Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

KHẢ NĂNG TIẾP CẬN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 94 trang )

5

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG TIẾP
CẬN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1. Những vấn đề cơ bản về doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.1.1. Tổng quan về doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm của doanh nghiệp
Khoản 1 và 2 Điều 4 Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29 tháng 11
năm 2005 thì doanh nghiệp được hiểu như sau: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Kinh doanh
là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu
tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm
mục đích sinh lợi.
Từ khái niệm trên chúng ta thấy: doanh nghiệp là tổ chức kinh tế vị lợi vì
mục tiêu kinh doanh của họ là nhằm tối đa hóa lợi nhuận, mặc dù có một số ít các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công ích, không hoàn toàn nhằm mục tiêu
lợi nhuận.
1.1.1.2. Phân loại của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường có nhiều loại hình doanh nghiệp cùng tồn tại,
phát triển và cạnh tranh lẫn nhau. Tuy nhiên, để thuận lợi cho việc quản lý, hỗ trợ
các doanh nghiệp phát triển, người ta thường dựa theo những tiêu thức khác nhau để
phân loại các doanh nghiệp.
Dựa vào hình thức pháp lý doanh nghiệp, theo Luật Doanh nghiệp 2005 thì
hình thức pháp lý của các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm:
 Công ty trách nhiệm hữu hạn (bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên) là
doanh nghiệp mà các thành viên trong công ty chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều
lệ của công ty.


6

 Công ty cổ phần là doanh nghiệp mà vốn điều lệ của công ty được chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cá nhân hay tổ chức sở hữu
cổ phần của doanh nghiệp được gọi là cổ đông và chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã góp vào
doanh nghiệp.
 Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên là
chủ sở hữu của công ty, cùng kinh doanh dưới một cái tên chung (gọi là
thành viên hợp danh). Thành viên hợp danh phải là cá nhân và chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Ngoài
ra trong công ty hợp danh còn có các thành viên góp vốn.
 Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
Dựa vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp có thể được chia
thành: doanh nghiệp tài chính và doanh nghiệp phi tài chính.
 Doanh nghiệp tài chính là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài
chính, là các tổ chức tài chính trung gian như các ngân hàng thương mại,
các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm… Những doanh nghiệp này
cung ứng cho nền kinh tế các dịch vụ tài chính, tiền tệ, bảo hiểm…
 Doanh nghiệp phi tài chính là các doanh nghiệp lấy hoạt động sản xuất
kinh doanh các hàng hóa và dịch vụ thông thường là chủyếu.
Dựa vào quy mô kinh doanh người ta chia doanh nghiệp thành doanh nghiệp
lớn, doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ.
Việc quy định tiêu thức như thế nào là doanh nghiệp lớn, DNNVV là tùy
thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội của từng nước trong từng giai đoạn cụthể.
Thông thường những tiêu thức được lựa chọn là: Số lượng cán bộ công nhân
viên bình quân, vốn đầu tư, tổng tài sản, doanh thu tiêu thụ. Riêng ở Việt Nam hiện
nay thì căn cứ vào hai tiêu thức là số lao động làm việc bình quân và tổng nguồn

7

vốn để phân loại doanh nghiệp thành siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp
vừa.
Việc phân loại theo tiêu thức này nhằm giúp cho Nhà nước có những chiến
lược và những chính sách hợp lý nhằm hỗ trợ phát triển các DNNVV trong từng
thời kỳ, từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội cụ thể, đặc biệt là trong lúc nền kinh
tế đang gặp nhiều khó khăn như lạm phát, khủng hoảng ….
1.1.2. Tiêu chuẩn doanh nghiệp nhỏ và vừa
Tiêu chuẩn phân loại DNNVV thường dựa trên hai quan điểm: “kinh tế” và
“thống kê”. Theo quan điểm“kinh tế”, một công ty được đánh giá là nhỏ nếu nó đáp
ứng ba tiêu chí sau đây: (1) nó chiếm một phần tương đối nhỏ trong thị trường của
nó; (2) nó được sở hữu bởi những cá nhân và không được quản lý bởi một cơ cấu
chính thức; (3) nó hoạt động độc lập và không phải là một bộ phận của một doanh
nghiệp lớn hơn. Quan điểm“thống kê” về DNNVV thì căn cứ trên ba khía cạnh
chính: (1) xác định lượng đóng góp của doanh nghiệp vào GDP, việc làm và xuất
khẩu; (2) so sánh mức độ đóng góp vào nền kinh tế quốc gia của các công ty này
theo thời gian; (3) mở rộng phạm vi so sánh trên bình diện giữa các quốc gia. Tuy
nhiên, cả hai quan điểm đều phát sinh một số điểm yếu, chẳng hạn như theo quan
điểm kinh tế cho rằng một doanh nghiệp nhỏ được sở hữu bởi những cá nhân và
không được quản lý bởi một cơ cấu chính thức, không phù hợp với quan điểm thống
kê khi mà một công ty chỉ sản xuất quy mô nhỏ nhưng có đến hơn 200 nhân viên.
Theo Tổ Chức Công Nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO - UN Industrial
Development Organization), định nghĩa một DNNVV là một vấn đề quan trọng cho
sự phát triển của một quốc gia, phụ thuộc nhiều vào mục đích, định hướng phát
triển. Tùy vào chính sách phát triển khác nhau mà UNIDO tư vấn cho các nước
những tiêu chuẩn định lượng, định tính để định nghĩa một DNNVV. Dưới đây là
bảng tóm tắt các chỉ tiêu chính có thể được sử dụng để phân biệt giữa DNNVV và
các doanh nghiệp lớn.



8

Bảng 1.1 Những tiêu chuẩn định tính để phân loại doanh nghiệp
Nội dung
Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Doanh nghiệp lớn
Quản lý
 Chủ doanh nghiệp là cá nhân
 Có sự kiêm nhiệm các chức
năng trong công ty
 Có bộ máy quản lý công ty
 Có sự phân chia chức năng
rõ ràng giữa các bộ phận
Nhân viên
 Không có bằng cấp chuyên
môn
 Có kiến thức tổng quát
 Có bằng cấp chuyên môn
 Có sự chuyên môn hóa trong
kiến thức lẫn công việc
Tổ chức
Liên lạc chủ yếu thông qua tư
cách cá nhân
Thông tin truyền thông mang
tính chính thức
Bán hàng
Vị thế cạnh tranh không xác
định và không chắc chắn
Vị thế cạnh tranh mạnh

Mối quan hệ với
người mua
Không ổn định
Có mối quan hệ dài hạn vững
chắc
Năng suất
Căn cứ chủ yếu vào lao động
Căn cứ chủ yếu vào nguồn
vốn, quy mô kinh tế
Nghiên cứu phát
triển
Tiếp cận trực quan, hoàn toàn
phụ thuộc vào thị trường
Có khả năng tác động mạnh
mẽ đến thị trường
Tài chính
Phụ thuộc vào ngân sách của
cá nhân, gia đình
Cơ cấu sở hữu đa dạng, tiếp
cận với cả thị trường vốn bên
ngoài
[Nguồn: UNIDO]
Tiêu chuẩn phân loại DNNVV phần lớn được quyết định bởi mục đích thiết
lập tiêu chuẩn. Mục đích thường gặp nhất là nắm vững được tình hình hoạt động
kinh doanh, kết cấu tỷ lệ của các doanh nghiệp ở các quy mô khác nhau trong nền
kinh tế quốc dân đồng thời tiến hành quản lý các doanh nghiệp đó về phương diện
hành chính, kinh tế và pháp luật… Ở nhiều quốc gia, tiêu chuẩn phân loại DNNVV
ở các ngành khác nhau cũng có những khác biệt nhất định. Dưới đây là bảng tiêu
chuẩn phân định DNNVV của một số quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực và
trên thế giới:






9

Bảng 1.2 Tiêu chuẩn phân định doanh nghiệp nhỏ và vừa của một số vùng
lãnh thổ trên thế giới






Vùng kinh tế mới nổi
EU
USA
ASIA(Mlysia)
EGYPT
GHANA
BRAZIL
RUSSIA
INDIA
CHINA






Công
nghiệp
Thƣơng
mại



Cách gọi
Small and
Medium
Enterprise
Small
and
Medium
Business
Small and
Medium
Enterprise
Micro,
Small and
Medium
Enterprise
Small and
Medium
Enterprise
Small and
Medium
Enterprise
Small and
Medium

Enterprise
Small and
Medium
Enterprise
Micro,
Small and
Medium
Enterprise
Small and
Medium
Enterprise
Số ngƣời lao động
Siêu nhỏ
< 10
0
< 5
1 – 4
Đến 5
Đến 19
Đến 9
0
0
0
Nhỏ
< 50
< 100
5 – 50
5 – 14
6 – 29
20 – 99

10 – 49
15 – 100
0
< 300
Vừa
< 250
< 500
51 – 150
15 – 49
30 – 99
100 – 499
50 – 99
101 – 250
0
300 –
2000
Doanh thu
Siêu nhỏ
3 triệu $
0
250.000 RM
0
10.000 $
0
0
0
< 50 triệu
Rs
0
Nhỏ

13 triệu $
0
< 10 triệu RM
0
100.000 $
0
0
≤ 400
triệu RUB
≤ 60 triệu
Rs
< 30 Y
Vừa
67 triệu $
0
Đến 25 triệu
RM
0
1 triệu $
0
0
≤ 1 tỷ
RUB
≤ 99 triệu
Rs
≤ 300
triệu Y
[Nguồn: Literature Review, tr.23]
Ở Việt Nam, tiêu chí phân loại DNNVV được quy định tại Khoản 1, Điều 3,
Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ về Định nghĩa

DNNVV:
DNNVV là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật,
được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng
nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của
doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên),
cụ thể như sau:
Bảng 1.3 Phân loại DNNVV theo khu vực kinh tế ở Việt Nam
Quy mô
Doanh
nghiệp siêu
nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ
Doanh nghiệp vừa
Khu vực
Số lao động
Tổng nguồn
vốn
Số lao động
Tổng nguồn
vốn
Số lao động
Nông, lâm
nghiệp và
thủy sản
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
Từ trên 10
người đến

200 người
Từ trên 20 tỷ
đồng đến
100 tỷ đồng
Từ trên 200
người đến
300 người
Công nghiệp
và xây dựng
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
Từ trên 10
người đến
200 người
Từ trên 20 tỷ
đồng đến
100 tỷ đồng
Từ trên 200
người đến
300 người
Thương mại
và dịch vụ
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
Từ trên 10
người đến

50 người
Từ trên 10 tỷ
đồng đến 50
tỷ đồng
Từ trên 50
người đến
100 người
[Nguồn: Nghị định số 56/2009/NĐ-CP, tr.27]
10

1.1.3. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Bên cạnh những đặc điểm của Doanh nghiệp nói chung như hoạt động sản
xuất kinh doanh hay dịch vụ nhằm tối đa hóa lợi nhuận, các doanh nghiệp nhỏ và
vửa cũng có những đặc điểm riêng.
DNNVV có những lợi thế rõ ràng, chẳng hạn như:
- Đa dạng về loại hình sở hữu: DNNVV tồn tại và phát triển ở mọi loại
hình khác nhau như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty cổ phần, hợp tác xã.
- Năng động và linh hoạt trước những thay đổi của thị trường: do DNNVV
có mức đầu tư ban đầu thấp, sử dụng ít lao động và tận dụng các nguồn
lực tại chỗ nên khả năng chuyển hướng kinh doanh, chuyển đổi mặt bằng,
chuyển đổi loại hình doanh nghiệp nhanh và dễ dàng.
- Tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý gọn nhẹ, các quyết định quản lý thực
hiện nhanh, công tác kiểm tra, điều hành trực tiếp qua đó góp phần tiết
kiệm chi phí quản lý doanh nghiệp.
- Vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao, thu hồi nhanh, điều này tạo sức hấp
dẫn cho các nhà đầu tư sản xuất kinh doanh mạnh dạn đầu tư vào khu vực
này.
Tuy nhiên, khu vực DNNVV cũng phát sinh nhiều nhược điểm như:

- Hạn chế về sản phẩm, dịch vụ: các DNNVV thường chỉ kinh doanh một
vài sản phẩm dịch vụ phù hợp với trình độ và kinh nghiệp của chủ doanh
nghiệp.
- Nguồn lực tài chính hạn chế: vốn kinh doanh của các DNNVV chủ yếu là
vốn tự có của chủ sở hữu doanh nghiệp, vay mượn từ người thân, bạn bè,
khả năng tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng thấp.
- Trình độ quản lý chưa cao: các chủ doanh nghiệp thường là những lao
động phổ thông, kỹ thuật viên, kỹ sư tự đứng ra thành lập và vận hành
doanh nghiệp. Họ vừa là người quản lý doanh nghiệp, vừa tham gia trực
11

tiếp vào sản xuất nên mức độ chuyên môn trong quản lý không cao. Các
DNNVV hoạt động chủ yếu dựa vào năng lực và kinh nghiệm của bản
thân chủ doanh nghiệp nên bộ máy quản lý thường gọn nhẹ, các quyết
định trong quản lý cũng được thực hiện rất nhanh chóng.
- Trình độ tay nghề của người lao động thấp: các chủ DNNVV thường
không đủ năng lực cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong việc thuê
những người lao động có tay nghề cao do hạn chế về khả năng tài chính.
Ngoài ra, sự không ổn định khi làm việc cho các DNNVV, cơ hội để phát
triển thấp tại các doanh nghiệp này cũng tác động làm cho nhiều lao động
có kỹ năng không muốn làm việc cho khu vực này.
- Khả năng về công nghệ thấp do không đủ tài chính cho việc nghiên cứu,
triển khai, nhiều DNNVV cho dù có những sáng kiến công nghệ nhưng
không đủ tài chính cho việc nghiên cứu triển khai nên không thể hình
thành công nghệ mới hoặc bị các doanh nghiệp lớn mua với giá rẻ.
1.1.4. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa
DNNVV tuy là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ về vốn, lao động và
doanh thu, nhưng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, bởi nó chiếm tỷ trọng lớn
(Theo Hiệp Hội Các DNNVV, ở nước ta DNVVN chiếm khoảng 95% trong tổng số
doanh nghiệp đăng ký), vì thế nó đóng góp vào tổng sản lượng và tạo việc làm là rất

