Tải bản đầy đủ (.docx) (110 trang)

Nghiên cứu biện pháp tích hợp giáo dục hướng nghiệp trong dạy học môn Công nghệ (phần kỹ thuật Công nghiệp) ở THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.52 KB, 110 trang )

LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới cô giáo ThS. Nhữ Thị Việt
Hoa, người thầy đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn tác giả trong suốt thời gian thực
hiện đề tài.
Các thầy cô giáo khoa Sư phạm Kỹ thuật, bộ môn Phương pháp dạy học đã
giúp đỡ và tạo điều kiện để tác giả học, tập nghiên cứu và hoàn thành khóa luận của
mình.
Tác giả cũng xin cảm ơn ban giám hiệu, các thầy, cô giáo và
các em học sinh lớp 11 trường THPT Lê Quý Đôn – Hà Đông – Hà
Nội, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tác giả điều tra, khảo sát,
thực nghiệm để đánh giá tính khả thi và hiểu quả của khóa luận.
Do điều kiện thời gian và phạm vi nghiên cứu có hạn, khóa luận
không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong các nhà khoa học, các thầy, cô
giáo và các bạn đồng nghiệp thông cảm, giúp đỡ và đưa ra những chỉ
dẫn quý báu để khóa luận hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 25 tháng 4 năm 2014
Tác giả

Phạm Thị Thu Hà

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nghị quyết hội nghị lần thứ II, Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII đã nhấn mạnh: “Muốn tiến hành Công nghiệp
hóa – Hiện đại hóa thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục
đào tạo và phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản của
sự phát triển nhanh bền vững”


Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã chỉ
rõ: “Coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh
sau trung học, chuẩn bị cho thanh niên đi vào lao động nghề
nghiệp phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước
và địa phương”
Chỉ thị số 33/2003/CT - BGD&ĐT ngày 23/7/2003 về việc
tăng cường Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông đã
nêu rõ: “...Giáo dục hướng nghiệp là một bộ phận của nội
dung giáo dục phổ thông toàn diện đã được xác định trong
Luật giáo dục. Chủ trương đổi mới chương trình giáo dục phổ
2


thông hiện nay cũng nhấn mạnh đến yêu cầu tăng cường giáo
dục hướng nghiệp nhằm góp phần tích cực và có hiệu quả vào
phân luồng học sinh chuẩn bị cho học sinh đi vào cuộc sống
lao động hoặc được tiếp tục đào tạo phù hợp với năng lực của
bản thân và nhu cầu của xã hội...”
Qua đó chúng ta có thể thấy, vấn đề phân luồng học sinh
sau trung học cơ sở mà cốt lõi là công tác hướng nghiệp cho
học sinh ngày càng trở nên cấp thiết trong việc nâng cao chất
lượng lao động qua đào tạo nói riêng, chất lượng nguồn nhân
lực trong thị trường cạnh tranh nói chung. Mặc dù, công tác
hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau trung học cơ sở đã
được đề cập trong quyết định số 126/CP ngày 19/03/1981 của
Hội đồng Chính phủ (Hội đồng Chính phủ, 1981) (nay gọi là
Chính phủ), nhiều nghiên cứu về công tác hướng nghiệp ở cấp
trung học phổ thông đã được tiến hành. Tuy nhiên, công tác
hướng nghiệp trong bộ môn Công nghệ ở THCS, THPT chưa
thật sự được chú trọng và có những biện pháp cụ thể cho

riêng mình. Nghiên cứu này đi sâu tìm hiểu và phân tích tính
hướng nghiệp trong bộ môn Công nghệ ở trường THPT (phần
kỹ thuật Công nghiệp), qua đó xây dựng các biện pháp tích
hợp hướng nghiệp phù hợp cho từng phần nội dung môn học.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu biện pháp tích hợp giáo dục hướng nghiệp
trong dạy học môn Công nghệ (phần kỹ thuật Công nghiệp) ở
THPT, qua đó góp phần nâng cao tính hứng thú lựa chọn nghề
nghiệp của học sinh, nâng cao chất lượng dạy học.

3


3. KHÁCH THỂ, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Quá trình dạy học môn Công nghệ (phần kỹ thuật Công
nghiệp) ở trường THPT.
1.1.Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp tích hợp giáo dục hướng nghiệp trong dạy
học môn Công nghệ (phần kỹ thuật Công nghiệp) ở trường
THPT.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu tích hợp giáo dục hướng nghiệp trong dạy học môn
Công nghệ (phần kỹ thuật Công nghiệp) sẽ tạo ra hứng thú
lựa chọn nghề nghiệp cho học sinh, qua đó góp phần nâng
cao chất lượng dạy học môn học này ở trường phổ thông.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Khảo sát thực trạng giáo dục hướng nghiệp ở trường
THPT.
- Nghiên cứu cơ sở lý thuyết của tích hợp giáo dục hướng
nghiệp trong dạy học môn Công nghệ ở trường THPT.

