Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

nội dung tóm tắt tiếng việt rèn kĩ năng nghe - nói cho học sinh lớp 1 trong dạy học môn tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.59 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
1.1. Rèn kĩ năng nghe – nói (KNNN) là rèn kĩ năng sống cho học sinh (HS)
Nghe - nói - đọc - viết là những hoạt động diễn ra thường xuyên trong cuộc sống
của chúng ta. Nhưng trong bốn dạng hoạt động này, xét về tần số xuất hiện, thì nghe - nói
diễn ra liên tục hơn, đậm đặc hơn. Cặp hoạt động này có hai đặc tính nổi bật:
- Thứ nhất, đó là cặp hoạt động ngôn ngữ nói - dạng giao tiếp trực tiếp bằng âm
thanh trong hoạt động ngôn ngữ.
- Thứ hai, nghe - nói là cặp hoạt động mang cả đặc tính của việc tiếp nhận lời nói lẫn
tạo lập lời nói.
Hiện nay, việc nghiên cứu tìm ra những nội dung cũng như các biện pháp rèn
KNNN cho HS đầu cấp Tiểu học (TH) nói riêng một cách hiệu quả là hết sức cần thiết.
1.2. Nghe - nói tốt giúp HS nhận thức và khám phá thế giới có hiệu quả
Hoạt động nghe - nói là một phương tiện để HS tư duy, nhận thức về thế giới xung
quanh một cách tích cực. Các em sử dụng hoạt động nghe - nói để giải quyết trực tiếp
một vấn đề hay một tình huống nào đó xảy ra trong môi trường giao tiếp của mình.
Đề tài đi sâu vào tìm hiểu những đặc điểm của hoạt động nghe - nói và từ đó đưa ra
được các biện pháp luyện phù hợp với đặc điểm tâm lí, đặc điểm nhận thức của trẻ và có
tính khả thi trong việc dạy học ở nhà trường.
1.3. Việc rèn KNNN ở TH hiện nay còn nhiều bất cập
Mục tiêu chương trình TH của chúng ta là phải đáp ứng nhu cầu của HS về bốn
phương diện kĩ năng: Nghe - nói - đọc - viết. Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay giáo
viên (GV) quá chú trọng vào hai kĩ năng đọc - viết, thường coi nhẹ việc luyện hai KNNN
trong quá trình dạy học môn TV.
Bên cạnh đó, GV chưa nhận thức đúng về vai trò quan trọng của KNNN trong quá
trình học tập môn TV cho HSTH. Hệ thống bài tập (HTBT) chưa thực sự hấp dẫn đối với
HS, cách tổ chức còn đơn điệu, nhàm chán. Đặc biệt, có quá nhiều nội dung chương trình
đưa vào giảng dạy trong trường Tiểu học, GV không đủ thời gian cần thiết để đầu tư cho
hoạt động này như mong muốn nên việc tổ chức rèn KNNN cho HS đầu cấp TH của
chúng ta hiện nay cũng có một số vấn đề khó khăn.
1.4. Yêu cầu đổi mới việc dạy học TV và rèn KNNN cho HSTH


Đứng trước yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục, môn Tiếng Việt
cũng xác định tinh thần đổi mới triệt để theo định hướng giao tiếp. Vì thế, việc rèn
KNNN cho HSTH là vô cùng cần thiết. Để hình thành và luyện các kĩ năng này cần xây
dựng một nội dung và phương pháp hình thành KNNN dựa trên cơ sở lí luận và thực tiễn
giúp HS rèn KNNN có hiệu quả trong nhà trường.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
- Đưa ra những định hướng về nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức hợp lý
nhằm giúp GV tháo gỡ những khó khăn trong quá trình tổ chức hoạt động dạy Tiếng việt
theo định hướng giao tiếp.
- Đưa ra quy trình rèn KNNN phù hợp thông qua một số BT tương ứng nhằm nâng
cao hiệu quả dạy học nói chung đồng thời giúp HS nâng cao năng lực ngôn ngữ, đặc biệt
biết cách sử dụng ngôn ngữ nói như một công cụ trong hoạt động giao tiếp cũng như các
hoạt động học tập và vui chơi khác.
2.2. Nhiệm vụ
- Tổng quan nghiên cứu về vấn đề rèn KNNN cho HS Tiểu học trong và ngoài nước
thông qua việc tìm kiếm, tập hợp tư liệu tham khảo.
- Hệ thống hóa, phân tích một cách chi tiết, cặn kẽ những cơ sở lí luận khoa học về
tâm lí học, ngôn ngữ học, tâm lí học hoạt động của việc rèn KNNN cho HS đầu cấp TH.
- Khảo sát chương trình, hệ thống BT rèn KNNN trong SGK TV lớp 1; khảo sát tình
hình rèn KNNN trong thực tiễn dạy học. Trên cơ sở đó, phát hiện những ưu điểm và hạn
chế của việc rèn KNNN cho HS lớp 1 và xác định hướng đề xuất của đề tài.
- Xây dựng nội dung và biện pháp tổ chức quá trình rèn KNNN.
- Đề xuất HTBT rèn KNNN cho HS lớp 1 và thiết kế một số giờ dạy mẫu nhằm cụ
thể hoá quy trình hình thành KNNN.
- Kiểm định khả năng thực thi của các đề xuất được nêu ra trong luận án bằng tổ chức
thực nghiệm đánh giá để đưa ra kết luận và kiến nghị cần thiết.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
- Nội dung và cách tổ chức rèn KNNN cho HS lớp 1 qua môn TV.

