ thực nghiệm sư phạm ………………………… 50
3.2. Nội dung và phương pháp thực nghiệm sư phạm ……………………. 50
3.3. Kết quả thực nghiệm sư phạm ……………………………………… 54
3.4. Bàn luận kết quả thực nghiệm ……………………………………… 62
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ………………………………………………. 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………… 65



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
* Xuất phát từ nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH
– HĐH đất nƣớc.
Bƣớc vào thế kỉ XXI, sự nghiệp CNH – HĐH ở nƣớc ta đƣợc đẩy mạnh
theo hƣớng phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam trở thành nƣớc công nghiệp
hiện đại. Một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu đặt ra cho ngành giáo
dục và đào tạo là phải đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
CNH – HĐH đất nƣớc.
Tuy nhiên hiện nay chúng ta đang thiếu hụt lao động trầm trọng ở rất

nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực, nhiều trình độ khác nhau, đặc biệt là nguồn
nhân lực chất lƣợng cao. Thực trạng này đã tồn tại khá lâu và giờ đây đang
trở thành lực cản chính cho sự nghiệp CNH – HĐH đất nƣớc. Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hụt nguồn nhân lực, chẳng hạn: lao động không
qua đào tạo; sự cách biệt giữa chất lƣợng nguồn nhân lực cung ứng so với nhu
cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp… Nhƣng nguyên nhân cơ bản là
chúng ta chƣa tiến hành tốt đƣợc khâu tổ chức hoạt động chuẩn bị cho thanh
niên nói chung và cho HS phổ thông nói riêng tham gia đào tạo các nghề theo
nhu cầu nguồn nhân lực. Trong phạm vi giáo dục phổ thông đó chính là hoạt
động GDHN trong đó có GDHN thông qua dạy học các môn khoa học cơ bản
nhƣ với môn Sinh học chẳng hạn. Tuy nhiên vấn đề tích hợp GDHN thông
qua môn Sinh học nhƣ thế nào là hợp lý cho đến nay vẫn còn chƣa đƣợc
nghiên cứu đáng kể.
* Xuất phát từ yêu cầu giáo dục hƣớng nghiệp ở trƣờng phổ thông
GDHN là một nhiệm vụ quan trọng trong nhà trƣờng phổ thông, thực
hiện chức năng tạo cơ sở cho phân luồng HS sau khi tốt nghiệp. Nghị quyết
số 40/2000/QH 10 ngày 09-12-2000 của Quốc hội về đổi mới chƣơng trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2
giáo dục phổ thông đã khẳng định mục tiêu đổi mới chƣơng trình giáo dục
phổ thông là xây dựng nội dung chƣơng trình, phƣơng pháp giáo dục, SGK
phổ thông nhằm phát triển chất lƣợng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng
yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH – HĐH đất nƣớc, phù hợp
thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở
các nƣớc trong khu vực và trên thế giới.
* Xuất phát từ đặc điểm bộ môn Sinh học
Sinh học là môn học mà nội dung kiến thức có liên quan tới hàng loạt
nghề trong nhiều lĩnh vực nhƣ: Nông, lâm, ngƣ nghiệp; công nghiệp; y, dƣợc
học; bảo vệ môi trƣờng… Thông qua các bài học, GV có điều kiện giúp HS
làm quen với công việc của những ngƣời làm các nghề có liên quan đến các
đối tƣợng sống nhƣ: nghề trồng cây lƣơng thực, cây công nghiệp; nghề chăn

nuôi gia súc, gia cầm, thuỷ hải sản; bác sỹ; bác sỹ thú y; dƣợc sỹ; quản lí và
bảo vệ môi trƣờng; kĩ sƣ công nghệ sinh học; kĩ sƣ chế biến lƣơng thực, thực
phẩm; chế biến thức ăn chăn nuôi; chế biến phân bón, thuốc trừ sâu…
* Xuất phát từ quan điểm xây dựng và phát triển chƣơng trình môn học
Trong quan điểm xây dựng và phát triển chƣơng trình môn học, Bộ GD
& ĐT đã khẳng định chƣơng trình phải quán triệt đƣợc quan điểm giáo dục kỹ
thuật tổng hợp và hƣớng nghiệp để giúp học sinh thích ứng với những ngành
nghề liên quan đến sinh học và tìm hiểu những ứng dụng các kiến thức sinh
học trong sản xuất và đời sống.
Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: “Tích hợp giáo dục hƣớng
nghiệp trong dạy học Di truyền học (Sinh học 12)”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu các biện pháp tích hợp giáo dục hƣớng nghiệp trong dạy
học Di truyền học (Sinh học 12) nhằm đảm bảo quán triệt quan điểm giáo dục
kĩ thuật tổng hợp và hƣớng nghiệp trong môn học, nâng cao tính hứng thú về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3
hƣớng nghiệp của học sinh, qua đó góp phần nâng cao chất lƣợng giáo dục
nói chung và nâng cao chất lƣợng dạy học môn Sinh học ở trƣờng phổ thông
nói riêng.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
* Đối tƣợng nghiên cứu: Hoạt động giáo dục hƣớng nghiệp trong quá
trình dạy học Di truyền học (Sinh học 12) ở trƣờng THPT.
* Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học môn Sinh học ở trƣờng
THPT.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu tích hợp giáo dục hƣớng nghiệp trong dạy học Di truyền học
(Sinh học 12) trên cơ sở quán triệt quan điểm giáo dục kĩ thuật tổng hợp và
hƣớng nghiệp thì sẽ hình thành nhận thức đúng và tạo ra hứng thú về
hƣớng nghiệp cho HS, qua đó góp phần nâng cao chất lƣợng dạy học bộ
môn ở trƣờng THPT.