- Đề xuất các biện pháp tích hợp giáo dục hướng nghiệp
trong dạy học môn Công nghệ (phần kỹ thuật Công nghiệp) ở
trường THPT.
- Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm chứng tính hiệu quả và
tính khả thi của những biện pháp đã đề xuất.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Nghiên cứu các tài liệu, văn bản liên quan đến đề tài để
tổng quan tình hình nghiên cứu và xây dựng cơ sở lý thuyết
4


của tích hợp giáo dục hướng nghiệp trong dạy học môn Công
nghệ ở THPT
- Phương pháp điều tra
• Thiết kế và sử dụng phiếu điều tra, tìm hiểu thực trạng
tình hình giáo dục hướng nghiệp trong dạy học ở trường THPT.
• Thực nghiệm sư phạm ở trường THPT nhằm kiểm chứng
giả thuyết khoa học của đề tài.
• Thiết kế và sử dụng phiếu hỏi ý kiến chuyên gia về các
biện pháp tích hợp giáo dục cho một nội dung học cụ thể
7.CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, nội dung luận văn được trình bày trong 3
chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về giáo dục hướng
nghiệp trong dạy học
- Chương 2: Thiết kế dạy học môn Công nghệ có tích hợp
dạy học hướng nghiệp
- Chương 3: Thực nghiệm sư phạm


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIÁO DỤC
HƯỚNG NGHIỆP TRONG DẠY HỌC

5


1. TỔNG QUAN VỀ GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
1.1.Sơ lược lịch sử về giáo dục hướng nghiệp trên thế
giới
Quan điểm hướng nghiệp đã có từ rất lâu đời điển hình là
quan điểm của Platon - một triết gia Hi Lạp thời cổ đại và Các
Mác:
- Platon: Khi tạo ra con người, ông trời đã nhào nặn họ
với vàng, bạc, đồng. Người “vàng” là những người làm khoa
học, nghệ thuật, làm quản lí. Người “bạc” là những chiến binh.
Người “đồng” là thợ thủ công, nông dân và nô lệ.[1]
- Các Mác: Tiếp theo sự phân chia, tách biệt những thao
tác khác nhau trong lao động sản xuất, người công nhân cũng
được phân chia, phân hóa, nhóm họp theo những năng lực mà
họ có được, nhờ đó mà những đặc điểm tự nhiên của con
người công nhân đã được hình thành dựa trên mảnh đất tự
nhiên của sự phân công lao động và về mặt khác, công trường
thủ công sẽ phát triển lực lượng lao động theo chính bản chất
tự nhiên vốn có của mình chỉ theo một chức năng chuyên
biệt.[3]
Vào năm 1849, ở Pháp đã xuất hiện cuốn sách “hướng
dẫn lựa chọn nghề”.
Năm 1883 ở Mĩ, nhà tâm lý học Ph. Galton đã trình bày

công trình trắc nghiệm (test) với mục đích lựa chọn nghề. Vào
đầu thế kỷ XX, ở Mĩ, Anh, Pháp, Thụy Điển đã xuất hiện các cơ
sở dịch vụ hướng nghiệp.
Sau cách mạng tháng Mười và những năm 20, 30 của thế
kỷ XX, công tác hướng nghiệp đã được triển khai trên đất
nước Xô Viết nhằm phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công
6


nghiệp hóa thông qua việc đào tạo nguồn nhân lực và đội ngũ
cán bộ, đặc biệt là vấn đề lựa chọn nghề cho mỗi công nhân
của đất nước.
Kế thừa những tư tưởng và áp dụng trong giai đoạn hiện
nay. Khi sự xuất hiện những ngành nghề mới và sự phân hóa
nghề nghiệp trở nên rõ nét. Các quốc gia trên thế giới không
ngừng quan tâm đến công tác hướng nghiệp và đẩy mạnh
nghiên cứu khoa học hướng nghiệp. Các trung tâm hướng
nghiệp và đào tạo giáo viên, chuyên gia tư vấn hướng nghiệp
trong và ngoài trường đại học, như CNAM (học viện quốc gia
về nghệ thuật và nghề nghiệp) của Pháp, trung tâm INETOP
(viện nghiên cứu quốc gia về lao động và hướng nghiệp).
Những nhà khoa học và giáo dục khi xem xét vấn đề
hướng nghiệp đối với sự hình thành nhân cách và ảnh hưởng
của nó tới các hoạt động sản xuất xã hội cho rằng nếu sớm
thực hiện giáo dục hướng nghiệp cho thế hệ trẻ trong trường
học thì là cơ sở để giúp cho họ lựa chọn nghề đúng đắn, có sự
phù hợp giữa năng lực, sở thích cá nhân với nhu cầu xã hội.
Giáo dục hướng nghiệp vì vậy không chỉ được thực hiện trong
các trường đào tạo, mà dần trở nên phổ biến và áp dụng rộng
rãi trong các trường phổ thông.

* Giáo dục kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp ở nước Nga
hậu Xô – Viết
Chương trình giáo dục Công nghệ tại trường phổ thông
Liên bang Nga hiện nay, bao gồm những nội dung có tính chất
giáo dục kỹ thuật tổng hợp, không nhằm đào tạo một nghề cụ
thể mà theo nhóm Công nghệ học gắn sản xuất với kinh
doanh, mang tính hướng nghiệp. Nhờ thông qua giáo dục
7


Công nghệ học cụ thể, học sinh được làm quen, thử sức với
từng loại hình sản xuất, đồng thời chú ý vai trò của Công nghệ
thông tin được sử dụng trong nền kinh tế hiện đại.
* Xu thế cải cách các trường học ở Châu Âu cuối thế kỷ
XX gắn với hướng nghiệp và đào tạo nghề
Vào những năm 70 – 80 thế kỷ trước, các nước Châu Âu
lần lượt tiến hành cải cách giáo dục từ cấu trúc tổ chức đến
nội dung, phương pháp giáo dục và giảng dạy, đáp ứng các
yêu cầu phát triển của xã hội công nghiệp dựa vào sự tiến bộ
vượt bậc của Khoa học – Công nghệ, nhất là Công nghệ thông
tin, kinh tế để đạt tới một số chuẩn mực chung về trình độ
giáo dục phổ thông và giáo dục nghề và hướng nghiệp tại
trường phổ thông như:
- Tại Pháp: Giảm bớt tính hàn lâm, tăng cường tỉ trọng
kiến thức có ý nghĩa thực dụng, ý nghĩa hướng nghiệp trọng
nhà trường.
- Tại Đức: Tạo điều kiện cho học sinh có thể học nghề
ngay khi đang học phổ thông, cung cấp hệ thống và kiến thức
khoa học gắn với đào tạo nghề một cách linh hoạt, giảm bớt
tính hàn lâm của bậc trung học hoàn chỉnh.

