Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

quá trình ra nhập apec và định hướng phát triển của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.37 KB, 57 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Cho tới nay, Việt Nam đã là thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác
Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) được 12 năm. Trong những năm
qua,
Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia các chương trình hợp tác thương mại,
đầu tư trong APEC, mở rộng quan hệ với từng thành viên. Năm 2006, Việt
Nam
trở thành nước chủ nhà của APEC với việc tổ chức trên 100 Hội nghị, hội thảo
từ
cấp chuyên viên đến cấp Bộ trưởng để chuẩn bị cho Hội nghị các nhà Lãnh đạo
Kinh tế APEC được tổ chức vào tháng 11/2006.
Để có thể chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng theo đường lối
của.Đảng và Nhà nước, đồng thời giúp các doanh nghiệp khai thác các cơ hội
kinh
doanh từ việc đăng cai tổ chức APEC 2006, chúng ta đã và đang từng bước
khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế nói chung và trên diễn đàn nói
riêng.
Để thấy được tầm quan trọng và ảnh hưỏng của APEC tới các nền kinh
tế của thế giới và đặc biệt là các nền kinh tế thành viên trong diễn đàn ta lần
lượt đi tìm hiểu sơ bộ về cơ cấu tổ chức cũng như hoạt động của diễn đàn.
1
Biểu tượng của APEC
B.NỘI DUNG
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
1. Bối cảnh lịch sử
- Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) ra đời
trong bối cảnh nền kinh tế quốc tế đang đương đầu với những thách thức lớn:
chủ nghĩa toàn cầu vốn phát triển mạnh sau thế chiến thứ hai bắt đầu gặp phải
những khó khăn nan giải với nhiều vấn đề bế tắc trong tiến trình đàm phán
Hiệp Uruguay/WTO; chủ nghĩa khu vực hình thành và phát triển mạnh; khủng
hoảng kinh tế trong những năm 1980 đặt ra những đòi hỏi có tính khách quan


cần tập hợp lực lượng của những nền kinh tế trong khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương để đương đầu với cạnh tranh quốc tế gay gắt. APEC ra đời là kết quả
hội tụ của các yếu tố trên nhằm khắc phục những khó khăn của chủ nghĩa toàn
cầu, đồng thời nhằm liên kết các nền kinh tế phát triển trong khu vực như Mỹ,
Canađa, Australia, Nhật Bản, các nền kinh tế công nghiệp mới như Hàn Quốc,
Đài Loan, Singapore và các nước đang phát triển như Trung Quốc, ASEAN lại
với nhau, đưa khu vực này trở thành động lực cạnh tranh mạnh của nền kinh tế
thế giới.
2. Qúa trình hình thành
Ngay từ những năm 1960, ý tưởng về liên kết kinh tế khu vực đã được
một số học giả người Nhật Bản đưa ra. Năm 1965, hai học giả người Nhật Bản
Kojima và Kurimoto đã đề nghị thành lập một "Khu vực mậu dịch tự do Thái
Bình Dương" mà thành viên gồm năm nước công nghiệp phát triển, có thể mở
cửa cho một số thành viên liên kết là các nước đang phát triển ở khu vực lòng
chảo Thái Bình Dương. Sau đó, một số học giả khác như Tiến sĩ Saburo Okita
(cựu Ngoại trưởng Nhật Bản) và Tiến sĩ John Crawford (Đại học Tổng hợp
2
Quốc gia Ôt-xtrây-lia) đã sớm nhận thức được sự cần thiết phải xây dựng sự
hợp tác có hiệu quả về kinh tế ở khu vực. Tư tưởng này đã thúc đẩy những nỗ
lực hình thành Hội đồng Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương (PECC) năm 1980.
Chính PECC sau này đã cùng với ASEAN đóng vai trò quan trọng trong việc
hình thành chế độ tư vấn kinh tế rộng rãi giữa các nền kinh tế trong khu vực
cũng như thúc đẩy ý tưởng thành lập APEC.
- Vào cuối những năm 1980, một số quan chức chính phủ Nhật Bản, đặc
biệt Bộ trưởng Bộ Thương mại và Công nghiệp (MITI) lúc đó là Hajime
Tamura, đã gợi ý thành lập một diễn đàn hợp tác có tính chất kỹ thuật về các
vấn đề kinh tế khu vực. Mỹ lúc đầu tỏ ra ít quan tâm đến gợi ý này vì đang tập
trung thúc đẩy tiến triển của vòng đàm phán U-ru-goay của GATT và hình
thành Khu vực Mậu dịch Tự do Bắc Mỹ (NAFTA), trong khi chính phủ Công
Đảng của Thủ tướng Bob Hawke ở Ôt-xtrây-lia lúc đó đã nhận thức được tầm

quan trọng thiết yếu của mối quan hệ kinh tế, thương mại với châu Á đối với
Ôt-xtrây-lia nên đã kịp thời nắm bắt và thúc đẩy ý tưởng về một diễn đàn hợp
tác kinh tế.
- Tháng 1 năm 1989, tại Xê-un, Hàn Quốc, Thủ tướng Bob Hawke đã
nêu ý tưởng về việc thành lập một Diễn đàn tư vấn kinh tế cấp Bộ trưởng ở
châu Á - Thái Bình Dương với mục đích phối hợp hoạt đjộng của các chính
phủ nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế ở khu vực và hỗ trợ hệ thống thương mại
đa phương. Australia, Nhật Bản, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines,
Singapore, Brunei, New Zealand, Indonesia, Canada và Mỹ đã ủng hộ sáng
kiến này. Tháng 11 năm 1989, các Bộ trưởng Ngoại giao và Kinh tế của các
nước nói trên đã họp tại Can-bê-ra, Ôt-xtrây-lia quyết định chính thức thành lập
APEC.
- Sau đó, APEC kết nạp thêm Trung Quốc, Hồng Công và Đài Loan (với
tên gọi theo tiếng Anh là Chinese Taipei) vào tháng 11 năm 1991; Mexico,
Papua New Ghine tháng 11 năm 1993; Chile tháng 11 năm 1994 và tạm ngừng
thời hạn xét kết nạp thành viên trong ba năm. Đến tháng 11 năm 1998, APEC
kết nạp thêm ba thành viên mới là Peru, Liên bang Nga và Việt Nam, đồng thời
3
quyết định tạm ngừng thời hạn xem xét kết nạp thành viên mới trong mười năm
để củng cố tổ chức.
- Đến nay APEC đã có 21 nước thành viên, bao gồm cả hai khu vực kinh
tế mạnh và năng động nhất thế giới: khu vực Đông Á và khu vực Bắc Mỹ (gồm
Mỹ, Ca-na-đa và Mê-hi-cô) với những nét đặc thù và vô cùng đa dạng về chính
trị, xã hội, kinh tế và văn hóa. Chỉ trong mười năm đầu tồn tại và phát triển, các
nền kinh tế thành viên APEC đã đóng góp gần 70% cho sự tăng trưởng chung
của nền kinh tế toàn cầu.
- So với toàn thế giới, APEC có vị trí quan trọng, diện tích chiếm 46%,
dân số chiếm 41,2%(với khoảng 2,5 tỷ dân), mật độ dân số bằng 89,8%, GDP
chiếm 57,7%(19.000 tỷ đô la Mỹ mỗi năm), GDP bình quân đầu người bằng
140,1%, chiếm 47% thương mại thế giới, xuất khẩu chiếm 50,1%, xuất khẩu

bình quân đầu người bằng 121,7%. Tỷ lệ xuất khẩu so với GDP đạt 19,1%, tuy
thấp hơn tỷ lệ 22% của thế giới, nhưng lại có những thành viên đạt rất cao,
như: Singapore 196,5%; Hồng Kông; 163,3%; Malaysia 121,2%; Brunei
74,5%; Thái Lan; 67,7%; Việt Nam 59,6%; Đài Loan 53%
- Trong số 14 nền kinh tế lớn nhất thế giới có GDP lớn hơn 500 tỷ USD
(Mỹ, Nhật Bản, Đức, Anh, Pháp, Trung Quốc, Italia, Canada, Tây Ban Nha,
Mexico, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia, Hà Lan), thì có 7 là thành viên của
APEC, trong đó có 2 nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ, Nhật Bản. Đặc biệt,
gần đây Trung Quốc với tốc độ kinh tế liên tục tăng cao và tăng trong thời gian
dài kỷ lục…
3. Sự gia nhập của các nền kinh tế thành viên
3.1 Các nền kinh tế thành viên