- Các biện pháp tổ chức rèn KNNN thông qua các BT thực hành.
3.2. Phạm vi
- Đề tài chỉ giới hạn xem xét nghiên cứu hai kĩ năng cơ sở ban đầu là kĩ năng nghe và
nói.
- Đề tài xác định nội dung, phương pháp và cách thức tổ chức rèn KNNN cho HS lớp
1 ở các trường TH đang học theo chương trình hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo
thông qua môn TV.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp khảo sát điều tra,
phương pháp phân tích, phương pháp thống kê, phân loại, so sánh và phương pháp thực
nghiệm sư phạm.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu chúng ta dựa trên một cơ sở lí luận khoa học chắc chắn, việc khảo sát thực
trạng được tiến hành chu đáo và đề xuất được những nội dung cũng như biện pháp và quy
trình luyện thích hợp thông qua HTBT khoa học, hấp dẫn và phù hợp với HS đầu cấp TH
thì chắc chắn chất lượng rèn KNNN cho HS đầu cấp TH sẽ được nâng cao, các em sẽ
mạnh dạn và tích cực luyện tập hơn và điều đó giúp các em thực hiện hoạt động nghe -
2
nói có hiệu quả hơn, tạo cho các em sự tự tin, bình tĩnh, chủ động khi nghe - nói trong
học tập và giao tiếp.
6. Đóng góp của luận án
Xác định cơ sở lí luận và thực tiễn cho việc xây dựng nội dung và phương pháp rèn
KNNN cho HS lớp 1 qua môn TV.
Đề tài đã đưa ra những nội dung và biện pháp rèn KNNN cho HS lớp 1, đề tài cũng
đưa ra quy trình tổ chức rèn KNNN như những minh chứng cho quá trình, mà theo chúng
tôi là hợp lí nhất. Đồng thời đề tài còn chỉ rõ định hướng vận dụng vào thực tiễn dạy học
TV hiện nay.
7. Cấu trúc của luận án
- Luận án gồm 150 trang chính văn và 79 trang phụ lục.
- Luận án gồm phần: Mở đầu, nội dung, kết luận chung,tài liệu tham khảo, phụ lục.

3
CH¦¥NG 1
TỔNG QUAN NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ VẤN ĐỀ
RÈN KỸ NĂNG NGHE - NÓI CHO HS ĐẦU BẬC TIỂU HỌC
1.1. Việc nghiên cứu hoạt động nghe - nói và dạy học nghe - nói cho HS đầu cấp TH
ở một số nước trên thế giới
1.1.1. Một số công trình nghiên cứu về rèn kĩ năng nghe - nói
Hiện nay trên thế giới có nhiều nghiên cứu về năng lực sử dụng ngôn ngữ của HS
tiểu học nói chung và vấn đề hình thành kĩ năng nghe - nói cho HS đầu bậc Tiểu học nói
riêng. Sau đây là một số công trình nghiên cứu có đề cập đến vấn đề hình thành và phát
triển kĩ năng nghe - nói cho HS tiểu học: Đầu tiên có thể nói tới quan điểm dạy Tiếng mẹ
đẻ của các nhà khoa học Nga [1, tr.18-38].Trong đó tác giả Phê-đô-ren-cô L.L đã nhấn
mạnh vai trò của lời nói miệng, kĩ năng nghe - nói đã được quan tâm ngay từ giai đoạn
đầu tiên trong quá trình học ngôn ngữ của trẻ. Tác giả V. I. Ca-pi-nôx đã nhấn mạnh
những quan điểm của lí thuyết hoạt động trong lĩnh vực tâm lý học, quan điểm này đã có
những tác động cơ bản tới sự hình thành và phát triển lời nói cho trẻ.
Tiếp theo là một số nghiên cứu của các nhà khoa học Anh: Tác phẩm “Toward an
analysis of discourse” đã cung cấp và mô tả các mô hình hội thoại của GV và HS trong
giờ học; tài liệu “Teaching Speaking and Listening in the Primary School” - 2000 của
nhóm tác giả Elizabeth Grugeon, Lyn Dawers, Carol Smith and Lorraine Hubbard giới
thiệu tổng quan về kĩ năng nghe - nói; Cuốn sách “Curriculum Guidance for the
Foundation Stage” đã đặt sự phát triển và năng lực sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp làm
trung tâm trong hoạt động học tập của trẻ nhỏ; Cuốn sách “National Literacy Strategys:
Framework for Teaching” đặt hai kĩ năng nghe - nói là trọng tâm trong chương trình dạy
chữ. Hai kĩ năng này được coi là một phần thiết yếu của hoạt động học tập của HSTH
mặc dù không được xác định riêng biệt trong khung chương trình; Tài liệu “Speaking,
listening, learning” (2003) đánh giá cao hoạt động trao đổi bằng lời nói và khuyến khích
GV tổ chức nhiều hoạt động này hơn để phát triển khả năng tư duy và phản biện của trẻ
bằng cách dẫn dắt các kiểu nói chuyện hội thoại; Trong “The National Curriculum”
khẳng định thời lượng dành cho việc rèn kĩ năng nghe - nói chiếm 1/3 chương trình học

Tiếng Anh.
Đặc biệt là: Cuốn “Teaching oral language” (Building afirm foundation using
ICPALER in the early pmary year), xuất bản lần đầu tiên năm 2011, tác giả Jonh Munro
(Australian Council for Educational Resesrch) là cuốn rất đáng được chú ý. Trong tác
phẩm này, tác giả không chỉ đưa ra những căn cứ thuyết phục xác định tầm quan trọng
của kĩ năng nghe - nói trong quá trình dạy kĩ năng đọc - viết và quá trình tiếp nhận kiến
thức mà còn đề cập đến vấn đề trọng tâm của ngôn ngữ giao tiếp trong những năm đầu
cấp Tiểu học thông qua mô hình có tên gọi là ICPALER. Mục đích của mô hình nhằm
trang bị cho GV những nội dung cơ bản cũng như cách kiểm soát các kĩ năng nghe - nói
của HS.
Bên cạnh đó, J.A. Foley (2006), “New Dimentions In The Teaching of Oral
Communication”(Anthology series 47 Published by Seameo Regional language Centre).
4
Tài liệu là tập hợp 16 vấn đề đã được lựa chọn để đại diện cho những ý tưởng và quan
điểm về “Những chuẩn mực mới trong giảng dạy giao tiếp”. Các vấn đề trên được chia
làm 3 nhóm: Lý thuyết nền tảng, ứng dụng thực tế và đánh giá giao tiếp. Nhìn chung tài
liệu đã đề cập đến vai trò của kĩ năng nói trong việc học tập một ngôn ngữ, trong đó đặc
biệt quan tâm tới sự phát triển ngôn ngữ của trẻ.
Tài liệu “Developing the primary School Curriculum” của R.J. Campbell (2006)
giúp ta có cái nhìn tổng quan về chương trình phát triển giáo dục ở Tiểu học, bao gồm
các vấn đề: tình hình chính trị, học thuyết về chương trình phát triển giáo dục, vai trò của
giáo viên; cung cấp những kinh nghiệm nghiên cứu về chương trình giáo dục của một số
nước; đưa ra một mô hình nhà trường lí tưởng trong đó nhấn mạnh nhận thức của GV về
vai trò của họ và điều kiện môi trường làm việc của GV Tiểu học. Qua đó, ta có một hình
dung tổng thể về vai trò vấn đề nghiên cứu được đặt trong một hệ thống chung.
Ngoài ra, chúng ta còn có thể kể đến tác giả Wilson, Julie Anne. Tác giả này đã
cung cấp cho chúng ta một cái nhìn chung về chương trình phát triển kĩ năng nghe - nói
cho trẻ đầu bậc Tiểu học thông qua tài liệu “A Program to Develop the listening and
speaking skill of children in a first grade classroom, (Chương trình phát triển kĩ năng
Nghe - Nói cho trẻ đầu bậc Tiểu học), 1997.