* Giáo dục hướng nghiệp – lập nghiệp tại Úc
Mục đích: Phát triển kỹ năng, kiến thức, thái độ thông
qua chương trình học tập được kế hoạch hóa. Hoạt động giáo
dục này giúp cho học sinh biết đưa ra những quyết định về
việc lựa chọn có tính hướng nghiệp – lập nghiệp trong và sau
khi học ở trường và tham gia có hiệu quả vào đời sống lao
động.

8


Nhiệm vụ: Học về bản thân trong mối quan hệ với lao
động; học về thế giới nghề nghiệp; học về lập kế hoạch và ra
quyết định hướng nghiệp – lập nghiệp; phát triển khả năng
triển khai các quyết định về hướng nghiệp và tiến hành thay
đổi công việc.[2]
* Giáo dục hướng nghiệp tại Mĩ
Giáo dục hướng Ở Mĩ, trung bình mỗi trường trung học
có khoảng từ 3 đến 5 thầy cô chuyên trách công tác hướng
nghiệp cho học sinh. Con số này tùy thuộc vào từng Bang,
chất lượng đào tạo và số lượng học sinh của mỗi trường. Thầy
cô làm công tác tư vấn hướng nghiệp (được gọi là counselor)
là những người trực tiếp giúp học sinh trong quá trình tìm hiểu
cũng như nộp hồ sơ vào các trường đại học. Họ sẽ tổ chức cho
học sinh đi thăm quan các trường, hướng dẫn chi tiết cho học
sinh từ khâu chuẩn bị các bài thi chuẩn hóa (SAT, TOEFL,
ACT…), đưa ra những lời khuyên làm thế nào để có một profile
“đẹp”, đến cách thức để tìm kiếm thông tin của các trường
đại học...
Các counselor chỉ có nhiệm vụ duy nhất là tư vấn, giúp

đỡ học sinh lớp 11 và lớp 12 chuẩn bị hồ sơ. Họ không tham
gia giảng dạy bất cứ môn học nào khác. Hầu hết các trường ở
bang Pennsylvania nói riêng và nhiều bang khác ở Mĩ nói
chung, trung bình một tuần sẽ có một tiết học với thầy cô
counselor. Trong tiết học này, họ sẽ đề cập từng bước cụ thể
hơn. Ví dụ như: Cách lên mạng tra thông tin, nguồn ở đâu thì
chính xác, hoặc cần phải làm những gì, tránh những điều gì
trong chuyến đi thăm quan trường…

9


Công tác hướng nghiệp cho học sinh tại Mĩ được diễn ra
(rải) từ đầu năm lớp 11 đến cuối năm lớp 12.
Nhà trường thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm, mời
những vị khách có kinh nghiệm, nổi tiếng đến nói chuyện với
học sinh ở từng lĩnh vực khác nhau. Học sinh có thể đăng ký
(hoặc là không) tham gia nhiều buổi tọa đàm như vậy. Ngoài
ra, các thầy cô giáo cũng thường xuyên liên hệ với các nguồn
khác (từ trường ĐH, các công ty, tổ chức...) để thông báo và
tạo cơ hội cho học sinh đến tham dự các sự kiện giống như
một thành viên chính thức của đơn vị đó.[7]
* Giáo dục hướng nghiệp tại Hàn Quốc
Trong các loại hình trường phổ thông, nội dung giảng dạy
kỹ thuật - lao động là bộ phận cấu thành quan trọng trong
chương trình giáo dục. Hết cấp II học sinh sẽ đi theo 2 luồng
chính: phổ thông và chuyên nghiệp. các trường kỹ thuật nghề
nghiệp tuyển sinh trước rồi mới chọn học sinh theo luồng phổ
thông.[8]
* Chuẩn bị nguồn nhân lực và tinh thần hướng nghiệp ở

nhà trường Nhật Bản
Chương trình cải cách giáo dục được xây dựng trên cơ sở
hai luận điểm quan trọng: tăng cường tính linh hoạt và đa
dạng trong đánh giá hệ thống giáo dục và thực hiện cải cách
giáo dục không chỉ đóng khung trong phạm vi nhà trường,
trong hệ thống giáo dục mà còn phải mở rộng tầm nhìn ra
phạm vi toàn xã hội theo quan điểm mở cửa, giao lưu, hội
nhập quốc tế.
Nhà trường phổ thông Nhật tiến hành rèn luyện khả
năng thích ứng của học sinh qua một số hoạt động như: Hoạt
10


