TRƯỜNG ĐẠI HỌC LẠC HỒNG
KHOA ĐÔNG PHƯƠNG HỌC
[\
BÁO CÁO
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ĐỀ TÀI
:
KHỔNG TỬ - NHÀ GIÁO DỤC VĨ ĐẠI
Sinh viên thực hiện: CHÍ ĐAN HẠ
Giáo viên hướng dẫn: Th
S. Nguyễn Lê Tuấn
BIÊN HÒA, THÁNG 12/2010
LỜI CẢM ƠN
FXWG
Thấm thoát 4 năm đại học đã trôi qua, khóa luận của em cũng hoàn tất.
Trong quá trình tiến hành làm bài nghiên cứu khoa học này, tuy gặp không ít khó
khăn nhưng với sự quan tâm giúp đỡ từ phía nhà trường, quý thầy cô và bạn bè, em
hoàn thành khóa luận này một cách thuận lợi nhất.
Đầu tiên xin cho em gởi lời cám ơn chân thành nhất đến Tiến sĩ Trần Hành-
Hiệu trưởng trường Đại học Lạc Hồng kiêm Trưởng khoa Đông Phương cùng Thạc
sĩ Bùi Thị Thu Thủy- Phó khoa Đông Phương đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để
giúp đỡ em hoàn tất khóa luận.
Tiếp đến em xin chân thành cảm ơn Giáo viên hướng dẫn của mình thầy
Thạc sĩ Nguyễn Lê Tuấn đã cho em những lời khuyên quý báu, luôn nhiệt tình
hướng dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo em trong suốt quá trình làm bài.
Con cám ơn bố mẹ đã cho con bước vào giảng đường Đại học, luôn cổ vũ,
tiếp sức cho con trong suốt thời gian qua. Cám ơn sự yêu thương của gia đình, sự
động viên, giúp đỡ của bạn bè đã giúp tôi có thêm được niềm tin vào chính mình.
Cuối cùng cho mình gửi lời cám ơn sâu sắc đến các bạn trên cộng đồng
mạng QQ đã giúp đỡ mình rất nhiều trong suốt quá trình viết khóa luận. Xin chân
thành cảm ơn mọi người!
MỤC LỤC
A. PHẦN DẪN LUẬN 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài 1
3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu 2
4. Phương pháp nghiên cứu 2
5. Những đóng góp của đề tài 2
6. Cấu trúc của đề tài 3
B. NỘI DUNG CHÍNH 4
CHƯƠNG I: CUỘC ĐỜI KHỔNG TỬ 4
1.1 Thân thế 4
1.1.1 Xuất thân 4
1.1.2 Những nét chính trong cuộc đời Khổng Tử 5
1.2 Sự nghiệp 7
1.2.1 Sự
nghiệp chính trị 7
1.2.2 Sự nghiệp giáo dục 9
1.3 Học thuật 11
CHƯƠNG II: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ 13
2.1 Quan điểm về giáo dục của Khổng Tử 13
2.1.1 Giáo dục không phân biệt giai cấp 13
2.1.2 Học không biết chán, dạy không biết mệt 14
2.2 Mục đích giáo dục của Khổng Tử 15
2.2.1 Thành nhân 16
2.2.2 Làm quan giúp nước 17
2.3 Cách nhìn về nghề dạy học của Khổng T
ử 18
2.3.1 Lấy mình làm gương 19
2.3.2 Yêu mến học trò 20
2.4 Phương pháp dạy học của Khổng Tử 23
2.4.1 Dạy theo đối tượng 23
2.4.2 Cách dạy gợi mở 25
2.4.3 Học đi đôi với hành 27
2.4.4 Ôn cũ biết mới 28
CHƯƠNG III: THÀNH TỰU VÀ TẦM ẢNH HƯỞNG VỀ TƯ TƯỞNG GIÁO
DỤC CỦA KHỔNG TỬ 29
3.1 Thành tựu của tư tưởng giáo dục Khổng Tử 29
3.1.1 Sáng lập trường tư, bồi dưỡng nhân tài 29
3.1.2 Cách dạy khoa học, giúp trò thành danh 31
3.2 Tầm ảnh hưởng của tư tưởng giáo d
ục Khổng Tử 33
3.2.1 Ảnh hưởng tư tưởng giáo dục Khổng Tử ở Trung Quốc
và ở nước ngoài 33
3.2.2 Học viện Khổng Tử và sự truyền bá văn hoá Trung Hoa ở nước ngoài 35
C. PHẦN KẾT LUẬN 37
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 40
- 1 -
A. PHẦN DẪN LUẬN
1. Lý do chọn đề tài
Người xưa nói: “Thập niên thụ mộc, bách niên thụ nhân”. Như mọi người đã
biết giáo dục là một vấn đề luôn giữ một vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi
người, mỗi gia đình, mỗi quốc gia. Nó là cơ sở, là nền tảng, là sức mạnh của quốc
gia đó. Quốc gia nào có một nền giáo dục hoàn thiện thì quốc gia đó có nền xã hội
rất phát triển. Vậy nền giáo dục như thế nào mới là một nền giáo dục hoàn thiện?
Có lẽ những học thuyết của Khổng Tử hơn hai ngàn năm trước sẽ trả lời được phần
nào câu hỏi này. Chính vì thế tôi đã quyết định chọn đề tài “Khổng Tử - Nhà giáo
dục vĩ đại” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
Khổng Tử là một nhà tư tưởng, nhà giáo dục vĩ đại, là người sáng lập ra
phái Nho gia và là một trong những danh nhân văn hoá thế giới. Học thuyết của ông
lưu truyền cho đến muôn đời sau với những bài giảng vượt qua không gian và thời
gian, ông trở thành một vị thầy tiêu biểu của mọi thời đại. Điều gì đã khiến học
thuyết giáo dục của ông trở nên nổi tiếng như vậy? Chúng ta sẽ thông qua khoá luận
nghiên cứu về tư tưởng giáo dụ
c của Khổng Tử này để tìm ra phần nào đáp án.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Có rất nhiều đề tài nghiên cứu xung quanh Khổng Tử. Đa số các công trình
nghiên cứu về lịch sử văn hóa Trung Quốc đều dành một phần nhất định để nói về
ông, như là trong các công trình “Lịch sử văn minh Trung Hoa” do Phùng Quốc
Siêu chủ biên, Nxb Văn hóa thông tin, 2004; “Đạo nho và văn hóa phương Đông”
do Hà Thúc Minh chủ biên, Nxb Giáo dục, 2001.
Trong cuốn “Vạn thế sư biểu” của Lương Xuân Hùng, 2003, Nxb Trẻ, tác giả
đã đi tìm hi
ểu về những lời dạy của Đức Khổng Tử và một số môn đệ của ông về
những phẩm hạnh mà con người cần phải tu dưỡng như: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín,
hiếu… và một số nội dung liên quan đến việc tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ.
- 2 -
Ngoài ra còn có rất nhiều công trình khác như “Đạo nho” của Trần Kim
Trọng, Nxb Văn Học, 2003; Cuốn “Sự tái sinh của truyền thống” của Thẩm Thanh
Tùng, Nxb Phương Đông, 2005; “Khổng Tử” của Nguyễn Hiến Lê, Nxb Văn hóa
Thông tin, 2006… Những cuốn sách này đã đi sâu nghiên cứu về học thuyết nho
giáo của Khổng Tử cũng như các môn đệ của ông.