1.1.2. Định hướng rèn KNNN ở cấp TH của một số nước trên thế giới
Kĩ năng sử dụng ngôn ngữ bao gồm 4 kĩ năng: Nghe - Nói - Đọc - Viết. Tuy nhiên
việc nghiên cứu về vấn đề phương pháp và cách thức hình thành các kĩ năng, vai trò của
từng kĩ năng và mối tương quan giữa chúng là một trong những vấn đề nghiên cứu được
quan tâm hàng đầu trong chương trình giáo dục Tiểu học ở một số nước trên thế giới.
Nhìn lại các công trình nghiên cứu về vấn đề rèn kĩ năng nghe - nói cho HS tiểu học,
chúng ta thấy được một số quan điểm chính như sau:
- Rèn KNNN theo hướng tiếp cận năng lực.
- Rèn KNNN trong giao tiếp và bằng giao tiếp.
1.2. Việc nghiên cứu và dạy học nghe - nói cho HSTH ở Việt Nam
1.2.1. Những nghiên cứu về việc dạy nghe - nói ở Việt Nam
Chúng tôi xin điểm lại một số tài liệu có liên quan đến liên quan trực tiếp đến vấn đề
nghiên cứu của đề tài:
+ Cuốn sách “Một số vấn đề về dạy hội thoại cho HSTH” của tác giả Nguyễn Trí
đã cung cấp những hiểu biết cơ bản về hội thoại, giới thiệu nội dung chương trình hội
thoại dựa theo chương trình TH ban hành năm 2001 và 2006, giới thiệu các kiểu BT dạy
học kĩ năng nghe nói trong bộ sách giáo khoa Tiếng Việt TH, trong đó có kiểu BT rèn kĩ
năng nghe nói cho HS; Bài viết “Kinh nghiệm dạy học ngôn bản theo phương pháp giao
tiếp ở một số nước” của ông đã bàn về cơ cấu hệ thống chương trình dạy ngôn ngữ viết
và ngôn ngữ nói cho HSTH. Theo tác giả, phương hướng dạy học giao tiếp và để giao
tiếp đã làm thay đổi nhiều mặt của nội dung chương trình dạy tiếng mẹ đẻ của một số
nước trên thế giới.
+ Tác giả Phan Phương Dung trong luận án “Các phương tiện ngôn ngữ biểu hiện
tính lễ phép trong giao tiếp Tiếng Việt” đã tìm hiểu một cách có hệ thống các phương
5
tiện ngôn ngữ biểu thị tính lễ phép và bàn về một số mẫu BT dạy lời nói văn hóa cho
HSTH và HS trung học cơ sở. Trong bài viết “Các phương tiện từ ngữ biểu đạt tính lễ
phép trong giao tiếp và khả năng ứng dụng trong dạy học Tiếng Việt ở TH”, tác giả đã đề
cập cụ thể các phương tiện từ ngữ biểu đạt tính lễ phép trong giao tiếp và việc ứng dụng
từ ngữ biểu đạt tính lễ phép trong giao tiếp và việc ứng dụng từ ngữ biểu đạt tính lễ phép

trong dạy học Tiếng Việt ở TH. Những tài liệu này chính là những căn cứ để chúng tôi
suy nghĩ về phương pháp dạy kĩ năng nghe - nói cho HS đầu cấp Tiểu học nhằm khắc
phục được các lỗi sử dụng trong giao tiếp.
+ Trong cuốn “Hoạt động giao tiếp với dạy học Tiếng Việt ở TH”, hai tác giả Phan
Phương Dung và Đặng Kim Nga đã nghiên cứu đến vấn đề giao tiếp và hoạt động giao
tiếp như: các hình thức giao tiếp, chức năng của giao tiếp, ngôn bản và các nhân tố giao
tiếp, các dạng lời nói và hoạt động giao tiếp, quá trình sản sinh và quá trình tiếp nhận lời
nói trong hoạt động giao tiếp.
+ Tác giả Nguyễn Quang Ninh đã bàn đến việc rèn kĩ năng nói và viết theo hướng
giao tiếp trong hai công trình “Một số vần đề dạy học ngôn bản nói và viết ở TH theo
hướng giao tiếp” và “Rèn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt”. Tác giả nhấn mạnh vấn đề hội
thoại theo hướng giao tiếp.
+ Với đề tài “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả rèn kĩ năng nói cho HSTH ở môn
Tiếng Việt”, tác giả Trần Thị Hiền Lương đã xác định được biện pháp dạy học rèn kĩ
năng nói cho HS xuất phát từ đặc điểm lứa tuổi HSTH, từ lý luận dạy học hiện đại, theo
hướng tăng cường thực hành, luyện tập. Trong đề tài này tác đã đưa ra các biện pháp rèn
kĩ năng nói như rèn kĩ năng phát âm, rèn kĩ năng nói độc thoại, nói hội thoại trong đó có
kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho HSTH.
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu của các tác giả kể trên đã bàn đến mục tiêu,
nội dung, biện pháp phát triển kĩ năng nghe - nói hoặc rèn kĩ năng sử dụng kĩ năng nghe -
nói cho HS song các vấn đề trên mới chỉ được nói một cách khái quát mà chưa được đặt
thành một vấn đề lớn. Các phương pháp tăng cường hiệu quả rèn kĩ năng nghe nói cho
HSTH gắn với chương trình và sách giáo khoa hiện nay vẫn chưa được nghiên cứu một
cách sâu sắc và triệt để. Do vậy nghiên cứu nội dung để tìm biện pháp nâng cao hiệu quả
kĩ năng sử dụng kĩ năng nghe - nói cho HS đầu cấp TH là một việc làm cần thiết, nhằm
hỗ trợ cho GV trong quá trình dạy học Tiếng Việt theo định hướng giao tiếp.
1.2.2. Một số quan điểm về việc rèn kĩ năng thông qua môn TV trong trường TH
1.2.2.1. Quan điểm về việc rèn KNNN trong môn TV ở trường TH Việt Nam trước
năm 2000
Quan niệm về dạy TV chưa đầy đủ, chưa làm rõ được việc dạy TV nhằm mục đích