5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
* Khảo sát thực trạng giáo dục hƣớng nghiệp ở trƣờng phổ thông.
* Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của tích hợp giáo dục hƣớng
nghiệp trong dạy học Di truyền học (Sinh học 12).
* Đề xuất các biện pháp tích hợp giáo dục hƣớng nghiệp trong dạy học Di
truyền học (Sinh học 12).
* Thực nghiệm sƣ phạm để kiểm chứng tính hiệu quả và tính khả thi của
những biện pháp đã đề xuất.
6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
* Phƣơng pháp nghiên cứu lí thuyết
Nghiên cứu các tài liệu, văn bản có liên quan đến đề tài để tổng quan tình
hình nghiên cứu và xây dựng cơ sở lí luận của tích hợp giáo dục hƣớng
nghiệp trong dạy học Di truyền học (Sinh học 12).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4
* Phƣơng pháp điều tra thực trạng
Thiết kế và sử dụng phiếu điều tra để tìm hiểu tình hình giáo dục hƣớng
nghiệp trong dạy học ở trƣờng THPT.
* Phƣơng pháp thực nghiệm sƣ phạm
Thực nghiệm sƣ phạm ở trƣờng THPT nhằm kiểm chứng giả thuyết khoa
học của đề tài.
* Phƣơng pháp thống kê toán học
Các số liệu thu đƣợc trong thực nghiệm sƣ phạm đƣợc xử lý thống kê
bằng phần mềm Microsoft Excel, xác định các tham số đặc trƣng mang tính
khách quan.
7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan về giáo dục hƣớng nghiệp và giáo dục hƣớng
nghiệp thông qua bộ môn Sinh học ở trƣờng phổ thông.
Chƣơng 2: Tích hợp giáo dục hƣớng nghiệp trong dạy học Di truyền
học (Sinh học 12) ở trƣờngTHPT.

Chƣơng 3: Thực nghiệm sƣ phạm.
8. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
- Xây dựng cơ sở lí thuyết và thực tiễn của hoạt động tích hợp giáo dục
hƣớng nghiệp trong dạy học Di truyền học (Sinh học 12).
- Đề xuất một số giải pháp tích hợp giáo dục hƣớng nghiệp trong dạy
học Di truyền học (Sinh học 12).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ GIÁO DỤC HƢỚNG NGHIỆP VÀ GDHN THÔNG
QUA BỘ MÔN SINH HỌC Ở TRƢỜNG THPT
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Nghề nghiệp
Theo từ điển tiếng Việt: “Nghề là công việc chuyên môn làm theo sự
phân công lao động của xã hội” [20].
Theo E.A.Klimov: “Nghề nghiệp là lĩnh vực sử dụng sức lao động
vật chất và tinh thần của con ngƣời một cách có giới hạn cần thiết cho xã
hội (do sự phân công lao động mà có), nó tạo cho con ngƣời khả năng sử
dụng lao động của mình để thu lấy những phƣơng tiện cần thiết cho tồn tại
và phát triển” [16].
Nhƣ vậy có thể coi nghề nghiệp là một công việc mà để có đƣợc thì đòi
hỏi con ngƣời phải trải qua một quá trình đƣợc đào tạo nhất định, đƣợc trang
bị những kiến thức chuyên môn, kĩ năng, kĩ xảo đặc thù. Nhờ quá trình hoạt
động nghề nghiệp mà con ngƣời có thể tạo ra những sản phẩm nhằm thoả mãn
nhu cầu bản thân và phục vụ xã hội. Ví dụ nghề bác sỹ, nghề dạy học…
1.1.2. Hƣớng nghiệp
Có nhiều lĩnh vực khoa học đề cập đến công tác hƣớng nghiệp. Để hiểu
đƣợc bản chất của khái niệm này chúng ta cần xem xét các định nghĩa khác
nhau về hƣớng nghiệp.
Theo từ điển tiếng Việt: “Hƣớng nghiệp là thi hành những biện pháp
nhằm đảm bảo sự phân bố tối ƣu (có chú ý tới năng khiếu, năng lực thể

lực) nội dung theo ngành và loại lao động giúp đỡ lựa chọn hợp lí ngành
nghề [20, tr.458].
Theo từ điển giáo dục học: “Hƣớng nghiệp là hệ thống các biện pháp
giúp đỡ học sinh làm quen tìm hiểu nghề, lựa chọn cân nhắc nghề nghiệp với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6
nguyện vọng, năng lực, sở trƣờng của mỗi ngƣời. Với nhu cầu và điều kiện
thực tế khách quan của xã hội” [13, tr.209].
Xét ở bình diện khoa học lao động: Hƣớng nghiệp là hình thức giám
định lao động có tính chất chẩn đoán. Đó là quá trình xác lập sự phù hợp nghề
của từng ngƣời cụ thể dựa trên cơ sở xác định sự tƣơng ứng giữa những đặc
điểm tâm – sinh lí của họ với những yêu cầu của một nghề nào đó đối với
ngƣời lao động [8].
Xét trên bình diện xã hội: Toàn bộ các nhà máy, xí nghiệp, công
trƣờng, nông trƣờng, các cơ quan quản lí kinh tế và quản lí nhà nƣớc, các cơ
quan của những đoàn thể chính trị và xã hội đều cần đến những ngƣời có
năng lực và những phẩm chất nhân cách phù hợp. Để chọn đƣợc ngƣời theo
đúng những tiêu chuẩn đã định thì những cơ quan, tổ chức nói trên phải có
nhiệm vụ giới thiệu cho thế hệ trẻ hiểu đƣợc nội dung, tính chất, đặc điểm,
yêu cầu công việc của mình.
Xét trên bình diện nhà trƣờng phổ thông: “Hƣớng nghiệp là sự tác động
của một hệ thống những biện pháp tác động của nhà trƣờng, gia đình và xã hội,
trong đó nhà trƣờng đóng vai trò chủ đạo nhằm hƣớng dẫn và chuẩn bị cho thế
hệ trẻ sẵn sàng đi vào lao động ở các ngành nghề, tại những nơi xã hội đang
cần phát triển, đồng thời lại phù hợp với hứng thú, năng lực cá nhân” [14].
Công tác hƣớng nghiệp của trƣờng phổ thông chỉ là một bộ phận của
công tác hƣớng nghiệp của toàn xã hội. Công tác hƣớng nghiệp trong
trƣờng học phải thống nhất với công tác hƣớng nghiệp của xã hội. Bởi vậy
công tác hƣớng nghiệp không thể có hiệu quả nếu chỉ nhà trƣờng tiến hành
một cách biệt lập.
Tháng 10/1980, tại Hội nghị lần thứ 9 những ngƣời đứng đầu cơ quan

