Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Báo cáo tham luận chuyên sâu về hình học toán lớp 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.87 KB, 28 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC HUYỆN ĐÔNG HOÀ

BÁO CÁO THAM LUẬN:
TRAO ĐỔI CHUYÊN SÂU VÀ MỞ RỘNG MỘT BÀI
TOÁN HÌNH HỌC TRONG SÁCH GIÁO KHOA TOÁN 8 .
Giáo viên: Huỳnh Thanh Hồng.
Đơn vị: Trường THCS Trường Chinh.

BÁO CÁO THAM LUẬN:
TRAO ĐỔI CHUYÊN SÂU VÀ MỞ RỘNG MỘT BÀI
TOÁN HÌNH HỌC TRONG SÁCH GIÁO KHOA TOÁN 8 .
Giáo viên: Huỳnh Thanh Hồng.
Đơn vị: Trường THCS Trường Chinh.
I- ĐẶT VẤN ĐỀ
Để rèn luyện kĩ năng giải toán cho học sinh ngoài việc trang bị tốt kiến thức cơ
bản cho các em giáo viên cần hướng dẫn học sinh phát triển, mở rộng kết quả các bài
toán cơ bản có trong sách giáo khoa để các em có suy nghĩ tìm tòi những kết quả mới
sau mỗi bài toán. Nhưng tiếc rằng trong nhà trường hiện nay phần lớn các giáo viên
chưa có thói quen phát triển, mở rộng một bài toán thành chuỗi các bài toán liên quan
cho học sinh. Việc chỉ dừng lại ở các bài tập đơn lẻ làm cho học sinh thụ động, khó
tìm được mối liên hệ giữa các kiến thức đã học. Cho nên khi gặp một bài toán mới các
em không biết xuất phát từ đâu? Những kiến thức cần sử dụng là gì? Nó liên quan
như thế nào với các bài toán trước đó? Trong quá trình giảng dạy tôi thấy việc tìm tòi
mở rộng các bài toán quen thuộc là phương pháp học khoa học, có hiệu quả. Phát triển
từ dễ đến khó là con đường phù hợp cho học sinh khi rèn luyện kĩ năng giải toán. Việc
tìm tòi để phát triển, mở rộng các bài toán làm tăng thêm hứng thú học tập, óc sáng tạo
của học sinh. Từ đó giúp các em có cơ sở khoa học khi phân tích, phán đoán tìm lời
giải cho các bài toán khác và ngày càng tự tin hơn vào khả năng giải toán của mình
Bài viết này tôi xin đưa ra một số ví dụ về cách phát triển, mở rộng một số bài
toán hình học cơ bản trong chương trình sách giáo khoa toán 8, xin được trao đổi cùng
các bạn đồng nghiệp.


II-CƠ SỞ LÝ LUẬN
Giải bài tập toán là quá trình suy luận, nhằm khám phá ra quan hệ lôgic giữa
cái đã cho (giả thiết) với cái phải tìm (kết luận). Nhưng các quy tắc suy luận cũng như
các phương pháp chứng minh chưa được dạy tường minh. Do đó, học sinh thường gặp
nhiều khó khăn khi giải bài tập.Thực tiễn dạy học cũng cho thấy học sinh khá giỏi

thường đúc kết những kiến thức, phương pháp cần thiết cho mình bằng con đường
kinh nghiệm giải nhiều dạng bài tập; còn học sinh trung bình, yếu, kém thường gặp
nhiều lúng túng. Tuy nhiên, không phải cứ giải nhiều bài tập là có nhiều kĩ năng, việc
luyện tập sẽ có nhiều hiệu quả, nếu như biết khéo léo khai thác, mở rộng từ một bài
toán sách giáo khoa sang một loạt bài toán tương tự có tính tổng hợp, nhằm vận dụng
một tính chất, rèn luyện một phương pháp chứng minh nào đó.Quan sát đặc điểm bài
toán, khái quát đặc điểm là vô cùng quan trọng, song quan trọng hơn là sự khái quát
hướng suy nghĩ và phương pháp giải. Sự thực là khi giải bài tập thì không chỉ là giải
một vấn đề cụ thể mà là giải đề bài trong một loạt vấn đề nào đó. Do đó hướng suy
nghĩ và phương pháp giải bài tập cũng có một ý nghĩa chung nhất định. Nếu ta chú ý
từ đó mà khái quát được hướng suy nghĩ và cách giải của vấn đề là gì thì ta sẽ có thể
dùng nó để giải quyết vấn đề cùng loại và sẽ mở rộng ra. Do đó sau khi giải một bài
toán nên chú ý làm mẫu để phát triển, mở rộng thành các bài toán liên quan có tính
tổng hợp.
Hơn nữa “Phương pháp giáo dục phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, tư duy
sáng tạo của người học: Bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn
lên” . Đó là một trong những định hướng quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy
học căn bản và toàn diện. Nhất là dạy học Toán phải dạy cho học sinh năng lực phát
hiện và giải toán. Do đó, giáo viên phải rèn luyện, bồi dưỡng cho học sinh kĩ năng tự
học độc lập, thực chất là thói quen độc lập suy nghĩ, suy nghĩ sâu sắc khoa học để có
khả năng phân tích, tổng hợp cao khi giải một bài toán bằng cách xâu chuỗi, khai thác
và phát triển các bài toán cơ bản ở sách giáo khoa .
III-CƠ SỞ THỰC TIỄN
Qua giảng dạy Toán các lớp 8; 9, dạy luyện thi vào lớp 10 THPT, bồi dưỡng

học sinh giỏi… Bản thân tôi nhận thấy phần Hình học có vai trò quan trọng quyết
định trong các đề thi. Bởi vì giải các bài tập hình học đòi hỏi học sinh phải vận dụng
nhiều kiến thức hình học liên quan đã được học ở cấp THCS vào làm bài.
Chính vì phải vận dụng kiến thức tổng hợp để giải toán nên đối với phần lớn học
sinh các bài toán hình học thường là khó.