đáng kể.
Hiện nay, đối với nhiều quốc gia các DNVVN vẫn là xương sống trong sự
phát triển của nền kinh tế. Trong điều kiện ngày nay, sự phát triển của chuyên môn
hóa và hợp tác hóa đã không cho phép một doanh nghiệp tự khép kín chu trình sản
xuất kinh doanh một cách có hiệu quả mà thay vào đó là các DNVVN là vệ tinh của
doanh nghiệp lớn tỏ ra rất thích hợp.
Những nét cơ bản về vai trò của DNNVV cụ thể như sau:
- Các DNNVV cung cấp một lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ đáng kể
cho nền kinh tế.
12

- Các DNNVV trong nền kinh tế góp phần tạo việc làm và thu nhập cho
người lao động.
- Các DNNVV thu hút vốn đầu tư trong nền kinh tế .
- Hoạt động của các DNNVV góp phần làm cho nền kinh tế năng động, đạt
hiệu quả kinh tế cao.
- Các DNNVV có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương,
khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng. Phát triển các DNNVV sẽ
giúp các địa phương khai thác thế mạnh về đất đai, tài nguyên, lao động
trong mọi lĩnh vực phục vụ phát triển kinh tế địa phương.
- Các DNNVV tạo được mối liên kết chặt chẽ với các tổng công ty nhà
nước, các tập đoàn xuyên quốc gia…
1.2. Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm tín dụng ngân hàng
Theo khoản 14 và 16 Điều 4 Luật Các Tổ Chức Tín Dụng số 47/2010/QH12:
Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền
hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền thep nguyên tắc có hoàn trả bằng
nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân
hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết

giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một
thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Nói cách khác, nếu xem xét tín dụng ngân hàng như một quá trình, có thể
phát biểu tín dụng ngân hàng là sự vận động của giá trị vốn lần lượt qua ba giai
đoạn:
- Giai đoạn cho vay: chuyển giao cho bên đi vay một lượng giá trị nhất
định biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc hiện vật.
- Giai đoạn sử dụng vốn: bên đi vay sử dụng tạm thời tài sản trên trong một
thời gian nhất định, hết thời gian thỏa thuận, bên đi vay hoàn trả lại cho
bên cho vay.
13

- Giai đoạn hoàn trả: sau thời gian sử dụng vốn vay bên đi vay phải hoàn
trả cho bên cho vay một giá trị vốn lớn hơn giá trị lúc cho vay. Phần
chênh lệch đó có thể xem là lợi tức của bên cho vay.
1.2.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng đối với DNNVV
Xuất phát từ đặc điểm của các DNNVV như quy mô vốn và tài sản nhỏ bé;
sổ sách và báo cáo kế toán không rõ ràng, minh bạch; sử dụng công nghệ lạc hậu
trong sản xuất kinh doanh; trình độ tay nghề công nhân viên cũng như trình độ quản
lý của chủ doanh nghiệp còn ở mức thấp…. Do đó, quan hệ tín dụng giữa DNNVV
với các ngân hàng thương mại có những đặc điểm sau đây:
 Thứ nhất, về quy mô tín dụng: rất thấp nếu tính bình quân trên một DNNVV.
 Thứ hai, về thời hạn tín dụng: chủ yếu là vay ngắn hạn.
 Thứ ba, về đảm bảo tín dụng: hầu hết các DNNVV phải có tài sản đảm bảo khi
vay vốn các ngân hàng thương mại.
 Thứ tư, về mục đích sử dụng của vốn vay: chủ yếu sử dụng bổ sung vốn lưu
động.
 Thứ năm, về lãi suất: ít được ưu đãi lãi suất, lãi suất theo sự ấn định của các
ngân hàng thương mại do DNNVV chưa có sự tín nhiệm cao từ các ngân hàng
thương mại.

 Thứ sáu, về khả năng hoàn trả nợ vay: DNNVV dễ gặp khó khăn trong việc trả
nợ vay khi có sự biến động trên thị trường tài chính, tiền tệ như: lạm phát, khủng
hoảng kinh tế, tài chính ….
1.2.3. Một số hình thức tín dụng ngân hàng đối với các DNNVV
Sự phát triển của nền kinh tế kéo theo mối quan hệ tín dụng ngân hàng ngày
càng đa dạng và phức tạp thông qua các hình thức khác nhau. Có rất nhiều cách
phân loại tín dụng ngân hàng dựa vào các căn cứ khác nhau tùy theo mục đích
nghiên cứu. Tuy nhiên người ta thường phân loại theo một số tiêu thức sau:
 Phân loại theo thời gian cấp tín dụng:
14

Theo quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng cùng với
Quyết Định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2000 của Thống Đốc Ngân Hàng
Nhà Nước Việt Nam thì tín dụng được phân thành 3 loại sau:
 Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm, thường được
sử dụng vào nghiệp vụ thanh toán, cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn
lưu động của các doanh nghiệp hay cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu
dùng của cá nhân. Hình thức tín dụng này được xác định phù hợp với chu kỳ
sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.
 Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ 1 đến 5 năm, được dùng để cho vay vốn
phục vụ nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kỹ thuật, mở rộng
và xây dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
 Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng để
cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô
lớn.
Thường thì tín dụng trung và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định
và một phần vốn tối thiểu cho hoạt động sản xuất. Thời gian cho vay của hai hình
thức này không được vượt quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập
hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân.
 Phân loại theo mục đích sử dụng vốn vay:

 Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng được cung cấp cho
các doanh nghiệp để họ tiến hành sản xuất và kinh doanh.
 Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng được cấp phát cho cá nhân để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng. Loại tín dụng này thường được dùng để mua sắm nhà cửa,
xe cộ, các thiết bị gia đình Tín dụng tiêu dùng ngày càng có xu hướng tăng
lên.
 Phân loại theo tính chất đảm bảo của các khoản cho vay:
 Tín dụng có bảo đảm: là loại hình tín dụng mà các khoản cho vay phát ra đều
có tài sản tương đương thế chấp, có các hình thức như: cầm cố, thế chấp,
chiết khấu và bảo lãnh.
15

 Tín dụng không có bảo đảm: là loại hình tín dụng mà các khoản cho vay phát
ra không cần tài sản thế chấp mà chỉ dựa vào tín chấp. Loại hình này thường
được áp dụng với khách hàng truyền thống, có quan hệ lâu dài và sòng phẳng
với ngân hàng, khách hàng này phải có tình hình tài chính lành mạnh và có
uy tín đối với ngân hàng như trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc lẫn lãi, có dự án
sản xuất kinh doanh khả thi, có khả năng hoàn trả nợ
 Phân loại theo từng sản phẩm tín dụng:
 Cho vay theo hạn mức tín dụng: là số dư nợ cho vay cao nhất mà ngân hàng
cam kết sẽ thực hiện cho một khách hàng, có hiệu lực trong một thời gian
nhất định, thường là một năm. Hạn mức tín dụng được xác định trên cơ sở
nhu cầu vay vốn của khách hàng và khả năng đáp ứng của ngân hàng. Khi đã
được ngân hàng ấn định hạn mức tín dụng thì khách hàng được quyền vay
vốn với số dư trong phạm vi của hạn mức tín dụng đó. Nếu khách hàng vay
trả nhiều đợt trong kỳ thì tổng số tiền cho vay có thể vượt quá hạn mức tín
dụng nhiều lần, điều này càng tốt vì vòng quay vốn tín dụng ngân hàng gia
tăng. Cho vay theo hạn mức tín dụng có đặc điểm sau: (1) Luân chuyển vốn
tín dụng ngân hàng tham gia toàn bộ vào vòng quay vốn của doanh nghiệp,
từ khâu dự trữ đến khâu sản xuất và lưu thông; (2) Vốn tín dụng ngân hàng