chính là dạy sử dụng TV trong giao tiếp, chương trình TV chưa quan tâm tới yếu tố văn
hoá truyền thống của dân tộc để dạy văn hoá ứng xử trong giao tiếp.
Chương trình TV ở TH trước năm 2000 coi nhẹ việc rèn các kĩ năng nghe và kĩ
năng nói TV. Hầu như các chương trình đều chưa quan tâm tới việc dạy TV trong hội
thoại và nâng cao năng lực giao tiếp trong hội thoại cho HS. Việc hình thành kĩ năng giao
6
tiếp chỉ được hình thành một cách tự phát trong quá trình học TV tại nhà trường cũng
như trong đời sống hàng ngày của HS.
Các phương pháp dạy học theo quan điểm giao tiếp chưa được sử dụng trong dạy và
học TV. Việc luyện tập các kĩ năng chưa được đảm bảo độ thành thạo, thuần thục nên đã
hạn chế đến kết quả học TV nói chung.
1.2.2.2. Quan điểm về việc rèn KNNN trong môn TV ở trường TH Việt Nam những năm
gần đây
Chương trình TV năm 2000 được biên soạn dựa trên những định hướng: Dạy tiếng
Việt thông qua hoạt động giao tiếp; tận dụng những kinh nghiệm sử dụng tiếng Việt của
HS; vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy tiếng Việt; kết hợp dạy tiếng Việt với dạy
Văn hoá và dạy Văn. Từ những định hướng trên, chương trình Tiếng Việt 2000 đã xác
định mục tiêu môn học thông qua 3 lĩnh vực: kĩ năng, kiến thức và thái độ. Đặc biệt
chương trình coi việc hình thành kĩ năng như một trong những yếu tố quan trọng hàng
đầu trong việc dạy tiếng ở tiểu học và khẳng định việc dạy Tiếng Việt là dạy HS sử dụng
Tiếng Việt hiện đại để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động phù hợp với
lứa tuổi.
1.2.2.3. Chương trình TV của Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ Giáo dục
Chương trình được xây dựng trên quan điểm lựa chọn khoa học ngôn ngữ về
Tiếng Việt hiện đại làm tiền đề và diễn đạt nó dưới hình thức một môn học theo nguyên
tắc mới: Nguyên tắc phát triển, nguyên tắc chuẩn mực, nguyên tắc tối thiểu. Dựa vào
những nguyên tắc trên, chương trình TV Công nghệ Giáo dục đã xác định một quy trình
dạy học tường minh. Thông qua hệ thống việc làm, HS chiếm lĩnh được tri thức khoa học
cùng với các kĩ năng tương ứng.


7
CHƯƠNG II
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
LUYỆN KNNN CHO HỌC SINH LỚP 1
2.1. Một số vấn đề chung
2.1.1. Kĩ năng sử dụng ngôn ngữ
2.1.1.1. Các kĩ năng ngôn ngữ
Để sử dụng bất cứ ngôn ngữ nào bên cạnh việc có tri thức ngôn ngữ cần phải có bốn
loại kĩ năng căn bản là nghe - nói - đọc - viết. Cả bốn kĩ năng trên đều có mối quan hệ
tương tác chặt chẽ với nhau. Mục tiêu của môn Tiếng Việt bậc tiểu học nói chung và môn
Tiếng Việt lớp 1 nói riêng là hình thành cho HS cả bốn kĩ năng trên. Trong đó, kĩ năng
nghe - nói là kĩ năng được hình thành ngay từ ban đầu, làm cơ sở để HS hình thành và
phát triển tốt các kĩ năng còn lại.
2.1.1.2. Sự khác nhau giữa ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói
Về mặt từ vựng: ngôn ngữ dạng nói thường ở dạng tỉnh lược, ngắn gọn hơn ngôn
ngữ dạng viết nhưng lại thường không gọt giũa, hàm súc bằng ngôn ngữ dạng viết. Về
mặt ngữ pháp: cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ nói miệng thường rắc rối, biến hóa hơn
cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ viết. Về những yếu tố ngoài ngôn ngữ: ngôn ngữ dạng
viết không tận dụng được các yếu tố kèm ngôn ngữ (ngữ điệu, giọng điệu, vẻ mặt, ánh
mắt, cử chỉ, điệu bộ ) như ngôn ngữ dạng nói. Như vậy, ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết
khác nhau về cách thức tạo ra và tiếp nhận lời nói.
Việc dạy ngôn ngữ nói cùng với giao tiếp bằng ngôn ngữ nói (cùng thầy cô, bạn bè
trong học tập, với người thành thạo ngôn ngữ…) cung cấp cho HS kinh nghiệm trong
những cấu trúc cú pháp mới, các nghi thức lời nói mới, phát triển cách thức mới trong
việc thể hiện và liên kết các ý tưởng.
2.1.1.3. Rèn kĩ năng sử dụng ngôn ngữ nói trong mối quan hệ với ngôn ngữ viết
Trong dạy và học ngôn ngữ, nếu có KNNN tốt sẽ chuẩn bị cho việc học viết được
dễ dàng hơn. Hình thức viết xuất hiện như là hình thức ghi lại lời nói miệng, đã nhanh
chóng trở thành một dạng ngôn ngữ đặc biệt không chỉ có những đặc trưng hình thức mà
cả những đặc trưng ngữ nghĩa. Hình thức giao tiếp bằng lời và giao tiếp bằng chữ có mối