Các đề tài xoay quanh Khổng Tử có rất nhiều nhưng đ
a số tác giả thường
quan tâm đến những học thuyết xoay quanh nho gia, cách đối nhân xử thế… Những
đề tài riêng về mảng tư tưởng giáo dục thì ít được nghiên cứu sâu. Vì vậy bằng vốn
hiểu biết nhỏ bé của mình, em muốn tìm hiểu sâu thêm về nội dung tư tưởng giáo
dục của ông.
3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Khổng Tử là một đề tài được nhiều người nghiên cứu, các học thuyết triết lý
của ông sâu rộng. Bằng sự hiểu biết còn nhiều hạn chế của bản thân, tôi chỉ nghiên
cứu một phần nhỏ trong tư tưởng của ông, đó là nghiên cứu về vấn đề tư tưởng và
sự nghiệp giáo dục của ông cũng như tầm ảnh hưởng của nó lúc đương thờ
i và mãi
về sau.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về “Khổng Tử - Nhà giáo dục vĩ đại” của tôi chủ yếu là sử
dụng hai phương pháp chính là phân tích và tổng hợp. Thông qua những tư liệu đã
tìm được tôi sẽ tiến hành tổng hợp và hệ thống nó lại để từ đó phân tích và làm rõ
vấn đề.
5. Những đóng góp của đề tài
Tôi mong rằng với sự hiểu biết còn non hẹp của mình cùng với sự giúp đỡ
tận tình của giáo viên hướng dẫn, khóa luận của tôi sẽ có thể đóng góp một phần
nào đó về tư liệu cho những người muốn tìm hiểu về sự nghiệp giáo dục của Khổng
Tử cũng như là tầm ảnh hưởng sâu rộng về tư tưởng giáo dục của ông.
- 3 -
6. Cấu trúc của đề tài
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương I: Cuộc đời Khổng Tử
Chương II: Nội dung tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
Chương III: Thành tựu và tầm ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục Khổng Tử
Phần kết luận
- 4 -
B. NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG I: CUỘC ĐỜI KHỔNG TỬ
1.1 Thân thế
1.1.1 Xuất thân
Có rất nhiều tư liệu nghiên cứu về tiểu sử của Khổng Tử. Sau đây là vài nét
chính về cuộc đời và thân thế của ông.
Khổng Tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ngày 27 tháng 8 âm lịch (tức ngày
28 tháng 9 năm 551 tr.CN), đời vua Châu Linh Vương năm thứ 21 nhà Châu, tương
ứng với đời vua Lỗ Tương Công năm thứ 22, tại làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ,
nước Lỗ, bây giờ là tỉnh Sơn Đông nước Trung Hoa. Ông mất ngày 11 tháng 2 âm
lịch (tức ngày 11 tháng 4 năm 479 tr.CN).
Ông được gọi là Khổng Tử là vì ông họ Khổng, còn “Tử” là cách gọi tôn kính
người con trai đã trưởng thành thời cổ đại. Thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc con trai
trưởng thành, có một vị trí xã hội nhất định đều được gọi là “Tử”, hơn nữa họ cũng
hi vọng người khác gọi mình là “Tử”, vì “Tử” còn là một loại tước vị dùng để chỉ
“Tử” trong “công hầ
u bá tử nam”. Nhưng người thực sự được người khác gọi là
“Tử” thường chỉ có hai loại: một là những người có uy tín tương đối cao trong xã
hội như “giáo viên”; hai là những người dòng dõi quý tộc có phẩm chất đạo đức tốt.
Khổng Tử và Lão Tử thuộc loại người thứ nhất. Hơn nữa Khổng Tử còn là một nhà
tư tưởng, nhà chính trị và là một nhà giáo dục vĩ đại trong lịch s
ử, là người đã sáng
lập ra học phái Nho gia.
Theo truyền thuyết, tổ tiên của Khổng Tử vốn là hậu duệ Ân Thương. Sau khi
nhà Chu diệt nhà Ân, Chu Thành Vương phong cho người anh của Thương Trụ
vương là Vi Tử Khởi đất Tống, kiến đô ở Thương Khâu (thuộc Thương Khâu, tỉnh
Hà Nam ngày nay). Sau khi Vi Tử Khởi chết, người em trai là Vi Trọng kế vị. Vi
Trọng chính là tổ tiên của Khổng Tử. Cháu đời thứ tư
của Vi Trọng là Phất Phụ Hà,
cũng chính là ông tổ thứ mười một của Khổng Tử, lẽ ra kế vị làm Tống công thì lại
- 5 -
nhường ngôi cho người em trai. Từ đó về sau, hậu duệ của Phất Phụ Hà không kế
thừa Vương vị nữa mà được phong làm Khanh. Từ đời thứ năm sau Phất Phụ Hà
truyền đến ông tổ thứ sáu của Khổng Tử là Khổng Phụ Gia. Từ đó con cháu đời sau
lấy họ Khổng, đó cũng là cội nguồn họ Khổng. Khổng Phụ Gia truyền được ba đời
thì đến Khổng Phòng Thúc, là tằng tổ của Khổng Tử, Khổng Phòng Thúc lánh nội
loạn ở nước Tống dời đến định cư ở nước Lỗ. Cha của Khổng Tử là Thúc Lương
Ngột làm quan võ ở nước Lỗ, từng đảm nhiệm chức đại phu Trâu ấp nên được gọi
là “Trâu Thúc Ngột”. Thúc Lương Ngột lấy người vợ đầu là Thi Thị, sinh được chín
người con gái nhưng không có người con trai nào. Sau đó người vợ lẽ của ông sinh
được một con trai nhưng bị què một chân, tên là Mạnh Bì, tự là Bá Ni. Còn về sự ra
đời của Khổng Tử, đó là cả một câu chuyện.
Năm Thúc Thương Ngột 70 tuổi, sợ không có người kế tự, mới sai người đến
nhà họ Nhan để cầu hôn. Họ Nhan có năm người con gái đều chưa gả chồng, có ý
chê Thúc Lương Ngột quá già mới bảo với các con gái rằng: “Có ai trong các con
thuận kết duyên với đại phu Trâu ấp đó không?”. Bốn người con gái lớn đều làm
thinh, chỉ có người con gái út là NhanTrưng Tại đứng dậy thưa rằng: “Phép làm con
gái, khi còn ở nhà thì cha đặt đâu con ngồi đó, cần gì cha phải hỏi han chi thêm
cho nhọc”. Thế là Nhan Trưng Tại kết duyên cùng Thúc Thương Ngột.
Theo truyền thuyết, Khổng Tử khi sinh ra trên đầu gồ giữa lõm và cha mẹ
Khổng Tử lại đi cầu t
ự ở núi Ni Khâu mà mang thai Khổng Tử nên họ đặt tên cho
ông là Khâu, tự là Trọng Ni.
1.1.2 Những nét chính trong cuộc đời Khổng Tử
Thường những người nổi tiếng, những anh hùng xuất chúng hay những người
có học thức tuyệt vời đều có tuổi thơ không mấy hạnh phúc mà phải lao đao lận đận.
Khổng Tử cũng vậy, năm ông lên ba thì cha ông là Thúc Thương Ngột bị bệnh qua
đời. Từ đó gia đình ông trở nên nghèo khó chỉ nhờ một mình mẹ tảo tần nuôi
dưỡng.
- 6 -
Lúc nhỏ Khổng Tử đã thông minh hiếu học. Thuở nhỏ đã rất thích lễ nghi.