phát sinh theo nhu cầu của quá trình tuần hoàn luân chuyển vốn mà không
phụ thuộc vào tình hình dự trữ vật tư, hàng hóa; (3) Do vốn tín dụng ngân
hàng tham gia vào toàn bộ quá trình luân chuyển vốn của doanh nghiệp nên
các thủ tục cho vay được thực hiện đơn giản dần, tạo điều kiện cho doanh
nghiệp nhận được vốn kịp thời.
 Cho vay từng lần: Áp dụng cho các tổ chức kinh tế có nhu cầu vay vốn
không thường xuyên có tính chất đột xuất, không được ấn định hạn mức tín
dụng. Cho vay từng lần có đặc điểm sau: (1) Vốn tín dụng ngân hàng chỉ
tham gia vào một giai đoạn hay một quy trình nhất định trong chu kỳ sản
xuất kinh doanh, chu kỳ luân chuyển vốn của đơn vị; (2) Về phía ngân hàng
việc cho vay và thu nợ được xử lý theo từng món vay; (3) Mỗi lần phát sinh
16

nhu cầu vay vốn bắt buộc bên vay phải tiến hành các thủ tục làm đơn xin vay
kèm theo các chứng từ hóa đơn xin vay để cán bộ tín dụng kiểm tra đối
tượng vay vốn, nếu đối tượng vay vốn phù hợp sẽ giải quyết cho vay.
 Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là một hình thức cấp tín dụng cho khách
hàng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng chi vượt số dư có trên tài
khoản thanh toán của khách hàng để thực hiện các giao dịch thanh toán kịp
thời cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Để được vay theo phương thức này,
khách hàng phải là những khách hàng quen biết, thường xuyên giao dịch qua
ngân hàng, tình hình tài chính tương đối ổn định.
 Cho vay hợp vốn: Là loại hình cho vay, trong đó một nhóm ngân hàng
thương mại cùng tham gia tài trợ chung một dự án vay. Trong đó một ngân
hàng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp các ngân hàng còn lại để cùng cho vay.
Loại hình này áp dụng trong trường hợp dự án có quy mô vốn lớn, vượt quá
khả năng tài trợ của một ngân hàng hoặc vượt quá quy định giới hạn của luật
pháp. Nó cũng được sử dụng với mục tiêu phân tán rủi ro của ngân hàng.
 Bảo lãnh: là hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng cam kết với bên nhận
bảo lãnh về việc ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách

hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ
đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho ngân hàng theo thỏa
thuận. Các loại hình bảo lãnh cơ bản bao gồm: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh
thanh toán, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đảm bảo
chất lượng sản phẩm, bảo lãnh hoàn tiền ứng trước, bảo lãnh đối ứng, xác
nhận bảo lãnh, đồng bảo lãnh…
 Phát hành tín dụng thư (Letter of Credit - L/C): là nghiệp vụ do ngân hàng
thực hiện để phục vụ cho việc mua hàng hóa/ dịch vụ của các doanh nghiệp
theo phương thức tín dụng chứng từ và thời gian thanh toán cho người thụ
hưởng tuân thủ theo “Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ”
(Uniform Cuctoms and Practice for Documentary Credits – UCP).
17

 Chiết khấu, tái chiết khấu: (1) Chiết khấu là việc mua có kỳ hạn hoặc mua có
bảo lưu quyền truy đòi các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của
người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán; (2) Tái chiết khấu là việc
chiết khấu các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác đã được chiết
khấu trước khi đến hạn thanh toán.
 Bao thanh toán nội địa: là hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng hoặc bên
mua hàng thông qua việc mua lại có bảo lưu quyền truy đòi các khoản phải
thu hoặc các khoản phải trả phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ theo hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Các phương
thức bao thanh toán nội địa chủ yếu như: bao thanh toán từng lần, bao thanh
toán theo hạn mức, đồng bao thanh toán.
Trong nền kinh tế thị trường việc phân loại tín dụng ngân hàng theo các tiêu
thức trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Khi các hình thức tín dụng càng đa dạng
thì cách phân loại càng chi tiết. Phân loại tín dụng giúp cho việc nghiên cứu
sự vận động của vốn tín dụng ngân hàng trong từng loại hình cho vay và là
cơ sở để so sánh, đánh giá hiệu quả kinh tế của chúng.
1.2.4. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa

1.2.4.1. Là đòn bẩy kinh tế hỗ trợ các DNNVV
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, bất cứ ai cũng muốn đồng vốn của
mình sinh lời. Những người có vốn tạm thời nhàn rỗi sẵn sàng cho vay số tiền đó để
kiếm lãi, còn những nhà doanh nghiệp cũng vì mục đích sinh lợi của vốn mà cần
vay thêm tiền để mở rộng sản xuất. Với tư cách là trung gian dẫn vốn, ngân hàng đã
giải quyết mâu thuẫn đó. Với hoạt động đi vay để cho vay, ngân hàng đã tạo cơ hội
cho các chủ DNNVV muốn mở rộng sản xuất kinh doanh hay thực hiện một dự án
kinh doanh có thể vay vốn để thực hiện.
Tín dụng ngân hàng tác động điều tiết sự di chuyển vốn đầu tư làm bình quân
hoá tỷ suất lợi nhuận thúc đẩy sự phát triển của các DNNVV, tín dụng ngân hàng
luôn chuyển hướng đầu tư vào những doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận cao, hạn
chế hoặc không đầu tư vào những DNNVV có tỷ suất lợi nhuận thấp. Qua đó tín
18

dụng ngân hàng làm thay đổi quan hệ về cung - cầu hàng hoá và thay đổi cơ cấu
ngành nghề kinh tế.
1.2.4.2. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của DNNVV
Khi sử dụng vốn tín dụng ngân hàng, các doanh nghiệp phải tuân thủ các hợp
đồng tín dụng, đảm bảo hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn cũng như tôn trọng các
điều khoản của hợp đồng cho dù doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hay không. Do
đó đòi hỏi các doanh nghiệp muốn có vốn tín dụng ngân hàng của ngân hàng phải
có phương án sản xuất khả thi. Không chỉ thu hồi đủ vốn mà các doanh nghiệp còn
phải tìm cách sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn, đảm bảo tỷ suất
lợi nhuận phải lớn hơn lãi suất ngân hàng thì mới trả được nợ và kinh doanh có lãi.
Trong quá trình cho vay, ngân hàng thực hiện kiểm soát trước, trong và sau khi giải
ngân buộc các doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả.
1.2.4.3. Góp phần tăng nguồn vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh của các
DNNVV
Một trong những quy luật khách quan của cơ chế thị trường là cạnh tranh và
quy luật này ngày càng quan trọng, quyết định rất lớn đến sự tồn tại và phát triển