liên hệ mật thiết và tác động qua lại với nhau.
2.1.2. Các giai đoạn hình thành, phát triển kĩ năng và sự phát triển ngôn ngữ của
HS lớp 1
2.1.2.1. Các giai đoạn hình thành kĩ năng nghe - nói
- Giai đoạn 1: Khi đứa trẻ mới sinh ra (1-2 tuổi), chưa có ý thức về kĩ năng. Chúng
thường hướng về phía phát ra tiếng nói, lắng nghe ngôn ngữ nói (bắt đầu chú ý đến âm
thanh lời nói).
- Giai đoạn 2: Từ 2,5 tuổi- 5 tuổi, trẻ bắt đầu học các kĩ năng theo nhu cầu của trẻ
bằng 3 cách là: bắt chước, đóng vai, độc thoại. Trẻ biết quan sát sự liên kết giữa âm thanh
của lời nói với sự vật, màu sắc (bắt đầu hiểu nghĩa của từ).
8
- Giai đoạn 3: Là giai đoạn trẻ em học ở bậc tiểu học, trẻ hình thành kĩ năng một cách
có ý thức. Trẻ lắng nghe và ghi nhớ tất cả các từ ngữ/ câu nói được lặp đi lặp lại nhiều lần
hàng ngày (bắt đầu nhập tâm/thu nạp vốn từ)
- Giai đoạn 4: Sau đó là thời kì kĩ năng thuần thục trở thành kĩ xảo. Trẻ thực hành nói
bằng mô phỏng âm thanh lời nói nghe thấy (bắt đầu nói thụ động, nói bắt chước).
- Giai đoạn 5: Giao tiếp bằng tiếng nói trong cộng đồng ngôn ngữ (nói chủ động).
2.1.2.2. Sự phát triển ngôn ngữ của HS lớp 1
Ở giai đoạn lớp 1, ngôn ngữ của các em tăng lên nhanh, cú pháp được phát triển,
trình bày ngắn gọn, rõ ràng vấn đề do tiếp xúc với các khái niệm mang tính khoa học và
yêu cầu của hoạt động học tập, của hoạt động trí tuệ. Nhà trường TH trở thành môi
trường giáo dục tốt nhất hướng dẫn trẻ phát triển vốn từ, học các cấu trúc chính xác của
tiếng mẹ đẻ, mở mang hiểu biết, hoàn thiện nhân cách. Để phát triển ngôn ngữ của trẻ,
GV cần có ý thức luyện ngôn ngữ nói cho HS (chủ yếu là ngôn ngữ đối thoại) trong giao
tiếp.
Việc học TV nói chung và việc rèn KNNN ở đầu bậcTH nói riêng cần dựa trên nền
tảng vốn sống, kinh nghiệm sử dụng ngôn ngữ của trẻ để tiếp tục phát huy năng lực ngôn
ngữ, năng lực tư duy bằng ngôn ngữ của các em. Việc tìm ra những biện pháp và hình
thức tổ chức phù hợp để phát triển kĩ năng ngôn ngữ cho HSTH là trọng trách của các
nhà nghiên cứu giáo dục.

2.1.3. Hoạt động nghe - nói
2.1.3.1. Bản chất của hoạt động nghe - nói
Giao tiếp bằng ngôn ngữ là một nhu cầu tất yếu của xã hội loài người. Nghe là hoạt
động lĩnh hội, tiếp nhận thông tin, xử lí âm thanh tác động đến thính giác của con người.
Nói cũng là một loại hoạt động diễn ra thường xuyên của con người. Đây là hoạt động
chuyển nội dung suy nghĩ, nội dung thông báo của người nói vốn thuộc lĩnh vực tinh thần
sang dạng vật chất, dạng mã hóa ngôn ngữ.
2.1.3.2. Vai trò của hoạt động nghe - nói
Trong nhà trường, nghe - nói có vai trò như một công cụ giao tiếp nhằm phát triển
tư duy và tạo điều kiện cho việc học tập. Nghe - nói trong nhà trường là 2 hoạt động được
nâng lên thành kĩ năng, được thầy cô hướng dẫn. Hoạt động này thực sự quan trọng trong
việc giúp HS có thể thực hiện các hoạt động giao tiếp thông thường diễn ra được tốt hơn,
góp phần hoàn thiện các kĩ năng thực hành TV, năng lực tư duy và nhận thức cho HS.
2.1.3.3. Một số hình thức nghe - nói
Trong khuôn khổ nghiên cứu của mình đề tài chỉ quan tâm đến hai hình thức nghe là
nghe trong hội thoại và nghe hiểu văn bản; hai hình thức nói là nói trong hội thoại và nói
thành bài.
2.2. Các lý thuyết vận dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài
2.2.1. Lí thuyết hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
Nghe - nói là một hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Bản chất của hoạt động giao
tiếp bằng ngôn ngữ trước hết là một hoạt động xã hội, qua giao tiếp mỗi cá nhân bộc lộ
những tư tưởng, tình cảm và những điều được nói tới. Đặc biệt, hoạt động giao tiếp
9
không chỉ là một hoạt động có cơ cấu, gồm nhiều cấp độ khác nhau mà hoạt động giao
tiếp còn có đối tượng cụ thể. Trong quá trình tác động lên đối tượng nó làm thay đổi đối
tượng, cải biến đối tượng.
Để thực hiện được chức năng, mỗi cuộc giao tiếp đều gồm hai loại hoạt động: hoạt
động tạo lập (hoặc sản sinh) lời nói, hoạt động tiếp nhận (hoặc lĩnh hội) lời nói . Hoạt
động giao tiếp bị chi phối bởi các nhân tố giao tiếp: mục đích giao tiếp, nhân vật giao
tiếp, nội dung giao tiếp, cách thức giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp.