giáo dục nghề nghiệp của các nƣớc XHCN họp tại La Habana thủ đô Cuba đã
thống nhất về khái niệm hƣớng nghiệp nhƣ sau: “Hƣớng nghiệp là hệ thống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7
những biện pháp dựa trên cơ sở tâm lí học, sinh lí học, y học và nhiều khoa
học khác để giúp đỡ học sinh chọn nghề phù hợp với nhu cầu xã hội, đồng
thời thoả mãn tối đa nguyện vọng thích hợp với những năng lực, sở trƣờng và
điều kiện tâm sinh lí cá nhân, nhằm mục đích phân bố hợp lí và sử dụng có
hiệu quả nhất lực lƣợng dự trữ có sẵn của đất nƣớc” [16].
1.1.3. Giáo dục kĩ thuật tổng hợp
Theo từ điển giáo dục học thì: “Giáo dục kĩ thuật tổng hợp là bộ phận
nội dung giáo dục toàn diện trong trƣờng phổ thông có nhiệm vụ cung cấp
những kiến thức có liên quan đến các ứng dụng khoa học kĩ thuật trong các
ngành sản xuất chủ yếu trong công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải,
bƣu chính viễn thông… rèn luyện các kĩ năng, kĩ xảo và phong cách lao động
công nghiệp, bồi dƣỡng năng lực tƣ duy khoa học – công nghệ tiên tiến, giới
thiệu các phƣơng pháp tổ chức, quản lí nền kinh tế hiện đại theo cơ chế thị
trƣờng có định hƣớng XHCN” [13].
Theo nhà nghiên cứu giáo dục học ngƣời Nga M. N Xcatkin: “ Nguyên
lí kĩ thuật tổng hợp trong nội dung giáo dục thể hiện ở việc trình bày các quy
luật khoa học và các nguyên lí kĩ thuật, công nghệ, tổ chức nền kinh tế sản
xuất hiện đại; ở chỗ vũ trang cho học sinh những kĩ năng kĩ thuật tổng hợp
khái quát, dễ dàng vận dụng vào những hoàn cảnh mới và ở việc phát triển tƣ
duy kĩ thuật mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo. Để thực hiện nguyên lí kĩ thuật
tổng hợp trong các môn học ở trƣờng phổ thông cần đƣa vào những kiến thức
về các cơ sở khoa học của các phƣơng tiện kĩ thuật hiện đại và các quá trình
công nghệ học; cũng nhƣ những kĩ năng kĩ thuật tổng hợp cần thiết cho ngƣời
lao động thuộc mọi ngành sản xuất khác nhau nhƣ những kĩ năng đo lƣờng,
tính toán, lập sơ đồ, sửa chữa, phòng thí nghiệm và các kĩ năng khác. Vũ
trang cho học sinh những kĩ năng và kĩ xảo kĩ thuật tổng hợp chung nhƣ vậy
sẽ giúp các em chuẩn bị vào cuộc sống, định hƣớng trẻ đi vào những hoàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8
cảnh thƣờng xuyên thay đổi của nền sản xuất hiện đại và nhanh chóng nắm
vững nghề nghiệp khi kết thúc quá trình học ở trƣờng” [2].
Giáo dục kĩ thuật tổng hợp là một yêu cầu có tính nguyên tắc đối với sự
nghiệp giáo dục nhằm đào tạo con ngƣời lao động mới XHCN. Nó có tác
dụng to lớn trong việc hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho học
sinh. Do đó cần đƣợc thực hiện trong tất cả các bậc học, cấp học phổ thông
tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh cho phép. Hình thức tổ chức giáo dục kĩ thuật
tổng hợp chủ yếu là lồng ghép và tích hợp liên môn, ngoài ra có thể tổ chức
dạy nghề, tham gia lao động sản xuất, tham quan xí nghiệp, công trƣờng,
nông trƣờng, trang trại….
Có nhiều cách hiểu khác nhau về quán triệt quan điểm giáo dục kĩ thuật
tổng hợp trong dạy học môn Sinh học. Một số nhà phƣơng pháp cho rằng đó
là làm sáng tỏ những cơ sở sinh học của sản xuất nông nghiệp. Số khác lại
hiểu giáo dục kĩ thuật tổng hợp chính là sự phân tích sâu sắc những vấn đề lí
thuyết của sinh học. Số nữa lại hƣớng sự giáo dục kĩ thuật tổng hợp vào việc
tăng cƣờng các bài thực hành của học sinh trong vƣờn trƣờng, ruộng thực
hành, cơ sở sản xuất nông nghiệp, khu vực VAC [4].
Nhƣ vậy, nguyên tắc giáo dục kĩ thuật tổng hợp trong dạy học bộ môn
Sinh học ở trƣờng phổ thông có thể hiểu là trang bị cho HS những cơ sở lí
thuyết sinh học, giới thiệu cho các em những quy trình công nghệ thuộc các
lĩnh vực sản xuất mà đối tƣợng lao động là những cơ thể sống, tập dƣợt một
số kĩ năng thực hành ứng dụng lí thuyết và kĩ thuật vào đời sống, đặc biệt vào
sản xuất nông nghiệp, làm kinh tế gia đình theo hƣớng mô hình trang trại
nông, lâm, ngƣ nghiệp … Việc quán triệt quan điểm giáo dục kĩ thuật tổng
hợp không chỉ dừng lại ở sự trang bị cho HS những kiến thức lí thuyết mà còn
phải rèn luyện cho các em một số kĩ năng vận dụng vào thực tiễn lao động;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9
bồi dƣỡng tình cảm, thái độ đối với lao động thuộc lĩnh vực nghề nghiệp liên
quan đến thế giới sống.

