Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của cao duy sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.18 KB, 119 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM


LA THÚY VÂN




BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC TRONG
SÁNG TÁC CỦA CAO DUY SƠN


Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số : 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC :
PSG.TS ĐÀO THỦY NGUYÊN



Thái Nguyên - 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



ii
LỜI CẢM ƠN

Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn
PGS.TS Đào Thuỷ Nguyên, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong
suốt quá trình thực hiện luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn nhà văn Cao Duy Sơn, các thầy cô giáo trong
khoa Ngữ Văn, khoa Sau đại học, cán bộ phòng Quản lý khoa học trường Đại học
Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong cả quá
trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm, giúp
đỡ em trong thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn không tránh khỏi những thiếu sót.
Rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô và bạn bè đồng nghiệp quan tâm
đến luận văn này.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2011
Tác giả

La Thuý Vân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ii
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. 6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 7

5. Phương pháp nghiên cứu 7
6. Đóng góp của luận văn 7
7. Cấu trúc luận văn 7
PHẦN NỘI DUNG 8
Chƣơng 1 8
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC.
NHÀ VĂN CAO DUY SƠN TRONG DÒNG CHẢY CỦA VĂN HỌC DÂN
TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN - ĐƢƠNG ĐẠI 8
1.1. Một số vấn đề lí thuyết về bản sắc văn hóa dân tộc 8
1.1.1. Khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc 8
1.1.2. Bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác văn học 11
1.2. Nhà văn Cao Duy Sơn trong nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam
hiện - đương đại 15
1.2.1. Vài nét về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện – đương đại 15
1.2.1.1. Từ 1945 đến 1975 16
1.2.1.2. Từ 1975 đến nay 19
1.2.2. Nhà văn Cao Duy Sơn 25
1.2.2.1. Tiểu sử và con người 25
1.2.2.2. Sự nghiệp sáng tác của Cao Duy Sơn 28
Chƣơng 2 32
NHỮNG MẠCH NGUỒN CẢM HỨNG MANG ĐẬM BẢN SẮC VĂN
HÓA DÂN TỘC TRONG SÁNG TÁC CỦA CAO DUY SƠN 32
2.1. Cảm hứng về thân phận con người, về tâm hồn và tính cách đồng bào dân
tộc thiểu số 32
2.1.1. Con người với số phận bất hạnh 32
2.1.2. Con người dũng cảm, lạc quan, giàu sức sống 37
2.1.3. Con người trung thực, thủy chung, giàu lòng vị tha 40
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv

2.2. Cảm hứng về những giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc
thiểu số 48
2.3. Cảm hứng trữ tình về thiên nhiên miền núi 57
2.3.1. Thiên nhiên mang đậm dấu ấn miền núi 57
2.3.2. Thiên nhiên gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của người dân miền núi 63
Chƣơng 3 68
MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN BẢN SẮC DÂN
TỘC TRONG SÁNG TÁC CỦA CAO DUY SƠN 68
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 68
3.1.1. Miêu tả ngoại hình 68
3.1.2. Miêu tả nội tâm 71
3.1.3. Xây dựng thế giới nhân vật phân cực thiện - ác 76
3.2. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện 79
3.3. Nghệ thuật ngôn từ 85
3.3.1. Câu văn ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu 85
3.3.2. Sử dụng thành ngữ, tục ngữ giàu sắc thái địa phương 91
3.3.3. Đưa ngôn ngữ Tày vào tác phẩm văn chương 95
3.3.4. Vận dụng lối so sánh, liên tưởng, cách nói ước lượng, giàu hình ảnh 99
PHẦN KẾT LUẬN 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………… . 111
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Bất kỳ quốc gia, dân tộc nào trên thế giới đều tìm mọi cách giữ gìn, bảo
vệ bản sắc văn hóa của riêng mình, vì mất bản sắc sẽ không còn là một quốc
gia, một dân tộc nữa. Bản sắc văn hóa mỗi dân tộc đã đóng góp chung cho nền
văn minh nhân loại, làm cho nó đa dạng, phong phú hơn. Để thực hiện mục tiêu

xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một vấn đề
rất quan trọng đặt ra là giữ bản sắc văn hóa dân tộc trong hội nhập quốc tế. Việc
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công cuộc
phát triển đất nước nói chung và trong sự phát triển văn học nói riêng.
So với lịch sử của nền văn học nước nhà thì văn học các dân tộc thiểu số
Việt Nam hiện đại còn rất trẻ. Gần bảy mươi năm hình thành và phát triển, nó
đã thực sự trở thành một bộ phận khăng khít, độc đáo, đặc sắc; đã có sự phát
triển phong phú, đa dạng và đóng góp lớn vào diện mạo chung của nền văn học
dân tộc. Nhiều tác phẩm văn học dân tộc thiểu số đã giành được những giải
thưởng cao và được dư luận xã hội đón nhận nồng nhiệt.
Cao Duy Sơn là một trong số những cây bút tiêu biểu của mảng văn học
dân tộc thiểu số đương đại. Sáng tác của ông mang đậm bản sắc văn hóa dân
tộc ở cả hai phương diện: nội dung và hình thức nghệ thuật. Có lẽ đó cũng là lí
do chính khiến nhà văn giành được nhiều giải thưởng cao và có giá trị: Giải A
giải thưởng Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 1993 với
tiểu thuyết Người lang thang; Tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm
1997 với tập truyện ngắn Những chuyện ở lũng Cô Sầu; Giải B của Hội văn
học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2002 với tập truyện ngắn
Những đám mây hình người. Giải A Giải thưởng Văn học nghệ thuật các dân
tộc thiểu số Việt Nam năm 2007 với tiểu thuyết Đàn trời; Giải thưởng của Hội
Nhà văn Việt Nam năm 2008 với tập truyện ngắn Ngôi nhà xưa bên suối. Đặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
biệt là vào năm 2009, ông đã nhận được giải thưởng văn học Đông Nam Á
cũng với tập truyện ngắn này.
Tuy nhiên cho tới nay sáng tác của Cao Duy Sơn chưa được nghiên cứu
nhiều. Đặc biệt là vấn đề bản sắc dân tộc trong sáng tác của Cao Duy Sơn chưa
được chú ý tìm hiểu như một vấn đề chuyên sâu, chuyên biệt.
Từ những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: Bản sắc văn hóa