Ông thường đến đền thờ tổ ở Khúc Phụ (kinh đô của nước Lỗ) để quan sát các nghi
thức ở đây. Khi trở về với chúng bạn, ông thường bày ra các trò chơi tế lễ bắt chước
các nghi lễ cúng tế của người lớn mà mình là người chủ tọa.
Đến khi được vào trường học ông chuyên cần hơn mọi chúng bạn. Năm mười
một tuổi ông từng học lễ với Lỗ Thái sư. Khác với chúng bạn lúc niên thiếu ham
chơi, Khổng Tử là một người trầm tĩnh, cần cù, say mê học tập, lấy học làm niềm
vui. Trong cuốn Luận ngữ - Vi chính có câu:“子曰:吾十有五而志於学”. Âm đọc,
Tử viết: ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học. Nghĩa là lúc mười lăm tuổi ông đã tu chí
họ
c tập rồi.
Năm Khổng Tử mười bảy tuổi thì mẹ ông mất. Ông an táng mẹ chung phần
mộ với cha. Năm mười chín tuổi ông cưới Kỳ Quan làm vợ. Đến năm hai mươi tuổi
vợ ông sinh được đứa con trai đầu lòng. Tương truyền đúng lúc ấy vua Lỗ Chiêu
Công tặng cho Khổng Tử một con cá “lý ngư” thế là ông đặt tên con là Khổng Lý,
tự là Bá Ngư (tức con cá đứng đầu trong các loài cá). Về sau, Bá Ngư
chết lúc 50
tuổi, chết trước Đức Khổng Tử. Con của Bá Ngư tên là Khổng Cấp, tự là Tử Tư,
sau theo học với Tăng Sâm, rồi làm ra sách Trung Dung. Sau này, Khổng Tử còn có
đứa con gái và được gả cho môn đệ của ông là Công Dã Tràng. Trong cuốn Luận
ngữ - Công Dã Tràng Khổng Tử có nói:“可妻也。虽在缧绁之中,非其罪也” .
Âm đọc: Khả thế dã. Tuy lại luy tiết chi trung, phi kì tội dã. (Dịch nghĩa: có thể gả
con gái cho trò ấy. Tuy trò ấy bị tù nhưng đ
ó không phải là tội của nó).
Khoảng năm Khổng Tử hai mươi mốt tuổi thì ông làm quan chức “ủy lại” (một
chức quan nhỏ trông coi việc sổ sách). Sau đó sang làm “thừa điền” (chức quan nhỏ
trông coi gia súc). Đến khoảng ba mươi tuổi thì ông bắt đầu mở trường tư, thu nhận
môn sinh. Năm ông năm mươi mốt tuổi lại làm chức Đại tư khấu ở nước lỗ. Năm
năm mươi lăm tuổi bắt đầu chu du sang các nước như Vệ, Trần, Tống, Trịnh
Những năm về già ông về lại nước Lỗ, làm quân sư cho vua, tiếp tục giảng dạy
và chỉnh lý Kinh Thi. Năm 483 trước Công Nguyên, người con trai duy nhất của
ông lâm bệnh rồi qua đời. Năm 481 trước Công Nguyên, người học trò yêu của ông
- 7 -
là Nhan Hồi cũng qua đời. Năm 480 trước Công Nguyên, Tử Lộ bị giết trong cuộc
nội chiến nước Vệ. Năm 479 trước Công Nguyên, Khổng Tử qua đời, hưởng thọ
bảy mươi ba tuổi. Ông được an táng bên bờ sông Tứ Thủy ở Khúc Phụ. Các học trò
của ông đều than khóc, thương tiếc và ở bên cạnh mộ ông để túc trực, có người túc
trực hương khói đến sáu năm. Trong thời gian để tang thầy, họ nhớ và ghi chép lại
những lời nói, việc làm của Khổng Tử để biên soạn thành tập sách Luận ngữ, lưu
truyền cho đến đời nay .
1.2 Sự nghiệp
Khổng Tử là nhà chính trị, nhà tư tưởng, nhà giáo dục vĩ đại nhất thời cổ đại
Trung Quốc, ông là người sáng lập ra học phái Nho gia và là một trong những nhà
văn nổi tiếng nhất trên thế giới. Cuộc đời của ông gắn liền với những quan điểm về
chính trị và giáo dục.
1.2.1 Sự nghiệp chính trị
Từ năm hai mươi tuổi Khổng Tử đã muốn đi vào con đường quan trường, cho
nên ông rất quan tâm đến những việc thiên hạ đại sự, thường xuyên suy nghĩ về
những vần đề chính trị quốc gia, cũng thường xuyên đưa ra một số kiến giải của
mình. Mặc dù chỉ ở độ tuổi hai mươi nhưng ông đã nắm được nhiều tri thức văn hóa,
được mọi người ca ngợi là “bác học hiếu lễ”. Lúc này ông đã từng làm “tướng lễ”
(giúp việc cúng tế lễ nghi). Người làm nghề này đều phải có tri thức về văn hóa lễ
nhạc nhất định, chuyên giúp việc cúng tế cho các gia đình quý tộc trong các hôn
tang tế sự. Kế đó Khổng Tử được cử làm “ủy lại”, một chức quan nhỏ trông coi việc
sổ sách (hay gọi là nhân viên quản lí kho). Sau đó sang làm “thừa điền” (trông coi
gia súc), nổi tiếng là thông minh liêm khiết. Điều này được chứng minh qua câu nói
của Khổng Tử:“吾少也贱,故多能鄙事。”. Âm đọc: Ngô thiếu dã tiện, cố đa năng
bỉ sự, dịch nghĩa là: ta hồi nhỏ nghèo khó nên học được nhiều nghề thấp hèn, (Luận
ngữ, Tử Hãn, IX, 6).
- 8 -
Đến năm 30 tuổi, Khổng Tử đã ít nhiều có danh tiếng. Khi Tề Cảnh Công cùng
đại phu Án Anh đi chơi ở nước Lỗ có triệu kiến Khổng Tử và cùng bàn luận về
chuyện Tần Mục Công. Khổng Tử trả lời hợp ý Tề Cảnh Công thế là từ đó được
lòng vua Tề.
Năm 517 trước công nguyên, Khổng Tử 35 tuổi, nước Lỗ xảy ra nội loạn.
Khổng Tử
rời nước Lỗ đến nước Tề, ở đây ông được Tề Cảnh Công trọng dụng và
hậu đãi, thậm chí vua Tề còn từng chuẩn bị tặng ruộng đất cho Khổng Tử nhưng bị
Án Anh can ngăn. Ở nước Tề được vài năm thì Khổng Tử bị những triều thần ở
nước Tề đoan tính hãm hại, ông biết được chuyện này liền cầ
u cứu Tề Cảnh Công.
Tề Cảnh Công muốn trọng dụng Khổng Tử nhưng do triều thần phản đối nên lại
thôi, ông nói với Khổng Tử rằng:“吾老矣,弗能用也。”. Âm đọc: Ngô lão hĩ bất
năng dụng dã. Dịch nghĩa là: Ta già rồi không dùng được Khổng Tử nữa.(Luận ngữ,
Vi tử, XVIII, 3). Thế là Khổng Tử đành bỏ về nước Lỗ. Đương thời nước Lỗ cũng
đứng trước sự rối loạn về chính trị, quyền lực thực tế đều nằm trong tay bọn triều
thần. Do đó mặc dù Khổng Tử có hai lần cơ hội được tham chính nhưng ông đều từ
bỏ mà chuyên tâm vào việc chỉnh lý nghiên cứu Kinh Thi, đồng thời mở trường dạy
học thu nhận học trò, nỗ lực phát triển sự nghiệp giáo dục.