động nhóm nhỏ và “tinh thần doanh nghiệp Nhật”; Giáo dục
lòng trung thành của người lao động Nhật tương lai trong
trường phổ thông; hình thành thói quen cần cù, tự giác của
người lao động.[4]
1.2. Sơ lược lịch sử về giáo dục hướng nghiệp về giáo
dục hướng nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Kể từ thời các vua Hùng dựng nước cho tới khi Ngô
Quyền xưng vương, đánh tan quân Nam Hán, chấm dứt hơn
nghìn năm Bắc thuộc, hầu như không có tài liệu nói về giáo
dục (với nghĩa hẹp là dạy và học chữ). Tuy nhiên, căn cứ vào
việc sử sách ca ngợi công lao của thái thú Sĩ Nhiếp mở mang
việc học tại Giao Chỉ và một số đoạn nói về một vài người Việt
đỗ đạt và làm quan ở phương Bắc, có thể nói trong thời Bắc
thuộc đã có một tầng lớp người Việt biết chữ. Hơn nữa, cùng
với việc du nhập đạo Phật, chắc chắn chùa chiền phải là nơi
dạy chữ để đào tạo các nhà sư và truyền bá kinh kệ. Bắt đầu
từ thiên niên kỷ thứ hai, cùng với việc xây dựng và bảo vệ đất

nước, tổ tiên ta đã dành nhiều công sức phát triển nền giáo
dục dân tộc. Cơ sở giáo dục đầu tiên của nhà nước phong kiến
Việt Nam (được ghi nhận trong sử sách) là Quốc Tử Giám
Thăng Long, do vua Lý Nhân Tông cho thành lập vào năm
1076.[6]
Hơn 1000 năm Bắc thuộc, rồi các cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc liên tục diễn ra. Phải nói nền giáo dục nước
nhà chịu sự chi phối rất lớn. Nhưng không phải thế mà giáo
dục không được chú trọng. Sử sách có ghi chép, Năm 1471
(đời vua Lê Thánh Tông), số quan lại có phẩm tước là 5370,
riêng ở triều đình (nhà nước trung ương) là 2755, phần lớn
11


được lựa chọn qua thi cử. Các triều đại tiếp theo, việc thi cử
vẫn được duy trì và phát triển với quy mô lớn hơn, kể cả trong
thời gian Trịnh - Nguyễn phân tranh. Có thể thấy giáo dục
đóng vai trò quan trọng đối với nguyên khí của quốc gia lúc
này. Xong trong giai đoạn này chưa chú tâm đến việc giáo dục
hướng nghiệp.
Sau khi cách mạng tháng 8 thành công, trang lịch sử mới
được mở ra và hơn bao giờ hết giáo dục lúc này rất được coi
trọng, từ việc phân cấp phân ngành học lại, có các hình thức
học khác nhau. Đảng và Chính phủ bắt đầu quan tâm đến
phân ngành học, học theo nhu cầu theo thực tế của xã hội.
Tuy nhiên việc thực hiện không mang lại hiệu quả. Phải đến
khi đất nước bước sang nền kinh tế thị trường với sự đa dạng
về ngành nghề và đòi hỏi cao về chất lượng nguồn nhân lực
giáo dục hướng nghiệp mới thực sự nóng lên.
Chính phủ Việt Nam đã coi trọng công tác hướng nghiệp

và phân luồng học sinh trung học, chuẩn bị cho thanh thiếu
niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế trong cả nước và ở từng địa phương. Nhưng
trên thực tế hiện nay đang tồn tại nhiều bất cập trong công
tác giáo dục hướng nghiệp ở trường phổ thông. Các hoạt động
hướng nghiệp đa dạng, phong phú tuy nhiên chỉ tập trung chủ
yếu cho thời gian các sĩ tử bước vào kỳ thi đại học đã phần
nào giảm hiệu quả của hướng nghiệp. Nếu nhìn trên phương
diện phát triển nghề nghiệp, một cá nhân có những giai đoạn
như sau: Học và phát triển cơ bản đến lớp 12 để học một
nghề tại các trường cao đẳng, đại học hoặc các hệ khác để đi
làm và khám phá nghề nghiệp mất khoảng 3 đến 5 năm đầu
12


để ổn định và phát triển nghề nghiệp trong những năm còn
lại. Qua đó ta có thể thấy việc lựa chon nghề nghiệp từ trường
phổ thông chưa đem đến hiệu quả thực tiễn đa số người học
phải tự tìm tỏi thử việc rồi đến yêu thích và phát triển công
việc, giai đoạn lấy đà này đã lấy đi 3-5 năm và người học
không có nhiều thời gian và cơ hội được học hỏi chuyên sâu
về nghề nghiệp trong nhà trường.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới những hạn chế của hoạt
động giáo dục hướng nghiệp ở trường phổ thông, trong đó
đáng chú ý là những nguyên nhân sau:
- Thứ nhất: Từ sau khi Liên xô tan rã (1991) đã có những
khủng hoảng về lý luận giáo dục hướng nghiệp, điều này ảnh
hưởng không nhỏ đối với giáo dục hướng nghiệp của Việt
nam.
- Thứ hai: Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội của Việt

Nam đã làm cho những triết lý giáo dục hướng nghiệp trước
đây không còn phù hợp nữa.
Như vậy, phải nghiên cứu đổi mới toàn diện công tác
giáo dục lao động

hướng nghiệp cho học sinh phổ thông.

Trong đó, trước hết phải nghiên cứu cách tiếp cận phương
pháp luận để xây dựng nội dung mới của giáo dục hướng
nghiệp.
Từ sau khi thực hiện chính sách đổi mới (1985) đã có ba
xu hướng chuyển đổi ảnh hưởng nhiều đến quan hệ kinh tế xã hội, đó là: Quá trình chuyển từ xã hội bao cấp sang xã hội
dịch vụ; chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá sang kinh tế thị
trường và chuyển từ kinh tế công – nông nghiệp sang kinh tế
tri thức.
13


Chuyển từ xã hội bao cấp sang xã hội dịch vụ đã ảnh
hưởng không nhỏ đến giáo dục hướng nghiệp phổ thông.
Những định hướng nghề nghiệp cứng nhắc trước đây, theo
kiểu phân công lao động một cách hành chính và máy móc
nay không còn phù hợp. Tuy nhiên, một bộ phận người dân
vẫn chưa chuyển hoá để theo kịp sự chuyển đổi này. Đặc biệt
vẫn còn những tâm lý chờ đợi hoặc thói quan liêu trong khâu
lựa chọn nghề nghiệp. Cần hình thành trong tư duy của học
sinh phổ thông thói quen lao động của một xã hội dịch vụ.
Sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của xã hội một cách linh hoạt và
có trách nhiệm đối với công việc của mình.
Để lao động trong một xã hội dịch vụ, mỗi người lao