Theo cách hiểu quán triệt quan điểm giáo dục kĩ thuật tổng hợp trong
dạy học môn Sinh học, học sinh sẽ hình thành hệ thống các tri thức, kĩ năng,
kĩ thuật tổng hợp cơ bản sau đây:
- Cơ sở khoa học của các nguyên lí, biện pháp kĩ thuật sản xuất nông
nghiệp, CNSH, bảo vệ môi trƣờng.
- Kĩ năng thực hiện các kĩ thuật, quy trình công nghệ nhất định đảm
bảo phát triển sản xuất theo hƣớng bền vững, tăng năng suất lao động.
- Hình thành ý thức định hƣớng nghề nghiệp, có ý thức tham gia vào
các hoạt động lao động công ích nhƣ trồng cây gây rừng, vệ sinh môi trƣờng.
1.1.4. Giáo dục hƣớng nghiệp
Giáo dục hƣớng nghiệp trong nhà trƣờng phổ thông là quá trình tác
động của các lực lƣợng giáo dục trong và ngoài nhà trƣờng tới HS, giúp họ
định hƣớng đƣợc nghề nghiệp tƣơng lai sao cho phù hợp với năng lực của bản
thân đồng thời đáp ứng với yêu cầu khách quan của xã hội [15].
Trong nhà trƣờng phổ thông, GDHN vừa là hoạt động dạy của GV, vừa
là hoạt động học của HS. GV là ngƣời tổ chức các hoạt động, giúp đỡ nhằm
hƣớng HS chủ động tiếp cận với hệ thống các nghề nghiệp trong xã hội, tìm
hiểu nhu cầu nguồn nhân lực của địa phƣơng, của cả nƣớc, thậm chí xu hƣớng
của cả thế giới. Ngoài ra, GV còn phải giúp đỡ HS trong việc khám phá năng
lực cá nhân, năng khiếu, sở trƣờng để từ đó các em tự hình thành và tự điều
chỉnh động cơ, hứng thú nghề nghiệp một cách hợp lí.
GDHN là một hoạt động giáo dục của nhà trƣờng phổ thông nhằm giúp
HS nhận thức đúng đắn về năng lực, sở trƣờng của bản thân để các em có sự
chuẩn bị tích cực cho bản thân trong chọn ngành nghề phù hợp khi học xong
phổ thông. Đồng thời cũng tạo động lực định hƣớng cho HS chú ý tu dƣỡng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10
phẩm chất đạo đức, trau dồi trình độ văn hoá, rèn luyện sức khoẻ để đáp ứng
nhu cầu nguồn nhân lực của xã hội.
1.2. Tổng quan về giáo dục hƣớng nghiệp
1.2.1. Tình hình giáo dục hƣớng nghiệp trên thế giới

Thuật ngữ “Hƣớng nghiệp” do giáo sƣ F.Parson thuộc ĐH Tổng hợp
Garvared (Mỹ) đề cập lần đầu tiên vào năm 1908 ở Boston khi tổ chức hội
đồng nghề nghiệp nhằm giúp đỡ việc chọn nghề cho ngƣời lao động. Vào
đầu thế kỉ XX, ở Mỹ, Anh, Pháp, Thụy Điển đã xuất hiện các cơ sở dịch vụ
hƣớng nghiệp.
Ở Nga, cuốn sách hƣớng nghiệp “Lựa chọn khoa và điểm qua chƣơng
trình đại học tổng hợp” của tác giả B.F.Kapeev đƣợc xuất bản lần đầu tiên
vào năm 1897. Trong cuốn sách này có nêu rõ ý nghĩa về lựa chọn nghề khi
thi vào đại học nhằm giúp cho học sinh có những thông tin rõ ràng trƣớc chọn
trƣờng, khoa thi.
Năm 1927 ở Lêningrat đã tổ chức hƣớng nghiệp với mục đích giúp cho
tuổi trẻ và cha mẹ các em làm quen với thế giới nghề nghiệp. Năm 1930 ở
Matxcơva đã thành lập Phòng thí nghiệm Trung ƣơng về tƣ vấn nghề và lựa
chọn nghề trực thuộc Trung ƣơng đoàn thanh niên Cộng sản Lênin, trong đó
Phòng thí nghiệm đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu, tổng kết và
phổ biến những kinh nghiệm tiêu biểu của những cơ quan tƣ vấn nghề, đặc
biệt là việc chọn nghề của tuổi trẻ trong các trƣờng phổ thông kĩ thuật. Hoạt
động tƣ vấn sẽ giúp tuổi trẻ hiểu rằng muốn cho đất nƣớc ổn định và phồn
vinh không chỉ cần sự đóng góp sức lực và khả năng của mình, mà hơn thế
nữa giúp mỗi ngƣời lựa chọn cho mình một vị trí trong cơ cấu nghề nghiệp xã
hội phù hợp với đặc điểm tâm lí và năng lực về kĩ năng, kĩ xảo lao động nghề
nghiệp. Nói cách khác, tính đa dạng, nhiều vẻ của thế giới nghề nghiệp và
cùng với nó là sự phức tạp của những đặc điểm tâm sinh lí của con ngƣời phải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11
đƣợc xét tới trong hoạt động lựa chọn nghề của tuổi trẻ. Dựa trên quan điểm
của C.Mác, V.I.Lênin và của những nhà khoa học giáo dục khi xem xét vấn
đề hƣớng nghiệp đối với sự hình thành nhân cách và ảnh hƣởng của nó tới các
hoạt động sản xuất xã hội, chúng ta có thể thấy đƣợc nếu sớm thực hiện
GDHN cho thế hệ trẻ thì đó sẽ là cơ sở để giúp cho họ chọn nghề đúng đắn,
có sự phù hợp giữa năng lực, sở thích cá nhân và nhu cầu xã hội [16].