Nă
m Khổng Tử năm mươi mốt tuổi, ông được phong làm Trung Đô ấp tể,
(Trung Đô là ấp ở Sơn Đông ngày nay) nắm giữ công việc hành chính của một vùng
đất ở nước Lỗ. Một năm sau ông được thăng chức làm Tiểu Tư Không, không lâu
sau đó lại được làm Đại Tư Khấu. Khổng Tử chịu tránh nhiệm trị an và giữ gìn luật
pháp nghiêm minh. Trong thời Khổng Tử nhậm quyề
n, các vụ tội phạm giảm dáng
kể, trị an xã hội được cải thiện. Nước Tề sợ Khổng Tử tham chính ở nước lâu sẽ
làm nước Lỗ cường thịnh bèn tìm cách phá hoại. Nước Tề tuyển chọn 80 cô gái đẹp,
120 cỗ xe ngựa tốt dâng tặng vua nước Lỗ, quả nhiên vua Lỗ chìm trong tửu sắc,
nhiều ngày liền không thượng triều vấn chính khiến Khổng Tử vô cùng thất vọng.
Năm 497 trước công nguyên, Khổng Tử rời khỏi nước Lỗ, bắt đầu chuyến chu du
liệt quốc, ông đi qua nhiều nước như Vệ, Tào, Tống, Trần, Sái, Sở nhưng vẫn
- 9 -
không được trọng dụng, đến những năm cuối đời ông lại quay về nước Lỗ nhưng
chỉ làm cố vấn chứ vẫn không được tham chính.
Học thuyết chính trị của ông không cách nào dùng vào thời đó, nhưng điều vĩ
đại ở ông là ở chỗ:“知其不可为而为之”. Âm đọc: chi kỳ bất khả hành nhi hành chi,
có nghĩa là: mặc dù biết không thể làm được nhưng vẫn cố hết sức làm. Ông đành kí
thác tư tưởng chính trị của mình vào hậu thế (tức các học trò của ông). Khi Khổng
Tử trở về nước Lỗ ở những năm cuối đời thì ông đã dừng lại việc trực tiếp tham gia
vào những hoạt động chính trị. Một mặt ông tiếp tục chuyên tâm vào việc chỉnh lí
điểm tịch văn hóa, chuyên tâm vào việc biên soạn Kinh Thi, Kinh Xuân Thu, mặt
khác mở rộng quy mô sự nghiệp giáo d
ục. Cuốn Kinh Xuân Thu mà ông biên soạn
thể hiện quan điểm của ông về đúng, sai, thiện ác rất rõ ràng. Nó được cho là:
“ khiến những bầy tôi bất trung, những kẻ xấu phải sợ hãi”. Đến năm 73 tuổi ông
lâm bệnh rồi mất.
1.2.2 Sự nghiệp giáo dục
Cả cuộc đời Khổng Tử thì hơn một nửa đời ông gắn bó với sự nghiệp giáo dục.
Ông bắt đầu sự nghiệp giáo dục của mình vào khoảng năm 30 tuổi. Lúc này ông mở
trường tư, thu nhận môn sinh, bắt đầu hoạt động giáo dục. Vào thời bấy giờ trường
học chỉ dành cho đại bộ phận con em quý tộc, bình dân không có cơ hội học hành.
Ông chính là người phá vỡ chế độ giáo dục lũng đoạn lúc bấy giờ bằng việc mở
trường tư, thu nhận con em bình dân, giúp họ có cơ hội được đến trường. Đây được
xem là một bước ngoặt lớn trong lịch sử giáo dục Trung Quốc. Tuy nhiên trong lịch
sử Trung Quốc Khổng Tử không phải là người đầu tiên mở trường tư dạy học, trước
ông còn có Trịnh Tích, Thiếu Chính Mão, Vương Thai… là những nhà tiên phong
trong việc khai sáng tr
ường tư. Tuy nhiên quy mô và ảnh hưởng của họ không lớn
như Khổng Tử nên ông vẫn được xem là người tiên phong đánh đổ sự lũng đoạn
giáo dục trong lịch sử Trung quốc.
Do chương trình dạy học của Khổng Tử có nhiều nội dung phong phú, cách
dạy lại linh hoạt, các bài học trong trường của ông nhờ thế ngày càng được nâng
- 10 -
cao hơn. Học trò đến với ông trên tinh thần tự nguyện ngày càng cao. Uy tín của
ông lớn lên hàng ngày hàng giờ trong mắt của học trò cũng như trong thiên hạ.
Giai đoạn từ năm ông ba mươi bảy tuổi đến năm ông năm mươi lăm tuổi, được
xem là giai đoạn phát triển nhất trong sự nghiệp giáo dục của ông. Vào khoảng thời
gian này tuy cũng có tham gia vào việc chính sự song ông vẫn tiếp tục thu nhận
môn sinh từ
khắp nơi. Ngoài những môn sinh ở nước Lỗ, còn có những học trò từ
nước Tần, Tề, Sở, Vệ, Trần, Ngô… cùng nhiều quốc gia khác đều đến cầu học.
Vào khoảng năm ông năm mươi lăm tuổi, ông bắt đầu cuộc hành trình chu du
liệt quốc của mình. Trong mười bốn năm phiêu bạt, ông vẫn không ngừng hoạt
động giáo dục. Ông vẫn kiên trì truyền thụ tư tưởng của mình cho các học trò của
mình qua những cuộc tranh luận, kể chuyện, bàn luận về âm nhạc và hát xướng, qua
đó giúp họ mở rộng tầm nhìn cũng như mài giũa ý chí của họ. Đây được xem là một
hoạt động giáo dục rất hay trong giáo dục.
Những năm về già ông về lại nước Lỗ làm quân sư, tiếp tục giảng dạy và chỉnh
lý Kinh Thi. Có thể nói sự nghiệp giáo dục gắn liền với c
ả cuộc đời ông. Trong thực
tiễn giáo dục trường kỳ đó, Khổng Tử đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm phong
phú, xây dựng được một hệ thống tư tưởng cũng như sáng tạo ra những phương
pháp giáo dục khoa học, giúp xã hội đào tạo ra một số lượng lớn các học trò có tài
đức vẹn toàn. Môn sinh của ông tương truyền có đến hơn ba nghìn, trong đó có bảy
mươi hai ngườ
i đã lưu danh sử sách hay còn gọi họ là thất thập nhị hiền. Có thể nói
thành tựu lớn nhất trong sự nghiệp giáo dục của ông chính là tạo ra được một lớp
môn sinh tài giỏi và hữu dụng như vậy.
Có thể nói trong lịch sử về giáo dục của Trung Quốc, vẫn chưa có một người
vĩ đại nào có thể so sánh với Khổng Tử. Ông được người đời sau tôn xưng với
nhiều danh hiệu như là “đại thành chí thánh tiên sư”, “vạn thế sư biểu” và nhiều
danh xưng khác. Khổng miếu thờ Khổng Tử không những được xây dựng ở khắp
nơi ở Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam mà còn được xây dựng ở những
quốc gia Âu Mỹ và Nam Dương.