dân tộc trong sáng tác của Cao Duy Sơn.
2. Lịch sử vấn đề
Mặc dù đã gặt hái được nhiều giải thưởng nhưng tên tuổi của Cao Duy
Sơn còn khá mới trên văn đàn. Do vậy, các công trình nghiên cứu về tác phẩm
của Cao Duy Sơn chưa nhiều (theo thống kê của chúng tôi có gần 40 công trình
lớn nhỏ), chủ yếu là những bài báo, những nhận định của một số tác giả đương
thời và các nhà nghiên cứu.
Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy: Đại đa số các bài báo, bài nghiên
cứu đi sâu vào tìm hiểu, giới thiệu tác giả và tác phẩm (chủ yếu ở thể loại
truyện ngắn), trong đó chiếm số lượng bài viết nhiều hơn cả là tập truyện ngắn
Ngôi nhà xưa bên suối của Cao Duy Sơn. Vấn đề bản sắc dân tộc trong sáng tác
của Cao Duy Sơn cũng đã được đề cập đến nhưng chưa có những nghiên cứu
chuyên sâu, các ý kiến chỉ nằm rải rác trong những bài viết, những nhận định.
Dựa theo kết quả thống kê và phân loại, chúng tôi nhận thấy vấn đề bản sắc dân
tộc trong sáng tác của Cao Duy Sơn được khẳng định ở hai phương diện.
Về phương diện nội dung:
Chủ tịch Hội Nhà văn Hữu Thỉnh trong bài“Hội nghị BCH đã thống
nhất một chương trình quan trọng của đời sống văn học” đã đề cập tới tập
truyện ngắn Ngôi nhà xưa bên suối của Cao Duy Sơn. Ông đã đánh giá cao
tập truyện này, đặc biệt là về “chất” làm nên bản sắc dân tộc cho tập truyện:
“Ngôi nhà xưa bên suối của tác giả Cao Duy Sơn đem đến cho người đọc mảng
sống đậm đặc, tươi ròng về những con người miền núi, vừa cổ kính vừa hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
đại, mộc mạc, chân chất, không để đánh mất mình trong những hoàn cảnh éo
le, đau đớn” [60].
Tác giả T.Luyến trong bài Ngôi nhà xưa bên suối - bức tranh sinh
động về cuộc sống của con người miền núi cũng đã đề cập tới những nét bản
sắc dân tộc ở phương diện nội dung của tập truyện ngắn. Tác giả khẳng định:

Đây là “tập truyện viết về cuộc sống của những con người miền núi chân chất,
mộc mạc, với những nét văn hóa đặc trưng Đọc tập truyện ngắn Ngôi nhà xưa
bên suối độc giả sẽ có dịp tìm hiểu thêm về những phong tục độc đáo của người
dân ở thị trấn Cô Sầu” [22].
Nhà văn Trung Trung Đỉnh đã bày tỏ cảm xúc của mình khi đọc những
truyện ngắn đầu tiên của Cao Duy Sơn trong bài Cao Duy Sơn - từ chú cầy
hương đến chàng săn gấu rừng già. Điều khiến ông nhớ mãi trong những
sáng tác ấy chính là “cái không khí miền núi vừa mơ mơ màng màng lại vừa
sâu hun hút bởi vẻ đẹp của thiên nhiên quyến rũ con người ta, lôi kéo con
người ta, nâng đỡ con người ta từ chốn thâm nghiêm huyền bí của rừng già,
hang thẳm, đến khi trở về với cuộc sống tự nhiên, hồn nhiên của cộng
đồng Văn Cao Duy Sơn giàu hình ảnh, giàu chất say của người say thiên
nhiên”[29,486-487]. Theo tác giả: cái không khí miền núi ấy phần nào góp
phần thể hiện bản sắc dân tộc trong sáng tác của Cao Duy Sơn.
Tác giả Phan Chinh An trong bài Đi tìm vẻ đẹp của hoài niệm cũng đề
cập tới tập truyện ngắn Ngôi nhà xưa bên suối. Ông cho rằng với tập truyện
ngắn này, Cao Duy Sơn đã “thực hiện một cuộc hành hương tinh thần tìm về
những vẻ đẹp xưa của núi Phijia Phủ, của lũng Cô Sầu với ước mơ cháy bỏng
“giới thiệu được vùng quê nghèo khó ấy, ghi danh nó trong văn học”. Đến với
Ngôi nhà xưa bên suối, người đọc sẽ được “làm quen với những địa danh xa
lạ như suối Cun, Páo Lò, Âu Lâm, bản Niểng, Nhòm Nhèm, Háng Vài, Pác Gà,
Cổ Lâu cảm nhận không khí, hương vị miền núi “rất Tày”. Cái không khí,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
hương vị rất riêng ấy trước tiên lan tỏa trong nhiều tập tục tôt đẹp”, sau đó là ở
“vẻ đẹp tâm hồn và tính cách con người dân tộc Tày”[1].
Nguyễn Minh Trường trong luận văn thạc sĩ Ngữ văn Truyện ngắn về
đề tài dân tộc miền núi phía Bắc (qua các tác phẩm của Cao Duy Sơn, Đỗ
Bích Thúy và Nguyễn Huy Thiệp) đã đi sâu tìm hiểu hình tượng cuộc sống và

con người trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn. Tác giả luận văn khẳng định:
Với phong cách riêng biệt, truyện ngắn Cao Duy Sơn “đã tạo nên những bức
tranh sinh động, phong phú về cuộc sống kì thú nơi thế giới sơn lâm ” [57].
Tác giả Sông Lam trong bài viết Cao Duy Sơn giọng văn nhẹ nhàng
mà sắc bén đã đề cập tới sự phong phú của những phong tục tập quán trong
toàn bộ sáng tác của Cao Duy Sơn: “Từ các tiểu thuyết đến các tập truyện
ngắn ngòi bút của Cao Duy Sơn đã phác thảo nên những bức tranh sinh động
về cuộc sống ở vùng cao miền cao miền núi phía Bắc. Ở đó có những vỉa tầng
văn hóa truyền thống dân tộc dày đặc được hun đúc qua hàng trăm thế hệ. Đó
là các tục lệ cưới xin của người Tày, tục lấy tên con để gọi thay tên cúng cơm
của người mẹ, tục đi chợ tình vào dịp tháng Giêng để những đôi tình nhân
xưa được thổ lộ tâm tình, ôn lại kỉ niệm , tục hát Khai vài xuân ” [19].
Về phương diện nghệ thuật:
Trong bài Ban mai có một giọt sương, tác giả Đỗ Đức đã tập trung nói
về tập truyện ngắn Ngôi nhà xưa bên suối. Và ngôn ngữ của tác phẩm được
chú ý hơn cả. Đỗ Đức nhận xét: “Văn trong tập này của Cao Duy Sơn không
cầu kì, thoáng đọc còn cảm thấy nó quềnh quàng vụng dại. Nhưng truyện nào
cũng có những câu khiến người ta giật mình về sự sắc sảo trong quan sát cuộc
sống và gọi nó ra bằng chính ngôn ngữ của người vùng mình”. Tác giả đánh
giá “những câu văn đó là những hạt ngọc lấp lánh” [8].
Nhà phê bình Lâm Tiến trong bài Cách thể hiện con người, cuộc sống
miền núi trong tác phẩm Cao Duy Sơn cũng rất quan tâm tới nghệ thuật sử
dụng ngôn từ trong sáng tác của Cao Duy Sơn. Ông cho rằng “Sự linh hoạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
trong cách viết của Cao Duy Sơn thể hiện ở việc dùng ngôn ngữ văn chương.
Ông đã biết Tày hóa tiếng Việt trên cơ sở hiểu sâu sắc và thông thạo cả hai thứ
tiếng (Tày và Việt ). Ông viết bằng tiếng Việt nhưng trong đó sắc thái Tày vẫn
thể hiện rõ. Trước hết là ở câu nói ngắn, gọn, rõ ràng, dễ hiểu. Điều đó rất gần