Thứ tự Ngày Quốc gia Địa điểm Trang chủ
1. 6–7 tháng 11 Úc Canberra
4
năm 1989
2.
29–31 tháng 7
năm 1990
Singapore
3.
12–14 tháng 11
năm 1991
Hàn Quốc Seoul
4.
10–11 tháng 9
năm 1992
Thái Lan Bangkok
5.

19–20 tháng 11
năm 1993
Hoa Kỳ Seattle
6.
15 tháng 11 năm
1994
Indonesia Bogor
7.
19 tháng 11 năm
1995
Nhật Bản Osaka
8.
25 tháng 11 năm
1996
Philippines
Manila /
Subic
9.
24–25 tháng 11
năm 1997
Canada Vancouver
10.
17–18 tháng 11
năm 1998
Malaysia
Kuala
Lumpur
11.
12–13 tháng 9
năm 1999

New
Zealand
Auckland
12.
15–16 tháng 11
năm 2000
Brunei
Darussalam
13.
20–21 tháng 10
năm 2001
Cộng hòa
Nhân dân
Trung Hoa
Thượng
Hải
14.
25–27 tháng 10
năm 2002
Mexico Los Cabos
15.
20–21 tháng 10
năm 2003
Thái Lan Bangkok
16.
20–21 tháng 11
năm 2004
Chile
Santiago
de Chile


17.
18–19 tháng 11
năm 2005
Hàn Quốc Busan />18. 18-19 tháng 11 Việt Nam Hà Nội
5
năm 2006
19.
Tháng 11 năm
2007
Úc Sydney />20.
Tháng 11 năm
2008
Peru Lima />21.
Tháng 11 năm
2009
Singapore Singapore />22.
Tháng 11 năm
2010
Nhật Bản Yokohama
23. 2011 Hoa Kỳ Honolulu
24. 2012 Nga
Đảo
Russky

3.2 Đặc điểm của các nền kinh tế thành viên khi gia nhập
1. Australia
- Tốc độ tăng GDP nhỉnh hơn một chút so với Mỹ, Đức, Pháp. Xếp hạng
3 trên thế giới về tốc độ phát triển con người năm 2007, tài khoản hiện tại âm
hơn 7% GDP. Phát triển ở mức trung bình 3.6% mỗi năm cho hơn 15 năm.

Trong thập kỷ vừa qua, lạm phát thông thường là 2-3 %, lãi suất cơ bản là 5-
6%.
- APEC ủng hộ tích cực cho việc mở cửa thương mại và miễn thuế, đầu
tư trong điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế của Australia.
Tổ chức lãnh đạo cấp cao của APEC tập hợp nguồn sức mạnh và là một trong
những cuộc họp quan trọng hàng năm của thế giới, là một phần không thể thiếu
bảo đảm cho sự an ninh và ổn định của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
2. Trung Quốc
- Khi “cơn bão” tài chính tiền tệ năm 1997 tác động nặng nề đối với nền
kinh tế của nhiều quốc gia Đông Á, Trung Quốc đã chấp nhận để mức thu ngân
sách giảm xuống còn 14% GDP; cam kết không phá giá đồng NDT, nhờ đó vẫn
6
đảm bảo nhịp tăng trưởng GDP hàng năm trên 8%. Kết quả, Trung Quốc đã
thành công trong việc tránh được cuộc khủng hoảng này.
Năm 2005 là năm kết thúc Kế hoạch 5 năm lần thứ 10 của Trung Quốc.
Kế hoạch 5 năm lần thứ 11 (2006-2010) đề ra những mục tiêu chủ yếu trong
việc phát triển kinh tế và xã hội như sau: tăng trưởng GDP đạt mức 8%; tạo ra
9 triệu việc làm mới ở thành thị; tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giữ ở mức 4,6%;
chỉ số giá cả không tăng hơn 4% và giữ cán cân ổn định trong thanh toán quốc
tế. Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 16 (2002) chỉ rõ: tổng sản phẩm
quốc nội đến năm 2020 sẽ tăng gấp ba Lần so với năm 2000, nâng cao đáng kể
vị thế kinh tế và sức cạnh tranh quốc tế của Trung Quốc.
3. Hong Kong
- Hong Kong có nền kinh tế quốc tế hóa cao độ, môi trường kinh doanh
thuận lợi,thể chế pháp luật kiện toàn, thị trường tự do cạnh tranh, hệ thống
mạng lưới tiền tệ, tài chính,chứng khoán rộng khắp,cơ sở hạ tầng tốt, hệ thống
giao thông, dịch vụ hoàn chỉnh. “Báo cáo tình hình đầu tư của thế giới năm
2004” của Hội nghị Phát triển và Mậu dịch LHQ xem Hong Kong là hệ thống
kinh tế tốt nhất thứ hai của Châu Á về thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài.

4. Nhật Bản
- Từ 1974 đến nay tốc độ phát triển tuy chậm lại, song Nhật Bản tiếp tục
là một nước có nền kinh tế công nghiệp, tài chính, thương mại, dịch vụ, khoa
học kỹ thuật lớn đứng thứ hai trên thế giới (chỉ sau Mỹ). Nhưng trong những
năm 1997-1998, Nhật Bản lại gặp khó khăn lớn, tập trung vào các bê bối trong
hệ thống ngân hàng và thị trường địa ốc.
- Khu vực các doanh nghiệp bị ảnh hưởng nghiêm trọng hơn do tính cứng
nhắc trong cơ cấu công ty và thị trường lao động. Sau đó, Nhật Bản xúc tiến 6
chương trình cải cách lớn; trong đó có cải cách cơ cấu kinh tế, giảm thâm hụt
7
ngân sách, cải cách khu vực tài chính và sắp xếp lại cơ cấu Chính phủ Dù
diễn ra chậm, nhưng cải cách đang đi dần vào quỹ đạo, trở thành xu thế không
thể đảo ngược ở Nhật Bản và gần đây đã đem lại kết quả đáng khích lệ.
- Cán cân thương mại dư thừa và dự trữ ngoại tệ hiện đứng hàng đầu thế
giới, nên nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài rất nhiều. Nhật Bản là nước có nhiều
tập đoàn tài chính, ngân hàng đứng hàng đầu thế giới. Mặc dù vậy, Nhật Bản
có 2 vấn đề dài hạn chính cần được giải quyết sớm là mật độ dân cư quá cao và
xu thế lão hoá của dân cư đang tăng lên.
5. Hàn Quốc
- Bắt đầu từ thập niên 60 của thế kỷ XX, kinh tế Hàn Quốc bắt đầu phát
triển với tốc độ nhanh, đến giữa thập niên 80 đã trở thành nước công nghiệp
phát triển mới (NICS). Đặc điểm của nền kinh tế Hàn Quốc là một nền kinh tế
thị trường nhưng sự điều tiết của Nhà nước đóng vai trò quan trọng.
- Tháng 2-2003, Tổng thống Rô Mu Hiên công bố chính sách và mục tiêu
kinh tế mới: về lâu dài, xây dựng ổn định và thịnh vượng trên bán đảo Triều
Tiên; biến Hàn Quốc thành một trung tâm kinh doanh của khu vực Đông Bắc
Á; đổi mới quản lý chính phủ; tăng quyền lực cho chính quyền địa phương; cân
bằng sự phát triển giữa các khu vực địa lý, xây dựng hệ thống phúc lợi tập thể
với việc giảm bớt khoảng cách giàu nghèo; cải cách chế độ lao động; cải cách
khu vực nông nghiệp - thủy hải sản; lấy khoa học và kỹ thuật là trọng tâm; xây