động phải có trình độ học vấn, có tay nghề cao và có khả
năng đáp ứng linh hoạt trong các dịch vụ. Như vậy, các nhà
trường phải thay đổi mục tiêu đào tạo. Không còn mục tiêu
chung như “xây dựng những con người mới” mà phải cụ thể
hoá mục tiêu đào tạo hướng vào những ngành nghề của địa
phương, đảm bảo cho học sinh sau này có khả năng thích ứng
cao. Như vậy, mục tiêu đào tạo là đòn bẩy để nâng cao chất
lượng đào tạo nghề cho học sinh.
Ngày 07 tháng 11 năm 2006, Việt nam chính thức là
thành viên của WTO, và chính thức chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường. Thực ra, sự chuyển
hoá này diễn ra trước đó nhiều năm giúp cho nền kinh tế của
Việt Nam có những bước tiến nhanh so với một số nước trong
khu vực. Trong những năm tới Việt nam cần phải có những
hành động cụ thể để các nước trong WTO công nhận Việt nam
có nền kinh tế thị trường. Hệ quả kinh tế - xã hội của xu
14


hướng chuyển đổi này là nhanh chóng chuyển các xí nghiệp
quốc doanh thành các doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty cổ
phần, nạn thất nghiệp đã xuất hiện… Tư tưởng hạch toán kinh
tế với những lợi ích đã xuất hiện ở mỗi cá nhân trong cộng
đồng; sự tự do trong sản xuất và kinh doanh dẫn tới sự cạnh
tranh khốc liệt. Trong điều kiện đó, nhà trường phổ thông phải
đào tạo ra những người có tư duy và hành động kinh doanh vì
các hệ thống kinh tế thị trường không thể hoạt động mà thiếu
những người này.
Chuyển từ kinh tế công – nông nghiệp sang kinh tế tri
thức là xu hướng chung của thế giới, đặc biệt ở những nước

phát triển. Chính phủ Việt nam đã ý thức được vấn đề này,
mặc dù những hạn chế về kinh tế và giáo dục làm ảnh hướng
không nhỏ đến chiến lược phát triển của đất nước. Kiến thức
và đào tạo giờ đây là “tác nhân sản xuất” có tính quyết định
về chiến lược tương tự như các tư liệu sản xuất trong giai
đoạn công nghiệp hoá. Trong điều kiện như vậy, giáo dục
hướng nghiệp cần phải hướng học sinh vào những ngành
nghề sản xuất tạo ra những sản phẩm có hàm lượng tri thức
ngày càng cao hơn mà tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, tiết
kiệm năng lượng và sức lao động. Rõ ràng, xu hướng này là xu
hướng nổi trội, để thực hiện được xu hướng này giáo dục
hướng nghiệp cần được định hướng phân hoá và đào tạo nhân
tài mũi nhọn.
Ba xu hướng chuyển đổi trên liên quan với nhau, tạo ra
một áp lực cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục hướng nghiệp.
Các nhà xã hội học đã xác định trong tương lai mỗi người phải
tự biến mình thành một doanh nhân có đạo đức. Cá nhân phải
15


chịu trách nhiệm nhiều hơn về sự phát triển, trình độ nghề
nghiệp và cơ sở kinh tế của mình. Xây dựng, tiếp nhận và mở
rộng tính thị trường của từng người, tích cực tiếp thị sức lao
động của mình đã trở thành nhiệm vụ lâu dài của mỗi cá
nhân.
2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN
2.1 Nghề nghiệp
Theo E.A. Klimov: “Nghề nghiệp là lĩnh vực sử dụng sức
lao động vật chất và tinh thần của con người một cách có giới
hạn cần thiết cho xã hội (do sự phân công lao động mà có),

nó tạo cho con người khả năng sử dụng lao động của mình để
thu lấy những phương tiện cần thiết cho tồn tại và phát triển”.
Theo từ điển tiếng Việt thì nghề là “công việc chuyên
môn làm theo sự phân công lao động của xã hội”. Nghề
nghiệp là nghề để sinh sống và phục vụ xã hội.
Qua đó ta có thể thấy: “Nghề nghiệp là công việc mà đòi
hỏi người sở hữu nó phải vận dụng toàn bộ sức lao động, của
cải, vật chất, tinh thần,… để tạo ra của cải vật chất phục vụ
cho đời sống cá nhân và toàn xã hội”.
2.2. Hướng nghiệp
Xét ở bình diện khoa học lao động: Hướng nghiệp là hình
thức giám định lao động có tính chất chuẩn đoán. Đó là quá
trình xác lập sự phù hợp nghề của từng người cụ thể dựa trên
cơ sở xác định sự tương ứng giữa những đặc điểm tâm – sinh
lý của họ với những yêu cầu của một nghề nào đó đối với
người lao động.[5]
Theo từ điển Tiếng Việt: Hướng nghiệp là thi hành những
biện pháp nhằm đảm bảo sự phân bố tối ưu (có chú ý tới năng
16


khiếu, năng lực thể lực) nội dung theo ngành và loại lao động
giúp đỡ lựa chọn hợp lý ngành nghề.
Theo từ điển giáo dục học: Hướng nghiệp là hệ thống các
biện pháp giúp đỡ học sinh làm quen tìm hiểu nghề, lựa chọn,
cân nhắc nghề nghiệp với nguyện vọng, năng lực, sở trường
của mỗi người, với nhu cầu và điều kiện thực tế khách quan
của xã hội.
Hiểu hướng nghiệp trên bình diện xã hôi: Toàn bộ các
nhà máy, xí nghiệp, công trường, nông trường,… các cơ quan