gũi với cách nói của người Tày, đồng thời cũng thể hiện một khẩu khí, một thái
độ sống rõ ràng, dứt khoát của họ. Ông biết điểm vào những trang viết những
chi tiết , những câu chữ, những từ đắt nhất, tiêu biểu, gần gũi gắn bó máu thịt
với người Tày mà tiếng Việt không biểu hiện được” [50].
Trong cuốn Tuyển tập văn xuôi dân tộc và miền núi thế kỉ XX, Lâm
Tiến lại chú ý tới nghệ thuật xây dựng nhân vật của Cao Duy Sơn. Ông cho
rằng: Trong sáng tác của nhà văn này, “hình tượng con người lao động miền núi
cao lớn, mạnh mẽ, khỏe khoắn” được thể hiện “một cách cụ thể, sinh động, tinh
tế như nó vốn có”. Nhân vật của Cao Duy Sơn “thường có đời sống nội tâm
phong phú, phức tạp, mạnh mẽ, dữ dội nhưng lại lặng lẽ, kín đáo” [26,12].
Phạm Duy Nghĩa trong Luận án tiến sĩ Ngữ văn Văn xuôi Việt Nam hiện
đại về dân tộc và miền núi cũng đề cập tới nghệ thuật xây dựng nhân vật của
Cao Duy Sơn. Anh cho rằng, so với nhân vật của Vi Hồng thì các nhân vật của
Cao Duy Sơn “phức tạp và đa diện hơn”. Nhiều nhân vật trong sáng tác của ông
“đều là những mảnh vụn đời tư với tất cả cái dở dang, bề bộn, phồn tạp của
cuộc đời”. “Với những thăng trầm ở mọi thân phận, các nhân vật của Cao Duy
Sơn thiên về loại nhân vật số phận hơn là nhân vật tính cách, tuy là nhà văn vẫn
có ý thức tạo cho mỗi nhân vật một nét cá tính và ngôn ngữ riêng”[30,115].
Một thế giới nhân vật “phân cực” trong sáng tác của Cao Duy Sơn đã
được Đinh Thị Minh Hảo chỉ ra trong Luận văn thạc sĩ Ngữ văn Truyện ngắn
Cao Duy Sơn. Tác giả luận văn khẳng định: Đó là “một thế giới “phân cực”
thiện - ác đối kháng và một kết thúc có hậu. Trong thế giới ấy các nhân vật
chính diện đẹp từ ngoại hình đến tâm hồn. Các nhân vật phản diện lại xấu xa
về nhân cách và dị dạng méo mó về ngoại hình” [10].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
PGS. TS Đào Thủy Nguyên trong bài Cội nguồn văn hóa dân tộc trong
truyện ngắn Cao Duy Sơn đã rất quan tâm đến những dấu hiệu của bản sắc văn
hóa dân tộc trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn. Đó là giọng văn, là ngôn ngữ,

là hình ảnh con người và cuộc sống được phản ánh trong truyện ngắn của Cao
Duy Sơn. Về cơ bản bài báo đã bước đầu đề cập tới những vấn đề chúng tôi
quan tâm giải quyết trong luận văn này.
Như vậy, có thể thấy: Vấn đề bản sắc dân tộc trong sáng tác của Cao
Duy Sơn đã được các nhà nghiên cứu quan tâm, song đó mới là những ý kiến lẻ
tẻ và mới chỉ dừng lại ở những nhận xét, những bài báo nghiên cứu trong phạm
vi một tác phẩm, một thể loại chứ chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu.
Do vậy, việc tìm hiểu Bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của Cao Duy
Sơn một cách toàn diện, hệ thống dựa trên những luận giải, minh chứng cụ thể
là một điều cần thiết.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu.
- Đối tƣợng nghiên cứu:
Vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của nhà văn Cao Duy Sơn.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu toàn bộ các tác phẩm của nhà văn Cao Duy Sơn,
gồm 5 tiểu thuyết và 4 tập truyện ngắn.
Tiểu thuyết: Người lang thang ( 1992).
Cực lạc ( 1995)
Hoa mận đỏ ( 1999)
Đàn trời ( 2005)
Chòm ba nhà ( 2009)
Tập truyện ngắn: Những đám mây hình người ( 2002)
Những chuyện ở lũng Cô Sầu ( 2003)
Ngôi nhà xưa bên suối ( 2008)
Người chợ (2010)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn chỉ ra và làm rõ những biểu hiện cụ thể của bản sắc văn hóa dân

tộc trong sáng tác của Cao Duy Sơn trên cả hai phương diện: nội dung và hình
thức nghệ thuật. Từ đó khẳng định phong cách riêng và đóng góp của Cao Duy
Sơn cho mảng văn học dân tộc thiểu số nói riêng và nền văn học Việt Nam hiện
đại nói chung.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thống kê, phân loại
5.2: Phương pháp phân tích
5.3: Phương pháp khái quát, tổng hợp
5.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu
6. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện vấn
đề bản sắc văn hóa dân tộc trong toàn bộ sáng tác của Cao Duy Sơn. Từ đó
chúng tôi hướng tới một sự đánh giá đầy đủ và khách quan hơn về những thành
công và hạn chế trong sáng tác của Cao Duy Sơn; Đóng góp của nhà văn trong
việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; Vị trí của nhà văn trong tiến trình phát
triển của văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói riêng và trong lịch
sử văn học Việt Nam hiện - đương đại nói chung.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí thuyết về bản sắc văn hóa dân tộc. Nhà văn Cao
Duy Sơn trong dòng chảy của văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện - đương đại.
Chương 2: Những mạch nguồn cảm hứng mang đậm bản sắc văn hóa
dân tộc trong sáng tác của Cao Duy Sơn.
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật thể hiện bản sắc dân tộc
trong sáng tác của Cao Duy Sơn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
PHẦN NỘI DUNG