Giao tiếp có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống. Con người dùng ngôn ngữ
để trao đổi với nhau những thông tin hàng ngày, để tạo lập và duy trì mối quan hệ với
nhau, giúp con người nghỉ ngơi, giải trí sau giờ làm việc mệt mỏi. Vì thế việc rèn kĩ năng
nghe - nói cho các em theo định hướng giao tiếp là một hướng đi thiết thực.
Vận dụng lí thuyết giao tiếp vào việc rèn KNNN cho HS lớp 1 được xem xét từ các
bình diện ngữ âm, từ vựng và cú pháp. HS luyện phát âm đúng, sử dụng từ vốn từ, tạo lập
và diễn đạt câu đúng. Thông qua hoạt động giao tiếp, các em được rèn kĩ năng sử dụng
ngôn ngữ nói chung và kĩ năng nghe - nói nói riêng, tạo điều kiện cho các em tự bộc lộ và
thể hiện mình trong cuộc sống.
2.2.2. Lý thuyết hội thoại
Hội thoại là hoạt động giao tiếp bằng lời nói giữa các nhân vật tham dự giao tiếp
nhằm trao đổi những thông tin hoặc tư tưởng, tình cảm theo một mục đích đã đặt ra.
Dựa vào nhân vật giao tiếp người ta chia thành hai kiểu: đơn thoại và đa thoại. Dựa
vào hoàn cảnh giao tiếp hẹp diễn ra hội thoại người ta chia thành hai kiểu: hội thoại có
tính chất nghi thức chính thức mang tính quy phạm, hội thoại không mang tính nghi thức.
Ngoài ra, ta có thể có các kiểu hội thoại bắt buộc và hội thoại tự do .
Các vận động hội thoại gồm vận động trao lời, vận động đáp lời, vận động tương
tác. Các quy tắc hội thoại gồm quy tắc thương lượng hội thoại, quy tắc luân phiện lượt
lời, quy tắc liên kết hội thoại, quy tắc tôn trọng thể hiện của nhau, quy tắc cộng tác hội
thoại.
Để vận dụng lý thuyết hội thoại vào việc rèn luyện nghe - nói cho HS lớp 1đạt kết
quả tốt, GV cần xác định các nhân tố tham gia hội thoại, phải tạo được nhu cầu tham gia
hội thoại cho HS, phải tạo được môi trường giao tiếp tốt, phải tạo được tâm thế cho HS
trong quá trình giao tiếp.
2.2.3. Lí thuyết Tâm lí học hoạt động
Tìm hiểu và rèn kĩ năng nghe - nói là tìm hiểu và rèn kĩ năng về một loại hoạt động.
Nhưng nghe - nói không phải là loại hoạt động cơ bắp mà là hoạt động của tinh thần, của
sự nhận thức, sự lĩnh hội. Hoạt động này chịu sự điều khiển, chi phối và theo đúng quy
luật của tư duy trong quá trình tạo lập và tiếp nhận lời nói. Lí thuyết hoạt động của nhà
tâm lý học A.N Lêônchiep giúp ta hình dung một cách rõ ràng hơn quy trình thực hiện

việc sử dụng ngôn ngữ mang tính cụ thể như kĩ năng nghe - nói -đọc - viết. Vận dụng
quy trình hoạt động này vào việc phân tích cấu trúc của hoạt động lời nói và việc rèn kĩ
năng nghe - nói cho học sinh.
2.3. Cơ sở thực tiễn
10
2.3.1. Một số vấn đề về SGK TV lớp 1 hiện hành
Môn TV đối với giáo dục TH không chỉ là môn học mà còn là một môn công cụ.
HSTH chiếm lĩnh các tri thức của môn học TV và sử dụng những tri thức đó như một
công cụ để học tập các môn học khác đồng thời để giao tiếp với bạn bè, thầy cô và những
người thân xung quanh các em. Chương trình còn đề cao việc luyện 4 kĩ năng tương ứng:
nghe - nói - đọc - viết
Nội dung rèn KNNN trong môn TV cấp TH tập trung vào hai dạng hội thoại: đối
thoại và độc thoại, tương ứng với hai nội dung là hình thức nghe - nói trong hội thoại, nói
thành bài.
Hình thức tổ chức rèn KNNN cho HS lớp 1 là thông qua mẫu, trả lời câu hỏi theo
chủ đề có tranh minh họa, HS biết đặt và trả lời câu hỏi về lựa chọn đối tượng, thông qua
tình huống và mục đích cho trước.
2.3.2. HTBT rèn KNNN trong SGK TV lớp 1 hiện hành
2.3.2.1. Mục đích, cách thức và tiêu chí phân loại HTBT
- Mục đích của đề tài tiến hành khảo sát những yêu cầu cơ bản, nội dung, chuẩn
KNNN thông qua toàn bộ chương trình và đặc biệt là hệ thống các bài tập rèn KNNN
trong SGK TV 1 hiện hành để tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu của HTBT. Trên cơ sở
đó, chúng tôi đề xuất nội dung và cách thức tổ chức rèn KNNN cho HS lớp 1 thông qua
môn TV.
- Cách thức khảo sát được HTBT trong SGK TV TH lớp 1 thực hiện như sau:
Bước 1: Xây dựng tiêu chí phân loại các bài tập
Bước 2: Xác định căn cứ đánh giá các bài tập
Bước 3: Thống kê, xử lí số liệu và đưa ra nhận xét đánh giá chính xác, khách quan
về HTBT trong chương trình TV hiện hành.
- Tiêu chí phân loại:

+ Căn cứ về kĩ năng cần rèn luyện
+ Căn cứ vào mục đích của bài tập
+ Căn cứ vào yêu cầu và nội dung của bài tập
2.3.2.2. Phân loại bài tập rèn KNNN cho HS lớp 1 trong SGK TV hiện hành
- Nhóm bài tập luyện nói trong phân Học Vần
- Nhóm bài tập luyện nói trong phần luyện tập tổng hợp
2.3.2.3. Nhận xét, đánh giá chung
a) Điểm mạnh: Quan tâm tới việc rèn kĩ năng sử dụng TV cho HS bên cạnh việc
cung cấp kiến thức. Mức độ yêu cầu và hình thức thể hiện của HTBT rèn KNNN cho HS
đi từ đơn giản đến phức tạp. Nội dung của các bài học trong các phân môn đã quan tâm
tới vấn đề luyện tập và thực hành các kĩ năng ngôn ngữ nghe - nói - đọc - viết, gắn với
các chủ điểm bài học giúp HS thuận lợi hơn trong việc sử dụng từ ngữ, diễn đạt câu.
b) Điểm hạn chế: Việc lựa chọn chủ đề, cân đối số lượng các bài tập và tổ chức hình
thức luyện tập phù hợp là vấn đề cần bàn thêm. Cần làm rõ hơn quy trình tổ chức hoạt
động rèn KNNN, cụ thể hóa việc làm thành các hoạt động nhỏ dễ thực hiện, hướng dẫn
11
cách vận dụng các biện pháp tổ chức nội dung luyện nghe nói phù hợp với tâm lí nhận
thức và tạo hứng thú hiệu quả đối với HS lớp 1.
2.3.3. Thực trạng của việc rèn KNNN cho HS lớp 1 trong hiện nay
Về phía GV: Đa số GV không quan tâm nhiều đến vấn đề rèn kĩ năng nghe - nói
cho HS. Lý do chủ yếu khiến GV không thích bởi vì lượng thời gian dành cho việc rèn kĩ
năng nghe - nói chưa hợp lý. GV thường bị phụ thuộc vào những câu hỏi gợi ý trong
SGK và yêu cầu HS phải tự chuẩn bị trước. GV cũng có tâm lý ngại chuẩn bị đồ dùng
học tập, chưa chủ động vận dụng những phương pháp dạy học tích cực hóa vai trò của
HS trong hoạt động, chưa hấp dẫn được sự chú ý của HS đầu bậc Tiểu học. Những khó
khăn mà GV gặp phải vẫn là vấn đề về cách thức, quy trình tổ chức dạy học. Khi bàn về
vấn đề này, GV mong muốn được hỗ trợ về phương pháp dạy học và nội dung rèn kĩ
năng thông qua HTBT thực hành.
Về phía HS: Kết quả điều tra, khảo sát thăm dò qua Hồ sơ ngôn ngữ cho thấy số HS
đạt yêu cầu về năng lực sử dụng ngôn ngữ chiếm tỷ lệ tương đối cao. Số HS gặp khó