Nguyên nhân dẫn đến các hạn chế của học sinh là:
- Do tâm lý học sinh thường nghĩ các bài toán hình học thuộc loại khó.
- Học sinh không phát hiện thấy sự liên quan giữa bài toán hình học tổng hợp
và bài toán hình học cơ bản ở sách giáo khoa.
- Giáo viên chưa quan tâm dạy đúng mức cũng như định hướng để học sinh vận
dụng các bài toán cơ bản đã biết vào làm bài các bài tập mới.
IV- NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Các biện pháp đã thực hiện
- Hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức đã học vào giải các bài tập cơ bản
trong sách giáo khoa.
- Từ bài toán cơ bản trong sách giáo khoa hướng dẫn học sinh phát triển, mở
rộng thành bài toán tổng hợp.
- Chú trọng nhắc nhở phương pháp “Tương tự hóa” đối với học sinh.
- Hướng dẫn học sinh liên hệ vận dụng phương pháp “Tương tự hóa” giữa bài
toán cơ bản và bài toán tổng quát.
2. Các ví dụ minh họa
Bài toán 1. Cho tam giác ABC với phân giác trong AD và phân giác ngoài AM của
góc A. Chứng minh:
1 1 2
DC MC BC
+ =
. (*)

1. Lời giải.


D
B
C
A
M
J
D
C
B
I
A
M
K
J
I
A
M
C
B
D
Đẳng thức (*) tương đương với:
2.
BC BC
DC MC
+ =

Theo tính chất của đường phân giác ta có:
DB MB BC DC MC BC
DC MC DC MC

− −
= ⇔ =

1 1
BC BC
DC MC
⇔ − = −
2.
BC BC
DC MC
⇔ + =
Bài toán được chứng minh.Vậy:
1 1 2
DC MC BC
+ =
2.Khai thác và tổng quát bài toán

( Hình 2) ( Hình 3. )
Lời phân tích:
Trong bài toán 1 Ta đã sử dụng tính chất đường phân giác để giải bài toán dựa vào 2
tỷ số bằng nhau là
DB MB
DC MC
=
.Ta Thấy rằng nếu từ B vẽ đường thẳng song song với
đường thẳng AD cắt tia đối của tia AC tại I sao cho BI chắn trên các đường thẳng
CA, AM và AB thành 2 đoạn bằng nhau ( Hình 2). Hoặc từ B vẽ đường thẳng song
song với AM cắt AD và AC chắn trên 2 tia AB và AC 2 đoạn bằng nhau ( Hình 3).
( Điều này cũng đúng trong bài toán 1. Các bạn dễ dàng suy ra điều đó).
Như vậy điều kiện AD và AM là 2 đường phân giác của góc A sẽ được tổng quát

thay bằng :
//
IJ=JB
BI AD



( hình 2) hoặc
//
IJ
BI AM
IB


=

(hình 3.) và nêú với các giả thiết đó

d
z
y
t
x
D
C
J
M
B
A
I

d
z
y
t
x
J
D
C
M
B
A
I
ta vẫn chứng minh được:
DB MB
DC MC
=
Thì lúc đó bài toán 1 trở thành bài toán tổng quát
hơn .
Thật vậy ở hình 2.Vẽ BK // AC cắt AM tại K.
Theo Ta lét ta có:
MB BK IA DB
MC AC AC DC
= = =
( Do AI = BK ).

DB MB
DC MC
=
Tức là ta có đẳng thức (*)
Các bạn chứng minh tương tự ở hình 3.Từ đó ta đi đến :

Bài toán 2. Cho 4 tia Ax, Ay, At và Az . Một đường thẳng d cắt 4 tia lần lượt tại
M,B,D,C. Một đường thẳng qua B song song với AD (hoặc AM) và chắn trên 3
đường thẳng chứa 3 tia còn lại 2 đoạn thẳng BJ và JI bằng nhau. Chứng minh rằng :
1 1 2
DC MC BC
+ =
.

P
N
M
O
A
B
D
C
Q
Lời giải bài toán 2 đã trình bày ở bước phân tích và bài toán 1 chỉ là một trường
hợp đặc biệt .
Bài toán 3. Cho hình bình hành ABCD có tâm là O. Một đường thẳng qua A cắt
BD,CD và tia đối của tia CB lần lượt tại M, N và Q. Chứng minh :
1 1 1
AM AN AQ
= +
.
Hướng dẫn: Từ C vẽ CP //BD suy ra : 4 điểm A , P, N, Q
Thoã mãn điều kiện của bài toán 2 nên:

1 1 2
AN AQ AP

+ =
.
Do MO là đường trung bình của tam giác APC nên AP = 2 AM
Từ đó suy ra đ.p.c.m :
1 1 1
AM AN AQ
= +
Lời kết: Từ bài toán 1 với lời giải hết sức đơn giản nhờ dựa vào tính chất các
đường phân giác trong tam giác. Nếu dừng lại ở bài tập đó thì chắc là công việc
học và dạy toán có rất ít niềm vui . Sau những lần suy nghĩ ta đã mở rộng “táo
bạo” là thay 2 đường phân giác bằng 2 đường thẳng khác cùng với 2 đường thẳng
chứa 2 cạnh của tam giác kèm theo một điều kiện về 2 tỷ số bằng nhau như trong
bài toán 2. ta thu được bài toán 2 mới và tổng quát hơn. Công dụng của baì toán 2
còn rất nhiều mà ở đó ta đã gặp được ứng dụng để giải bài toán 3. Niềm vui sẽ

nhân lên gấp bội khi các bạn giải các bài toán sau. Đó cũng là dụng ý của người
viết tham luận này.
Bài tập tự giải:
Bài toán 4. Cho tam giác ABC với G là trọng tâm. Một đường thẳng qua G cắt AB,
AC và tia đối của tia BC lần lượt tại
1 1 1
, ,C B A
. Chứng minh rằng:
1 1 1
1 1 1
GA GB GC
+ =
.
Hướng dẫn: AG cắt BC tại M. Qua G ,
1