Ở Pháp, năm 1928 đã thành lập Viện Quốc gia nghiên cứu về lao động
và hƣớng nghiệp. Năm 1975 nƣớc Pháp đã tiến hành cải cách giáo dục để
hiện đại hoá nền giáo dục. Cải cách giáo dục Pháp chú ý đặc biệt chăm lo
giáo dục lao động và nghề nghiệp cho học sinh, khắc phục khuynh hƣớng và
quan niệm coi giáo dục lao động là hoạt động giáo dục loại hai (tức là đứng
sau các môn khoa học). Giáo dục Pháp chăm lo đến phát triển nhân cách toàn
diện cho HS trong đó coi giáo dục lao động thủ công và nghề nghiệp bình
đẳng với các loại hình hoạt động khác của nhà trƣờng, coi đào tạo “tiền nghề
nghiệp” nhƣ là cơ sở cho việc học tập liên tục về sau và chuẩn bị cho HS
bƣớc vào cuộc sống lao động. Nhà trƣờng Pháp hiện nay đã giảm bớt tính hàn
lâm trong việc trong việc cung cấp các kiến thức khoa học mà tăng cƣờng tỉ
trọng kiến thức có ý nghĩa thực dụng và ý nghĩa hƣớng nghiệp để giúp cho
HS trung học chuẩn bị đi vào đào tạo và cuộc sống nghề nghiệp.
Nhà nƣớc Pháp thực hiện công tác hƣớng nghiệp không những cho HS
phổ thông mà còn cả với ngƣời lớn theo một tiếp cận mới. Đó là kết hợp các
hƣớng cung cấp thông tin về thế giới nghề nghiệp, về đặc điểm lao động của
từng nghề, về các trƣờng đào tạo nghề giúp cho ngƣời học có nhu cầu đủ cơ
sở để so sánh, lựa chọn. Mặt khác, nhà trƣờng tổ chức các phƣơng pháp nhƣ
GV quan sát, tìm hiểu nhiều mặt liên quan đến nghề nghiệp tƣơng lai của HS,
còn các chuyên gia tâm lí hƣớng nghiệp, thầy thuốc trƣờng học tiến hành các
kiểm tra về nhân học, tâm lí y học đối với HS. Trên cơ sở đó, nhà trƣờng hay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12
nhà tƣ vấn đƣa ra những tƣ vấn tâm lí về chọn nghề, để từng HS tự quyết định
sự chọn nghề lần đầu hay điều chỉnh chọn nghề, thay đổi nghề [18].
Ở Đức, hệ thống trƣờng phổ thông quán triệt nguyên tắc hƣớng nghiệp
để chuẩn bị cho HS đi vào trƣờng đào tạo nghề tuỳ theo trình độ học tập của
mỗi em. Ngay từ học kì I lớp 10, GV chủ nhiệm liên hệ với những cơ sở
hƣớng nghiệp, những trƣờng dạy nghề của các công ti tƣ nhân và của nhà
nƣớc để bố trí HS đến đó tìm hiểu về nghề nghiệp mà mình muốn học. Những
HS có nhu cầu hay có năng lực học lên đại học buộc phải có học lực khá và từ

lớp 11 đƣợc học trƣờng phổ thông hệ học lên đại học. Xu hƣớng hiện đại hoá
ở đây là tạo điều kiện cho HS có thể học nghề ngay từ khi đang học phổ
thông, cung cấp hệ thống kiến thức khoa học gắn với hƣớng đào tạo nghề một
cách linh hoạt, giảm bớt tính hàn lâm của bậc học trung học hoàn chỉnh [9].
Ở Ba Lan, trong báo cáo về chiến lƣợc hiện đại hoá “Con đƣờng tới
2010” của Uỷ ban dự báo “Ba Lan trong thế kỉ XXI” thuộc chủ tịch đoàn viện
hàn lâm Ba Lan đã xác định một số trong các nguyên tắc chỉ đạo cải cách giáo
dục gồm: Nguyên tắc phân nhánh rộng thay cho hƣớng phân hoá hẹp trƣớc
đây vì phân hoá rộng đảm bảo thay đổi nhanh chóng trình độ lành nghề cho
ngƣời lao động và đào tạo cán bộ. Nguyên tắc phát triển mọi mặt trí tuệ, tâm
lí, nghề nghiệp - xã hội, thể chất của học sinh đảm bảo mục tiêu con ngƣời
phát triển toàn diện. Nguyên tắc giáo dục thông qua lao động và giáo dục lao
động thực hiện thông qua quá trình lao động, giáo dục kĩ thuật tổng hợp tiếp
nhận tri thức và kĩ năng phù hợp với các giai đoạn và hình thức học tập, công
tác hƣớng học và hƣớng nghiệp [9].
Ở Australia GDHN, lập nghiệp nhằm phát triển những kĩ năng, kiến
thức và thái độ thông qua một chƣơng trình học tập đƣợc kế hoạch hoá. Việc
giáo dục này là cơ sở để HS biết ra những quyết định về việc lựa chọn có tính
hƣớng nghiệp, lập nghiệp trong và sau khi học ở trƣờng, tham gia có hiệu quả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13
vào đời sống lao động. Những yếu tố của GDHN, lập nghiệp đƣợc thể hiện
thông qua những nhiệm vụ của HS. Đó là: học về bản thân trong mối quan hệ
với lao động; học về thế giới việc làm; học về làm kế hoạch và ra quyết định
hƣớng nghiệp, lập nghiệp; ứng dụng những quyết định về hƣớng nghiệp, lập
nghiệp và quản lí sự dịch chuyển lao động.
Tại châu Á, nền giáo dục của nhiều quốc gia cũng dành nhiều sự quan
tâm thích đáng đến GDHN. Nhật Bản là nƣớc sớm quan tâm, giải quyết tốt
mối quan hệ giữa học vấn văn hoá phổ thông với kiến thức và kĩ năng lao
động - nghề nghiệp ở tất cả các bậc học. Có khoảng 27,9% số trƣờng THPT
vừa dạy - học văn hoá phổ thông vừa dạy - học các môn học kĩ thuật thuộc

các lĩnh vực cơ khí, ngƣ nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ… Sau khi
tốt nghiệp cấp II có đến 94% HS vào cấp III, trong đó 70% theo học các loại
hình trƣờng phổ thông cơ bản và 30% HS theo hƣớng học nghề [21].
Tại Hàn Quốc, trong các loại hình trƣờng phổ thông, nội dung giảng
dạy kĩ thuật - lao động là một bộ phận cấu thành quan trọng trong chƣơng
trình giáo dục. Khi hết cấp II, học sinh sẽ đi theo hai luồng chính: phổ thông
và chuyên nghiệp. Các trƣờng kĩ thuật nghề nghiệp tuyển sinh trƣớc rồi mới
chọn học sinh theo luồng phổ thông [21].
Còn ở Trung Quốc thì khuyến khích giáo dục suốt đời một cách tích
cực. Hiện nay giáo dục dựa trên cộng đồng đang đƣợc phát triển mạnh mẽ.
Trong chƣơng trình giảng dạy thƣờng có các môn học tự chọn với mục tiêu
trang bị cho HS những kiến thức và kĩ năng chuyên môn cần thiết để HS có
khả năng tham gia lao động nghề nghiệp ở các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác
nhau hoặc tiếp tục học lên trình độ nghề nghiệp cao hơn ở bậc đại học [21].
1.2.2. Tình hình nghiên cứu giáo dục hƣớng nghiệp ở Việt Nam
Ngƣời đề cập đến công tác GDHN ở Việt Nam trƣớc hết phải kể đến
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngƣời đã rất coi trọng công tác hƣớng nghiệp, đã vận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14
dụng sáng tạo các quan điểm giáo dục của chủ nghĩa Mác – Lênin nhằm đào
tạo lớp ngƣời lao động mới. Nói về hƣớng nghiệp trong bài “Học sinh và lao
động” Bác viết: “Thi đỗ tiểu học rồi thì muốn lên trung học, đỗ trung học rồi
thì muốn lên đại học, riêng về mỗi cá nhân của ngƣời học sinh ấy thì ý muốn
ấy không có gì lạ. Nhƣng chung với nhà nƣớc thì ý muốn ấy thành vô lí vì bất
kì nƣớc nào, số trƣờng trung học cũng ít hơn trƣờng tiểu học, trƣờng đại học
cũng ít hơn trƣờng trung học. Thế thì những trò tiểu học, trung học không
đƣợc chuyển cấp phải làm gì?” [19].
Cố thủ tƣớng Phạm Văn Đồng cũng có ý kiến: “Giáo dục phổ thông
dành cho tuổi trẻ từ tuổi thơ ấu đến 18 tuổi, tuổi thanh niên, tuổi hoàn thành
giáo dục phổ thông, ở đây có sự gặp nhau hài hoà giữa ba nhân tố: giáo dục
phổ thông, tuổi trẻ và triển vọng nghề nghiệp. Đó là quá trình chuẩn bị vào