dựng thủ đô hành chính mới.
6. Philippines
- Philippines là một nền kinh tế kết hợp giữa nông nghiệp, công nghiệp
nhẹ và dịch vụ. Từng là quốc gia giàu có thứ hai ở jChâu Á ( sau Nhật Bản),
Philippines dần trở thành một trong những nước nghèo nhất trong vùng từ khi
giành lại độc lập năm 1946. Quá trình phục hồi kinh tế của nước này đã diễn ra
8
khá mạnh mẽ, nhưng so với các nước Đông Á khác, tốc độ này vẫn còn hạn
chế.
- Trong thời kỳ đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm
1998, kinh tế Philippines đã bị ảnh hưởng rất nhiều. Điều này càng trầm trọng
hơn vì giá cả tăng cao, lạm phát, và thiên tai. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế giảm từ
5% năm 1997 xuống 0,6% năm 1998; sau đó đã hồi phục vào khoảng 3% năm
1999 và 4% năm 2000 và tới năm 2004, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đạt hơn 6% .
- Đồng Peso Philippines được đánh giá là đồng tiền được quản lý tốt nhất
năm 2005. Một luật thuế giá trị gia tăng (E-VAT) mở rộng mới đã được áp
dụng từ ngày 1-11-2005, như một biện pháp nhằm cắt giảm nợ nước ngoài và
cải thiện các dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, sức khoẻ, phúc lợi xã hội, và xây
dựng đường sá.
7. Russia (LB Nga)
- LB Nga có tiềm năng kinh tế rất lớn. Chiếm 3% dân số thế giới, Nga có
nguồn năng lượng lớn nhất thế giới, chiếm 13% tổng trữ lượng dầu mỏ và 34%
trữ lượng khí đốt của thế giới đã được phát hiện. Nga đứng đầu thế giới về xuất
khẩu khí đốt và đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu dầu mỏ.
- Sản lượng điện của Nga chiếm 12% tổng sản lượng điện toàn cầu. Hiện
nay Tổ hợp nhiên liệu - năng lượng Nga là một trong những tổ hợp quan trọng
nhất và phát triển nhanh nhất trong nền kinh tế Nga, chiếm khoảng 1/4 GDP,
1/3 sản lượng công nghiệp và 1/2 nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
- Ngoài dầu mỏ, khí đốt và vàng, Nga có sản lượng khai thác kim cương
đứng đầu thế giới. Sản lượng kim cương của Nga đạt 33,019 triệu cara, trị giá

1,676 tỷ USD. Đặc biệt, đến ngày 21-8-2006, Nga đã trả hết 21,3 tỷ USD nợ
của 18 nước thành viên Câu lạc bộ Paris. Nga dự kiến trả hết số nợ thời Liên
Xô cũ trong năm 2006.
9
- Bên cạnh đó, nhằm tăng vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh
tế, Chính phủ Nga đang thúc đẩy quá trình tái quốc hữu hóa các doanh nghiệp
lớn, trước hết thuộc khu vực năng lượng từng mang lại gần một nửa lợi nhuận
về thuế và giá trị xuất khẩu. Quá trình tái quốc hữu hóa nền kinh tế Nga tuy có
gây tâm lý lo ngại cho một số người; nhưng cho tới nay vẫn không gây ra tác
động tiêu cực nào đối với tăng trưởng kinh tế Nga cũng như việc các nhà đầu
tư phương Tây đang quay trở lại đầu tư vào Nga.
- Chính phủ LB Nga thông qua Chương trình phát triển kinh tế - xã hội
trung hạn 2006-2008, hướng mạnh vào 4 trọng điểm ưu tiên trong các lĩnh vực
y tế, giáo dục, nhà ở và phát triển nông thôn với tổng số vốn đầu tư của Nhà
nước 160 tỷ Rúp, cùng với những giải pháp tăng thu nhập cho người lao động.
Sức mua của người dân tăng, thị trường tiêu dùng sôi động và các nhà phân
tích kinh tế đã nói đến sự bùng nổ tiêu dùng ở Nga.
8. Singapore
- Singapore có nền kinh tế thị trường tự do, Chính phủ nắm vai trò chủ
đạo. Là một trong những nền kinh tế thịnh vượng nhất thế giới, Xingapo trở
thành đầu mối giao lưu thương mại quốc tế quan trọng (cảng biển Singapore là
một trong những cảng biển trọng tải lớn tấp nập nhất thế giới). Sau giai đoạn
chịu ảnh hưởng nặng nề của suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2001-2003, GDP
thực tế năm 2004 của Singapore tăng mức kỷ lục 8%. Chính phủ đang cố gắng
hướng đến việc xây dựng một nền kinh tế ít bị tác động bởi những biến động
bên ngoài và trở thành trung tâm tài chính và công nghệ cao của Đông Nam Á.
9. Thái Lan
- Thái Lan là một nước nông nghiệp truyền thống. Bắt đầu từ năm 1960,
Thái Lan thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội lần thứ nhất và đến nay
là kế hoạch lần thứ chín. Những năm 1970, nước này thực hiện chính sách