quản lí kinh tế, quản lí nhà nước, các cơ quan của những đoàn
thể chính trị và xã hội… đều cần đến những người có năng lực
và những phẩm chất nhân cách phù hợp. Để chọn được người
theo đúng những tiêu chuẩn đã định bao gồm những chỉ số
khách quan, những cơ quan, những tổ chức nói trên có nhiệm
vụ làm cho thế hệ trẻ hiểu được nội dung, tính chất, đặc điểm,
điều kiện…công tác của mình, giúp cho họ tìm hiểu những
nghề nghiệp, chuyên môn mà mình cần tuyển chọn. Cuối
cùng những cơ quan, những cơ sở sản xuất phải tiến hành
tuyển chọn người trên cơ sở nguyện vọng và dự định nghề
nghiệp của họ.
Theo các nhà kinh tế học: “Hướng nghiệp là những mối
quan hệ kinh tế giúp cho từng thành viên xã hội phát triển
năng lực lao động và đưa họ vào một lĩnh vực hoạt động cụ
thể phù hợp với sự phân bổ lực lượng lao động xã hội”.
Theo các nhà tâm lý học cho rằng: “Hướng nghiệp là một
hệ thống các biện pháp tâm lí, sư phạm và y học giúp cho thế
hệ trẻ chọn nghề có tính đến nhu cầu xã hội và năng lực của
bản thân”.
17


Theo quan điểm của các nhà giáo dục học thì: “Hướng
nghiệp là một hoạt động của các tập thể sư phạm, của các
cán bộ thuộc các cơ quan, xí nghiệp khác nhau được tiến
hành với mục đích giúp học sinh chọn nghề đúng đắn phù hợp
với năng lực, thể lực và tâm lý của cá nhân với nhu cầu kinh
tế xã hội. Hướng nghiệp là một bộ phận cấu thành của quá
trình giáo dục – học tập trong nhà trường”.
Theo tác giả Phạm Tất Dong: “Hướng nghiệp là một hệ

thống tác động của xã hội về giáo dục, về y học, kinh tế học
nhằm giúp thế hệ trẻ chọn được nghề phù hợp với hứng thú,
năng lực, nguyện vọng, sở trường của cá nhân, vừa đáp ứng
nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế
quốc dân”.
Theo tác giả Nguyễn Văn Hộ và Nguyễn Thị Thanh
Huyền: “Hướng nghiệp là sự tác động của một tổ hợp các lực
lượng xã hội, lấy sự chỉ đạo của một hệ thống sư phạm làm
trung tâm vào thế hệ trẻ, giúp cho các em quen biết với một
số ngành nghề phổ biến để khi tốt nghiệp ra trường, các em
có thể lựa chọn cho mình một cách có ý thức nghề nghiệp
tương lai”.
Theo NCS Khánh: Trên bình diện phổ thông chúng ta có
thể hiểu Hướng nghiệp cho học sinh phổ thông là một hệ
thống các tác động mang tính sư phạm nhằm dẫn dắt thế hệ
trẻ đi vào thế giới nghề nghiệp, giúp các em chọn được một
cách hợp lí.
Như vậy, ta có thể hiểu hướng nghiệp như là một hệ
thống tác động của xã hội về giáo dục học, y học, xã hội học,
kinh tế học… nhằm giúp cho thế hệ trẻ chọn được nghề phù
18


hợp hứng thú, năng lực, nguyện vọng, sở trường của cá nhân,
vừa đáp ứng nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực sản xuất trong
nền kinh tế quốc dân.
Hiểu hướng nghiệp trên bình diện trường phổ thông:
trong trường phổ thông, hướng nghiệp được coi như là công
việc của tập thể giáo viên, tập thể sư phạm, có mục đích giáo
dục học sinh trong việc chọn nghề, giúp các em tự quyết định

nghề nghiệp trong tương lại trên cơ sở phân tích nghề phù
hợp nhu cầu của xã hội, phân tích đặc điểm tâm sinh lý, lực
học nguyên vọng của học sinh …
2.3. Giáo dục hướng nghiệp
Giáo dục hướng nghiệp là hệ thống những tác động sư
phạm giúp học sinh chọn được một nghề hợp lý.
Trong trường phổ thông, giáo dục hướng nghiệp là một
bộ phận của giáo dục toàn diện. Giáo dục hướng nghiệp là
hoạt động được thực hiện bởi giáo viên và học sinh, được tiến
hành qua nhiều hình thức giáo dục hướng nghiệp khác nhau
nhưng tập trung vào thực hiện mục đích giúp cho học sinh lựa
chọn nghề vừa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
vừa phù hợp với nguyện vọng, năng lực, thể lực của học sinh
để các em phát huy được khả năng bản thân trong cuộc sống
nghề nghiệp.
Giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông không
phải là nhằm quyết định nghề cho mỗi cá nhân mà là điều
chỉnh động cơ, hứng thú nghề nghiệp của thế hệ trẻ giúp các
em giải quyết việc chọn nghề cho tương lai một cách có ý
thức ngay khi còn ngồi trên ghế trường phổ thông.