đời của mọi ngƣời”. “Mọi ngƣời cần nhớ rằng, giáo dục phổ thông không chỉ
nhằm dạy kiến thức khoa học tự nhiên và xã hội mà còn nhằm cái đích dạy
các nghề có tầm quan trọng rất thiết thực hiện nay ở nƣớc ta” [11].
Trong nghiên cứu về GDHN của Việt Nam, Phạm Tất Dong là ngƣời
có đóng góp rất lớn. Ông đã nghiên cứu về hứng thú nghề nghiệp, những vấn
đề về nội dung và phƣơng pháp hƣớng nghiệp cho HS, thanh niên. Với hƣớng
nghiên cứu “Những vấn đề mới đặt ra trƣớc yêu cầu nâng cao hiệu quả công
tác hƣớng nghiệp hiện nay” [7], Phạm Tất Dong đã đề nghị thiết lập một hệ
thống GDHN từ bậc tiểu học trở lên với thời lƣợng tăng dần ở các năm trên.
Càng học cao thì sinh hoạt hƣớng nghiệp càng nhiều hơn chứ không chỉ là 9
buổi trong cả năm học nhƣ hiện nay. Tác giả cũng đề nghị giao nhiệm vụ
GDHN cho các GV công nghệ, đổi mới chƣơng trình GDHN, kết hợp các
buổi tham quan sản xuất, giao lƣu với những nhân vật tiêu biểu trong hoạt
động sản xuất, đề nghị huy động cha mẹ HS, các tổ chức kinh tế - xã hội cùng
tham gia GDHN cho học sinh phổ thông.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15
Một hƣớng khác do các tác giả Đặng Danh Ánh, Nguyễn Viết Sự cùng
các cộng sự khác nghiên cứu là: nghiên cứu động cơ chọn nghề, hứng thú
chọn nghề và khả năng thích ứng nghề của HS học nghề, xây dựng phòng
truyền thống hƣớng nghiệp trong trƣờng nghề, đặc biệt nghiên cứu tâm, sinh
lí, nội dung lao động của một số nghề nhằm tạo ra tài liệu hƣớng nghiệp cho
trƣờng phổ thông thể hiện ở cuốn “Tuổi trẻ và nghề nghiệp” tập 1 và tập 2.
Tác giả Nguyễn Nhƣ Ất đã nghiên cứu “Vấn đề phƣơng pháp luận xây
dựng nội dung GDHN trong trƣờng phổ thông Việt Nam” và “Vấn đề giáo
dục tổng hợp ở trƣờng phổ thông: tƣ tƣởng, lịch sử và quan niệm hiện nay”.
Trong đó tác giả đã xác định cơ sở triết học của giáo dục Việt Nam nói chung
trong đó có GDHN và vấn đề giáo dục kĩ thuật tổng hợp trƣờng phổ thông
dƣới góc độ tiếp cận tƣ tƣởng, lịch sử phát triển, quan niệm hiện đại [2], [3].
Phạm Tất Dong, Đặng Danh Ánh, Nguyễn Đức Trí, Nguyễn Quang
Huỳnh, Nguyễn Văn Hộ, Nguyễn Thị Thanh Huyền cũng đã đề cập đến một

số vấn đề cấp thiết của GDHN tại Việt Nam, vấn đề phân luồng HS phổ thông
sau trung học, sự cần thiết phải có GDHN, cơ sở tâm lí học, cơ sở sƣ phạm
của GDHN, nêu bật vai trò của GDHN với chức năng định hƣớng vào việc
rèn luyện năng lực thực hiện cho ngƣời lao động [1], [14], [16], [24].
Với bộ môn Sinh học, các tác giả Đinh Quang Báo, Nguyễn Đức Thành
cũng đã đề cập đến giáo dục kĩ thuật tổng hợp và hƣớng nghiệp là một trong
những nhiệm vụ của dạy học Sinh học. Tuy nhiên các tác giả cũng mới chỉ đề
cập tới nhiệm vụ chung cho cả bộ môn chứ chƣa đi sâu vào cách làm từng
phần, từng chƣơng, từng bài cụ thể.
Trong nghiên cứu về vấn đề tích hợp GDHN trong dạy học Sinh học,
các tác giả Nguyễn Thị Ánh Tuyết và Trần Thị Mai Lan cũng đã bƣớc đầu
tiến hành nghiên cứu tích hợp giáo dục hƣớng nghiệp trong dạy học Sinh học
lớp 9 và Sinh học lớp 10 [17], [25].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16
HS lớp 12 là đối tƣợng đặc biệt cần phải đƣợc hƣớng nghiệp tốt để các
em có thể lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân một cách đúng đắn sau khi kết
thúc bậc học phổ thông. Tuy nhiên vấn đề tích hợp GDHN cho HS lớp 12
thông qua dạy học bộ môn Sinh học vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu. Các GV dạy
môn Sinh học 12 thì tuỳ kinh nghiệm và trình độ của mình mà có thể tích hợp
GDHN trong dạy học bộ môn hay không. Do vậy mà cần thiết phải có nghiên
cứu về GDHN trong dạy học Sinh học 12 để góp phần thực hiện mục tiêu
GDHN cho học sinh lớp 12 một cách thuận lợi hơn, có hiệu quả hơn.
1.2.3. Tình hình thực hiện GDHN trong trƣờng PT ở Việt Nam
Vấn đề GDHN ở nƣớc ta đã đƣợc tiến hành nghiên cứu và triển khai
khá sớm, từ những năm 70 của thế kỉ XX. Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải
cách giáo dục năm 1979 đã khẳng định hƣớng nghiệp là bộ phận khăng khít
của quá trình giáo dục. Quyết định 126/CP ngày 19/3/1981 của Chính phủ
“Về công tác hƣớng nghiệp trong trƣờng phổ thông và việc sử dụng hợp lí
học sinh các cấp THCS và THPT tốt nghiệp ra trƣờng” đã tạo hành lang pháp
lí cho sự phát triển của công tác hƣớng nghiệp, nhất là hƣớng nghiệp cho HS