'hướng xuất khẩu': ASEAN, Mỹ, Nhật, Châu Âu là thị trường xuất khẩu chính
10
của Thái Lan. Ngành công nghiệp và dịch vụ đã dần dần đóng vai trò quan
trọng trong nền kinh tế và vai trò của nông nghiệp giảm dần.
- Từ 1988 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan đạt tốc độ tăng trưởng cao từ
8% đến 10%. Nhưng đến năm 1996 tăng trưởng kinh tế giảm xuống còn 5,9%
và sau đó là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ tháng 7-1997 làm cho kinh tế
Thái Lan rơi vào tình trạng khó khăn trầm trọng. Kể từ năm 1999, kinh tế Thái
Lan bắt đầu có dấu hiệu phục hồi và 5 năm gần đây (2000-2005), tiếp tục quá
trình phục hồi nhằm hướng tới sự phát triển bền vững.
10. United States of America (Hợp chủng quốc Hoa Kỳ)
- Nước Mỹ có một nền kinh tế mạnh, đa dạng và công nghệ tiến tiến
hàng đầu thế giới, với GDP bình quân đầu người đứng đầu trong các quốc gia
công nghiệp chủ chốt.
- Trong nền kinh tế này, các cá nhân và doanh nghiệp tư nhân tự quyết
định các hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ của mình. Chính phủ là
người đặt hàng hoặc mua trực tiếp các loại hàng hoá và dịch vụ cần thiết chủ
yếu trên thị trường tư nhân. Các doanh nghiệp Mỹ có tính thích ứng cao hơn
nhiều so với các đối tác của họ ở Tây Âu và Nhật Bản trong việc quyết định
phương án kinh doanh như mở rộng nhà máy, giảm bớt công nhân thừa và triển
khai các sản phẩm mới. Các công ty của Mỹ luôn dẫn đầu trong các lĩnh vực
công nghệ thông tin, y tế, vũ trụ và kỹ thuật quân sự.
- Các vấn đề dài hạn cần xử lý của nước Mỹ bao gồm đầu tư chưa thích
đáng trong cơ sở hạ tầng kinh tế, chi phí y tế tăng nhanh do sự lão hoá của dân
cư, thâm hụt đáng kể về thương mại và sự đình trệ của thu nhập gia đình trong
các nhóm dân cư ở tầng lớp lao động bậc thấp của nền kinh tế.
11. Việt Nam
11
- Trải qua 20 năm, đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, “công cuộc đối
mới đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi rõ

rệt bộ mặt của đất nước, cải thiện đáng kể đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân”.
- Việt Nam từng bước làm cho nền kinh tế sống động, sức sản xuất phát
triển khá nhanh, cơ sở vật chất được tăng cường, đời sống nhân dân không
ngừng được cải thiện.
- Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5%/năm. Cơ cấu kinh tế
ngành, vùng có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP năm 1998 chiếm 21,6%,
đến năm 2005 tăng lên 41%; tỷ trọng nông nghiệp năm 1998 chiếm 43,6%, đến
năm 2005 còn 20,5%; tỷ trọng dịch vụ năm 1998 chiếm 33,1%, đến năm 2005
tăng lên 38,5%. Các thành phần kinh tế cùng phát triển. Hiện nay, kinh tế Nhà
nước đóng góp 8% GDP; kinh tế tư nhân chiếm 37,7% GDP; kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài chiếm 15% GDP. Rất nhiều khu công nghiệp mới, đô thị
mới mọc lên. Hạ tầng cơ sở phát triển mạnh; bộ mặt nông thôn và đô thị thay
đổi hàng ngày, hàng giờ. Hàng hóa phong phú, thị trường nhộn nhịp.
II) TÔN CHỈ HOẠT ĐỘNG
- Các thành viên APEC thuộc nhiều khu vực và trình độ phát triển kinh tế
khác nhau. Việc các quốc gia này cùng hợp tác nhằm duy trì và phát triển kinh
tế đã phản ánh xu hướng cùng tiến tới một mục tiêu chung, bất chấp những
khác biệt về kinh tế, chính trị và điạ lý. Trong tuyên bố Seoul 1991, các thành
viên đã nhất trí về các mục tiêu cụ thể cuả APEC, bao gồm:
- Thứ nhất, thúc đẩy sự tự do hóa thương mại và đầu tư giữa các nước thành
viên thuộc APEC bằng cách các nước sẽ tự nguyện đưa ra chương trình cắt giảm
thuế quan và các biện pháp phi thuế, lịch trình cắt giảm muộn nhất là năm 2010 đối
với nước công nghiệp phát triển, năm 2020 đối với các nước chậm và đang phát
triển.
12
- Thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại và đầu tư phát triển.
Các nước thành viên thuộc APEC thực hiện cuộc cải cách hành chính theo
những tiêu chuẩn chung nhằm thống nhất và công khai thủ tục xuất nhập khẩu,

đơn giản hóa thủ tục đầu tư, thủ tục hải quan tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động thương mại và đầu tư phát triển.
- Thứ ba, đẩy mạnh hợp tác kinh tế và kỹ thuật trên 15 lĩnh vực: Phát triển
nguồn nhân lực; Khoa học kỹ thuật ứng dụng trong công nghiệp; Hỗ trợ phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; Hỗ trợ đầu tư để phát triển hạ tầng cơ sở về
kinh tế, năng lượng; Vận tải viễn thông và thông tin; Phát triển du lịch; Tạo cơ
sở dữ liệu thông tin cho hoạt động đầu tư và thương mại; Hợp tác nghiên cứu
năng lượng mới; Hợp tác bảo tồn nguồn tài nguyên biển, thúc đẩy nghề cá và
kỹ thuật nông nghiệp
Hoạt động của APEC dựa trên 9 nguyên tắc sau:
+ Toàn diện: Tiến trình tự do hoá và thuận lợi hoá trong APEC sẽ được
triển khai trên tất cả các lĩnh vực kinh tế để giải quyết tất cả các hình thức cản
trở mục tiêu lâu dài của APEC là tự do hoá thương mại và đầu tư;
+ Phối hợp với WTO: Các biện pháp áp dụng trong APEC phải phù hợp với
những cam kết đã đạt được của WTO;
+ Đảm bảo môi trường tương xứng: Việc thực hiện tự do hoá, thuận lợi hoá
thương mại và đầu tư có xét đến mức độ tự do hoá, thuận lợi hoá cụ thể ở mỗi
nước để đảm bảo môi trường tương xứng;
+ Thực hiện chủ nghĩa khu vực mở, không phân biệt đối xử
+ Đảm bảo sự công khai rõ ràng mọi luật lệ, chính sách hiện hành tại các
nước thành viên APEC;
+ Lấy mức độ bảo hộ hiện tại làm mốc chỉ giảm chứ không tăng thêm các
biện pháp bảo hộ;
13
+ Tiến trình tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại và đầu tư của APEC được
các thành viên đồng loạt triển khai thực hiện liên tục, với những thời gian biểu
khác nhau. Mọi thành viên APEC đều bình đẳng, mọi quyết định đều đạt được
nhờ sự nhất trí chung, tôn trọng quan điểm của các nước tham gia;
+ Linh hoạt trong việc thực hiện tự do hoá thương mại và đầu tư vì trình độ
phát triển của các nước APEC không bằng nhau;