Chƣơng 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC.
NHÀ VĂN CAO DUY SƠN TRONG DÒNG CHẢY CỦA VĂN HỌC
DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN - ĐƢƠNG ĐẠI
1.1. Một số vấn đề lí thuyết về bản sắc văn hóa dân tộc
1.1.1. Khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc
Văn hóa là một khái niệm đã và đang được đề cập đến rất nhiều trong
cuộc sống hiện tại. Nó giữ một vị trí quan trọng trong quá trình đi lên của bất
cứ quốc gia, dân tộc nào. Do vậy mà UNESCO đã thừa nhận “văn hóa là cội
nguồn trực tiếp của phát triển xã hội, có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều
tiết xã hội” [31].
Đã có hàng trăm bài viết, công trình nghiên cứu luận bàn về khái niệm
hay định nghĩa về Văn hoá, nhưng cho đến nay, người ta vẫn chưa đưa ra được
một khái niệm chung nhất. Các tác giả cuốn Từ điển Tiếng Việt đã đưa ra năm
cách hiểu khác nhau về Văn hóa:
1. Văn hóa là “tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”.
2. Văn hóa là “những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu
đời sống tinh thần (nói tổng quát).
3. Văn hóa là “tri thức, kiến thức khoa học (nói khái quát)”.
4. Văn hóa là “trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh”.
5. Văn hóa là “nền văn hóa của một thời kì lịch sử cổ xưa, được xác định
trên cơ sở một tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống
nhau” [27,1100].
Nhà nghiên cứu văn hóa Phan Ngọc cho rằng: Cần phải có “một định
nghĩa thao tác luận về văn hóa”. Vì vậy, ông đã dày công phân tích, nghiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


9
cứu để đưa ra một khái niệm Văn hóa mang tính tổng quát nhất: “Văn hóa là
mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một số cá nhân hay một tộc
người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mô
hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất
chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện
thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa
chọn của các cá nhân hay tộc người khác [31,19].
Trong cuốn “Cơ sở văn hoá Việt Nam”, GS Viện sĩ Trần Ngọc Thêm
đưa ra khái niệm: “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong
sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội ” [52,10]. Có thể
thấy hai khái niệm nêu trên có sự tương đồng. Theo đó, Văn hoá được hình thành
từ khi con người biết sáng tạo (có nghĩa là văn hoá hình thành cùng với sự hình
thành loài người). Văn hoá là tất thảy những sản phẩm vật chất (văn hoá vật thể)
và tinh thần (văn hoá phi vật thể) do con người sáng tạo ra trong hành trình lịch sử.
Tháng 7 năm 1982, Hội nghị quốc tế về Văn hóa ở Mehico đã thống
nhất đưa ra một định nghĩa về Văn hóa như sau: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn
hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm
quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn
hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản
của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng”. Khái
niệm này vừa nói đến văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, vừa nói đến hệ giá
trị và đặc biệt là nêu lên “những nét riêng biệt …về văn hoá của một xã hội hay
một nhóm người trong xã hội” [31].
Có thể thấy, Văn hóa là một khái niệm rộng. Và mỗi một quốc gia, dân tộc
dù lớn hay nhỏ cũng đều có bản sắc văn hóa của riêng mình. Khái niệm bản sắc văn
hóa được nhà nghiên cứu Phan Ngọc khẳng định: “Nói đến bản sắc văn hóa là nói
đến cái mặt bất biến của văn hóa trong quá trình phát triển của lịch sử” [31,34].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


10
Việt Nam là một quốc gia nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, có
diện tích 331.211,6km2 với 54 dân tộc anh em cùng chung sống trên dải đất
hình chữ S. Trong nền văn hóa đa dân tộc đó, mỗi dân tộc lại giữ cho mình một
bản sắc văn hóa riêng. Vậy bản sắc văn hóa dân tộc là gì?
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Bản sắc là “màu sắc, tính chất riêng tạo
thành đặc điểm chính” [27,31]. Theo nghĩa tiếng Hán: Bản là cái gốc, cái căn
bản, cái lõi, cái hạt nhân của một sự vật; Sắc là thể hiện ra ngoài. Nói bản sắc
dân tộc của văn hóa Việt Nam tức là nói những giá trị gốc, căn bản, cốt lõi,
những giá trị hạt nhân của văn hóa Việt Nam. Nói những giá trị hạt nhân tức là
không phải nói tất cả mọi giá trị, mà chỉ là nói những giá trị tiêu biểu nhất, bản
chất nhất, chúng mang tính dân tộc sâu sắc đến nỗi chúng biểu hiện trong mọi
lĩnh vực của nền văn hóa Việt Nam: văn học nghệ thuật, sân khấu, hội họa, điêu
khắc, kiến trúc, trong sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử hằng ngày của người Việt
Nam… Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Bản sắc là những nét
riêng biệt, độc đáo của một dân tộc thể hiện trong nền văn hóa, nghệ thuật,
trong phong tục tập quán, trong đời sống muôn màu của dân tộc” [5]. PGS.TS
Trần Thị Việt Trung trong công trình nghiên cứu Bản sắc dân tộc trong thơ các
dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại cho rằng: “Bản sắc dân tộc là những nét
riêng biệt độc đáo của một nền văn hóa, văn học bao gồm những giá trị bền
vững, những tinh hoa văn hóa, văn minh của dân tộc được vun đắp nên qua
lịch sử, tạo thành phong cách dân tộc” [56,33]. Vì nó là cái riêng độc đáo nên
nhiều nhà nghiên cứu đã từng gọi nó là “chứng minh thư của riêng một dân
tộc”, là “giấy thông hành để mỗi con người bước ra với cộng đồng nhân loại
mà không bị trộn lẫn” [60].
Trong Văn kiện hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII, vấn đề bản sắc dân tộc cũng đã được đề cập tới. Nó “bao gồm
những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
nước…Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét trong các hình thức biểu hiện
mang tính dân tộc độc đáo” [56,31]. Theo sự đánh giá của tác giả cuốn sách thì
đây là một “quan niệm xác đáng và toàn diện nhất”.
Mỗi quốc gia, dân tộc đều có lịch sử hình thành gắn với một nền văn hóa
nhất định. Do vậy mà bản sắc văn hóa dân tộc chính là “cái biểu hiện tập trung
diện mạo dân tộc, cái để nhận diện một dân tộc” [25,1159]. Vì lẽ đó mà khi nói
đến bản sắc văn hóa dân tộc là nói đến “hình thức biểu hiện mang tính dân tộc
độc đáo là tiếng nói dân tộc, là tâm lí, nếp tư duy, là phong tục tập quán, là
hình thức nghệ thuật truyền thống” [25,1160]. Mỗi một người nghệ sĩ trong quá
trình sáng tạo nghệ thuật đều có ý thức chắt lọc bản sắc văn hóa dân tộc để biến
nó thành cái riêng, nét riêng trong sáng tác của mình. Nhiều nhà văn dân tộc
thiểu số đã rất thành công trong việc tập trung miêu tả những nét bản sắc của
dân tộc mình để từ đó độc giả có thể nhận ra diện mạo dân tộc mà họ phản ánh.
Có thể nói, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một hành
động thiết thực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam trong
thời kì hiện nay. Bởi “chính bản sắc dân tộc đảm bảo cho dân tộc tồn tại, phát
triển qua tất cả sự biến động của lịch sử. Nhờ bản sắc dân tộc, chúng ta biểu lộ
được một cách toàn vẹn sự hiện diện của mình trong giao lưu với quốc tế. Giữ
gìn được bản sắc dân tộc là góp phần chống lại nguy cơ đồng hóa về văn hóa.
Targo đã từng nói “Có thể vượt qua thế giới lớn lao của loài người không phải
bằng cách tự xóa mình đi mà bằng cách mở rộng bản sắc của mình”. Giá trị
của một dân tộc, bắt đầu từ chính bản sắc của nó. Do đó, nghiên cứu bản sắc
dân tộc của một dân tộc là góp phần khẳng định sự trường tồn của dân tộc
trong giao lưu văn hóa” [56,25].
1.1.2. Bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác văn học
Văn học nghệ thuật là bộ phận cấu thành và rất quan trọng của văn hoá.
Thực tiễn cuộc sống và nền văn hoá dân tộc là mảnh đất màu mỡ làm nảy sinh