B
kẻ các đường thẳng m , n song song với
AB cắt đường thẳng BC lần lượt tại Pvà Q.m cắt AC tại I. sau đó chứng minh GI=
GP.4 đường thẳng GP,GM,GQ và
1
GA
thoă màn điều kiện của bài toán 2. Sau đó
chứng minh :
1 1
1 1 1
2
GC GC PB PB
GB GA PQ PA
+ = + =

Bài toán 5. Cho đường tròn đường kính AB. Vẽ tiếp tuyến Ax. Trên Ax lấy điểm T
tuỳ ý rồi vẽ cát tuyến TCD .TO cắt BC, BD lần lượt tại M và N.
Chứng minh OM =ON.
V- KẾT LUẬN
1. Bài học kinh nghiệm
Đổi mới phương pháp dạy học là một quá trình, song mỗi giáo viên cần cố
gắng tìm tòi những phương pháp dạy học phù hợp với từng loại bài tập và từng đối
tượng học sinh theo phương pháp dạy học mới là lấy học sinh làm trung tâm, tích cực
hoá các hoạt động của học sinh trong quá trình học tập.
Ở học sinh THCS khả năng tư duy, khái quát một vấn đề còn hạn chế. Do đó
khi đứng trước các bài toán khó việc tìm ra lời giải đã khó chứ chưa nói gì đến việc
sáng tạo. Vì vậy người giáo viên cần có sự đầu tư để có phương pháp dạy thích hợp
để mỗi học sinh đều có thể tự tin trong học tập và sáng tạo.
Đề tài “Trao đổi chuyên sâu và mở rộng bài toán hình học sách giáo khoa Toán
8 ” là một ví dụ nhỏ minh hoạ cho một ý tưởng không nhỏ theo một nghĩa nào đó.Qua

đề tài này tôi muốn gửi đến các đồng nghiệp một chút kinh nghiệm nhỏ của mình và
mong muốn được chia sẻ và góp ý.

2. Kết luận chung
Hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập có hệ thống là một yếu tố cơ bản
giúp học sinh nắm vững kiến thức, giải quyết linh hoạt các bài tập toán và đạt kết quả
cao trong học tập môn toán. Điều quan trọng nhất, cần đề cập bài toán theo nhiều
hướng khác nhau, nghiên cứu kỹ, khảo sát kỹ từng chi tiết và kết hợp các chi tiết của
bài toán theo nhiều cách để phát triển, mở rộng cho các bài toán khác. Đồng thời qua
đó có thể khai thác các ứng dụng của một bài toán cơ bản sách giáo khoa vào giải
quyết các bài toán cùng loại theo phương pháp “Tương tự hóa”. Hy vọng rằng với
một số ví dụ tôi đưa ra trong đề tài này giúp các em học sinh biết cách làm chủ và mở
rộng được kiến thức của mình, thêm yêu mến môn toán, tự tin trong quá trình học tập
và nghiên cứu sau này. Đây mới chỉ là kinh nghiệm của bản thân tôi nên chắc chắn
còn nhiều thiếu sót, hy vọng được các cấp lãnh đạo và bạn đồng nghiệp quan tâm và
góp ý để đề tài được hoàn chỉnh hơn. Xin cảm ơn .
Ngày 25 tháng 2 năm 2014
Người viết


Huỳnh Thanh Hồng

Tham luận về “Vận dụng khoa học công nghệ,
kỹ thuật dạy học hiện đại vào dạy và học toán”
I. Phần mở đầu
1. Lý do
Sự phát triển của KHCN, công nghệ tin học đã phát triển nhanh và được áp dụng rộng
rãi trong thực tế, đặc biệt áp dụng trong giảng dạy và học tập bộ môn toán ở trường trung
học cơ sở.
Đó là áp dụng vào việc soạn bài, soạn giáo án điện tử, vẽ hình minh họa, xây dựng

bài toán quỹ tích, vẽ đồ thị hàm số, thiết kế bài tập trắc nghiệm, thiết kế trò chơi ô chữ,…

Để làm được những công việc ấy, cần phải sử dụng phần mềm hỗ trợ.
2. Mục đích nghiên cứu
* Sử dụng phần mềm phục vụ soạn giảng:
+ Phần mềm vẽ hình học: Geometer’s Sketchpad
+ Phần mềm Violet thiết kế bài tập trắc nghiệm
+ Phần mềm vẽ đồ thị hàm số
3. Phương pháp nghiên cứu
Hiệu quả chất lượng giảng dạy khi sử dụng các phần mềm nêu trên với chất
lượng giảng dạy thông thường.
II. Nội dung tham luận
Hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của KHCN, ứng dụng của KHKT trong
thực tế vô cùng rộng rãi trên nhiều lĩnh vực đời sống đặc biệt trong ngành giáo dục,
ứng dụng KHCN-KT dạy học hiện đại từng bước mang lại hiệu quả như mong muốn.
Được sự phân công của PGD huyện Đông Hòa, tổ Toán chúng tôi xin trình bày
tham luận với chủ đề trên.
Thưa quý thầy cô:
Với một đơn vị trường chúng tôi với cơ sở vật chất trang thiết bị chưa gọi là đủ
và tốt, nhưng với tinh thần tự học tập nâng cao trình độ tinh thần vươn lên để tiếp cận
với những thành quả của khoa học tiên tiến trên thế giới, đội ngũ giáo viên toán không
những cố gắng vận dụng những hiểu biết của mình nhằm góp phần nâng cao chất
lượng bài giảng cũng như từng bước nâng cao chất lượng tiếp thu kiến thức và vận
dụng kiến thức của học sinh tại lớp học.
Trên tinh thần đó, tôi xin phép trình bày với 3 ứng dụng quen thuộc sau đây:
a. Sử dụng phần mềm vẽ hình (Geometer’s Sketchpad) gọi tắt GeoSpd.
b. Sử dụng phần mềm Violet.
c. Phần mềm vẽ đồ thị hàm số.
1 Phần mềm vẽ hình học: Geometer’s Sketchpad