+ Hợp tác: APEC chủ trương hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật để thúc
đẩy kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững
III. CƠ CẤU TỔ CHỨC
1. Cấp chính sách
a. Hội nghị không chính thức các nhà Lãnh đạo Kinh tế APEC (AELM)
- Hội nghị các nhà Lãnh đạo cao nhất của các thành viên APEC được tổ
chức hàng năm bắt đầu từ năm 1993.Tháng 11 năm 1993 tại Seattle (Mỹ) theo
sáng kiến của Tổng thống Mỹ Bin Clintơn,lần đầu tiên trong lịch sử,14 vị
nguyên thủ quốc gia và đứng đầu chính phủ của các thành viên APEC đã gặp
gỡ , trao đổi về các vấn đề kinh tế. Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ nhất đã
nâng vị thế của APEC lên tầm cao mới trên trường quốc tế, như Tuyên bố
chung của các nhà Lãnh đạo khẳng định: "Cuộc họp của chúng ta phản ánh sự
nổi lên của một tiếng nói mới cho khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong
các vấn đề quốc tế".
- Để tăng cường hơn nữa cam kết ở cấp Lãnh đạo cao nhất của các thành
viên đối với các mục tiêu và tiến trình của APEC, kể từ năm 1993, các thành
viên APEC đã nhất trí tổ chức Hội nghị các nhà Lãnh đạo Kinh tế APEC mỗi
năm một lần vào dịp cuối năm, năm 2003 là Hội nghị lần thứ 11 được tổ chức
tại Băng-cốc, Thái Lan vào tháng 10. Việc lập ra cơ chế Hội nghị Cấp cao
thường niên với tư cách là cơ quan quyết định chính sách cao nhất của APEC
đánh dấu một bước tiến quan trọng trong sự phát triển của APEC.
14
b. Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế APEC
- Hội nghị Bộ trưởng APEC họp lần đầu tiên tại Can-bê-ra, Ôt-xtrây-lia
tháng 11 năm 1989 với sự tham gia của các Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng
Kinh tế của 12 nền kinh tế thành viên. Hội nghị Bộ trưởng được tổ chức hàng
năm theo nguyên tắc luân phiên giữa các nước thành viên APEC. Thành viên
đăng cai tổ chức Hội nghị Bộ trưởng hàng năm sẽ giữ ghế Chủ tịch Hội nghị.
- Hội nghị Bộ trưởng APEC quyết định phương hướng hoạt động của
APEC và ấn định thời gian thực hiện chương trình hành động cho năm sau. Các

quyết định của Hội nghị được thể hiện trong Tuyên bố chung, bao gồm:
- Quyết định về các vấn đề tổ chức: xác định mục tiêu, nguyên tắc hoạt
động của APEC; thành lập các uỷ ban, hội đồng ; thành lập quỹ APEC và qui
định tỷ lệ đóng góp của các thành viên; vấn đề kết nạp thành viên mới.
Quyết định nguyên tắc, mục tiêu, nội dung các chương trình hoạt động
và đánh giá tiến trình hợp tác của APEC cũng như công tác của các Uỷ ban,
các Nhóm công tác và các Nhóm đặc trách.
Xem xét , đánh giá việc thực hiện các sáng kiến của Hội nghị Cấp cao
Không chính thức.
Thông qua dự thảo chương trình hành động về tự do hóa thương mại và
đầu tư, sau đó đệ trình lên Hội nghị Cấp cao xem xét và quyết định cuối cùng.
2. Cấp làm việc
a. Hội nghị các Quan chức Cao cấp (SOM)
- Hội nghị này được tổ chức thường kỳ giữa hai Hội nghị Bộ trưởng hàng
năm nhằm chuẩn bị và đưa ra các khuyến nghị trình Hội nghị Bộ trưởng về các
vấn đề tổ chức, chương trình hoạt động của APEC, chương trình hành động
tiến tới tự do hóa thương mại và đầu tư, kế hoạch hành động của các nền kinh
tế thành viên và các chương trình hợp tác kinh tế, khoa học - công nghệ của
APEC, xem xét và điều phối ngân sách và chương trình công tác của các Uỷ
ban, các Nhóm công tác và Nhóm đặc trách.
15
- Trước Hội nghị Quan chức Cao cấp, sẽ có các cuộc họp của các Nhóm
công tác liên quan gồm đại diện cho các thành viên APEC để chuẩn bị những
nội dung cần thiết báo cáo lên Hội nghị các Quan chức Cao cấp.
- Hội nghị các Quan chức Cao cấp có trách nhiệm thúc đẩy tiến trình
APEC phù hợp với các quyết định của Hội nghị các nhà Lãnh đạo Kinh tế, Hội
nghị Bộ trưởng và chương trình hành động thông qua tại hội nghị này.
b. Uỷ ban Thương mại và Đầu tư
- Uỷ ban Thương mại và Đầu tư (CTI) được thành lập năm 1993 trên cơ
sở Tuyên bố về "Khuôn khổ hợp tác và đầu tư" của Hội nghị Bộ trưởng. Uỷ

ban Thương mại và Đầu tư có nhiệm vụ thúc đẩy hợp tác về tự do hóa thương
mại và tạo môi trường đầu tư cởi mở hơn giữa các nền kinh tế thành viên. Uỷ
ban Thương mại và Đầu tư soạn thảo báo cáo hàng năm trình Hội nghị Bộ
trưởng về các vấn đề liên quan tới thương mại và đầu tư trong khu vực đồng
thời chỉ đạo các Tiểu ban và Nhóm chuyên gia trong việc giải quyết những vấn
đề cụ thể. Uỷ ban Thương mại và Đầu tư là một trong số các cơ quan chủ chốt
của APEC giúp thực hiện Kế hoạch Hành động Ô-xa-ca và Kế hoạch Hành
động Manila (MAPA) trong một số lĩnh vực như Thuế quan và các biện pháp
phi quan thuế, Dịch vụ, Giảm bớt các quy định, Hoà giải tranh chấp, Thực hiện
kết quả Vòng đàm phán U-ru-goay, Đầu tư, Thủ tục Hải quan, Tiêu chuẩn và
Hợp chuẩn, Đi lại của Doanh nhân, Sở hữu trí tuệ, Chính sách Cạnh tranh, Chi
tiêu chính phủ, Quy định nguồn gốc xuất xứ. Để có thể thực hiện tốt vai trò của
mình trong 15 lĩnh vực hợp tác quan trọng trên của APEC, mỗi năm Uỷ ban
Thương mại và Đầu tư nhóm họp ba lần và đây đã thực sự trở thành một diễn
đàn hiệu quả đối với các nền kinh tế thành viên để trao đổi các vấn đề về
thương mại và chính sách.
c. Uỷ ban SOM về Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật
- Tiểu ban SOM về Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật (ESC) được thành lập năm
1998 nhằm hỗ trợ Hội nghị Quan chức Cao cấp (SOM) trong việc phối hợp và
quản lý các hoạt động hợp tác kinh tế-kỹ thuật (ECOTECH) và triển khai các
sáng kiến hợp tác trong lĩnh vực này của các nền kinh tế thành viên APEC.
16
Mới đầu đây chỉ là Tiểu ban về ECOTECH, năm 2002 đổi tên thành Uỷ ban
SOM về Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật (ESC). Bằng việc thúc đẩy hợp tác và xác
định những lĩnh vực ưu tiên trong khuôn khổ hợp tác ECOTECH, Uỷ ban SOM
về Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật cùng với các diễn đàn khác trong APEC giữ vai
trò quan trọng đối với việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và phát
triển bền vững của APEC.
- Tại Hội nghị các Quan chức Cao cấp tháng 2 năm 2003, các thành viên
APEC đã nhất trí thông qua bốn lĩnh vực ưu tiên của ECOTECH trong thời