của các doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng. Tuy nhiên do những đặc
điểm, tính chất của mình, DNNVV gặp không ít những khó khăn trong việc phát
triển tạo thị phần, tạo niềm tin, tạo hình ảnh trong khi vị thế của các doanh nghiệp
lớn trong và ngoài nước đã ổn định và có chỗ đứng trên thị trường, vì vậy xu hướng
hiện nay của các DNNVV là tìm cách liên doanh, liên kết nhằm bổ sung và hoàn
thiện những hạn chế của mình, đặc biệt là hạn chế về vốn.
Mặc dù vậy, để đầu tư phát triển lớn, liên doanh, liên kết thôi chưa đủ vì vốn
tự có thường hạn hẹp, khả năng tích tụ thấp cần mất nhiều năm mới có thể có được
đủ vốn nhưng khi đó cơ hội làm ăn có thể không còn nữa. Do đó các DNNVV
thường xuyên tìm cách huy động vốn từ mọi thành phần kinh tế, trong đó chủ yếu là
nguồn tín dụng ngân hàng. Khi vốn được giải ngân, sức mạnh tài chính của
DNNVV tăng lên thì các DNNVV cũng có cơ hội thực hiện được mục đích của
19

mình, mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh, chiếm lĩnh thị trường, tạo thế cạnh
tranh.
1.2.4.4. Tạo điều kiện cho các DNNVV tiếp cận với nguồn vốn nước ngoài
Bên cạnh việc kích thích các tổ chức kinh tế và cá nhân trong nước thực hiện
tiết kiệm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn tiền tệ, tín dụng ngân hàng còn
thu hút nguồn vốn nước ngoài dưới nhiều hình thức như trực tiếp vay bằng tiền, bảo
lãnh cho các DNNVV mua thiết bị trả chậm, sử dụng hạn mức L/C…. Như vậy
quan hệ quốc tế của các DNNVV đã được mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho các
DNNVV, đặc biệt là các DNNVV hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Thông qua nguồn vốn vay này, DNNVV xác lập một cơ cấu vốn tối ưu đảm
bảo kết hợp hiệu quả giữa nguồn đi vay với nguồn vốn tự có để sản xuất những sản
phẩm có giá thành thấp hơn, nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng hàng hoá và được
thị trường chấp nhận. Có như vậy thì DNNVV mới đạt mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận trong hoạt động kinh doanh của mình.
1.2.4.5. Góp phần nâng cao trình độ công nghệ khoa học, chất lượng và mẫu mã
sản phẩm

Với đặc điểm nguồn vốn thấp, các DNNVV khó đầu tư được công nghệ sản
xuất tiên tiến, hiện đại để cải thiện chất lượng và mẫu mã sản phẩm. Vì vậy, nguồn
vốn huy động từ ngân hàng có thể coi là nguồn quan trọng để DNNVV thực hiện
được nhu cầu này.
1.2.4.6. Góp phần nâng cao trình độ quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp và trình
độ tay nghề người lao động
Việc nâng cao trình độ quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp và trình độ tay
nghề người lao động sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của doanh nghiệp và
tăng năng suất lao động. Mặc dù hiểu được điều này nhưng các DNNVV đặc biệt là
các doanh nghiệp nhỏ không muốn chi tiền để đào tạo, tất cả nguồn vốn doanh
nghiệp đều tập trung cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Do vậy, nếu
doanh nghiệp có thể tiếp cận được nguồn tín dụng từ ngân hàng sẽ làm tăng nguồn
20

vốn hoạt động cho doanh nghiệp, từ đó doanh nghiệp mạnh dạn hơn trong công tác
đào tạo của mình.
Qua một vài khía cạnh nêu trên, ta thấy được vai trò to lớn của tín dụng ngân
hàng đối với các DNNVV. Vì vậy, việc mở rộng khả năng tiếp cận vốn tín dụng
ngân hàng đối với DNNVV là thực sự cần thiết để hoàn thiện một nền kinh tế, đặc
biệt là nền kinh tế đang phát triển như nước ta hiện nay.
1.3. Đánh giá các nghiên cứu trƣớc đây
Vấn đề khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của các DNNVV đã được
nhiều tác giả trên thế giới nghiên cứu. Mỗi một mô hình nghiên cứu định lượng đều
có những điểm mạnh và điểm yếu riêng. Nghiên cứu của luận văn này xin giới thiệu
một số công trình của các tác giả sau đây:
1.3.1. Công trình nghiên cứu của nhóm Edmore Mahembe
Tháng 12/2011, nhằm chuẩn bị cho chương trình điều chỉnh tín dụng quốc
gia, các chuyên gia tư vấn nghiên cứu mà người quản lý và nghiên cứu chính của dự
án là Edmore Mahembe đã tiến hành nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến khả
năng tiếp cận tín dụng và hỗ trợ của các DNNVV ở Nam Phi. Trong đó, tác giả có

đề cập những đặc điểm cụ thể của DNNVV (cả yếu tố bên trong lẫn yếu tố bên
ngoài) ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng của DNNVV ở Nam Phi cụ thể
như sau:
Những nhân tố bên trong
1. Quy mô của DNNVV
2. Nhu cầu vay vốn
3. Tỷ lệ thành công/từ chối vay
4. Kinh nghiệm của các chủ doanh nghiệp
5. Quan điểm của chủ sở hữu doanh nghiệp
6. Khả năng tiếp cận thông tin tín dụng
7. Thủ tục pháp lý
8. Kinh nghiệm của doanh nghiệp
Những nhân tố bên ngoài
9. Hệ thống pháp luật không hiệu quả
10. Tội phạm và tham nhũng
[Nguồn: Edmore Mahembe et al., 2011]
 Những nhân tố cụ thể ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận vốn tín dụng
ngân hàng của DNNVV như sau:
21

(1) Quy mô của DNNVV
Trên thế giới, những DNNVV có ít khả năng tiếp cận nguồn tín dụng hơn
những doanh nghiệp có quy mô lớn hơn, Nam Phi cũng không ngoại lệ. Theo khảo
sát của Ngân hàng Thế giới năm 2008, chỉ 59% DNNVV được tiếp cận các sản
phẩm tín dụng ngân hàng so với con số 82% của các doanh nghiệp lớn. Những
doanh nghiệp siêu nhỏ thì ít có khả năng lập báo cáo tài chính, ít có tài khoản ngân
hàng và ít có khả năng tiếp cận các sản phẩm tín dụng ngân hàng (như vay nợ, thấu
chi hoặc hạn mức tín dụng) là một trong ba trở ngại chính đối với sự phát triển của
họ. Trong khi đó, những doanh nghiệp có quy mô lớn hơn thì dễ dàng tiếp cận hơn
(Mengistae et al.,2010).