khăn trong việc HT&PT KNNN cũng đáng lưu ý: về từ vựng (27,9 %); về diễn đạt câu
(41%) thường nói các câu ngắn, sử dụng sai các phụ từ, đại từ, nói sai trật tự các từ các từ
trong các câu… Đồng thời trong quá trình tiếp nhận quy ước câu, HS chỉ hiểu được
những câu ngắn, khó khăn khi sử dụng các câu có dùng từ liên kết, không nhận ra các câu
sai ngữ pháp…; về nghĩa: một số HS chỉ nói được câu miêu tả một sự kiện nếu nói câu
bằng nhiều sự kiện, ý của câu phức tạp hơn thì đa số các em được khảo sát gặp khó khăn.
Ngược lại khi tiếp nhận cũng chỉ dễ dàng khi nghe các câu đơn miêu tả một sự kiện với
câu miêu tả từ 2 sự kiện trở lên là HS sử dụng ít hơn rất nhiều.
Tóm lại:
Giao tiếp ngôn ngữ là một hoạt động đặc thù và quan trọng nhất của con người.
Một trong những mục tiêu cơ bản của việc rèn KNNN ở nhà trường phổ thông là hình
thành và phát triển năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ - năng lực hoạt động lời nói cho
HS, bao gồm năng lực lĩnh hội lời nói (nghe) và năng lực sản sinh lời nói (nói).
Ý thức được vai trò của kĩ năng nghe - nói trong dạy học Tiếng Việt sẽ giúp HS ý
thức được kĩ năng nghe - nói trong giao tiếp và rèn luyện thành thục các kĩ năng đó. Điều
này có nghĩa là năng lực ngôn ngữ phải được hình thành cùng với việc rèn kĩ năng giao
tiếp.
Để rèn KNNN có hiệu quả cho HS lớp 1, chúng ta không chỉ xem xét KNNN trong
mối quan hệ với hệ thống các kĩ năng mà chúng ta còn phải kết hợp với những hình thức
tổ chức và biện pháp dạy học phù hợp với từng nội dung rèn kĩ năng, với tâm lí nhận
thức lứa tuổi.

12
CHƯƠNG 3
TỔ CHỨC RÈN KĨ NĂNG NGHE - NÓI
CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN TIẾNG VIỆT
3.1. Mục tiêu và nội dung rèn kĩ năng nghe - nói cho HS lớp 1
3.1.1. Mục tiêu
- Giúp HS phát âm đúng các âm - vần, các tiếng của tiếng Việt.
- Giúp HS biết tạo câu, liên kết câu để diễn đạt ý.

3.1.2. Nội dung rèn KNNN cho HS lớp 1
Tinh thần rèn KNNN cho HS lớp 1 được thể hiện theo mô hình sau:

Tiết 1

Tiết 100
a) Luyện phát âm
Phần luyện phát âm đối với HS lớp 1 là hết sức cần thiết, nó là nền tảng, là nấc
thang đầu tiên trong việc luyện nghe - nói cho các em. Phần luyện phát âm gồm 2 nội
dung chính: Luyện âm và thanh, luyện vần
Mục đích của phần này giúp HS phát âm chính xác các nguyên âm, phụ âm, phân
biệt các nguyên âm đơn và nguyên âm đôi, phân biệt các phụ âm đầu, các cặp phụ âm
cuối. Trên cơ sở đó, học sinh được luyện cách ghép vần và luyện cách phát âm các âm
vần khó. Đặc biệt, việc luyện các âm vần khó được đưa vào ứng dụng trong tiếng, từ và
câu.
b) Luyện giao tiếp
Phần luyện giao tiếp có 2 hình thức cơ bản là: rèn kĩ năng nghe - nói thông qua tình
huống giao tiếp, rèn kĩ năng nghe - nói thông qua chủ đề.
Thông qua phần luyện nghe nói trong hoạt động giao tiếp, HS được thực hành đồng
thời các tình huống giao tiếp có thật, chủ đề gần gũi với môi trường giao tiếp của các em.
Các em được sử dụng các kĩ năng nghe - nói của mình vào việc dùng từ, diễn đạt câu,
vào trong từng tình huống của nghi thức lời nói, nhằm nâng cao năng lực sử dụng ngôn
ngữ qua các hoạt động giao tiếp.
3.2. HTBT và cách thức tổ chức rèn kĩ năng nghe - nói
3.2.1. Nguyên tắc xây dựng hệ thống bài tập
HTBT được xây dựng trên 5 nguyên tắc cơ bản là: đảm bảo tính mục tiêu, tính
chuẩn mực của ngôn ngữ, tính tối ưu, tính hệ thống và tính phát triển.
3.2.2. Hệ thống bài tập rèn kĩ năng nghe - nói
Đề tài đề xuất một HTBT nhằm hỗ trợ thêm cho GV trong quá trình thực hành rèn
kĩ năng nghe - nói. Điều đặc biệt ở HTBT này là ở việc không chỉ thể hiện ở nội dung BT