gian tới là: Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu; Xây dựng năng lực chống
khủng bố; Đẩy mạnh và phát triển kinh tế tri thức và Giải quyết những tác
động xấu của Toàn cầu hóa.
- Muốn thúc đẩy hợp tác trong khuôn khổ ECOTECH cần có sự hỗ trợ
đắc lực của các thể chế tài chính, bởi vậy Uỷ ban SOM về Hợp tác Kinh tế-Kỹ
thuật đang tiến hành nghiên cứu cách thức để APEC có thể tăng cường hợp tác
cùng có lợi với các tổ chức tài chính quốc tế cũng như các tổ chức quốc tế khác
trong lĩnh vực Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật, đặc biệt là hợp tác về chuyên gia kỹ
thuật và xây dựng năng lực giữa các thành viên APEC; đồng thời không ngừng
tăng cường phối hợp giữa Uỷ ban SOM về Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật với các
diễn đàn khác của APEC.
d. Uỷ ban Kinh tế
- Uỷ ban Kinh tế (EC) được thành lập tại Hội nghị Bộ trưởng APEC lần
thứ sáu tháng 11 năm 1994 để thực hiện việc nghiên cứu các xu hướng và vấn
đề kinh tế thông qua các chỉ số kinh tế cơ bản. Uỷ ban Kinh tế là một diễn đàn
thúc đẩy đối thoại giữa các nền kinh tế thành viên về các vấn đề kinh tế, dự
báo, xu hướng kinh tế trong khu vực để tạo ra một khung cảnh rộng hơn cho sự
hợp tác trong APEC. Hoạt động của Uỷ ban đóng vai trò quan trọng, hỗ trợ cho
việc soạn thảo chính sách trong các diễn đàn khác của APEC.
- Trước đây khi chưa có Uỷ ban SOM về Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật, Uỷ
ban Kinh tế có nhiệm vụ chuẩn bị Báo cáo về Hợp tác kinh tế và kỹ thuật trong
APEC, tập trung vào những vấn đề năng lượng, môi trường, cơ sở hạ tầng, phát
17
triển nguồn nhân lực, dân số, phát triển bền vững, thương mại và đầu tư. Trong
lĩnh vực tự do hóa thương mại và đầu tư, các dự án nghiên cứu của Uỷ ban bao
gồm: nghiên cứu tác động về mặt kinh tế của quá trình tự do hóa thương mại,
tác động của tự do hóa đầu tư và các nguyên tắc tự do hóa đầu tư, đầu tư trực
tiếp nước ngoài và các chính sách cạnh tranh, chính sách sở hữu trí tuệ, hợp tác
tiểu khu vực và tác động của nó tới APEC. Hiện nay, Uỷ ban Kinh tế đang xúc
tiến nghiên cứu một số vấn đề kinh tế và hợp tác kinh tế, trong đó bao gồm

triển vọng kinh tế khu vực hàng năm và vai trò của các thể chế tài chính; thuận
lợi và khó khăn cũng như lợi ích của việc cơ cấu nền kinh tế; các vấn đề liên
quan đến Kinh tế mới và Kinh tế tri thức; và một số chương trình hỗ trợ quá
trình Tự do hoá, Thuận lợi hóa Thương mại và Đầu tư trong APEC.
e. Uỷ ban Ngân sách và Quản lý
- Uỷ ban Ngân sách và Quản lý (BMC) được thành lập năm 1993, có
chức năng tư vấn cho các quan chức cao cấp về những vấn đề ngân quỹ, quản
lý và điều hành. Uỷ ban này được trao quyền đánh giá cơ cấu chung của ngân
sách hàng năm và xem xét các ngân sách hoạt động do các Nhóm công tác, các
Uỷ ban đưa ra, và ngân sách hành chính do Ban thư ký đưa ra. Uỷ ban có
quyền đánh giá về hoạt động của các Nhóm công tác và khuyến nghị với các
quan chức cao cấp APEC về các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả; xem xét
các khoản chi tiêu của Nhóm công tác và dự án của các Nhóm đặc trách. Uỷ
ban Ngân sách và Quản lý họp mỗi năm hai lần thường vào cuối tháng ba và
tháng bảy.
- Uỷ ban Ngân sách và Quản lý có chức năng giải quyết các vấn đề liên
quan đến ngân sách chung của APEC hay phí đóng góp của mỗi nền kinh tế
thành viên. Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ tư năm 1992 quyết định thành
lập Ban Thư ký APEC và quỹ tài chính chung do các thành viên đóng góp.
Mức đóng góp căn cứ trên GNP của từng nền kinh tế thành viên và bình quân
GNP/người trong ba năm gần nhất. Hiện trong APEC đang có bốn mức phí
đóng góp: đứng đầu là Mỹ và Nhật Bản, đóng góp tới 18% tổng ngân quỹ; tiếp
đến là Xinh-ga-po, Hồng Công, Niu Di-lân đóng 2,75%; xếp hàng thứ ba là
18
Trung Quốc, Ôt-xtrây-lia, Ca-na-đa, Mê-hi-cô, Hàn Quốc, Đài Loan, Liên bang
Nga; đóng góp mức thấp nhất là Chi-lê, Ma-lai-xia, Thái Lan, Phi-líp-pin, Bru-
nây, In-đô-nê-xia, Pa-pua Niu Ghi-nê, Pê-ru, Việt Nam, mỗi thành viên đóng
góp 1,5% ngân quỹ. Cho đến nay, Quỹ chung của APEC gồm ba khoản chính:
(i) Chi phí hành chính cho hoạt động của APEC, cụ thể là chi phí cho hoạt
động của Ban Thư ký; (ii) Chi phí cho các dự án của APEC; (iii) Quỹ đặc biệt

để thúc đẩy Tự do hóa và Thuận lợi hóa Thương mại và Đầu tư trong APEC,
quỹ này do Nhật Bản đóng góp (năm 1995, Nhật Bản cam kết sẽ đóng góp 10
tỷ yên để hỗ trợ cho việc thúc đẩy Tự do hóa và Thuận lợi hóa Thương mại và
Đầu tư).
f. Các Nhóm công tác
- Các Nhóm công tác có chức năng thực hiện nhiệm vụ do các nhà Lãnh
đạo, Bộ trưởng và quan chức cao cấp giao cho. Cho tới nay trong APEC đã lập
ra 11 Nhóm công tác phụ trách các lĩnh vực sau: Hợp tác Kỹ thuật Nông
nghiệp, Năng lượng, Nghề cá, Phát triển Nguồn nhân lực, Khoa học và công
nghệ, Bảo vệ tài nguyên biển, Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Thông tin và Viễn
thông, Du lịch, Xúc tiến thương mại, Vận tải. Phần lớn hoạt động của các
Nhóm là khảo sát tiềm năng phát triển và thúc đẩy sự tăng trưởng trong các
lĩnh vực do từng Nhóm phụ trách. Thông qua các hoạt động này, các thành
viên APEC xây dựng những mối liên hệ thực sự giữa các đại diện chính giới,
giới doanh nghiệp và học giả.
- Hoạt động của các Uỷ ban chuyên đề, các Nhóm đặc trách của SOM và
các Nhóm công tác là nền tảng chủ yếu của diễn đàn APEC. Thực tế, đây là
những diễn đàn nhỏ để các thành viên thảo luận, tư vấn chính sách và hợp tác
trên các lĩnh vực cụ thể. Những nghiên cứu của các Nhóm đặc trách, các
chương trình hợp tác do các Nhóm công tác soạn thảo là cơ sở chủ yếu để Hội
nghị Bộ trưởng đưa ra các quyết định liên quan đến phương hướng hoạt động
của APEC.
g. Các Nhóm đặc trách của SOM
19
- Bên cạnh các Nhóm công tác, Hội nghị Quan chức Cao cấp (SOM) đã
lập ra ba Nhóm đặc trách nhằm xác định các vấn đề và đưa ra khuyến nghị về
những lĩnh vực quan trọng cần xem xét trong khuôn khổ hợp tác của APEC.
Hiện đang có ba Nhóm đặc trách của SOM là: Nhóm đặc trách về Mạng các
điểm liên hệ về giới (Gender Focal-Points Network), Nhóm chỉ đạo về thương
mại điện tử (Electronic Commerce Steering Group) và Nhóm đặc trách về