Liên quan đến quy mô của doanh nghiệp, các DNNVV có khuynh hướng tìm
kiếm nguồn tài chính phù hợp với nhu cầu của họ. Những chi phí liên quan đến việc
đánh giá và giám sát tín dụng của một khoản vay hoặc khoản đầu tư khiến nó không
tương xứng với lợi ích thu được từ việc cung cấp nguồn vốn cho DNNVV (Falkena
et al.,2004). Tuy nhiên, ở các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
(OECD - Organisation for Economic Cooperation and Development), ngân hàng
nhận thức được việc cung cấp tài chính cho DNNVV là một kênh kinh doanh hấp
dẫn, do đó họ đã phát triển một cơ chế giám sát hiệu quả cho việc kinh doanh này
(OECD,2006).
(2) Nhu cầu vay vốn:
Dựa trên nhu cầu vay vốn, các DNNVV ít có khả năng xin cấp một khoản
vay từ ngân hàng, bởi vì tỷ lệ từ chối đối với các nhóm doanh nghiệp này lần lượt là
17% đối với doanh nghiệp siêu nhỏ, 7% đối với doanh nghiệp nhỏ và 4% đối với
doanh nghiệp vừa. Những doanh nghiệp này cũng thường nói “không cần vay vốn
ngân hàng” như là một lý do cho việc không nộp đơn xin vay của mình (tỷ lệ của
phản ứng này lần lượt là 46% đối với doanh nghiệp siêu nhỏ, 52% đối với doanh
nghiệp nhỏ và 72% đối với doanh nghiệp vừa). Hơn thế nữa, những DNNVV cho
rằng thủ tục xin vay vốn ngân hàng quá phức tạp (tỷ lệ của phản ứng này lần lượt là
22

18% đối với doanh nghiệp siêu nhỏ, 14% đối với doanh nghiệp nhỏ và 6% đối với
doanh nghiệp vừa) (Mengistae et al.,2010).
Tương tự, một nghiên cứu của Chimucheka và Rungani (2011) tìm thấy rằng
28% DNNVV ở Nam Phi chưa bao giờ nộp đơn xin vay vốn từ ngân hàng. Lý do
chính là vì họ không biết những thủ tục vay vốn (53%), không biết đến nguồn vốn
tín dụng sẵn có ở ngân hàng (23%), lãi suất thì cao (7%). Trong đó, 17% là tỷ lệ cho
thấy họ không đủ vốn để bắt đầu và vận hành hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
Trong các trường hợp xin vay vốn, có đến 25% trường hợp ngân hàng không
phản hồi yêu cầu vay vốn của họ.

(3) Tỷ lệ thành công/từ chối vay
Qua khảo sát của tác giả, hơn 84,4% DNNVV nộp đơn xin vay vốn ngân
hàng nhưng chỉ 25% là nộp thành công. Khi phân tích sâu hơn, trong 25% trường
hợp thành công đó, 85% những doanh nghiệp xin vay được ngân hàng chấp nhận tài
trợ nhưng chỉ 18% là vay được vốn từ ngân hàng. Lý do chính của việc này là vì các
DNNVV không đáp ứng được của điều kiện của một khoản vay từ ngân hàng.
Nghiên cứu của Chimucheka va Rungani (2011) đã đi sâu hơn trong việc
nghiên cứu lý do không thành công của những chương trình tín dụng cho các
DNNVV ở Nam Phi. Những lý do đó là thiếu tài sản đảm bảo (37%), thiếu phần
vốn đầu tư của DNNVV (17%), kế hoạch kinh doanh kém (7%) hoặc thậm chí
không có kế hoạch kinh doanh. Một kết quá có thể so sánh trong một khảo sát của
Ngân hàng Thế giới năm 2008 đó là 31% doanh nghiệp siêu nhỏ và 39% doanh
nghiệp nhỏ không tiếp cận được vốn tín dụng ngân hàng vì thiếu tài sản thế chấp.
Coco (2009) chỉ ra rằng tài sản thế chấp giúp giảm thiểu sự mất cân đối
thông tin và các vấn đề rủi ro đạo đức giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Tài sản thế
chấp có thể thuộc sở hữu của các chủ nợ trong trường hợp doanh nghiệp không trả
được nợ, do đó nâng cao khả năng bảo vệ cho chủ nợ.
Theo cùng một nghiên cứu, 10% doanh nghiệp chỉ ra rằng lịch sử giao dịch
tín dụng là một lý do của việc từ chối đơn xin vay vốn của họ, một dấu hiệu từ trung
23

tâm thông tin tín dụng sẽ ảnh hưởng đến khả năng xin vay vốn của họ do lịch sử tín
dụng xấu của doanh nghiệp.
(4) Kinh nghiệm của các chủ doanh nghiệp
Theo lẽ thường, một ngân hàng thường thích những chủ doanh nghiệp có kỹ
năng và kinh nghiệm kinh doanh. Nghiên cứu của Shane và Stuart (2002), Rudez và
Mihalic (2007) đã đưa ra mối liên hệ giữa năng lực quản lý với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp mới thành lập. Năng lực quản lý của những người chủ
doanh nghiệp mới thành lập càng cao thì khả năng tồn tại và sống xót của doanh
nghiệp mới càng cao, và họ càng có khả năng thành công hơn trong việc tiếp cận

vốn tín dụng.
(5) Quan điểm của chủ sở hữu doanh nghiệp
Theo khảo sát của Ngân hàng Thế giới năm 2008, những người chủ doanh
nghiệp ở Châu Phi có xu hướng dùng nguồn tài chính của ngân hàng cung cấp để bổ
sung vốn lưu động. Truyền thống kinh doanh của các DNNVV ở Nam Phi là họ
không tích lũy vốn, vì vậy cả nguồn vốn sở hữu và tài sản cố định – cái mà có thẻ
cung cấp nhầm đảm bảo cho khoản vay tại ngân hàng – thì tương đối hiếm (Falkena
et. Al., 2004). Họ thường báo cáo là cần nguồn vốn lớn cho hoạt động kinh doanh
nhưng lại không tiếp cận đến nguồn vốn ngân hàng vì quan điểm của chính những
người chủ doanh nghiệp này.
(6) Khả năng tiếp cận thông tin tín dụng
Theo Falkena et. Al., các DNNVV thường cung cấp những thông tin không
đáng tin cậy (ngoại trừ những thông tin được công bố trên các phương tiện thông tin
đại chúng). Một khi doanh nghiệp muốn vay vốn ngân hàng, họ phải đối mặt với
vấn đề cung cấp thông tin về tình hình tài chính và những nhân tố rủi ro có thể xảy
ra của chính doanh nghiệp mình.
Ngân hàng sử dụng những thông tin mà doanh nghiệp cung cấp để phân tích
tình hình hoạt động kinh doanh hiện tại và dự đoán triển vọng tương lai để làm cơ
sở cho quyết định cấp tín dụng. Thông tin đáng tin cậy của doanh nghiệp sẽ làm
giảm sự sai lệch do bất cân xứng thông tin. Nếu doanh nghiệp đã trải qua thời gian
24

phát triển và có những bước kinh doanh đúng đắn trong kế hoạch kinh doanh toàn
diện của mình, có giải pháp giảm rủi ro thì khả năng tiếp cận vốn tín dụng sẽ tăng
lên.
(7) Thủ tục pháp lý
Theo khảo sát của Ngân hàng Thế giới năm 2008, chỉ 80 trong tổng số 120
DNNVV được khảo sát là có pháp lý hòan chỉnh. Liên quan đến việc sử dụng các
sản phẩm tín dụng ngân hàng, không một doanh nghiệp nào có pháp lý không hoàn
chỉnh được sử dụng các sản phẩm tín dụng của ngân hàng mặc dù có đến 13%