và nuôi dưỡng văn học nghệ thuật, đến lượt mình văn học nghệ thuật làm phong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
phú, sâu đậm thêm bản sắc dân tộc của văn hoá. Vậy bản sắc văn hóa dân tộc
trong sáng tác văn học được biểu hiện qua những phương diện nào? Nghiên cứu
và đánh giá về vấn đề này, các nhà nghiên cứu đều có chung nhận định: Bản sắc văn
hóa dân tộc được biểu hiện ở đề tài, chủ đề và hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
Bản sắc văn hóa được biểu hiện ở đề tài, chủ đề của tác phẩm văn học.
Đề tài và chủ đề là những yếu tố quan trọng để người nghệ sĩ thể hiện chiều sâu
tư tưởng của tác phẩm, đồng thời nó cũng góp phần thể hiện cá tính sáng tạo
của nhà văn.
Hiện thực và con người là những yếu tố cơ bản của đề tài. Đây cũng
chính là yếu tố quan trọng bậc nhất trong việc thể hiện bản sắc dân tộc trong tác
phẩm văn học. Cho nên có thể nói có bao nhiêu hiện tượng đời sống dân tộc thì
có bấy nhiêu đề tài phản ánh về cuộc sống, con người, thiên nhiên, văn
hóa…của dân tộc. Thông qua những hiện tượng được phản ánh trong tác phẩm
người ta có thể nhận biết được nét riêng của mỗi dân tộc. Thiên nhiên của đất
nước Việt Nam có đầy đủ bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông và mỗi mùa đều có
những nét đẹp riêng. Đây là vẻ đẹp của mùa xuân:
“Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
( Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Nhưng mùa xuân của đất nước Ba Lan lại hoàn toàn khác:
“Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn”
( Tố Hữu, Em ơi Ba Lan)
Sắc xanh của cỏ cây đã trở thành gam màu chủ đạo của mùa xuân ở đất
nước Việt Nam. Hình ảnh trăm hoa đua nở cũng khiến cho mùa xuân Việt Nam
mang một nét riêng so với nhiều quốc gia trên thế giới. Nét riêng ấy đã tạo nên

bản sắc dân tộc Việt Nam.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Bên cạnh đề tài thì bản sắc dân tộc còn được thể hiện qua chủ đề. Chủ đề
và tư tưởng là hạt nhân cơ bản của nội dung tác phẩm. Nhà văn thông qua chủ
đề tư tưởng để phản ánh lí tưởng thầm mĩ, tinh thần, ý chí, khát vọng của dân
tộc mình. Đến với những tác phẩm như Nam quốc sơn hà (Lí Thường Kiệt),
Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi) ta sẽ nhận
thấy được những yếu tố mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. Đó chính là tinh
thần yêu nước nồng nàn, là ý chí đấu tranh quật cường cho độc lập dân tộc. Còn
khi đến với những tác phẩm như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Chinh phụ
ngâm của Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm người đọc sẽ nhận thấy những
giá trị nhân đạo sâu sắc toát lên từ chủ đề tác phẩm. Đó là tiếng nói trân trọng
giá trị con người, bênh vực và cảm thông cho những bất hạnh mà họ gặp phải
Có thể nói, thông qua tác phẩm văn chương, nhà văn đã phản ánh được truyền
thống dân tộc, tâm hồn và cốt cách dân tộc.
Tâm hồn và cốt cách dân tộc còn được biểu hiện qua hoàn cảnh lịch sử cụ
thể và tính cách điển hình của nhân vật. Nhân vật văn học có tính điển hình trong
những hoàn cảnh lịch sử cụ thể là kết tinh cao độ của bản sắc dân tộc. Hình ảnh
của con người yêu nước là điển hình trong văn học Việt Nam nhưng ở mỗi thời
kì lại biểu hiện một cách khác nhau. Thế nên hình ảnh người anh hùng dân tộc
trong văn học trung đại không hoàn toàn như trong văn học hiện đại và lại càng
khác so với văn học đương đại. Tinh thần hy sinh cho dân tộc, Tổ quốc mang
tính lịch sử cụ thể bởi bản sắc dân tộc không phải là một phạm trù bất biến.
Bản sắc văn hóa dân tộc còn được thể hiện ở hình thức nghệ thuật của tác
phẩm. Hình thức nghệ thuật ấy là ngôn ngữ, kết cấu, cốt truyện và hệ thống thể loại.
Người nghệ sĩ bao giờ cũng muốn chuyển tải hết điệu hồn của dân tộc
mình vào tác phẩm văn chương. Một trong những phương thức giúp chuyển tải
tốt nhất chính là ngôn ngữ. Vì thế đã có những nhà văn, nhà thơ dùng tiếng mẹ

đẻ để sáng tạo thơ văn. Dường như chỉ có thứ tiếng ấy mới diễn tả được đúng
và đủ những tư tưởng, tình cảm, những khát vọng, ước ao của đồng bào dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
tộc mình. Hơn nữa họ còn đưa vào sáng tác của mình cách diễn đạt, cách nói
quen thuộc của người dân tộc. Hệ thống thành ngữ, tục ngữ giàu sắc thái dân
tộc cũng được sử dụng như một phương tiện nghệ thuật mang lại hiệu quả cao
trong việc thể hiện bản sắc dân tộc.
Bản sắc dân tộc thể hiện ở sự vận dụng hệ thống kết cấu và thể loại truyền
thống. Lối kết thúc có hậu được bắt nguồn từ văn học dân gian nhưng nó vẫn
được kế thừa một cách linh hoạt qua các thời kì văn học. Bởi lối kết cấu đó đã
đem lại một niềm tin rằng cái thiện sẽ chiến thắng cái ác, “khổ tận cam lai”. Điều
đó đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho con người Việt Nam trong những hoàn
cảnh lịch sử cụ thể.
Thể loại là một yếu tố góp phần thể hiện rất rõ bản sắc dân tộc. Đất nước
Trung Hoa nổi tiếng với thể thơ Đường với niêm luật chặt chẽ. Đến với Việt
Nam, độc giả sẽ nhận thấy thể thơ lục bát được coi như thể thơ dân tộc. Chính
vì thế từ khi ra đời đến nay nó vẫn được vận dụng như một phương thức thể
hiện hiệu quả. So với thơ thì lịch sử phát triển của văn xuôi còn rất trẻ, văn xuôi
nghệ thuật dân tộc thiểu số còn trẻ hơn nữa. Trong văn xuôi, thể loại truyện
ngắn và tiểu thuyết chiếm đại đa số. Hình thức thể loại này bắt nguồn từ hình
thức của truyện cổ dân gian. Cho tới nay, truyện ngắn và tiểu thuyết vẫn được
sử dụng như những thể loại chính thống của văn xuôi.
Một yếu tố đặc sắc góp phần thể hiện bản sắc dân tộc nữa chính là nhân
vật. Từ những tác phẩm văn học dân gian cho tới văn học hiện - đương đại,
hình ảnh con người bình dị, hiền lành, đảm đang với vẻ đẹp tâm hồn trong
sáng, thanh cao và anh dũng trong cuộc sống cũng như trong chiến đấu đã trở
thành tâm điểm. Vì thế mà người đọc có thể thấy được hình bóng của một cô
Tấm trong chị Dậu (Tắt đèn - Ngô Tất Tố), trong chị Út Tịch (Người mẹ cầm