19


3. ĐỔI MỚI GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
3.1 Đổi mới mục tiêu giáo dục hướng nghiệp
Những đòi hỏi của xã hội về việc cung cấp nguồn lao
động có trình độ, có tay nghề cao … đã tạo ra áp lực đối với
giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp ở Việt Nam.
Các nhà sử dụng nhân lực kỳ vọng vào ngành giáo dục đào

tạo ra nguồn nhân lực có tư duy và có năng lực nghề nghiệp.
Thông qua những con người có khả năng như vậy sẽ thực hiện
được các hy vọng chính trị - kinh tế, chính trị - xã hội và cá
nhân. Như vậy, một câu hỏi đặt ra là liệu giáo dục nghề có thể
đóng góp và thông qua cách nào cho việc đáp ứng các hy
vọng như vậy?.
Sau nhiều cuộc hội thảo về giáo dục hướng nghiệp, đến
nay các nhà giáo dục đã thống nhất mục tiêu giáo dục thực
hành trong các nhà trường đã được công nhận. Những lý
thuyết giáo dục cổ điển (giáo dục nhân cách không xét tới giá
trị thực tiễn của nội dung giáo dục) cần được thay bằng những
lý thuyết giáo dục theo lý tưởng của công dân đáp ứng yêu
cầu của xã hội.
Những mục tiêu cụ thể được đặt ra cho mỗi chương trình
đào tạo. Sau quá trình đào tạo, người học phải đạt được
những yêu cầu cụ thể về hiểu biết, về năng lực tư duy, về
năng lực hành động và về thái độ - tình cảm. Mỗi cá nhân phải
được cung cấp những kiến thức và kỹ năng để làm chủ được
các tình huống trong cuộc sống.
3.2 Đổi mới phương pháp giáo dục hướng nghiệp
Những mục tiêu đào tạo đặt ra yêu cầu phải đổi mới
phương thức đào tạo. Mô hình nhà trường trước đây đào tạo
20


theo một chương trình thống nhất, cứng nhắc sẽ không đáp
ứng được những yêu cầu của thị trường lao động.
Trước hết, phải tạo ra mối liên hệ chặt chẽ giữa hệ thống
giáo dục với kinh tế việc làm. Một xu hướng của giáo dục Việt
Nam là đào tạo nhân lực theo nhu cầu của các doanh nghiệp.

Một thực tế đã tồn tại nhiều năm là các doanh nghiệp
(kể cả trong nước và ngoài nước) cần những nhân lực có trình
độ cao, nhưng không chú ý đầu tư cho đào tạo. Ngược lại, các
cơ sở đào tạo do hạn hẹp về kinh phí và không xác định được
mục tiêu cụ thể nên đã tạo ra những sản phẩm đào tạo không
đủ chất lượng. Cần phải kết nối mục tiêu của các doanh
nghiệp với các cơ sở đào tạo. Chỉ khi nào hai lực lượng này
thống nhất được với nhau thì giáo dục nghề nghiệp mới thực
sự có kết quả.
3.3. Nội dung giáo dục hướng nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường xuất hiện các mối quan hệ
sau:
- Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với chủ thể con
người.
- Mối quan hệ giữa quản lý và chủ thể kinh tế con người.
Mối quan hệ này làm nổi bật vai trò của cá nhân với tư cách là
người tiêu thụ và tiêu dùng.
- Mối quan hệ giữa nhà nước và chủ thể kinh tế con
người. Mối quan hệ này nhấn mạnh vai trò của cá nhân là
công dân và là người đóng thuế.
- Mối quan hệ giữa các đầu mối tích luỹ và sử dụng vốn
và chủ thể kinh tế con người, xác định vai trò cá nhân là chủ
nợ và người tiết kiệm.
21


Xét các mối quan hệ trên cho thấy, học sinh cần hiểu rõ
vai trò và vị trí của mình trong xã hội. Xét năng lực của bản
thân, với sự hỗ trợ của nhà trường học sinh sẽ tự xác định
được tương lai nghề nghiệp của mình. Tuy nhiên một nét nổi

trội trong các mối quan hệ đó là tư duy sản xuất và kinh
doanh hiệu quả, mang lại lợi ích cho cá nhân và cho xã hội.
Như vậy, giáo dục hướng nghiệp thực chất là giáo dục tư duy
kinh tế và kinh doanh.
Các quá trình chuyển đổi của nền kinh tế - xã hội kích
thích cho các suy nghĩ về hệ quả đối với giáo dục nghề gắn
với tính kinh doanh. Các cá nhân phải hành động độc lập, tự
quyết định trong các quan hệ kinh tế. Điều này nhấn mạnh là
tạo năng lực cho cá nhân phát triển kinh tế và phát triển nhân
cách.
Như vậy, giáo dục hướng nghiệp có nghĩa là quá trình
dạy học có chủ đích, phục vụ mục tiêu làm thay đổi một cách
lâu bền vị thế của người học, để họ có thể hoàn thành các yêu
cầu nghề nghiệp. Người học phải được đặt vào tư thế để hành
động một cách có trách nhiệm (xét về bản thân và môi trường
xã hội của họ), độc lập và có cân nhắc trong các hoạt động có
tính kinh doanh. Tính kinh doanh ở đây được hiểu theo nghĩa
tính tự lập về nghề nghiệp và không theo nghĩa về các đặc
trưng định tính của hành xử nói riêng.
Nội dung giáo dục hướng nghiệp theo định nghĩa trên
được hiểu là giáo dục tập trung vào việc làm rõ sự hiểu biết
về vai trò cá nhân như là người thành lập tiềm năng và hiểu
tính kinh doanh như sự lựa chọn nghề nghiệp của con người,
đó là:
22