phổ thông. Trong những năm 1983 – 1996, GDHN của nƣớc ta đã đạt đƣợc
một số thành tựu quan trọng, đƣợc coi là thời kì thịnh vƣợng nhất. Nhƣng từ
năm 1997 trở lại đây, công tác GDHN cho HS phổ thông đã bị coi nhẹ, ảnh
hƣởng không nhỏ đến sự phát triển nguồn nhân lực của đất nƣớc [21].
Từ những năm đầu của thế kỷ 21, GDHN và dạy nghề phổ thông đƣợc
quan tâm hơn. Hoạt động GDHN và dạy nghề phổ thông đã đƣợc đƣa vào
chƣơng trình giáo dục phổ thông từ lớp 9 THCS đến lớp 12 THPT. Tuy nhiên,
việc phân luồng vẫn chƣa đạt đƣợc kết quả nhƣ mong muốn. Một trong những
lí do dẫn đến tình trạng trên là chúng ta mới định hƣớng chọn trƣờng mà chƣa
định hƣớng chọn nghề. Định hƣớng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ có ý nghĩa rất
lớn trong quyết định chất lƣợng nguồn nhân lực của mỗi quốc gia. Định
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17
hƣớng nghề nghiệp chính xác sẽ giúp cá nhân phát huy đƣợc tối đa năng lực
của bản thân, hứng thú với công việc, vì thế hiệu quả công việc của họ đƣợc
nâng cao. Đồng thời định hƣớng nghề nghiệp đúng đắn cũng giúp cá nhân đáp
ứng đúng nhu cầu xã hội về nguồn nhân lực, góp phần giảm thiểu tình trạng
mất cân đối trong nguồn nhân lực ở nƣớc ta hiện nay.
Học sinh THPT là tiềm năng quan trọng của nguồn nhân lực. Hiện nay
ở nƣớc ta công tác GDHN và tƣ vấn hƣớng nghiệp cho HS chƣa đƣợc coi
trọng một cách đúng mức nên dẫn đến tình trạng các chủ trƣơng thì có, nhƣng
thực tiễn hoạt động lại yếu và kém hiệu quả.
Do các điều kiện kinh tế và lịch sử, công tác tƣ vấn hƣớng nghiệp tại
Việt Nam và một số nƣớc trong khu vực Đông Nam Á vẫn còn tụt hậu so với
các nƣớc trên thế giới, đặc biệt là so với các nƣớc phát triển nhƣ Pháp,
Australia, Mỹ… Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là
hiện nay chúng ta đang thiếu một khung chính sách về GDHN, cơ sở vật chất
dành cho hƣớng nghiệp còn rất hạn chế, đặc biệt là chƣa có đội ngũ những
ngƣời làm công tác hƣớng nghiệp đƣợc đào tạo bài bản. Hàng năm, Trung
tâm lao động hƣớng nghiệp đƣợc bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức lớp tập
huấn tại các tỉnh, thành phố khoảng 3 – 4 ngày. Sau đó những học viên này về

tập huấn lại cho GV phụ trách hƣớng nghiệp của các trƣờng THPT. Tuy nhiên
tại các trƣờng THPT phần lớn là không có GV chuyên phụ trách công tác
hƣớng nghiệp. Giáo viên hƣớng nghiệp thƣờng là GV kiêm nhiệm, không
đƣợc đào tạo bài bản, thậm chí một số trƣờng chỉ căn cứ vào quy định về định
mức lao động cho giáo viên THPT, những giáo viên nào có số giờ lên lớp ít sẽ
đƣợc giao dạy thêm hƣớng nghiệp. Còn lực lƣợng tƣ vấn hƣớng nghiệp ở đa
số các trƣờng hiện nay đều thiếu. Hầu hết nhiệm vụ này đƣợc giao cho GV
chủ nhiệm, nhƣng lực lƣợng này phần lớn không đƣợc đào tạo chuyên sâu,
thậm chí cơ hội đƣợc tham dự các lớp tập huấn về tƣ vấn hƣớng nghiệp cũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18
rất ít. Các trung tâm kĩ thuật tổng hợp hƣớng nghiệp có nhiệm vụ hƣớng
nghiệp cho HS nhƣng lại hoạt động rất kém hiệu quả. Vì vậy, công tác GDHN
ở các trƣờng THPT hiện nay chƣa cao mặc dù đã đƣợc quan tâm.
Trong khi nhà trƣờng phổ thông còn lúng túng với công tác hƣớng
nghiệp thì các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp lại chƣa quan tâm đúng mức đến
công tác hƣớng nghiệp nhƣ là một khâu chuẩn bị nguồn nhân lực cho mình.
Các trƣờng đào tạo nghề thì chỉ đào tạo theo “cái mình có” mà chƣa chú ý đến
“cái xã hội cần” tức là không đáp ứng đƣợc nhu cầu của thị trƣờng lao động.
Kết quả là có nhiều thanh niên sau khi học xong đại học, cao đẳng hoặc trung
cấp nghề nhƣng không tìm đƣợc việc làm đúng với chuyên ngành đào tạo.
Trong khi đấy, nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất, nhà máy, xí nghiệp lại
đang rất thiếu lao động (đặc biệt là những lao động đƣợc đào tạo bài bản, có
tinh thần, kỉ luật lao động đúng đắn và có trình độ tay nghề kĩ thuật cao) đến
mức dự định phải nhập khẩu lao động. Đó là một nghịch lí đáng báo động,
ảnh hƣởng tiêu cực đến sự phát triển nguồn nhân lực của đất nƣớc.
Cùng với sự biến động chính trị, xã hội của thế giới, đặc biệt là sự
khủng hoảng của hệ thống các nƣớc XHCN ở Liên Xô (cũ) và ở Đông Âu thì
công tác hƣớng nghiệp, giáo dục kĩ thuật tổng hợp của nƣớc ta cũng có sự
thay đổi do sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ bao cấp sang kinh tế thị trƣờng,
do sự khó khăn về kinh tế… Do vậy mà nội dung GDHN đƣợc xây dựng từ