Chống khủng bố (Counter-Terroism Task Force).
- Nhóm đặc trách về Mạng các điểm liên hệ về giới được thành lập từ
năm 2003 nhằm tiếp tục các chương trình về hội nhập giới và thúc đẩy sự tham
gia của nữ giới vào các hoạt động thương mại trong khu vực APEC. Tiền thân
của nhóm đặc trách này là Nhóm Tư vấn Ad Hoc của SOM về Hội nhập giới
(the SOM Ad Hoc Advisory Group on Gender Integration - AGGI) tồn tại từ
năm 1999 đến năm 2002.
- Nhóm đặc trách về thương mại điện tử được thành lập từ tháng 2 năm
1999 với vai trò phối hợp và thúc đẩy các hoạt động hợp tác thương mại điện
tử của APEC thông qua hệ thống các quy định, luật lệ, chính sách minh bạch và
nhất quán. Những nỗ lực của Nhóm đặc trách về thương mại điện tử trong thời
gian vừa qua đã góp phần nâng cao lòng tin của các nền kinh tế thành viên vào
lĩnh vực thương mại điện tử, và qua đó khuyến khích việc sử dụng công nghệ
thông tin và thương mại điện tử như In-tơ-nét để tiến hành trao đổi thương mại,
làm đơn giản hóa cách thức trao đổi giữa các nền kinh tế.
- Nhóm đặc trách về Chống khủng bố được thành lập tại Hội nghị các
Quan chức Cao cấp tháng 2 năm 2003, nhằm triển khai Tuyên bố của các nhà
Lãnh đạo về Chống khủng bố và Thúc đẩy tăng trưởng được thông qua tháng
10 năm 2002 tại Mê-hi-cô. Nhóm đặc trách về Chống khủng bố có chức năng
giúp đỡ các nền kinh tế thành viên trong việc xác định và đánh giá những biện
pháp cần thiết để chống khủng bố, phối hợp các chương trình hỗ trợ về kỹ thuật
và năng lực, và thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa APEC với các tổ chức quốc tế và
khu vực trong các vấn đề liên quan đến chống khủng bố. Các lĩnh vực ưu tiên
trong chương trình hoạt động của Nhóm đặc trách về Chống khủng bố là: Sáng
20
kiến về Bảo đảm An ninh Thương mại trong khu vực APEC (the Secure Trade
in the APEC Region - STAR); ngăn cấm việc hỗ trợ tài chính cho các hoạt
động khủng bố; tăng cường an ninh mạng; sáng kiến an ninh năng lượng; và
bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.
3. Ban thư ký APEC

- Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ tư ở Băng Cốc năm 1992 nhận thấy
cần phải có một cơ chế giúp việc hiệu quả để hỗ trợ và phối hợp các hoạt động
trong APEC nhằm tăng cường vai trò và hiệu quả của APEC trong xúc tiến hợp
tác kinh tế khu vực, đã nhất trí thành lập Ban Thư ký APEC, đặt trụ sở tại
Xinh-ga-po, và lập một quỹ chung của APEC.
- Ban Thư ký APEC đứng đầu là một Giám đốc Điều hành, do nước giữ
ghế Chủ tịch APEC cử với thời hạn một năm. Một phó giám đốc điều hành do
nước sẽ giữ chức Chủ tịch APEC vào năm tiếp theo cử. Đây là các quan chức
của Chính phủ mang hàm Đại sứ. Ngoài ra, Ban Thư ký APEC hiện có khoảng
20 Giám đốc chương trình do các nền kinh tế thành viên tiến cử, 25 nhân viên
chuyên nghiệp (cũng được biệt phái từ các nước thành viên) và các nhân viên
phục vụ.
- Ban Thư ký làm việc dưới sự chỉ đạo của Hội nghị Quan chức cao cấp
và có quan hệ thông tin trực tiếp thường xuyên với các thành viên, các Uỷ ban,
các Nhóm công tác và các Nhóm đặc trách của APEC. Mới đây, Ban Thư ký
APEC quyết định nâng cấp trang Mạng (website) của mình nhằm giới thiệu về
APEC, giúp cho việc tiếp cận các thông tin về hoạt động của APEC được dễ
dàng hơn.
- Ban Thư ký APEC giữ vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của
APEC, có chức năng tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật, phối hợp các hoạt động của
APEC; điều hành ngân sách hàng năm của APEC; cũng như quản lý thông tin
và các dịch vụ thông tin tuyên truyền. Từ năm 1993, do vấn đề tài chính và
ngân sách trở nên phức tạp, chức năng điều hành tài chính được chuyển giao
cho Uỷ ban Ngân sách và Quản lý.
21
Ban Thư ký APEC đồng thời là cơ quan chủ chốt trong việc quản lý các
dự án của APEC. Hiện Ban Thư ký APEC đang hỗ trợ các nền kinh tế thành
viên và các diễn đàn trong khuôn khổ APEC quản lý hơn 230 dự án lấy kinh
phí từ quỹ của APEC
4.Hội nghị thường niên

Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao không chính thức : 6–7 tháng 11năm 1989
tại, Canberra (Úc), các Bộ trưởng Ngoại giao và Kinh tế của 12 nước Australia,
Nhật Bản, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Singapore, Brunei, New
Zealand, Indonesia, Canada và Mỹ đã họp quyết định chính thức thành lập
APEC.(cụ thể như phần trên trình bày)
Các cuộc họp cấp bộ trưởng: lần lượt diễn ra vào 29–31 tháng 7 năm 1990,
tại Singapore; 12–14 tháng 11 năm 1991 tại Seoul( Hàn Quốc); 10–11 tháng 9
năm 1992 tại Bangkok ( Thái Lan).Vào tháng 11/1991, APEC kết nạp thêm
Trung Quốc, Hồng Công và Đài Loan.
Hội nghị APEC 1: 19-20 tháng 11 năm 1993 tại đảo Blech thuộc bang
Settle (Mỹ)
Lần đầu tiên các nhà lành đạo APEC họp mặt và đề ra viễn cảnh của
APEC "Tinh thần cộng đồng khu vực châu Á - Thái Bình Dương" về một khu
vực “ổn định, an ninh và thịnh vượng cho cho các nền kinh tế thành viên”
thông qua hợp tác và quyết định đặt trụ sở của APEC tại Singapore. Hội nghị
kết nạp thêm Mexico, Papua New Guinea, nâng số thành viên của APEC lên
đến 17 thành viên. Hội nghị quyết định từ đây sẽ tổ chức Hội nghị cấp cao
APEC hàng năm theo hình thức luân phiên.
Hội nghị APEC 2 : 15 tháng 11 năm 1994 tại Bogo, Indonesia.
Các nền kinh tế thành viên APEC tại hội nghị APEC lần thứ 2 đề ra
"Mục tiêu Bogo" với nội dung: Mở cửa, tự do hóa thương mại và đầu tư trong
khu vực châu Á - Thái Bình Dương vào năm 2010 đối với các nền kinh tế phát
22
triển và vào năm 2020 đối với các nền kinh tế đang phát triển. APEC có 18
thành viên sau khi Chile được kết nạp làm thành viên.
Hội nghị APEC 3 : 19 tháng 11 năm 1995 tại Osaka, Nhật Bản.
APEC thông qua kế hoạch hành động Osaka (Osaka Action Agenda –
OAA) với ba nội dung chính: Tự do hóa thương mại và đầu tư, Thuận lợi hóa
thương mại, Hợp tác kinh tế kỹ thuật để thực hiện các mục tiêu Bogo;thành lập
Hội đồngTư vấn Kinh doanh APEC (ABAC), trong đó mỗi nền kinh tế thành