- 11 -
1.3 Học thuật
Những tư tưởng, học thuyết của Khổng Tử được du nhập vào Việt Nam từ thời
Bắc thuộc, tuy nhiên nhiều quan niệm về xã hội, con người, đạo đức, giáo dục của
Khổng Tử vẫn còn giữ nguyên giá trị và mang tính thời sự nên ảnh hưởng của nó
vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay.
Có thể nói, mục tiêu đào tạo của Khổng Tử là bồi dưỡng những người có đức
có tài để giúp ích cho xã hội. Trong việc giáo dục môn sinh của mình ông rất chú
trọng đến việc tu dưỡng đạo đức. Ông xây dựng nên hình tượng người quân tử với
năm đức tính: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín.
Trong đó chữ Nhân diễn tả ý nghĩa mối liên hệ giữa hai con người, mang ý
nghỉa tình cảm, quan tâm chăm sóc giữa người với người. Nó còn bao gồm nhiều ý
nghĩa khác nhau như lòng nhân ái, tình thương yêu đồng loại, sự kính trọ
ng, sự
trung thực, biết quan tâm và không làm những điều mình không muốn đối với người
khác;
Còn Lễ là lòng tôn kính, lịch thiệp và có lễ nghi chứ không phải những điều
luật hình thức như phép xã giao.Khổng Tử xem chữ Lễ vửa là luật lệ, vừa là mục
đích để biểu lộ chữ Nhân;
Nghĩa (義)trong tiếng hoa phồn thể, chiết tự ra gồm phần trên là bộ Dương
(
羊: dê, cừu), ở dưới là chữ Ngã (我: tôi, ta). Trong chữ Ngã này tượng hình một
bàn tay cầm dao. Qua đó biểu hiện nên hàm nghĩa của chữ Nghĩa lả: một chú cừu
hiền lành vẫn có thể làm một người đang nộ khí xung thiên bị khuất phục. Nó mang
ý nghĩa sở thích cá nhân phải đi sau và tuân thủ các nguyên tắc đạo lý. Và người
quân tử phải lấy chữ Nghĩa làm nguyên tắc nền tảng;
Trí có nghĩa là có ý thức và
đắc thủ được học thức, ngoài ra nó còn mang hàm
nghĩa khôn ngoan. Khổng Tử nói: “Biết thì nói biết, không biết thì nói không biết,
đó là biết (Trí). Ông tin rằng cần trăn trở xem mình đã hiểu người khác chưa chứ
không cần lo xem người khác đã hiểu mình chưa;
Tín có nghĩa là sự tin tưởng lẫn nhau giữa người với người. Khổng Tử nhấn
mạnh đức tính này. Ông không tin một người bất tín có thể giữ được địa vị
trong xã
- 12 -
hội. Còn một người trung thực biết giữ lời bao giờ cũng được lòng mọi người cho
dù ở bất cứ đâu.
Trong năm đức tính này, chữ Nhân được Khổng Tử coi là nguyên lý đạo đức
cơ bản quy định bản tính con người và quan hệ giữa người với người từ gia đình
cho đến xã hội. Nhưng để đạt được “đức Nhân” không phải là chuyện dễ. Người đạt
được “đức Nhân” ở bậc cao nhất là thánh nhân, điều này ở trên đời khó có thể thấy
được; người đạt được “đức Nhân” ở bậc thứ là quân tử, điều này thì có thể thấy
được. Nhưng nói chung không chỉ “đức Nhân” là quan trọng mà cả năm đức tính
đều cần phải tu dưỡng hoàn thiện, thiếu một trong năm đức tính này không thể trở
thành người quân tử.
Ngoài việc thành công trong việc xây dựng hình tượng ngườ
i quân tử, Khổng
Tử còn rất thành công trong việc sáng tạo ra một hệ thống tư tưởng giáo dục khoa
học. Đó là những quan điểm về người dạy và người học, những phương pháp dạy
học đa dạng và linh hoạt mang tính khoa học cao…Những tư tưởng ấy sẽ được nói
rõ hơn trong chương tiếp theo của khóa luận này.
- 13 -
Chương II: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC
CỦA KHỔNG TỬ
2.1 Quan điểm về giáo dục của Khổng Tử
2.1.1 Giáo dục không phân biệt giai cấp
Nói về tư tưởng giáo dục của Khổng Tử ta không thể nào không nhắc đến chủ
trương“有教无类”. Âm đọc: hữu giáo vô loại, tức là giáo dục không phân biệt
cao thấp sang hèn. Hồi ấy, văn hóa giáo dục là độc tôn của các bậc quyền quý, còn
bình dân không có cơ hội được học hành. Khổng Tử đã phá vỡ sự lũng đoạn giáo
dục của giai cấp quý tộc lúc bấy giờ b
ằng việc mở trường tư dạy học, cho tất cả các
con em bình dân vào học. Đây được xem là một bước ngoặt, một bước tiến quan
trọng trong lịch sử giáo dục của Trung Quốc.
Khổng Tử cho rằng “con người ta sinh ra vốn bản tính không có gì khác nhau,
sở dĩ có sự khác nhau là do tác động của hậu thiên (những yếu tố ngoại lai tác động
đến), tồn tại quyết định ý thức”. Ông cho rằ
ng thiên tài và người bình thường khi ra
đời đều giống nhau, điều khác nhau sẽ dần hình thành do sự giáo dục về sau. Yếu tố
hậu thiên ở đây bao gồm ba nhân tố: gia đình, môi trường sống và giáo dục. Những
yếu tố này đã quyết định đến việc hình thành tư tưởng ý thức của mỗi người. Tư
tưởng ý thức và trình độ tri thức của con người được hình thành do hậu thiên, thông
qua giáo dục bồi d
ưỡng mà nên. Vì thế ông rất xem trọng việc giáo dục
Đối với Khổng Tử ai cũng có quyền được học, bất luận phú quý bần tiện, ông
từng nói: “những người đến xin học ở chỗ ông, ông chưa từng không dạy”. Học trò
đến xin học chỉ cần có mười xâu thịt khô thì ông đã nhận. Học trò của ông đến từ
khắp mọi nơi, Tần, Tề, Sở, Vệ, Trần, Ngô… với đủ tầng lớp và loại người. Có
những con em của các quý tộc giàu sang lúc bấy giờ như Nhiễm Cầu, Tư Mã Ngưu
hay phú thương như Tử Cống hay những học trò xuất thân từ tầng lớp bình dân như
Nhan Hồi, Tử Lộ, Tuyên Nguyên…, cần cù siêng năng như Nhan Hồi hay lười
biếng như Tể Mâu. Điều này một lần nữa đã chứng minh được rằng Khổng Tử đã
- 14 -
thực sự thực hiện chủ trương “Hữu giáo vô loài” của mình. Qua đó cũng thể hiện
được phần nào chủ trương nhân ái của ông “Phiếm ái chúng nhi nhân dân” [6,44].
Có nghĩa là yêu khắp mọi người mà gần gũi người nhân đức.
2.1.2 Học không biết chán, dạy không biết mệt
“学而不厌,诲人不倦”. Âm đọc: học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện [6,93]
là một trong những câu danh ngôn của Khổng Tử. Nó có nghĩa là cần mẫn học tập
mà không chán, toàn tâm dạy dỗ người mà không mệt. Thật vậy, cả cuộc đời Khổng
Tử đã theo đuổi sự nghiệp dạy học trên tinh thần đó. Ông luôn yêu cầu bản thân
mình phải không ngừng cố gắng học hỏi, luôn cần m
ẫn chỉ dạy cho học trò. Chính
vì lẽ đó thông qua việc trải nghiệm trong thực tế lâu dài, ông đã tích lũy được kinh
nghiệm dạy học phong phú, sáng tạo những phương pháp giáo dục, lý luận giáo dục
một cách khoa học để rồi đào tạo ra được hàng loạt các học trò có đức có tài giúp
ích cho xã hội.