những doanh nghiệp này nộp đơn xin vay tại các ngân hàng.
(8) Kinh nghiệm của doanh nghiệp
Kinh nghiệm của chủ doanh nghiệp càng nhiều thì chủ doanh nghiệp càng có
tài kinh doanh, có nhiều tiếng tâm và càng có nhiều trách nhiệm trong công ty. Vì
thế kinh nghiệm của chủ doanh nghiệp càng lớn thì họ càng đồng tình trong việc
tiếp cận vay vốn từ các tổ chức tín dụng. Ngược lại, những người trẻ tuổi thường có
khuynh hướng tiêu dùng nhiều hơn tiết kiệm, do đó họ thường đi vay mượn từ
nguồn khác nhiều hơn. Theo kết quả nghiên cứu thì các chủ doanh nghiệp trẻ tuổi
khó có thể vay vốn bởi vì họ ít có tiếng tâm và thiếu kinh nghiệm.
(9) Hệ thống pháp luật không hiệu quả
Thị trường không hoàn hảo do hệ thống pháp luật không hiệu quả có thể hạn
chế khả năng các DNNVV tiếp cận nguồn vốn bên ngoài. Điều này xảy ra khi các
nhà cung cấp tài chính không có khả năng thu hồi được vốn của họ một cách kịp
thời khi doanh nghiệp vay không có khả năng trả nợ, hoặc nếu có thể, nhà cung cấp
tài chính phải chờ đợi một khoảng thời gian xử lý khá lâu.
Chính vì vậy, các DNNVV ở các nước có hệ thống pháp luật hiệu quả hơn sẽ
có thể nhận được tài trợ vốn từ bên ngoài hơn các doanh nghiệp trong nước có hệ
thống pháp lý kém hiệu quả hơn.
(10) Tội phạm và tham nhũng
Tội phạm và tham nhũng ở Nam Phi ở mức độ cao đã gây hạn chế việc đầu
tư cũng như tài trợ vốn của ngân hàng. Ngân hàng Thế Giới đã nhận định tỷ lệ tội
25

phạm ở Nam Phi là tương đối cao so với mứ độ phát triển của những quốc gia khu
vực này. Do đó, các chủ DNNVV ít có khả năng muốn tăng mức độ đầu tư để phát
triển kinh doanh và điều này cũng khiến họ không muốn nộp đơn xin vay vốn ngân
hàng.
Phương pháp áp dụng cho nghiên cứu này là đánh giá tài liệu. Phương pháp
nghiên cứu cụ thể được minh họa dưới đây:
Hình 1.1 Quy trình nghiên cứu của nhóm Edmore Mahembe


[Nguồn: Edmore Mahembe et al., 2011]
Kết quả của bài nghiên cứu nhằm hướng đến hai mục tiêu: (1) nhận ra được
nhu cầu cung cấp tài chính của các DNNVV và (2) tìm giải pháp hỗ trợ nhu cầu
cung cấp tài chính của DNNVV trên cả hai mặt “quantity” (phải đáp ứng đủ vốn) và
“quanlity” (nguồn vốn phải phát huy đúng hiệu quả của nó).
1.3.2. Công trình nghiên cứu của Ricardo N. Bebczuk
Thêm một nghiên cứu của Ricardo N. Bebczuk nhằm xác định những yếu tố
ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng thông qua việc khảo sát 140 DNNVV ở
Argentina. Trong phạm vi quốc gia, tác giả chỉ ra rằng khả năng tiếp cận nguồn tín
dụng của các doanh nghiệp chịu sự chi phối của các nhân tố sau:
Biến phụ thuộc
Khả năng tiếp cận tín dụng
Biến độc lập có ý nghĩa
thống kê
1. ROA
2. Độ thanh khoản (Tiền/Tổng TS)
3. Doanh thu của doanh nghiệp
4. TSCĐ/ Tổng TS
Bƣớc 1: Giai
đoạn lập kế
hoạch
•Xây dựng
kế hoạch
thực hiện
•Xây dựng
kế hoạch
truyền thông
•Thu thập và
đánh giá sơ

bộ tài liệu
Bƣớc 2: Xây
dựng khung
nghiên cứu
•Xác định
vấn đề
nghiên cứu
•Xác định từ
khóa
•Xác định
phạm vi dự
án
•Xác định
hình thức
nghiên cứu
Bƣớc 3: Tìm
kiếm tài liệu
•Thu thập dữ
liệu: từ
trang thông
tin và thư
viện
•Phân tích dữ
liệu
•Phân tích
khoảng cách
tín dụng
Bƣớc 4: Sử
dụng công
cụ phân tích

dữ liệu
•Sàng lọc và
đánh giá dữ
liệu
Bƣớc 5:
Hoàn thiện
bài nghiên
cứu
•Viết, chỉnh
sửa và ra
báo cáo
nghiên cứu
26

5. Tổng nợ/ Tổng TS
[Nguồn: Ricardo N. Bebczuk, 2004]
 Những nhân tố cụ thể ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận vốn tín dụng
ngân hàng của DNNVV như sau:
(1) Suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA): là tỷ số lợi nhuận ròng trên tài sản,
nó đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của công ty. Giá trị
ROA càng cao thì khả năng tiếp cận vốn càng lớn.
(2) Độ thanh khoản: tài sản cố định có thể sử dụng như tài sản thế chấp, do
đó làm giảm thiệt hại của ngân hàng khi không thu hồi được nợ và cũng
là một biện pháp ngăn hảng rủi ro đạo đức từ các DNNVV. Chỉ số này
được đo lường bằng tỷ lệ tổng lợi nhuận trên tổng tài sản.
(3) Doanh thu của doanh nghiệp: DNNVV có doanh thu càng lớn, thể hiện sự
thành công trong lĩnh vực kinh doanh. Kết quả là khả năng tiếp cận vốn
tín dụng của các DN này sẽ mang tính tích cực.
(4) TSCĐ/Tổng TS: tài sản cố định có thể được sử dụng làm tài sản thế chấp,
do đó sẽ làm giảm rủi ro tiềm ẩn cho ngân hàng khi cấp tín dụng cho các

DNNVV có tài sản cố định. Tỷ lệ này càng cao, DNNVV càng dễ dàng
tiếp cận vốn tín dụng và ngược lại.
(5) Tổng nợ/ Tổng TS: giá trị càng cao thì khả năng tiếp cận vốn càng cao.
Kết quả của nghiên cứu cho rằng đối tượng cho vay trước (có thể là ngân
hàng hoặc nhà cung cấp cho doanh nghiệp một khoản tín dụng thương
mại…) thấy doanh nghiệp vay đủ tin cậy nên đã cho vay, đồng thời tỷ lệ
nợ cao làm tăng khả năng tiếp cận vốn đối của doanh nghiệp đối với ngân
hàng cho vay sau.
1.3.3. Công trình nghiên cứu của Francis Nathan Okurut, Yinusa Olalekan và
Kagiso Mangadi
27