viên đóng góp ba doanh nhân.
Hội nghị đã xác định 15 lĩnh vực cụ thể liên quan đến việc thực hiện tự
do hoá và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư mà các nền kinh tế APEC phải
báo cáo trong kế hoạch hành động riêng (IAP).
Hội nghị APEC 4 : 25 tháng 11 năm 1996 tại Manila, Philippin.
APEC thông qua kế hoạch hành động Manila (Manila Action Plan -
MAPA), với các biện pháp tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư
nhằm đạt được các mục tiêu Bogo và kế hoạch hành động cá nhân (IAP) và tập
thể (CAP) được tập hợp lại với các bước đi cụ thể và cách thức các nền kinh tế
đạt được các mục tiêu về tự do thương mại được đề ra tại Hội nghị Bogo.
Hội nghị APEC 5 : 24–25 tháng 11 năm 1997 tại Vancouver, Canada.
APEC xây dựng “Tầm nhìn thế kỉ XXI”, thông qua đề nghị về tự do hoá
lĩnh vực tự nguyện sớm (Early Voluntary Sedtoral Liberalization - EVSL) hơn
2 năm so với mục tiêu Bogo trong 15 lĩnh vực và quyết định cập nhật hàng năm
các Kế hoạch hành động riêng của từng nền kinh tế thành viên.
Hội nghị APEC 6 : 17–18 tháng 11 năm 1998 tại Kuala Lumpur, Malaixia.
CÁc nền kinh tế APEC chỉ nhất trí được về 9 lĩnh vực đầu tiên trong 15
lĩnh vực của kế hoạch EVSL và tìm kiếm thoả thuận với các nước không phải
thành viên APEC trong WTO về vấn đề này. Hội nghị kết nạp thêm ba thành
viên mới là Peru, Liên bang Nga và Việt Nam, đồng thời quyết định tạm ngừng
thời hạn xem xét kết nạp thành viên mới trong mười năm.
23
Hội nghị APEC 7 : 12–13 tháng 9 năm 1999 tại Auckland, New Zealand.
APEC cam kết giảm bớt các thủ tục giấy tờ trong hoạt động thương mại
đối với các nền kinh tế phát triển vào năm 2005 và các nền kinh tế đang phát
triển vào năm 2010. APEC cũng thông qua kế hoạch thẻ thông hành dành cho
doanh nhân (Business Travel Card) và thoả thuận công nhận lẫn nhau về các
thiết bị điện tử và Cơ cấu thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ trong APEC. Hội
nghị tán thành vòng đàm phán mới của WTO bắt đầu từ năm 2000 và kéo dài 3
năm, ủng hộ các thành viên APEC chưa phải là thành viên của WTO sớm gia

nhập tổ chức này.
Hội nghị APEC 8 : 15–16 tháng 11 năm 2000 tại Bandar Seri Begawan,
Brunei.
APEC thiết lập kế hoạch hành động điện tử riêng (e-IAP), đưa ra các
thông tin về IAPs trên mạng và cam kết thực hiện kế hoạch hành động xây
dựng Nền kinh tế mới với mục tiêu là tăng đáng kể sự tiếp cận Internet trong
các nền kinh tế thành viên APEC vào năm 2005.
Hội nghị APEC 9 : 20–21 tháng 10 năm 2001 tại Thượng Hải, Trung Quốc.
APEC thông qua Thoả thuận Thượng Hải (Shanghai Accord), với trọng
tâm là mở rộng APEC, làm rõ các Lộ trình thực hiện các mục tiêu Bogo và
củng cố các cơ chế để thực hiện ác mục tiêu này. Chiến lược APEC điện tử ( e
– APEC) cũng được thông qua và chiến lược này đã đề ra các chương trình
nghị sự để tăng cường các cơ cấu và các thiết chế thị trường, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ cho các giao dịch trên
mạng và thúc đẩy tinh thần doanh nghiệp cũng như xây dựng nguồn nhân lực.
Lần đầu tiên, các nhà lãnh đạo kinh tế APEC đã thông qua Tuyên bố chống
khủng bố.
Hội nghị APEC 10 : 25–27 tháng 10 năm 2002 tại Los Cabos, Mexico.
APEC thông qua Kế hoạch hành động thuận lợi hoá thương mại (Trade
Facili tation Action Plan), Các danh sách chính về thương mại, nền kinh tế số
và các tiêu chuẩn minh bạch. APEC cũng nêu ra các sáng kiến cụ thể để giảm
24
các chi phí trong giao dịch thương mại xuống còn khoảng 5% trong khu vực
châu Á- Thái Bình Dương vào năm 2006.
Hội nghị cấp cao APEC lần này cũng thông qua Tuyên chống khủng bố
lần thứ 2, cùng với việc thông qua Sáng kiến thương mại an toàn ở khu vực
châu Á- Thái Bình Dương (STAR). Cũng tại hội nghị này, các nhà lãnh đạo
kinh tế APEC đã ra 1 tuyên bố về tình hình trên bán đảo Triều Tiên.
Hội nghị APEC 11 : 20–21 tháng 10 năm 2003 tại Bangkok, Thái Lan.
APEC đã đưa ra biện pháp hành động từ “ở biên giới” (measure at the

boder) sang các biện pháp “phía trong đường biên” (measure behind the boder).
Các nhà lãnh đạo kinh tế APEC cũng khẳng định quyết tâm về việc mỗi nền
kinh tế sẽ thực hiện cải cách về cơ cấu nhất trí thông qua nghị quyết để đạt
được tăng trưởng kinh tế trong toàn khu vực APEC. APEC cũng nhất trí tái
khởi động vòng đàm phán Doha của WTO về chương trình nghị sự về phát
triển ( WTO Dohar Development Agenda).
Một mặt APEC thúc đẩy sự thịnh vượng chung trong khu vực, mặt khác
APEC cũng khẳng định sự cần thiết phải cải thiện tình hình an ninh trong khu
vực châu Á- Thái Bình Dương. Các thành viên APEC đã được sự nhất trí cao
về các hành động nhằm ngăn chặn các mối đe doạ khủng bố do hệ thống tên lử
vác vai (MANPADS), phối hợp tốt hơn các hoạt động chống khủng bố và thực
hiện Kế hoạch hành động của APEC về chống dịch SARS và sáng kiến về an
ninh y tế.
Hội nghị APEC 12 : 20–21 tháng 11 năm 2004 tại Santiago de Chile, Chile.
Các nhà lãnh đạo kinh tế APEC đã thông qua chương trình nghị sự thực
hiện các cải cách mang tính cơ cấu (APEC Leaders’ Agenda to Implement
Structural Refom - LAISR), trong đó nêu ra những ưu tiên mà các nền kinh tế
APEC cần đạt được trong việc thúc đẩy các cải cách cơ cấu trong tương lai.
Đồng thời các nhà lãnh đạo kinh tế APEC đã đưa ra một tuyên bố mạnh mẽ để
ủng hộ các tiến bộ đạt được trong Vòng đàm phán Doha của WTO về Chương
trình nghị sự về phát triển và đặt ra thời hạn để đạt được bước đột phá trong các
25

×