A
B
C
D
Geometer’s Sketchpad (viết tắt l GeoSpd) là phần mềm hình học nổi tiếng và
được sử dụng rộng ri tại rất nhiều nước trên thế giới. Ý tưởng của GeoSpd là biểu
diễn động các hình hình học hay còn gọi là Dynamic Geometry, một ý tưởng rất độc
đáo và từ lâu đã trở thành chuẩn cho các phần mềm mô phỏng hình học.
Geometer’s Sketchpad thực chất là một công cụ cho phép tạo ra các hình hình
học, dành cho các đối tượng phổ thông bao gồm học sinh, giáo viên, các nhà nghiên
cứu. Phần mềm có chức năng chính là vẽ, mô phỏng quĩ tích, các phép biến đổi của
các hình hình học phẳng. Giáo viên có thể sử dụng phần mềm này để thiết kế bài
giảng hình học một cách nhanh chóng, chính xác và sinh động, khiến học sinh dễ hiểu
bài hơn.
1.1. Ứng dụng trong soạn bài
Geometer’s Sketchpad giúp giáo viên vẽ hình hình học một cách nhanh chóng
và chính xác, dưới đây là một số hình ảnh vẽ từ phần mềm Geometer’s Sketchpad
Geometer’s Sketchpad giúp giáo viên vẽ đồ thị
hàm số nhanh chóng và chính xác . Tuy nhiên vì màn hình của Geometer’s Sketchpad

I
B
C
A
rộng nên trước khi copy qua Word chúng ta cần sử dụng thêm phần mềm Flash 32 để
chụp hình ảnh cần copy, cũng có thể sử dụng thêm phần mềm Power Point để viết chữ
nghiêng dọc theo đồ thị và kết hợp với Draw trong Word để vẽ các trục số. dưới đây
là một số hình ảnh vẽ từ phần mềm Geometer’s Sketchpad.
1.2 Ứng dụng trong dạy học
Phần mềm Geometer’s Sketchpad có chức năng chính là vẽ, mơ phỏng quĩ tích,

các phép biến đổi của các hình hình học phẳng.
Ví dụ1: Vẽ mơ phỏng quỹ tích
BÀI 44 (SGK) Trang 86
Cho tam giác ABC vuông ở A, có cạnh
BC cố đònh. Gọi I là giao điểm các
đường phân giác trong. Tìm quỹ tích
điểm I khi A thay đổi.

Ví dụ2: Vẽ để dự đốn giá trị nhỏ nhất
(lớn nhất) của hình hình học
Cho ABC vng cân tại A, MNP
vng cân tại M, M thuộc cạnh AB, N
thuộc cạnh BC, P thuộc cạnh AC
Xác định vị trí của điểm M trên cạnh
AB để diện tích MNP bé nhất.
* Ghi chú: Phần mềm này có tài liệu hướng dẫn sự dụng (chép ở đĩa CD – Rom,
phần mềm Geometer’s Sketchpad).
2. Phần mềm Violet:
2.1 Một số sản phẩm làm từ phần mềm Violet:
* Bài tập trắc nghiệm loại: đúng sai

* Bài tập trắc nghiệm loại: một đáp án đúng
* Bài tập kéo thả:

* Làm trò chơi ô chữ:


3 Phần mềm vẽ đồ thị
31 Công dụng: dùng để vẽ các đồ thị hàm số
3.2 Cách sử dụng

- Cài đặt vào máy: kích đúp biểu tượng
Chọn next / next/ next/finish
- Sử dụng: (Mời thầy cô xem tài liệu hướng dẫn sử dụng đã chép ở đĩa, và đã được
in).
3.3 Một số đồ thị
* Đồ thị hàm số y = 2x – 1
 Đồ thị hàm số:
2
2
1
xy −=

f(x)=2x -1
Series 1
-9 -8 -7 -6 -5 -4 -3 -2 -1 1 2 3 4 5 6 7 8 9
-9
-8
-7
-6
-5
-4
-3
-2
-1
1
2
3
4
5
6

7
8
9
x
y
* Đồ thị hàm số:
2
2
1
xy =
f(x)=1/2*X^2
Series 1
-9 -8 -7 -6 -5 -4 -3 -2 -1 1 2 3 4 5 6 7 8 9
-9
-8
-7
-6
-5
-4
-3
-2
-1
1
2
3
4
5
6
7
8

9
x
y
* Đồ thị hàm số: y = x
2
– 2x +1
f(x)=X^2 -2x +1
Series 1
-9 -8 -7 -6 -5 -4 -3 -2 -1 1 2 3 4 5 6 7 8 9
-9
-8
-7
-6
-5
-4
-3
-2
-1
1
2
3
4
5
6
7
8
9
x
y