súng - Nguyễn Thi) Vẻ đẹp con người Việt Nam bình dị mà anh hùng đã trở
thành hình ảnh mang tính truyền thống trong văn học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Như vậy, muốn thể hiện được bản sắc văn hóa dân tộc trong văn chương
thì trong lao động sáng tạo nghệ thuật, mỗi nhà văn phải thể hiện được “tâm
hồn, tính cách dân tộc qua cách cảm, cách nghĩ, cách nói riêng của nhà văn”
và “thể hiện một cách đẹp đẽ, sáng tạo những truyền thống văn hóa của dân
tộc trong điều kiện lịch sử nhất định” [51,76]. Có thể nói, mỗi một nhà văn, dù
dân tộc nào, dù viết về đề tài nào, cũng phải thể hiện được bản lĩnh và cá tính
sáng tạo của mình. Nếu thiếu đi những điều này, các nhà văn dân tộc sẽ “dễ
dàng để mất đi bản sắc dân tộc trong sáng tác” của mình. Trong Tuyển tập
văn xuôi dân tộc và miền núi thế kỉ XX , Lâm Tiến cũng đã đề cao vai trò,
trách nhiệm của người cầm bút trong việc đưa bản sắc dân tộc vào sáng tác văn
chương. Ông cho rằng: “ Việc thể hiện bản sắc dân tộc trong văn học là sự
phấn đấu tự giác của nhà văn. Nó đòi hỏi ý thức trách nhiệm cao và sự tìm tòi,
sáng tạo không mệt mỏi của mỗi nhà văn dân tộc. Nó không chỉ đòi hỏi người
viết có tâm huyết, có tình cảm sâu nặng với dân tộc mình, có vốn sống phong
phú, có một chiều sâu tư tưởng cần thiết, mà còn phải thực sự có tài năng”
[26,20). Chính chiều sâu tư tưởng và tài năng của những nhà văn dân tộc thiểu
số nặng lòng với dân tộc sẽ đem đến cho người đọc bức tranh đa sắc về cuộc
sống và con người vùng cao để từ đó họ tìm tòi, khám phá, phát hiện ra cái
Chân – Thiện – Mĩ của đồng bào các dân tộc thiểu số.
1.2. Nhà văn Cao Duy Sơn trong nền văn học các dân tộc thiểu số Việt
Nam hiện - đƣơng đại
1.2.1. Vài nét về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện – đƣơng đại
Trong sự phát triển chung của đất nước, bộ mặt miền núi và cuộc sống của
đồng bào các dân tộc thiểu số đã và đang có những bước phát triển vượt bậc về
mọi mặt. Và trong đó, hoạt động văn học - nghệ thuật cũng đã góp phần quan

trọng để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Văn
học - nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại ra đời cùng với cuộc
Cách mạng tháng Tám và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
đó tới nay nó đã có những đóng góp rất đáng kể cho nền văn học nước nhà. Nhà
thơ Mai Liễu đã khẳng định: “Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số là một bộ
phận không thể tách rời của nền văn học nghệ thuật” nước nhà [16,9]. Nhận
định trên là một minh chứng cho vai trò quan trọng của văn học dân tộc thiểu số
trong nền văn học nước nhà. Do vậy, khi nghiên cứu về mảng văn học này,
chúng ta cần nhìn nhận và đánh giá những thành tựu của nó một cách khách
quan và công bằng. Không nên xem nó như một đối tượng được “chiếu cố” bởi
“chiếu cố” thì sẽ “không còn là khoa học và sáng tạo nữa” [16,11].
Được coi là một mảng không thể thiếu của nền văn học nước nhà, cho
tới thời điểm hiện nay, văn học các dân tộc thiểu số vẫn đồng hành cùng dòng
chảy văn học Việt Nam trên tiến trình hiện đại hóa. Hành trình ấy là cả một nỗ
lực lớn lao để văn học các dân tộc thiểu số khẳng định được vị trí của mình
trong khu vườn muôn vàn hương sắc của nền văn học dân tộc Việt Nam. Chúng
tôi khái quát hành trình đó qua các giai đoạn sau:
1.2.1.1. Từ 1945 đến 1975
Trước Cách mạng tháng Tám, văn học các dân tộc thiểu số chưa hình
thành. Độc giả chỉ biết về hình ảnh cuộc sống và đồng bào dân tộc qua các
trang viết của những nhà văn người Kinh như Vàng và máu (1946) của Thế
Lữ, Truyện đường rừng (1940) của Lan Khai. Đây được coi như hai tác phẩm
mở đầu cho văn xuôi viết về đề tài dân tộc miền núi. Sau đó là Ai hát giữa
rừng khuya (1940) của Tchya, Kòn Trô, Răng Sa Mát (1942) của Lý Văn
Sâm, Cô Dó 1943)của Nguyễn Tuân, Ngậm ngải tìm trầm (1943) của Thanh
Tịnh…Những tác phẩm viết về đề tài này thu hút được sự chú ý của người đọc
bởi cái mới cái lạ, thậm chí là li kì, rùng rợn về thiên nhiên và con người dân tộc