- Sự thoả mãn của người học phải là điều quan trọng
nhất đối với việc đào tạo nghề. Sự thoả mãn của người học
được hiểu theo khía cạnh tâm lý đó là sự tự giác tham gia của

người học.
- Hành động của người học cần được khuyến khích.
- Mục tiêu quá trình dạy học không phải là quyết định
khởi sự một sự nghiệp mà đặc biệt là chuẩn bị các quyết định
cá nhân.
- Đào tạo nghề phải lưu ý tới hai khía cạnh là thành công
và thất bại. Thành công và thất bại trong các nghề nghiệp
không thể dự báo trước một cách chắc chắn. Vì vậy hướng
nghiệp cần chuẩn bị trước cho thực tế để mỗi người có nghị
lực sẵn sàng vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, đó là
giáo dục tính thích ứng.
- Không có quá trình đào tạo nào là hoàn thiện, nên
người học luôn có tâm lý tìm tòi bổ sung trong cuộc sống của
họ.
- Giáo dục hướng nghiệp không tách rời giáo dục đạo đức
trong sản xuất và kinh doanh.
4. GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP TRONG DẠY HỌC
4.1 Vai trò của giáo dục hướng nghiệp trong dạy học
Các nhà giáo dục đã khẳng định rằng: Đến nay không
cần phải là bàn đến vấn đề cần hay không, mà chắc chắn là
cần phải dạy học tích hợp. Đây cũng là ý kiến kết luận của Hội
đồng liên quốc gia về giảng dạy khoa học, với sự bảo trợ của
UNESCO tổ chức tại Varna (Bungari) “Hội nghị tích hợp việc
giảng dạy các khoa học” tháng 9/1968.

23


Qua đó ta có thể thấy việc giáo dục hướng nghiệp trong
dạy học có ý nghĩa không chỉ chi phối đến giáo dục mà còn

đến kinh tế, chính trị, xã hội.
* Đối với giáo dục
Giáo dục hướng nghiệp là một bộ phận của công tác giáo
dục. Đây là công tác điều chỉnh động cơ chọn nghề của học
sinh, điều chỉnh hứng thú nghề nghiệp cho các em theo xu
thế nhu cầu lao động xã hội và sự phân công lao động xã hội.
Thực tế cho thấy: sự lựa chọn nghề nghiệp một cách tự phát
của thanh, thiếu niên ít khi phù hợp với hướng sản xuất, nhu
cầu lao động của xã hội nên xảy ra tình trạng mất cân đối như
hiện nay “thừa thầy, thiếu thợ”. Do đó tác động của giáo dục
trong quá trình hướng nghiệp có ý nghĩa rất lớn đối với sự
phát triển của xã hội, giáo dục hướng nghiệp giúp học sinh
chọn nghề trên cơ sở phù hợp với nguyện vọng của bản thân,
phù hợp với điều kiện hoàn cảnh gia đình mình và phù hợp với
nhu cầu xã hội….
* Đối với kinh tế
Giáo dục hướng nghiệp luôn hướng vào việc sử dụng hợp
lý tiềm năng lao động trẻ tuổi của đất nước từ đó nâng cao
năng suất lao động xã hội, đồng thời đưa thanh thiếu niên vào
đúng vị trí lao động nghề nghiệp, giúp họ phát huy hết năng
lực sở trường lao động. Phát triển cao hứng thú nghề nghiệp,
làm tăng khả năng sáng tạo trong lao động. Đây là việc làm
hết sức có ý nghĩa trong công tác giáo dục hướng nghiệp. Từ
đó biến nghề nghiệp không chỉ là nơi kiếm sống đơn thuần mà
còn là nơi giúp cá nhân thể hiện nhân cách, phát triển tài
năng, hết mình cống hiến sức lực và trí tuệ cho công cuộc xây
24


dựng tổ chức. Tuy nhiên để đảm bảo ý nghĩa kinh tế của giáo

dục hướng nghiệp thì trường phổ thông phải gắn mục tiêu đào
tạo với những mục tiêu kinh tế xã hội. Sự phát triển kinh tế
của xã hội phụ thuộc rất nhiều vào việc chuẩn bị cho thế hệ
trẻ đi vào lao động sản xuất đi vào sự phân công lao động
trong phạm vi cả nước và từng địa phương. Chính vì vậy
hướng nghiệp có nhiệm vụ quan trọng bởi thông qua đó nghề
nghiệp, phân bố lại lực lượng lao động trong xã hội, chuyên
môn hoá tiềm năng lao động trẻ tuổi.
* Đối với chính trị, xã hội
Giáo dục hướng nghiệp có tác dụng góp phần cụ thể hoá
mục tiêu giáo dục của trường phổ thông tức là hoạt động
hướng nghiệp có chức năng thực hiện hoá đường lối giáo dục
của Đảng và Nhà nước, hiện thực hoá đường lối giáo dục
trong đời sống xã hội, giáo dục hướng nghiệp phải được coi là
điều kiện đảm bảo chất lượng và hiệu quả giáo dục. Giáo dục
hướng nghiệp sẽ tạo nên những yếu tố mới trong con người
lao động - yếu tố cơ bản của việc tăng năng suất lao động xã
hội. Làm tốt giáo dục hướng nghiệp, sẽ có những lớp người
mới đủ năng lực và phẩm chất cách mạng để xây dựng và bảo
vệ tổ quốc. Chính vì vậy giáo dục hướng nghiệp có ý nghĩa đối
với sự triển khai chiến lược con người - một bộ phận của chiến
lược kinh tế và khoa học- kỹ thuật.
Xét ở bình diện xã hội, giáo dục hướng nghiệp có tác
dụng điều chỉnh sự phân công lao động xã hội, tạo ra sự cân
bằng trong việc phân bố lực lượng dân cư. Khi xã hội gặp khó
khăn trong việc tìm kiếm công ăn việc làm cho thanh niên,
hướng nghiệp kết hợp chặt chẽ với lao động sản xuất và dạy
25



×