thế kỉ XX đã trở nên lạc hậu, công tác GDHN bị coi nhẹ dẫn đến mất cân đối
trong phân luồng học sinh và đào tạo nghề. Đề tài khoa học về chính sách
giáo dục và đào tạo do văn phòng Chính phủ quản lí “Thực trạng, giải pháp
phát triển và nâng cao hiệu quả công tác hƣớng nghiệp trong trƣờng phổ
thông” do tập thể các tác giả: Phạm Tất Dong, Vũ Văn Tảo, Nguyễn Nhƣ Ất,
Phạm Huy Thụ, Lƣu Đình Mạc thực hiện nhằm tìm hiểu về thực trạng và đề
xuất các giải pháp cho công tác GDHN. Trong đề tài, các tác giả đã nghiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19
cứu và đánh giá một cách hệ thống về thực trạng công tác GDHN trong nhà
trƣờng phổ thông, chỉ ra những nguyên nhân dẫn tới những khó khăn của hoạt
động hƣớng nghiệp trong trƣờng phổ thông và đề xuất những biện pháp nhằm
phát triển và nâng cao hiệu quả của công tác hƣớng nghiệp trong tình hình
hiện nay [9].
Riêng về mặt thực tiễn hoạt động GDHN thông qua dạy học các môn
khoa học cơ bản ở trƣờng phổ thông trong đó có môn Sinh học lại là khâu
yếu. Thực trạng này có nhiều nguyên nhân từ cấp quản lí nhà trƣờng, đến giáo
viên và cả học trò. Điều này chúng tôi đã tìm hiểu và trình bày sau đây.
1.3. Điều tra tình hình GDHN ở trƣờng phổ thông trung học
Trƣớc khi tiến hành thực nghiệm, chúng tôi đã tiến hành điều tra bằng
phiếu “Điều tra xã hội học” đối với 492 học sinh lớp 12 tham gia thực
nghiệm. Kết quả thu đƣợc nhƣ sau:
NỘI DUNG I
Với câu hỏi 1: “Thái độ học tập môn Sinh học của bản thân em”. Kết
quả điều tra thu đƣợc đƣợc thể hiện trong bảng 1.1
Bảng 1.1: Kết quả điều tra thái độ học tập môn Sinh học của học sinh
Mức độ
Số lƣợng
%
Thích
225

45,73
Không thích
250
50,81
Bình thƣờng
17
3,46
Với câu hỏi 2: “Theo em kiến thức môn Sinh học nói chung và kiến
thức Di truyền học nói riêng có cần thiết hay không đối với mỗi ngƣời và hoạt
động nghề nghiệp của họ trong thế kỉ XXI?”. Có 220 HS tƣơng ứng với
44,72% có câu trả lời là “Có”. Số HS còn lại (55,28%) có câu trả lời là
“Không” hoặc “Không biết”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20
Với câu hỏi 3: “Em hãy thống kê từ 5 – 10 nghề mà em biết đối tƣợng
nghề có liên quan đến Di truyền học”. Có 220 HS tƣơng ứng với 44,72% trả
lời đúng nhƣng trong số đó chỉ có 213 HS tƣơng ứng với 43,29% trả lời đƣợc
từ 4 – 6 nghề. Số HS còn lại các em chỉ trả lời đƣợc từ 1 – 3 nghề. Không có
em nào kể đƣợc từ 7 nghề trở lên.
Với câu hỏi 4: “Em hãy nêu các ngành nghề ở Việt Nam thuộc các lĩnh
vực: Nông, lâm ngƣ nghiệp; dƣợc phẩm, y học; bảo vệ môi trƣờng; công nghệ
sinh học (mỗi lĩnh vực nêu từ 1 – 5 ngành nghề). Kết quả nhƣ sau:
- Lĩnh vực nông, lâm, ngƣ nghiệp có 422/492 HS tƣơng ứng 85,77%
nêu đƣợc từ 3 – 5 nghề.
- Lĩnh vực dƣợc phẩm, y học có 408/492 HS tƣơng ứng 82,93% nêu
đƣợc từ 3 – 5 nghề.
- Lĩnh vực bảo vệ môi trƣờng có 215/492 HS tƣơng ứng 43,70%
nêu đƣợc từ 1 – 3 nghề. Không có HS nào nêu đƣợc 4 – 5 nghề trong
lĩnh vực này.
- Lĩnh vực CNSH có 227/492 HS tƣơng ứng 46,14% nêu đƣợc từ 1 – 3
nghề. Không có HS nào nêu đƣợc 4 – 5 nghề trong lĩnh vực này.

NỘI DUNG II
Với câu hỏi 1: “Hƣớng đi chủ yếu của em sau khi tốt nghiệp THPT”.
Có tới 436/492 HS ứng với 88,62% chọn hƣớng đi chủ yếu là dự thi tuyển
vào đại học, cao đẳng. Số HS còn lại (11,38%) chọn hƣớng đi chủ yếu là dự,
thi tuyển vào trung cấp nghề. Đặc biệt không em nào chọn hƣớng đi chủ yếu
là tham gia lao động sản xuất tại địa phƣơng.
Với câu hỏi 2: “Nghề mà em dự định chọn là nghề gì?”. Các em tự trả
lời về nghề mà các em sẽ chọn trong tƣơng lai. Tuy nhiên do hạn chế về mặt
thời gian nên chúng tôi chỉ phân loại câu trả lời ở mức độ hiểu khái niệm
“Nghề” bằng cách phân loại “Hiểu đúng” hay “Sai” khái niệm nghề. Tiêu chí

×