Theo Khổng Tử “Ta không phải sinh ra đã là người có tri thức mà là người
yêu thích điển tịch cổ, siêng năng học h
ỏi tìm tòi”. Bởi thế, là một người thầy giáo,
ông luôn nổ lực học tập không ngừng để bổ sung thêm kiến thức mới để có thể
truyền dạy học trò của mình những kiến thức tốt nhất. Ông từng nói: “Cho ta sống
thêm vài năm nữa, hoặc năm năm hoặc mười năm, để ta theo đuổi học vấn” [6, 97].
Nhưng làm thế nào để “Học không biết chán”? Điều mấu chốt là ở chỗ ta phải yêu
thích nó, để rồi vui với nó. Ông từng nói: “知之者不如好之者,好之者不如乐者”.
Âm đọc: tri chi giả bất như hiếu chi giả, hiếu chi giả bất như lạc chi giả [6, 89].
Dịch nghĩa là: Đối với bất cứ việc gì, người hiểu nó không bằng người thích nó,
người thích nó không bằng người vui với nó. Chỉ có người yêu thích việc học tập thì
mới có thể
tìm thấy niềm vui để rồi thực sự hòa nhập vào nó. Như Khổng Tử khi
đọc sách thì quên ăn, khi ở nước Tề nghe nhạc Thiều ngay cả mùi vị thịt cũng
không biết. Bởi thế Khổng Tử luôn khen những học trò có tinh thần lạc quan hiếu
học. Như khi thấy Nhan Hồi tuy sống trong cảnh nghèo khó nhưng vẫn lạc quan,
ông liền khen: “Một giỏ cơm, một bầu nước, sống trong ngõ hẹp, người khác sẽ ưu
- 15 -
sầu không sống nổi trong cảnh đó. Nhan Hồi lại không thay đổi niềm vui của mình,
hiền lương thay anh Hồi” [6, 87].
Ngoài ra Khổng Tử còn nhận định rằng con đường học vấn là con đường đầy
gian nan do đó ta cần phải“知难而进”. Âm đọc: tri nan nhi tiến, tức là biết khó
nhưng phải luôn biết vượt khó và tiến về phía trước. Người đọc sách phải luôn giữ
vững lập trường của mình, kiên trì
đeo đuổi mục tiêu đến cùng. Cũng vì lẽ đó nên
khi môn sinh Nhiễm Cầu cho rằng mình không có đủ năng lực để học, Khổng Tử
liền trách mắng: “Những người không đủ sức thì làm việc nửa đường bỏ gánh, còn
trò bây giờ vẫn chưa bắt đầu lên đường” [6,87]. Như vậy ta có thể thấy rằng theo
Khổng Tử nguyên nhân chính mà Nhiễm Cầu cảm thấy mình không đủ năng l
ực là
do trò vẫn chưa thật sự hạ quyết tâm, chưa thật sự kiên trì với mục tiêu của mình.
Khổng Tử trách mắng Nhiễm Cầu để trò biết là mình phải kiên trì hơn, phải biết
“Tri nan nhi tiến”, như vậy mới có thể vượt qua chính mình, mới có thể đạt đạo.
Tất cả những điều kể trên rõ ràng đã chứng minh được rằng Khổng Tử quả là
m
ột người “Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện”. Ông quả là một nhà giáo yêu
nghề, chỉ có một nhà giáo yêu nghề thì mới có thể tận tụy với nghề như thế. Luôn
học tập không ngừng để bổ sung thêm kiến thức truyền đạt cho môn sinh, luôn dạy
trò không biết mệt. Đây quả là một phẩm chất cao đẹp của một nhà giáo vĩ đại mà ta
luôn phải tôn vinh và học hỏi.
2.2 Mục đích giáo dục của Khổng Tử
Trong lịch sử triết học cổ đại Trung Quốc, Khổng Tử là người đầu tiên mở
trường tư cho mọi người. Khổng Tử nói:“有教无类”. Âm đọc: hữu giáo vô loại.
Nghĩa là: Bất luận hạng người nào (giàu nghèo, sang hèn, thông minh, đần độn …)
Khổng Tử cũng dạy [6,189]. Ông mở trường cho mọi người, đầu tiên là muốn đào
tạo họ thành những con người lương thiện, sống có ngh
ĩa tình; sau đó chọn trong số
những người ưu tú để đặc biệt tạo thành một người quân tử có nhân, trí, dũng để
làm quan giúp nước. Vậy mục đích giáo dục của ông có thể tạm tóm gọn trong hai
- 16 -
điều: một là “Thành nhân”, hai là “học nhi ưu tắc sĩ” (tức là học để rồi ra làm
quan).
2.2.1 Thành nhân
Mục đích giáo dục của Khổng Tử là giúp mọi người hoàn thiện nhân cách hay
nói cách khác là ông dạy cách làm người. Trong quá trình Khổng Tử dạy học, ông
không dạy những nghề như làm ruộng, làm vườn, nên khi Phàn Trì đến xin học
những nghề ấy ông đều từ chối (Luận Ngữ, Tử Lộ, XIII, 4). Ông cũng không dạy
cách cầm quân đánh giặc. Vua Linh công nước Vệ hỏi Khổng Tử về chiến trận.
Khổng Tử
đáp: “Về việc tế tự, lễ khí thì tôi đã từng nghe, còn về quân lữ thì tôi
chưa học” [6, 179]. Mà cái ông truyền dạy ở đây là luân lý, đạo lý, triết lý, chính trị.
Khổng Tử chủ trương dạy mọi người biết cách cư xử sao cho vẹn hiếu, trọn
trung, vẹn tình, trọn nghĩa. Khổng Tử dạy học trò của mình rằng khi ở trong nhà thì
hiếu thảo với cha mẹ, ra ngoài thì phải kính nhường bậc huynh trưởng, thận trọng
trong lời nói mà thành tín, yêu khắp mọi người mà gần gũi với người nhân đức, làm
được như vậy rồi mà còn dư sức mới học văn.
Khổng Tử luôn chú trọng việc học tập làm người, ông nói: “Người không có
đức nhân thì lễ mà làm gì? Người không có đức nhân thì nhạc mà làm gì?” [6, 57].
Vậy rốt cuộc đức Nhân là gì? Phàn Trì hỏi về đức Nhân, Khổng Tử đáp: “Ái nhân”
tứ
c là yêu người (Luận Ngữ, Nhan Uyên, XII, 22). Trọng Cung hỏi về đức Nhân,
Khổng Tử đáp: “Cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người.” (Luận Ngữ,
Nhan Uyên, XII, 2). Rồi khi Tử Cống hỏi, ông trả lời: “ Phàm là người nhân, mình
muốn tự lập thì cũng thành lập cho người; mình muốn thành công thì cũng giúp cho
người thành công. Mình muốn cái gì thì giúp người được cái đó, đó là phương pháp
của người nhân” [6, 92]. Nhân là yêu người- yêu người là giúp người, nếu không
giúp người thì không còn được g
ọi là nhân nữa.