miền núi. Những nhà văn có công “góp phần khai phá, mở đường cho văn xuôi
dân tộc miền núi hình thành và phát triển” (Lâm Tiến) là Nam Cao, Tô Hoài và
Nguyên Ngọc - các nhà văn người Kinh. Năm 1948, với tư cách là một nhà văn
Cách mạng, qua Nhật kí ở rừng, Nam Cao đã nhận ra rằng: “Người Mán chẳng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
có gì đáng sợ… Họ chẳng giết ai, và cũng chẳng có gì là quái gở”. Mọi dân tộc
đều như nhau, dân tộc nào cũng có người tốt, kẻ xấu. Nhà phê bình Lâm Tiến
cho rằng: “Với Nhật kí ở rừng, Nam Cao đã vẽ nên một bức tranh tuy còn đơn
giản nhưng rất chân thực, mới mẻ về con người, cuộc sống của các dân tộc miền
núi” [26,8]. Bên cạnh Nam Cao thì Tô Hoài là nhà văn đã phác họa được bức
chân dung phong phú, sinh động, chân thực về cuộc sống và con người vùng
cao. Với Truyện Tây Bắc, Tô Hoài được đánh giá là “người đầu tiên có ý thức
rõ ràng trong việc tìm tòi hình thức diễn đạt con người, cuộc sống miền núi bằng
những hình tượng, ngôn ngữ mang dáng dấp của người dân tộc” [26,8]. Còn với
Nguyên Ngọc, ông lựa chọn cho mình “cách cảm, cách nghĩ, cách nói ví von, so
sánh giàu hình ảnh…cách viết ngắn gọn, giản dị, gần gũi với đồng bào dân tộc”
[26,9]. Ba nhà văn trên với những sáng tác của họ như dấu ấn đầu tiên thôi thúc
nhu cầu tất yếu cần phải có một mảng văn học viết về đồng bào các dân tộc thiểu
số do chính những người con các dân tộc sáng tác.
Cuộc Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp đã trở
thành chiếc cầu nối đưa một bộ phận nhỏ những người con của các dân tộc
thiểu số đến với văn chương. Họ chủ yếu là những trí thức trưởng thành dưới
chế độ mới, được học hành chu đáo, thiết tha đóng góp vào nền văn học đa dân
tộc với sức lực và tài năng của chính mình. Những tên tuổi đã góp phần làm
nên “lịch sử” cho mảng văn học các dân tộc thiểu số thời kì này phải kể đến
Nông Minh Châu (Tày), Triều Ân (Tày), Vi Hồng (Tày), Vương Trung (Thái),
Lò Văn Sĩ (Thái)…
Năm 1958, tác phẩm văn xuôi đầu tiên của văn học dân tộc thiểu số mới

ra đời với cái tên đậm chất dân tộc: Ché Mèn được đi họp của Nông Minh Châu
– nhà văn dân tộc Tày ở Bắc Kạn. Sự ra đời của tác phẩm được coi là mốc đánh
dấu sự có mặt của văn xuôi dân tộc thiểu số như một thể tài – một mảng sáng tác
độc đáo, mới lạ. Ở Ché Mèn được đi họp, dấu ấn của sự đổi đời lớn lao nhờ
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa khá rõ nét. Cuộc cách mạng ấy đã làm thay đổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
sâu sắc cách sống, cách nghĩ, cách làm, phá bỏ những tập tục cổ hủ, lạc hậu để
vươn lên xây dựng cuộc sống mới của những con người vùng cao. Mèn (Ché
Mèn được đi họp) là một trong số những con người như thế. Là một cô gái Tày
18 tuổi, theo lời kêu gọi của Đoàn thanh niên, Mèn đã rất tích cực học chữ, tích
cực thay đổi những thói quen lạc hậu lâu năm của đồng bào mình…để có ngày
cô được bước ra khỏi bản làng – điều mà nhiều người phụ nữ dân tộc thiểu số,
trong đó có cả mẹ cô, chưa bao giờ có được, làm được, để đi tới “phía sáng”.
Với truyện ngắn Ché Mèn được đi họp, Nông Minh Châu như một
người dám băng lên phía trước để rồi từ đây hàng loạt cây bút là người dân tộc
hăm hở, tự tin đóng góp năng lực và sức sáng tạo của mình để khắc họa rõ nét
hơn bức tranh hiện thực của cuộc sống và con người vùng cao. Bên cạnh Nông
Minh Châu, người có đóng góp không nhỏ cho mảng văn học này là nhà văn,
nhà giáo Vi Hồng với hàng loạt tác phẩm tiêu biểu như truyện ngắn Ngôi sao
đỏ trên đỉnh núi Phja Hoàng (giải Nhì của Tổng hội Sinh viên Việt Nam năm
1960), truyện ngắn Cây su su noọng Ỷ (giải Nhì của báo Người giáo viên nhân
dân năm 1962), truyện ngắn Nước suối tiên đào (giải Nhì Văn nghệ Việt Bắc
năm 1963) Các tác phẩm của ông tập trung viết về cuộc sống kháng chiến và
con người vùng cao với tình cảm trìu mến, ngợi ca. Nhà văn dân tộc Tày Triều
Ân cũng đóng góp cho mảng văn học này một nét riêng khi tập trung tái hiện
cuộc sống quê hương ông trên những trang văn. Câu chuyện trong Chặt cổ
rồng (1962) đã cho người đọc thấy được nỗi thống khổ của người dân bị những
hủ tục, mê tín dị đoan bao đời nè nặng, kìm trói. Câu chuyện ấy không còn là

của riêng quê hương ông nữa mà như đã trở thành câu chuyện về nỗi đau của
vô vàn con người ở mọi miền trên đất nước ta trong thời điểm này. Trong Bên
Bờ suối tiên (1962), Triều Ân còn tái hiện lại hậu quả của chính sách chia để trị
của bọn thực dân phong kiến. Chính âm mưu chia rẽ các tộc người, các làng
bản của bọn thực dân phong kiến đã khiến đời sống người dân rơi vào những
lầm than, mất mát. Không chỉ chú trọng phản ánh gương mặt quê hương, các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
nhà văn trên còn chú ý đi sâu thể hiện nét riêng độc đáo của dân tộc mình. Họ
đã “không ngừng phấn đấu và phấn đấu một cách tự giác để thể hiện được bản
sắc dân tộc trong tác phẩm của mình” [26,13].
Từ khoảng cuối những năm 60, văn học các dân tộc thiểu số phát triển
khá mạnh mẽ về thể loại truyện ngắn. Còn thể loại tiểu thuyết xuất hiện và phát
triển muộn hơn. Cho tới năm 1964, cuốn tiểu thuyết đầu tiên của văn học dân
tộc thiểu số mới ra đời. Đó là tác phẩm Muối lên rừng của nhà văn Nông Minh
Châu. Và phải mất một khoảng thời gian khá dài sau (14 năm), thể loại này mới
tiếp tục xuất hiện và khẳng định được vị trí cũng như giá trị của mình qua ngòi
bút sung sức Vi Hồng.
Có thể nói, những sáng tác của Nông Minh Châu và Vi Hồng đã đặt
những dấu mốc quan trọng cho sự ra đời và phát triển của văn học dân tộc thiểu
số. Từ đây, văn xuôi dân tộc thiểu số phát triển mạnh với hàng loạt những sáng
tác của tác giả người dân tộc như Triều Ân, Nông Viết Toại, Chu Thanh Hùng,
Vi Thị Kim Bình, Hoàng Trung Thu, Triệu Báo, Mã A Lềnh, Hoàng Hạc, Lò
Văn Sĩ, Lâm Ngọc Thụ, Vương Hùng…Thông qua những trang viết của mình,
họ đã dựng lại bức tranh về cuộc chiến tranh anh dũng của cả dân tộc, về thiên
nhiên và con người miền núi. Có thể nói, họ có công rất lớn trong việc bước đầu
khẳng định sự có mặt của một nền văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
1.2.1.2. Từ 1975 đến nay
Cái thời “vạn sự khởi đầu nan” của văn xuôi dân tộc thiểu số đã đi qua.