* Đồ thị hàm số: y = x
3
– 2x
2
+x - 1
III/ Đánh giá – kết kuận :
Trên đây, chúng tôi đã nêu 3 ứng dụng thông dụng, sử dụng trong soạn và dạy
học, ứng dụng công nghệ hiện đại vào quá trình dạy học là xu thế tất yếu, hiệu quả
của sử dụng trang thiết bị dạy học hiện đại trong quá trình giáo dục được khẳng định
trong thực tế, làm khả năng bài giảng trở nên sinh động hơn GV có thể định hướng
HS tiếp cận với nguồn tri thức phong phú hơn.
Trong những năm qua các phương tiện dạy học hiện đại được sử dụng và dần
trở nên quen thuộc trong các tiết dạy của GV nhất là ở những đơn vị trường có điều
kiện thuận lợi về máy móc và cá nhân GV có đủ điều kiện.
Từ việc soạn bằng giáo án điện tử, dạy học bằng trình chiếu trên màn hình
Powerpoint thì thời gian gần đây còn xuất hiện thêm những thiết bị công nghệ hiện
đại mới như: bảng điện tử thông minh, sách giáo khoa điện tử,…
Chúng ta không thể phủ nhận những lợi ích mang lại từ những việc ứng dụng
các phương tiện dạy học hiện đại vào quá trình dạy học, khi sử dụng giáo án điện tử
tiết dạy phù hợp, bài giảng của GV có tính trực quan hơn, sinh động hơn, qua hình
ảnh, đoạn video clip có khả năng cuốn hút, tạo hứng thú cho người học. Với bài giảng
như thế HS dễ tiếp thu, dễ hiểu hơn so với việc chỉ mô tả bằng ngôn ngữ nói.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong một tiết dạy khối lượng kiến thức có thể
truyền đạt đến học sinh nhiều hơn, GV giảm thời gian ghi bảng và đọc, GV có thể lấy
thêm nhiều ví dụ minh họa, dẫn dắt HS tiếp cận các kiến thức phong phú hơn.
Ứng dụng các thiết bị dạy học hiện đại vào quá trình giáo dục cũng là cơ hội
giúp GV và HS có điều kiện tiếp cận với các phương tiện giảng dạy và học tập tiên

f(x)=X^3 -2x^2 +x - 1
Series 1

-9 -8 -7 -6 -5 -4 -3 -2 -1 1 2 3 4 5 6 7 8 9
-9
-8
-7
-6
-5
-4
-3
-2
-1
1
2
3
4
5
6
7
8
9
x
y
tiến trên thế giới, đây cũng là động lực để GV và HS tự học tập nâng cao trình độ
công nghệ thông tin của bản thân nhằm bắt kịp xu hướng của thời đại.
Nhưng thực tế có những tiết dạy, GV trình chiếu cho HS quá nhiều thông tin
hình ảnh, số liệu, khiến cho HS quá tải với những gì nghe và nhìn thấy. Thời gian lẽ
ra phải giành cho HS suy nghĩ, tư duy, thảo luận nhóm thì chủ yếu để sử dụng cho
việc nghe và quan sát. Kết quả là chuyển từ hình thức đọc chép trước đây sang nhìn-
chép, chiếu-chép, hiệu quả tiết dạy chưa đạt như mong muốn.
Nhằm hướng tới mục tiêu hiện đại với giáo dục, việc đẩy mạnh ứng dụng
CNTT, sử dụng các trang thiết bị dạy học tiên tiến vào quá trình dạy và học là một

chủ trương đúng đắn.
Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả cao, cần có sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt,
phù hợp, căn cứ vào điều kiện thực tế của từng trường như năng lực tiếp thu của HS,
khả năng sử dụng phương tiện dạy học hiện đại của GV, đặc thù từng môn học. Nên
tránh việc lạm dụng quá mức, ỷ lại vào sự tiện dụng của các phương tiện dạy học hiện
đại mà xem nhẹ vai trò của người thầy.
Công nghệ hiện đại chỉ nên xem là phương tiện hỗ trợ, giúp GV đứng lớp
chuyển tải tới HS những thông tin mà phấn trắng bảng đen và các phương tiện dạy
học truyền thống khác không làm được.
Một vấn đề khác cần quan tâm là giá thành của các thiết bị dạy học hiện đại
không hề rẻ, trong điều kiện kinh tế của chúng ta còn nhiều việc phải làm. Do đó các
đơn vị cần dựa trên điều kiện thực tế để tính toán mua sắm trang thiết bị dạy học hiện
đại thật sự cần thiết, tránh chạy theo phong trào gây lãng phí.
III. Kết luận
- Ap dụng linh hoạt, sáng tạo các phần mềm nêu trên trong dạy học mang lại
kết quả tiết dạy: HS hiểu bài, kiến thức chuyển tải phong phú, thời gian đảm bảo, chất
lượng giáo dục tăng cao, kích thích hứng thú học tập hơn.
- Sử dụng các phần mềm nêu trên còn nhiều thách thức đối với đội ngũ giáo
viên hiện nay, bởi vậy, chúng ta không ngừng tự học, tự nâng cao hiểu biết để từng
bước vận dụng tốt hơn nội dung nội dung này vào thiết kế bài dạy.
Trên đây là một số vấn đề chúng tôi chia sẻ cùng đồng nghiệp, còn nhiều điều
thiếu sót mong các bạn thông cảm.
Chân thành cảm ơn!

Phòng GD-ĐT huyện Đông Hòa
BÁO CÁO THAM LUẬN
“KÍCH THÍCH HỨNG THÚ HỌC TẬP MÔN TOÁN”
I. GIỚI THIỆU THAM LUẬN
Trong hoạt động học tập, hứng thú là yếu tố quan trọng thôi thúc học sinh nắm
bắt kiến thức nhanh hơn và tích cực hơn .Khi học sinh có hứng thú học tập môn toán,