Khổng Tử dạy rằng đức nhân là nền tảng của con người, vì nó bao trùm tất cả
các đức khác (cung, khoan, tín, mẫn, huệ …) và là gốc của lễ, nhạc. Khi Tử Trương
hỏi về đức Nhân, Khổng Tử đáp: “Cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung kính thì không
- 17 -
bị khinh lờn, khoan hậu thì được lòng mọi người, thành tín thì được tín nhiệm, cần
mẫn thì thành công; huệ (ban ân) thì sử dụng được người” [6,201]. Làm được năm
đức trong thiên hạ ấy thì gọi là Nhân.
Nói tóm lại Khổng Tử luôn hướng học trò, dạy học trò thành Nhân, và Nhân
chủ yếu là giúp người, là cách đối đãi với người. Từ yêu mình, yêu người thân của
mình, nên giúp đỡ người thân của mình, tức đối đãi tốt với mình, với ngườ
i thân của
mình; tới yêu mọi người, nên giúp đỡ mọi người, tức là đối đãi tốt với mọi người.
2.2.2 Làm quan giúp nước
Tuy Khổng Tử không nói rõ mục đích giáo dục của mình nhưng thông qua câu
nói trong Luận Ngữ ta có thể hiểu được phần nào quan điểm của ông. Giả dụ như
qua câu:“学以致用”.Âm đọc: học dĩ chí dụng, có nghĩa là Khổng Tử nhận định
rằng việc học tập trước hết phải có mục đích rõ ràng, học để rồi vận dụng nếu
không thì cho dù học được nhiề
u tri thức đi nữa mà không biết vận dụng nó thì cũng
chẳng có tác dụng gì. Điều này cũng có thể được chứng minh qua câu nói sau của
Khổng Tử:“诵诗三百,授之以政,不达;使于四方,不能专对;虽多亦奚以
为?”. Âm đọc: tụng [Thi] tam bách, thụ chi dĩ chính, bất đạt; sứ chi tứ phương,
bất năng chuyên đối, tuy đa, diệc hề dĩ vi? [6, 154]. Dịch nghĩa là: Đọc thuộc ba
trăm bài Kinh Thi, giao cho trị chính sự lại không kham nổi; sai đi sứ n
ước ngoài lại
không biết tự ứng đối, như vậy học nhiều để làm gì?. Từ đó ta biết rằng Khổng Tử
cho rằng mục đích của việc đọc sách không phải chỉ là thuộc làu làu là được, mà đó
là phải biết vận dụng nó, dùng nó vào trong thực tiễn, phải biết vận dụng một cách
linh hoạt.
Vậy vận dụng việc học vào thực tế là thế nào? Th
ật ra trong Luận Ngữ cũng
không có câu nói nào của Khổng Tử thể hiện rõ điều đó nhưng qua câu nói của học
trò Tử Hạ thì ta có thể hiểu được phần nào đó.“仕而优则学,学而优则仕”. Âm
đọc: sĩ nhi ưu tắc học, học nhi ưu tắc sĩ [6, 220], nghĩa là: người làm quan nếu là
quan giỏi thì luôn học. Học mà giỏi thì ra làm quan. Quan điểm này thực chất cũng
thể hiện rõ được mối liên h
ệ giữa học và hành, muốn làm quan tốt trước hết phải
- 18 -
học, và mục đích của học chính là để làm quan tốt. Nó cũng thể hiện được mục đích
của việc Khổng Tử mở trường tư dạy học, đó chính là thông qua giáo dục để bồi
dưỡng người hiền tài để họ có thể trực tiếp bước lên vũ đài chính trị, giúp ích cho
xã hội. Bởi thế khi dạy học ông không dạy môn toán nhưng lại chú trọng đến môn
ăn nói, tức Kinh Thi, vì môn này vào thời nào cũng cần cho chính trị, cho nên ông
mới nói “ Bất học Thi vô dĩ ngôn”. Và dĩ nhiên ông không dạy các nghề như làm
ruộng, làm vườn Khi Phàn Trì xin học làm ruộng, Khổng Tử bảo ông không bằng
lão nông. Phàn Trì lại xin học làm vườn ông cũng từ chối nói mình không bằng ông
lão làm vườn. Khi Phàn Trì đã bước ra về rồi, ông lại chê Phàn Trì thấp kém.
Khổng Tử bảo rằng người trên mà chuộng lễ thì dân không dám không cung kính;
người trên chuộng nghĩa thì dân không dám không ph
ục; người trên chuộng thành
kính thì người dân không dám không trung thực.
Một điều khác chứng minh thêm luận điểm trên nữa là khi Quý Khang hỏi Tử
Cống, Trọng Du có thể tham gia chính sự được chăng thì ông liền trả lời là có thể.
(Luận Ngữ, Ung Dã, VI, 8). Trong thực tế, trong số hàng ngàn để tử của ông thì số
người tham gia chính sự không phải là ít. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng việc
ông đào tạo nhân tài lúc bấy giờ hoàn toàn phù hợ
p với nhu cầu xã hội lúc bấy giờ.
Vậy tại sao Khổng Tử lại không trực tiếp bước lên vũ đài chính trị mà lại gián
tiếp đào tạo nhân tài để thực hiện mục đích đó. Trong thực tế lúc bấy giờ Khổng Tử
đã bôn ba mười bốn năm đi khắp các nước chư hầu nhưng không tìm được vũ đài để
có thể thi hành nguyện vọng chính trị của mình. Do vậy ông chỉ đành dồn hết tâm
sức để mở trường tư dạy học với hi vọng rằng những người hiền tài trong hàng đệ
tử sẽ có thể giúp ông thi hành được chủ trương của mình, thực hiện đại đồng thế
giới một cách tốt đẹp nhất.
2.3 Cách nhìn về nghề dạy học của Khổng Tử
Trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, dạy học chiếm một ví trí vô cùng
quan trọng. Rèn luyện đạo đức cho học trò, truyền đạt kiến thức cho học trò, giúp
học trò phát triển năng lực bản thân… tất cả những điều đó đều là trách nhiệm của
- 19 -
một người thầy. Từ trong thực tiễn dạy học của mình ông đã dưa ra yêu cầu ở nhiều
mặt đối với một người thầy giáo.
2.3.1 Lấy mình làm gương
Khổng Tử từng nói: 其身正,不令而行,其身不正,遂令不从”. Âm đọc: kỳ
thân chính, bất kim nhi thành, kỳ thân bất chính, tuy kim bất tòng. Nghĩa là tác
phong của một người bậc trên (người thầy) luôn phải đứng đắn, như vậy thì cho dù
không ra lệ
nh đi nữa thì bậc dưới (học sinh) cũng làm theo; Tác phong của người
bậc trên mà không đứng đắn thì cho dù có ra lệnh đi nữa người bậc dưới cũng
không nghe theo. Qua câu nói này ta có thể thấy được quan điểm “lấy mình làm
gương” của Khổng Tử và quan điểm ấy càng được thể hiện rõ hơn qua câu nói sau
của Khổng Tử:“不能正其身,如正人何?”. Âm đọc: bất năng chính kỳ thân, như
chính nhân hà?. Có nghĩa là nế
u bản thân không đứng đắn thì làm sao dạy người
khác đứng đắn? Những lời nói này của Khổng Tử đã nói lên được tính quan trọng
và cần thiết của việc làm gương.