Đến giai đoạn này, mảng văn xuôi dân tộc thiểu số đã gặt hái được những thành
tựu đáng kể cả về chất lượng lẫn số lượng và ngày càng khẳng định được vai
trò, vị trí cũng như tầm vóc của mình trong nền văn học dân tộc nước nhà.
Trong mười năm đầu của giai đoạn này, đội ngũ nhà văn các dân tộc
thiểu số đã tăng lên đáng kể và trưởng thành mau chóng. Trong đội ngũ ấy có
những người đã có đóng góp từ thời kháng chiến chống Mĩ nay tiếp tục sáng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
tác; có những người là cây bút trẻ mới vào nghề. Nhà văn Vi Hồng tiếp tục
cống hiến hàng loạt tác phẩm có giá trị như tiểu thuyết Đất bằng (1980), truyện
vừa Vãi Đàng (1980), Núi cỏ yêu thương (1984), tiểu thuyết Thung lũng đá
rơi (1985)… Bao trùm các sáng tác của ông là cảm hứng ngợi ca cái đẹp, cái
thiện và lên án một cách trực tiếp hoặc gián tiếp những tội ác mà bọn quan lại
phong kiến gây ra cho người dân khiến họ vốn đã cực lại thêm khổ. Bên cạnh
Vi Hồng còn rất nhiều nhà văn dân tộc thiểu số cũng cống hiến hết mình cho
mảng văn học này như Triều Ân với Tiếng khèn A Pá (1980), Nông Minh
Châu với Tiếng chim gô (1979), Hoàng Hạc với Hạt giống mới (1983), Sông
gọi (1986), Vi Thị Kim Bình với Niềm vui (1979) Mỗi nhà văn phản ánh hiện
thực và con người theo cách riêng nhưng tựu chung lại, họ đều tập trung phản
ánh sự đổi mới của cuộc sống và con người miền núi nhờ ánh sáng cách mạng.
Đại hội Đảng VI đã tạo ra một sự chuyển biến lớn lao trong đời sống
văn học nghệ thuật nước nhà. Văn học các dân tộc thiểu số đã thực sự vươn
mình mạnh mẽ để có được sự nở rộ về lực lượng sáng tác cũng như sự mở rộng
đề tài, chủ đề. Cũng từ lúc này, tư duy nghệ thuật của nhà văn cũng đã có dấu
hiệu chuyển biến khác các giai đoạn trước.
Sang thời kì đổi mới, lớp nhà văn là người dân tộc thiểu số đã khẳng
định được sức sáng tạo của mình ở thời kì trước vẫn dẻo dai sức viết. Vi Hồng
cho ra đời bảy tiểu thuyết: Vào hang (1990), Người trong ống (1990), Gã
ngược đời (1990), Người làm mồi bẫy hổ (1993), Dòng sông nước mắt

(1993), Phụ tình (1994), Đường về với mẹ chữ (1997). Cùng thế hệ với Vi
Hồng là Triều Ân với truyện ngắn Như cách chim trời (1988), Xứ sương mù
(1988). Ở Triều Ân, người đọc vẫn nhận ra niềm tin vào “chất vàng mười”
trong tâm hồn mỗi con người miền núi. Xứ sương mù khép lại trong những
giọt nước mắt hạnh phúc và cảm thông, tác giả như muốn gửi tới người đọc bức
thông điệp: “ Hãy nhắm mắt lại trước cái vẻ bề ngoài có tính hiện tượng để
nhìn sâu vào bản chất bên trong, lúc ấy, ta sẽ gặp được vàng” [28,35]. Hoàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
Hạc vẫn tiếp tục cống hiến cho văn chương nghệ thuật với sự ra đời của tiểu
thuyết Sông gọi (1986), Xứ lạ mường trên (1989). Ngoài những cây bút đã nêu
còn có Mã A Lềnh, La Quán Miên… Bên cạnh đó là một loạt những cây bút
mới như Hoàng Hữu Sang, Đoàn Lư, Hà Trung Nghĩa, Hữu Tiến, Địch Ngọc
Lân, Hoàng Quảng Uyên… Họ chủ yếu là những người con của vùng Việt Bắc
và Tây Bắc. Những sáng tác của họ đã đưa mảnh đất miền núi đi vào văn
chương với hình ảnh của những bản, những làng nằm bên ngọn núi; hình ảnh
của những con người thật thà, chất phác, chăm chỉ song cũng rất mạnh mẽ
trong cuộc sống, trong tình yêu. Họ đã thông qua văn chương mà giới thiệu cho
độc giả bản sắc của dân tộc mình. Cho tới thời điểm này, người được đánh giá
là “đem đến cho người đọc mảng sống đậm đặc, tươi ròng về những con người
miền núi”(Hữu Thỉnh) chính là nhà văn Cao Duy Sơn. Ông quan niệm: “viết
văn cần có sự ám ảnh”. Vì vậy mà mặc dù đã về Hà Nội công tác nhưng tràn
lên những trang viết của Cao Duy Sơn vẫn là sự ám ảnh về vùng đất nơi nhà
văn đã sinh ra và lớn lên. Cao Duy Sơn đã đưa mảnh đất Cô Sầu vào những
trang văn của mình để rồi những ai yêu văn chương của ông cũng cảm thấy nó
bỗng trở nên gần gũi, thân thuộc. Văn của Cao Duy Sơn phản ánh đủ mọi góc
độ của cuộc sống như nó vốn có: tối, sáng, thiện, ác, chân thành, thủ đoạn…cho
nên người đọc dễ bắt gặp mình hoặc bóng hình của mình ở trong đó. Bao trùm
lên toàn bộ những trang viết của Cao Duy Sơn là một đạo lí vững bền dù con

người, đất trời có đổi thay.
Hai thế hệ nhà văn: một – đã trưởng thành trong cách mạng và một -
mới trưởng thành sau cách mạng, đa số viết bằng bút pháp của chủ nghĩa hiện
thực mới, đứng trên lập trường tư tưởng yêu nước, tiến bộ, cách mạng, đã “cố
gắng tái hiện bức tranh nhiều mặt về đời sống của đồng bào các dân tộc – quá
khứ cũng như hiện tại – trong đó khắc họa những số phận được đổi đời từ chế
độ cũ sang chế độ mới, từ “thung lũng đau thương ra cách đồng vui”, từ “chân
trời một người đến chân trời tất cả”. Những tác phẩm xuất sắc trong số đó có

×