sẽ chú ý vào đối tượng nhờ đó quan sát của các em nhạy bén chính xác và ghi nhớ dễ
dàng hơn, quá trình tư duy tích cực hơn, sự tưởng tượng phong phú hơn, kết quả học
tập ngày càng nâng cao, năng lực học sinh từng bước hình thành và phát triển một
cách tích cực.
Có câu nói rằng “ Dù đã dắt ngựa đến bờ sông cũng không thể bắt nó uống nước
được”, vấn đề học tập của học sinh cũng vậy,dù bắt các em ngồi ngay ngắn học tập,
nhưng nếu các em không thích thú thì không thể học tốt được . Vì vậy giáo viên toán
chúng ta cần biết kích thích hứng thú học tập môn toán THCS như thế nào? để tiết
học thực sự nhẹ nhàng, sinh động, học sinh tiếp thu kiến thức một cách tích cực, tự
nhiên không gượng ép.
II/ THỰC TRẠNG:
Qua giảng dạy ta thấy học sinh học yếu toán thường không có hứng thú học toán thì
không thích học toán nên không ít học sinh sợ toán, coi việc học toán là công việc
nặng nhọc, căng thẳng khô khan, thái độ học toán còn phân tán, chưa tập trung ,chưa
bền vững, chưa ổn định, khi đến lớp các em thiếu tự tin gây ức chế trong giờ học hoặc
các em còn nói chuyện, đùa giỡn,ngủ gật, … trong tiết học.
Chúng ta nghĩ nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên có thể do các em chưa nhận biết
tầm quan trọng và ý nghĩa của việc học toán, chưa được kích thích hoạt động tích cực,
sáng tạo trong quá trình học tập, và quá trình giải toán hoặc do nội dung môn toán
nhiều, lý thuyết nặng nề chưa thực hành nhiều hoặc là phương pháp dạy học của giáo
viên chưa phù hợp, chưa thuyết phục và chưa hấp dẫn học sinh, phụ huynh chưa tạo
môi trường thích hợp cho con em học toán….
1. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm các cấp trên, Phòng GD&ĐT đã triển khai cho BGH, và tổ
CM các trường kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu, và
nâng cao chất lượng bộ môn toán.
- PDG&ĐT của huyện đã trang bị CSVC và trang thiết bị, DDDH về CNTT
tương đối đầy đủ để phục vụ giảng dạy của giáo viên.
- Đội ngũ giáo viên giảng dạy toán có nhiều năm kinh nghiệm.
- Nhà trường đặt chỉ tiêu khen thưởng thầy và trò đạt kết quả cao về thi học sinh

giỏi, phụ đạo học sinh yếu và nâng cao chất lượng bộ môn.
- Công đoàn, hội phụ huynh nhiệt tình ủng hộ về tinh thần và vật chất.
2. Khó khăn:

-Học sinh học nhiều môn học, học chéo buổi, sinh hoạt đội,… thời gian đầu tư
môn toán còn ít.
- Học sinh yếu toán còn ngại và ít đi học phụ đạo.
- Một số phụ huynh lo làm ăn xa, hoặc lo làm kinh tế chưa quan tâm tạo điều kiện
học tập cho con em.
III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
Các giải pháp thực hiện nhằm chỉ ra các yếu tố kích thích hứng thú học tập môn toán
THCS để nâng cao và góp phần phát triển chúng; chủ yếu áp dụng phương pháp dạy
học của giáo viên nhằm tăng tính chủ động, tìm tòi ,sáng tạo, tạo lập bầu không khí
thân thiện sẽ phát huy tính tích cực trong quá trình học tập để nâng cao hứng thú học
toán của học sinh.Vì thế chúng tôi đưa ra một số giải pháp sau:
1/ Lập phiếu điều tra:
Để khảo sát nghiên cứu hứng thú học tập môn toán THCS, chúng tôi tiến hành lập
phiếu điều tra của lớp mình giảng dạy với các câu hỏi sau:
1- Em có thích học môn toán không?
a/ Rất thích b/ Không thích lắm c/ Không thích
2- Môn toán khó hay dễ so với các môn học khác?
a/ Rất khó b/ Rất dễ c/ Bình thường
3- Mức độ hiểu bài khi giáo viên giảng bài thế nào?
a/ Hiểu bài b/ Không hiểu bài
c/ Hiểu lí thuyết không áp dụng bài tập.
d/ Về nhà đọc SGK em đã hiểu bài
4- Em có chuẩn bị bài khi đến lớp không ?
a/ Chuẩn bị bài kĩ b/ Không chuẩn bị bài c/Chỉ làm bài tập
d/ Chỉ học lý thuyết e/ Thỉnh thoảng
5/ Thời gian đầu tư cho môn toán mỗi ngày như thế nào?

a/ Không thường xuyên b/ Từ 20ph-40ph c/ Hơn 1 giờ
6/ Khi gặp bài toán khó hay câu hỏi khó em làm sao?
a/ Đợi GV giải b/ Hỏi bạn bè c/Xem lại lý thuyết, tự tìm cách giải
7/ Em có hay làm bài tập ngoài bài tập GV cho không?
a/ Không b/ Thỉnh thoảng c/ Tự tìm các bài tập sách tham khảo
8/ Em có tích cực xây dựng bài học trên lớp không ?
a/ Rất tích cực b/ Thỉnh thoảng c/ Không chú ý
9/ Thái độ làm bài kiểm tra môn toán thế nào?
a/ Tự suy nghĩ làm bài b/ Chép bài bạn c/ Coi bài bạn một ít
10/ Em có chuẩn bị đầy đủ dụng cụ học tập mỗi giờ toán không?
a/ Đầy đủ b/ Chưa đầy đủ c/ Mượn bạn trên lớp
Giáo viên tổng hợp, phân loại câu trả lời của các em trong từng lớp và có hướng điều
chỉnh cho phù hợp để kích thích hứng thú một cách tự giác của học sinh trong học
toán.
2/ Khảo sát chất lượng:

Thường là khảo sát chất lượng đầu năm để phân loại học tập các em; ngoài ra giáo
viên còn quan tâm đến hoàn cảnh gia đình học sinh khó khăn; hay thuận lợi, học sinh
mồ côi, …
Từ đó giáo viên có biện pháp điều chỉnh thích hợp để nâng cao chất lượng dạy và học
toán.
3/ Phân loại học sinh dạy học cho phù hợp đối tượng:
Trong mỗi lớp học bao giờ cũng có học sinh giỏi, khá, trung bình,và yếu ,kém ( không
kể lớp chọn) có thể phân loại học sinh theo từng đối tượng:
- nhóm học sinh khá ; giỏi
- nhóm học sinh trung bình
- nhóm học sinh yếu kém .
Trong một tiết học : Giáo viên nêu vấn đề; đó là vấn đề gì? Thật rõ ràng cho các em
biết, sau đó đi vào từng khía cạnh từ nhỏ đến lớn, đơn giản đến phức tạp, cụ thể đến
tổng quát tránh lan mang, dài dòng , ngược lại làm cho học sinh mệt mỏi, phân tán, ít

chú ý cuối cùng cũng không hiểu mấu chốt của vấn đề, giáo viên cần đúc kết đưa ra
kết luận để các em hiểu và nắm thì kết quả mới nâng cao .
Ngoài ra nếu giáo viên giao cho nhóm học sinh khá giỏi làm bài tập khó, còn nhóm
học sinh trung bình, yếu kém không làm được, sợ giáo viên gọi lên bảng, ức chế trong
tiết học; ngược lại khi đưa bài tập dễ vừa sức cho học sinh trung bình, yếu, thì học
sinh khá giỏi làm dễ dàng, không có thử thách và thi đua dễ dẫn đến tâm lý nhàm
chán, tự phụ, chủ quan, giảm ý thức tự tìm tòi .
Do đó để tạo hứng thú cho tất cả học sinh trong lớp, đòi hỏi giáo viên cần lựa
chọn hệ thống câu hỏi sát đối tượng, từng bài tập phù hợp đối tượng trong mỗi hoạt
động, đảm bảo tính vừa sức, mới phát huy tính tích cực , sáng tạo cho học sinh .
4/ Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh:
Phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy học là một trong
những trọng tâm đổi mới phương pháp học toán; hoạt động hiệu quả khi học sinh học
tập hứng thú, tự giác và tích cực. Do đó giáo viên cần tạo hứng thú cho học sinh, tạo
điều kiện các em chủ động tiếp thu kiến thức, kỹ năng cụ thể là:
4.1 Đối với học sinh:
-Học sinh có thể có ý tưởng ngược với giáo viên, bộc lộ ý tưởng muốn khẳng định
mình .
ví dụ như chứng minh được 1 = 2 ; hoặc chứng minh mọi tam giác là tam giác đều.
-Giáo viên tạo điều kiện cho học sinh chia sẻ kết quả học tập với các bạn khác như
trao đổi với nhau về kết quả của bài toán đúng hay sai ?, thảo luận nhóm tìm kiếm
cách giải.kiểm tra- chấp nhận- bác bỏ
-Giáo viên gợi mở để học sinh đặt câu hỏi giúp cho các em rèn luyện kỹ năng quan
sát, dự đoán, để phát hiện vấn đề mới,
-Giáo viên coi học sinh là trung tâm , tìm cách tổ chức các hoạt động để cho học sinh
bộc lộ các năng lực, bớt nhút nhát, sợ sệt, giúp cho các em tự tin,sẵn sàng trao đổi với
nhau, tranh luận nhau có như vậy thì kết quả học toán mới được nâng cao .
- Qua đó các em tự đặt câu hỏi xem suy nghĩ của mình có giống bạn không và kịp thời
điều chỉnh,sửa chữa bản thân qua trao đổi


4.2 Đối với giáo viên:
Hiện nay có rất nhiều phương pháp dạy học để giáo viên có thể lựa chọn, việc lựa
chọn phương pháp phù hợp có ý nghĩa đối với việc tạo hứng thú học toán. Đối với các
tiết dạy lý thuyết nên củng cố kiến thức cơ bản dùng bản đồ tư duy, đối với các tiết
luyện tập, ôn tập nên giải kỹ từng bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp một
cách khoa học, có sắp xếp chu đáo. Nên đưa ra từng dạng toán và phương pháp giải
loại toán đó nhằm giúp học sinh từng bước nắm được kiến thức cơ bản và có hứng thú
học tập bộ môn.
- Nắm thật sát năng lực học tập của từng học sinh trong một lớp, của từng lớp để từ đó
phân loại và đổi mới phương pháp dạy học cho thích hợp trên cơ sở chuẩn kiến thức
kỹ năng.
- Khai thác triệt để các sai lầm thường mắc phải của học sinh trong quá trình giải toán,
nhất là các tiết luyện tập, tiết trả bài kiểm tra; hướng dẫn, phân tích giúp học sinh phát
hiện sai lầm và hướng giải quyết để khắc phục dù những sai lầm nhỏ nhất.
- Thường xuyên liên hệ toán học với thực tế, ứng dụng công nghệ thông tin vào các
giờ dạy kết hợp với các trò chơi toán học để tăng cường hứng thú học tập của học
sinh, tạo cho học sinh sự phấn khởi và niềm tin trong toán học.
Từ việc nghiên cứu điều tra về lý luận và thực tiễn. Tôi xin đề xuất một số phương
pháp kích thích, hứng thú học tập môn toán, tạo tiền đề cho việc học tập đạt kết quả
tốt.
- Thầy cô giáo phải có phong cách, tác phong, diện mạo, giọng nói rõ ràng truyền
cảm cũng gây hứng thú học tập cho học sinh. Đặc biệt là chữ viết và trình bày bảng,
- Phương pháp dạy nêu vấn đề vào bài hấp dẫn, đặt câu hỏi đúng đối tượng của
từng học sinh, câu hỏi chỉ định, câu hỏi tự giác, tạo tình huấn cho học sinh trả lời, làm
bài tập dễ, tính nhẩm, toán chạy, khuyến khích khen thưởng kịp thời.
- Thầy cô giáo phải lựa chọn bài tập sao cho phù hợp với khả năng của học sinh
yếu, học sinh trung bình và theo chuẩn kiến thức do Bộ giáo dục quy định, cho các em
các dạng bài tập từ cơ bản đến nâng cao, tránh sa đà vào việc giải các bài tập quá
phức tạp làm các em nản lòng. Chúng ta nên chọn lựa những bài các em có thể cùng
nhau hợp tác làm, em biết làm chỉ cho những em không biết để giúp nhau cùng tiến