Nghiên cứu của Francis Nathan Okurut, Yinusa Olalekan và Kagiso Mangadi
được thực hiện năm 2006 nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp
cận tín dụng của các DNNVV đến thị trường tín dụng.
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu thu thập được từ 250 mẫu DNNVV từ những
thành phố lớn ở Botswana: Gaborone, Francistown, Serowe, Maun và Lobatse. Các
DNNVV được lựa chọn kinh doanh nhiều ngành nghề khác nhau, chẳng hạn: thực
phẩm và đồ uống, dệt may, sản xuất gỗ và trang trí nội thất, công nghiệp chế biến
chế tạo kim loại, dịch vụ khác. Các bước phân tích định lượng được thực hiện thông
qua chương trình STATA 10.
Bài nghiên cứu áp dụng mô hình Probit để phân tích khả năng tiếp cận tín
dụng ngân hàng của các DNNVV. Tác giả chỉ ra rằng quá trình phân phối nguồn tín
dụng thực hiện thông qua hai giai đoạn: (1) người chủ DNNVV quyết định việc có
vay hay không vay ngân hàng, nên vay ngân hàng nào và số tiền vay là bao nhiêu;
(2) ngân hàng quyết định có cấp vốn cho DNNVV hạy không, có cấp đầy đủ nhu
cầu vốn của DNNVV hay chỉ cấp một phần hay từ chối nhu cầu vay vốn của
DNNVV.
Bằng việc sử dụng mô hình Probit, tác giả chỉ ra rằng một số đặc điểm của
DNNVV làm hạn chế về khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng. Khả năng này chịu

sự chi phối mạnh mẽ bởi doanh thu, kinh nghiệm, chủ sở hữu, ngành nghề kinh
doanh… (Francis Nathan Okurut et al., 2006).
1.4. Các nhân tố ảnh hƣởng đến khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng của
DNNVV
Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận vốn tín dụng
ngân hàng là đi tìm cầu nối hay trở ngại giữa nhu cầu vốn của doanh nghiệp và
nguồn vốn tín dụng ngân hàng của ngân hàng. Thông qua kết quả của các công trình
nghiên cứu đã công bố, có thể rút ra một số nhân tố mà các nghiên cứu trước đây đã
phát hiện và kiểm định một cách riêng biệt, bao gồm ba nhóm nhân tố: (1) liên quan
đến pháp lý của doanh nghiệp; (2) liên quan đến tình hình tài chính của doanh
nghiệp và (3) liên quan đến nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Cụ thể:
28

 Liên quan đến pháp lý của doanh nghiệp:
 Số năm hoạt động của DNNVV: Nhân tố này phản ánh sự tồn tại của
doanh nghiệp trên thị trường, được tính từ khi doanh nghiệp được cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đến thời điểm hiện tại. Số năm hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp càng lâu, doanh nghiệp càng có nhiều
kinh nghiệm kinh doanh và uy tín đối với cả đối tác lẫn ngân hàng, khả
năng tiếp cận vốn vay cũng sẽ cao hơn. (Underhill Corporate Solutions
(Project Manager and Lead Reasearcher: Edmore Mahembe), 2011)
 Ngành nghề kinh doanh: là biến giả với hai giá trị 1 và 0 tương ứng cho
nhóm ngành nghề như sau: biến nhận giá trị 1 nếu ngành nghề là “thương
mại dịch vụ”, biến nhận giá trị 0 nếu không thuộc ngành “thương mại
dịch vụ” tức biến có thể thuộc ngành nông – lâm – ngư nghiệp hoặc công
nghiệp xây dựng. Theo đánh giá của các chuyên gia, các doanh nghiệp
kinh doanh trong lĩnh vực thương mại dịch vụ dễ tiếp cận nguồn tín dụng
doanh nghiệp hơn do đặc thù ngành kinh doanh này có nguồn vốn luân
chuyển nhanh, ổn định và ít rủi ro từ việc đầu tư nhiều máy móc thiết bị
mà không khai thác được. (Francis Nathan Okurut et al., 2006)

 Kinh nghiệm của chủ doanh nghiệp: kinh nghiệm của chủ doanh nghiệp
càng nhiều thì chủ doanh nghiệp càng có tài kinh doanh, có nhiều tiếng
tâm và càng có nhiều trách nhiệm trong công ty. Vì thế kinh nghiệm của
chủ doanh nghiệp càng lớn thì họ càng đồng tình trong việc tiếp cận vay
vốn từ các tổ chức tín dụng. Ngược lại, những người trẻ tuổi thường có
khuynh hướng tiêu dùng nhiều hơn tiết kiệm, do đó họ thường đi vay
mượn từ nguồn khác nhiều hơn. Theo kết quả nghiên cứu thì các chủ
doanh nghiệp trẻ tuổi khó có thể vay vốn bởi vì họ ít có tiếng tâm và
thiếu kinh nghiệm (Underhill Corporate Solutions (Project Manager and
Lead Reasearcher: Edmore Mahembe), 2011).
 Liên quan đến tài chính của doanh nghiệp:
29

 Quy mô của DNNVV: là biến độc lập đo lường giá trị tổng tài sản của
doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có quy mô càng lớn thì càng có khả
năng tiếp cận với vốn tín dụng ngân hàng nhiều hơn vì họ có thể đảm bảo
các rủi ro cho ngân hàng tốt hơn khi họ đem tài sản của họ thế chấp cho
ngân hàng khi vay (Underhill Corporate Solutions (Project Manager and
Lead Reasearcher: Edmore Mahembe), 2011).
 Doanh thu hàng năm của DNNVV: có thể thấy rằng những DNNVV có
doanh thu cao thì đi cùng với chi phí cao, nhu cầu vay vốn phát sinh sẽ
nhiều bởi vì nguồn tiền sẵn có của họ khó có thể đảm bảo đủ các khoản
chi phí phát sinh trong hoạt động kinh doanh. (Ricardo N. Bebczuk, Feb-
2004).
 Độ thanh khoản (tiền/tổng tài sản): Công ty có chỉ số độ thanh khoản
càng cao, chứng tỏ nguồn tiền của họ là khá lớn so với tổng tài sản. Vì
vậy, công ty dễ dàng rút tiền ra khỏi hoạt động kinh doanh của mình, điều
này khiến cho các ngân hàng nghĩ rằng công ty đang chuyển những rủi ro
trong kinh doanh cho ngân hàng. Do đó, giá trị này càng cao thì khả năng
tiếp cận vốn càng thấp. (Ricardo N. Bebczuk, 2004)

 Liên quan đến nhu cầu vay vốn:
 Mục đích vay vốn: là biến giả, nhận giá trị 1 nếu doanh nghiệp xin vay
tiền phục vụ cho mục đích bổ sung vốn lưu động và nhận giá trị 0 nếu
doanh nghiệp xin vay vì các mục đích khác. Những doanh nghiệp vay
tiền với mục đích bổ sung vốn lưu động có khả năng nhận được vốn vay
nhiều hơn so với những doanh nghiệp xin vay với mục đích khác. Vì
doanh nghiệp vay với mục đích này thì họ sẽ sử dụng số tiền vay được
vào sản xuất kinh doanh và ít có trường hợp họ sẽ sử dụng số tiền vay
vào mục đích khác. Khi họ đầu tư tiền vào sản xuất kinh doanh nhiều thì
thu nhập từ các khoản đầu tư đem lại lợi nhuận cao và họ có thể trả được
lãi và tiền vay. (Underhill Corporate Solutions (Project Manager and
Lead Reasearcher: Edmore Mahembe), 2011)

×