Người thầy là tấm gương của học sinh, mọi lời nói việc làm của người thầy
đều có thể ảnh hưởng trực tiếp đến học sinh. Bởi vậy bản thân là một người thầy
giáo, ông luôn nhận thức
được rằng mình phải làm sao để làm tấm gương tốt cho
học trò. Ông luôn là một người say mê với việc học tập. Khi Khổng Tử ở nước Tề,
ông đã nghe nhạc Thiều và học trong ba tháng, khi dùng cơm ngay cả mùi vị thịt
cũng không biết. Ông nói rằng “Ta không ngờ học âm nhạc mà khiến người ta đến
mức này” [6, 96]. Rồi khi Diệp Công hỏi Tử Lộ về Khổng Tử, Tử Lộ không trả
lời
được. Khổng Tử mới nói “Sao trò không trả lời thế này, ông ấy là người lúc say sưa
đọc sách thì quên ăn, lúc vui thì quên cả lo âu, mà không biết tuổi già đã đến rồi”
[6, 98]. Khổng Tử không chỉ là một người học quên cả ăn mà ở ông còn có tinh thần
không ngừng học hỏi “Cho ta sống thêm vài năm nữa, hoặc năm năm, hoặc mười
năm, để ta theo đuổi học vấn, thế thì ta s
ẽ không mắc sai lầm gì lớn” [6,97]. Tinh
thần học tập này giống như là tinh thần học tập của Lênin vậy “Học, học nữa, học
mãi”. Đây quả là điều đáng cho chúng ta phải học hỏi và noi theo.
- 20 -
Khổng Tử luôn say mê với học tập chẳng lẽ chỉ để làm gương cho học trò thôi
sao? Không. Để có kiến thức truyền thụ cho học trò bản thân là người thầy giáo ông
luôn phải“温故而知新可以为师矣”. Âm đọc: ôn cố nhi tri tân, khả dĩ vi sư hĩ.
Tức là cần phải luôn thường xuyên ôn tập những kiến thức cũ, phát hiện, tìm hiểu
thêm và lĩnh hội những kiến thức mới, có như vậy mới có thể luôn nắm được kiến
thức để truyền dạy cho học trò, có như vậy mới có thể làm đúng chức trách của một
người thầy. Trong Luận Ngữ, Thái Bá Khổng Tử lại nói: “学如不及,犹恐失之”.
Âm đọc: học như bất cập, do khủng thất chi. Dịch nghĩa là học tập cần có tâm lý sợ
không theo kịp, lại luôn luôn phải sợ mai một những điều mình đã h
ọc. Điều này
một lần nữa khẳng định sự say mê học tập của Khổng Tử. Đối với Khổng Tử là một
người thầy giáo không chỉ truyền dạy kiến thức đã biết cho học trò là được, mà bản
thân người thầy cũng phải không ngừng nắm vững lại kiến thức đã có, không ngừng
suy ngẫm và học hỏi thêm kiến thức mới, không ngừng tu dưỡng bản thân để có thể
làm sao truyền đạt được những kiến thức tốt nhất cho học trò, làm một tấm gương
tốt cho học trò noi theo. Đây cũng là một trong những lý do mà học trò phải nể phục
ông từ đó luôn muốn học ở ông. Trong Luận Ngữ, Tử Hãn, học trò Nhan Huyên bùi
ngùi khen thầy mình: “Học vấn và nhân đức của thầy càng ngẩng lên càng trông
thấy cao, càng khoan vào càng thấy rắn; nhìn có vẻ nh
ư trước mặt, thoắt bỗng cảm
thấy sau lưng. Thầy tuần tự mà khéo từng bước dẫn dụ chúng ta, dùng văn hóa điển
tịch đề mở mang trí tuệ chúng ta, dùng chế độ lễ nghi để ước thúc hành vi chúng ta,
muốn thôi học cũng không thể, ta đã vắt kiệt sức mình nhưng dường như vẫn thấy
có cái gì cao lớn sừng sững phía trước. Tuy muốn làm được như thầy, nhưng lại
không biết bắt đầu từ đâu” [6, 115]. Ta có thể thấy rằng Nhan Huyên ngưỡng mộ
Khổng Tử như thần tượng của mình, ông đã cố gắng theo học ở thầy và đã có
những tiến bộ vượt bậc. Đây có thể được xem là một trong những thành công của
quan điểm “lấy mình làm gương” của Khổng Tử.
2.3.2 Yêu mến học trò
Yêu quý, quan tâm học trò là m
ột trong những bí quyết thành công của một
người thầy giáo. Và đây cũng là một trong những đức tính của nhà giáo dục Khổng
- 21 -
Tử. Ông luôn quan tâm đến phẩm chất, sự nghiệp, sự tiến bộ và cả đời sống của
những học trò của mình. Cách cư xử của ông với học trò làm cho họ yêu quý ông
như cha. Có lẽ cũng vì đức ấy mà học trò không những chỉ đi theo ông học tập mà
còn luôn theo cạnh ông chăm sóc ông như Tử Lộ, Nhan Hồi, Tăng Sâm …
Khổng Tử luôn hiểu và nắm rõ được trình độ tiếp thu của mỗi học trò của
mình. Mặc dù ông nói là Nhan Hồi nhìn có vẻ như là một người đần độn vì cậu ta
luôn thích thú với bài giảng của ông mà không hề có ý kiến phản bác gì, nhưng ông
cũng nhận xét rằng: “Đến khi trò ấy lui về nghiên cứu thì ta thấy rằng trò ấy có khả
năng phát triển những ý tưởng sâu xa từ điều ta giảng dạy. Điều này chứng tỏ Nhan
Hồi chẳng ngu chút nào” [6, 51]. Không những thế ông còn biế
t rõ trình độ lĩnh hội
của từng học trò, ông từng nói:“颜回学一知十,子贡学一知二”. Âm đọc: Hồi dã
văn nhất tri thập, Tứ dã văn nhất dĩ tri nhị. Dịch nghĩa Nhan Hồi học một biết mười,
Tử Cống học một biết hai. Vì hiểu rõ được từng học trò như vậy nên khi Quý
Khang hỏi: “ Có thể để cho Trọng Do trị lí chính sự được chăng?”
Khổng Tử có th
ể trả lời một cách cặn kẽ: “Trọng Do làm việc quả đoán, để
anh ấy trị lí chính trị có khó gì?.”
Quý Khang tử lại hỏi: “Có thể để cho Đoan Mộc Tứ trị lí chính sự được
chăng?”.
Khổng Tử đáp: “Tứ thông hiểu sự lí, để anh ấy trị lí chính trị có khó đâu?”.
Hỏi: “Có thể để Nhiễm Cầu trị lí chính sự đượ
c chăng?”.
Trả lời: “Nhiễm Cầu có tài cán, để anh ấy trị lí chính sự có gì khó đâu?” [6,
85] .
Trọng Do quyết đoán, Đoan Mộc Tứ hiểu lí sự, Nhiễm Cầu thì có tài cán, có
quan tâm, để ý và hiểu học trò thì mới có thể đưa ra những lời nhận xét rõ ràng như
vậy.
Không chỉ dừng lại ở việc hiểu học trò của mình mà Khổng Tử còn luôn quan
tâm đến cả cuộc sống của từng học trò. Trong Luận Ngữ, Ung Dã có kể rằng khi
học trò Bá Ngư bị bệnh, ông đến thăm, đứng bên ngoài cửa sổ nắm lấy tay Bá Ngư
mà nói: “Chẳng được rồi, đây là mệnh chăng! Người thế này mà bệnh thế này!