bộ.
- Thầy cô giáo phải cần đưa ra phương pháp giải rõ ràng đối với từng dạng bài tập,
hướng dẫn thật cụ thể để các em yếu hiểu và giải được bài tập. Giáo viên tạo ra không
khí học tập vui vẻ, gây cho học sinh đam mê với môn học, thấy được những điều mới
mẻ mà để phấn đấu học tập.
- Thầy cô giáo phải luôn khuyến khích học sinh bày tỏ quan điểm lời giải của
mình việc làm đó sẽ có hai tác dụng: Nếu đúng thì các bạn trong lớp cùng học hỏi,
nếu sai thì các bạn rút kinh nghiệm tránh sai lầm tương tự. Chúng ta cũng nên động
viên, an ủi các em học yếu để các em có niềm tin phấn đấu nhiều hơn nữa giúp các em
học tốt hơn, không nên có thái độ giận dữ khi các em không giải được bài tập.
- Đối với việc đánh giá bài làm của học sinh, thầy cô giáo không chỉ đưa ra lời
nhận xét đúng hoặc sai mà cần giải thích rõ tại sao đúng dựa vào những kiến thức nào,
sai thì sai ở đâu?

- Thầy cô giáo phải thường xuyên giao bài tập theo chủ đề cho nhóm nhỏ khoảng
hai, ba em để các em cùng nhau thảo luận, rèn luyện kỹ năng giải toán. Sau đó nộp lại
để thầy cô giáo xem các em hiểu bài đến đâu, để phát hiện sai lầm trong khi giải bài
tập, nhắc nhở các em, giúp các em tránh sai lầm tương tự khi làm bài tập.
- Thầy cô giáo phải cũng tạo môi trường học tập thoải mái, bình đẳng, để các em
tham gia công tác nhiệt tình, có ý thức trách nhiệm cao trong quá trình giải bài tập,
gây hứng thú trong giờ giải bài tập.
- Khi dạy thầy cô giáo cần ít thời gian cung cấp cho học sinh biết những câu
chuyện có liên quan đến môn toán, bài tập vui, các nhà toán học trên thế giới để gây
thêm kích thích hứng thú học tập cho học sinh.
- Thầy cô giáo phải giới thiệu cho học biết trường có nhiều em đạt học sinh giỏi
cấp huyện, cấp tỉnh trong các năm qua để học sinh ham mê, thích học bộ môn toán.
- Khi dạy thầy cô giáo kết hợp chặt chẽ với GVCN và phụ huynh học
sinh để hướng dẫn, uốn nắn các em kịp thời. Động viên, khích lệ với những tiến bộ dù
nhỏ của các em.
- Thầy cô giáo phải tổ chức cho học sinh giúp đỡ lẫn nhau trong học tập,

học nhóm, phân công bạn khá giúp đỡ bạn yếu. Không lấy điểm số làm áp lực với các
em, tạo điều kiện để các em mạnh dạn thể hiện bản thân, luôn tạo không khí học tập
vui vẻ, thân thiện.
- Thầy cô giáo hãy vui cùng những thành tích nhỏ bé của học trò và hãy chia sẻ
những thất bại của chúng.
- Thầy cô giáo là người rất gần gũi với học trò, hãy cố gắng để chúng luôn cởi
mở với bạn. Hãy vừa là bạn vừa là thầy của chúng.
- Hãy cố gắng khơi dậy sự tự tin trong mỗi em học sinh. Khi đó chúng sẽ đạt
tới nhiều đỉnh cao trong học tập.
-Giao viên đừng đòi hỏi một “kỷ luật lý tưởng” trong giờ học. Bạn đừng độc
đoán quá, hãy nhớ rằng giờ học là một phần cuộc sống của đứa trẻ, vì vậy đừng làm
cho giờ học gò bó quá, cứng nhắc quá. Qua mỗi giờ học đứa trẻ cần trở thành một
nhân cách cởi mở, say mê, sáng tạo và phát triển toàn diện.
-Hãy bước vào lớp với nụ cười. Khi học trò chào, hãy nhìn vào mắt từng em
để hiểu được tâm trạng cúa chúng, vui thì chia vui, buồn thì động viên.
-Hãy luôn ghi nhớ: Học trò không phải là một chiếc bình cần đổ đầy kiến
thức, các em là những ngọn đuốc cần được thắp lên.
- Mỗi bài giảng của bạn phải là một bước tiến, dù là rất nhỏ, về phía trước
trong việc khám phá tri thức. Học sinh cần phải vượt qua những khó khăn trong việc
tiếp thu kiến thức và bạn hãy tính toán sao cho mức độ của những khó khăn đó thật
phù hợp.
Một số hoạt động mà giáo viên có thể áp dụng để kích thich hứng thú học tập môn
toán THCS là:
4.2.1 Đặt câu hỏi: Giáo viên đặt hệ thống câu hỏi
gợi mở, gợi ý, nhằm phát hiện vấn đề, khai phá tri thức mới khuyến khích học sinh
suy nghĩ tích cực học tập, củng cố, mở rộng, tổng kết, hệ thống hoá kiến thức, giúp
học sinh tự kiểm tra, tự đánh giá việc lĩnh hội kiến thức

×