13
Luyện phát âm
(giảm dần)

Luyện giao tiếp
(tăng dần)
hay quy trình tổ chức cho HS rèn kĩ năng nghe nói mà còn là việc giới thiệu các biện
pháp rèn kĩ năng cho HS lớp 1. Như vậy, biện pháp không chỉ được đề cập đến như một
giải pháp tăng hiệu quả rèn kĩ năng nghe – nói, mà biện pháp rèn KNNN được tham gia
với vai trò là một trong ba thành tố cốt lõi làm nên HTBT rèn kĩ năng nghe - nói cho HS
lớp 1. Nói cách khác giá trị của HTBT mà đề tài đề xuất được tạo bởi 3 yếu tố cơ bản đó
là: nội dung, quy trình thực hiện và biện pháp tổ chức.
Chúng tôi xây dựng HTBT gồm hai nhóm như sau:
Nhóm 1: BT rèn kĩ năng nghe - nói qua phát âm
 Loại 1: BT rèn luyện kĩ năng phát âm âm và thanh (dấu)
 Loại 2: BT rèn kĩ năng phát âm các loại vần
Nhóm 2: BT rèn kĩ năng nghe - nói qua hoạt động giao tiếp
 Loại 1: BT rèn kĩ năng nghe - nói trong việc dùng từ
 Loại 2: BT rèn kĩ năng nghe - nói trong việc đặt câu
 Loại 3: BT rèn kĩ năng nghe - nói trong tình huống giao tiếp
3.2.3. Mô tả hệ thống bài tập và tổ chức luyện tập
NHÓM 1: BÀI TẬP RÈN LUYỆN KNNN QUA PHÁT ÂM
A. HỆ THỐNG BÀI TẬP
Kế thừa những kết quả nghiên cứu về lý thuyết Công nghệ giáo dục của Hồ Ngọc
đại, đề tài đã vận dụng quy trình dạy âm/ vần Tiếng Việt vào việc xây dựng HTBT rèn kĩ
KNNN cho HS lớp 1. HTBT này nhằm mục đích thông qua quá trình tách (phân giải,
phân tích) tiếng ra thành 2 phần (ví dụ tiếng: ba), HS nhận ra đặc điểm ngữ âm của mỗi
phần trong tiếng /ba/: âm /b/ - phụ âm, âm /a/ - nguyên âm; nhận ra hai loại âm: nguyên
âm/phụ âm; trên cơ sở đó, HS biết cách phát âm nguyên âm, phụ âm và nhận biết được
các nguyên âm và phụ âm còn lại. Trong nhóm BT này, HS sẽ được luyện:

- Cách phát âm các nguyên âm: nguyên âm đơn và nguyên âm đôi, bán nguyên âm.
- Cách phát âm các phụ âm: phụ âm đầu dễ lẫn, phụ âm cuối, các cặp phụ âm cuối
thường đi liền với nhau.
- Cách phát âm các dấu thanh, đặc biệt luyện phát âm các cặp dấu thanh dễ lẫn nhằm
xử lí những đặc trưng phát âm theo vùng miền.
- Cách phát âm các vần khó, tiếng khó, phân biệt chính tả trong quá trình đọc tiếng,
từ, câu ứng dụng.
Trên cơ sở vững chắc của kĩ năng nghe rõ và phát âm chính xác, HS có kĩ năng
nghe, nhắc lại tiếng, phân tích tiếng (bằng phát âm), HS có thể viết và đọc lại một cách
tự nhiên, không cần cố gắng. Dựa vào đặc điểm cấu trúc ngữ âm của tiếng Việt, chúng tôi
chia nhóm BT này thành 2 loại, trong mỗi loại, chúng tôi lại chia BT ra thành các kiểu
khác nhau, cụ thể:
 Loại 1: BT rèn kĩ năng phát âm các loại âm và thanh (dấu)
 Kiểu 1: BT phát âm phân biệt nguyên âm
 Kiểu 2: BT phát âm phân biệt phụ âm
 Kiểu 3: BT phát âm phân biệt dấu thanh
14
 Loại 2: BT rèn kĩ năng phát âm các loại vần
 Kiểu 1: BT phát âm vần chỉ có âm chính
 Kiểu 2: BT phát âm vần chỉ có âm chính, âm cuối
 Kiểu 3: BT phát âm vần chỉ có âm đệm, âm chính
 Kiểu 4: BT phát âm vần chỉ có âm đệm, âm chính, âm cuối
B. TỔ CHỨC LUYỆN TẬP
(Phần này có đĩa hình minh họa kèm theo)
 Loại 1: BT rèn kĩ năng phát âm các loại âm và thanh (dấu)
 Kiểu 1: Phát âm nguyên âm
 Quy trình
B1. Cách phát âm /a/.
B2. Nhận diện đặc điểm âm /a/
B3. Nhận ra các nguyên âm khác.

 Bài tập minh họa
BT 1: Phân biệt nguyên âm đơn i/ê
BT 2: Phân biệt nguyên âm đôi
 Kiểu 2: Phát âm phụ âm
 Quy trình
B1. Học cách phát âm /b/
B2. Nhận diện đặc điểm âm /b/
B3. Nhận ra các phụ âm khác
 Bài tập minh họa
BT1: Phát âm phân biệt phụ âm đầu
BT2: Phát âm phân biệt phụ âm cuối
BT 3: Phát âm phân biệt bán âm cuối
Kiểu 3: BT phát âm phân biệt dấu thanh
 Quy trình
• Phát âm tiếng thanh ngang
B1. Phát âm tiếng thanh ngang /ba/
B2. Phân tích tiếng thanh ngang /ba/
• Phát âm tiếng có thanh /bà/
B1. Phát âm tiếng có thanh /bà/
B2. Phân tích tiếng có thanh
B3. Luyện tập thêm với các thanh: /bà/, /bá/, /bả/, /bã/, /bạ/
 Bài tập minh họa
BT 1: Phát âm đúng: thanh ngã và thanh hỏi
BT 2: Phát âm đúng: thanh sắc và thanh ngã
 Loại 2: BT rèn kĩ năng phát âm các loại vần
Kiểu 1: BT phát âm vần chỉ có âm chính
15
ba

âm đệm

l o a

âm chínhâm đầu
 Quy trình
B1. Giới thiệu tiếng: /ba/
B2. Phân tích tiếng
B3.Viết mô hình tiếng
B4. Tìm tiếng mới
 Bài tập minh họa
BT 1: Dựa vào mẫu vần chỉ có âm chính, em hãy thay âm đầu để tạo tiếng mới.
BT 2: Dựa vào mẫu vần chỉ có âm chính, em hãy thay âm chính để tạo tiếng mới.
Kiểu 2: BT phát âm vần chỉ có âm đệm, âm chính
 Quy trình
B1. Phát âm tiếng: /loa/
B2. Phân tích tiếng
B3. Đưa tiếng /loa/ vào mô hình
B4. Tìm tiếng mới
 Bài tập minh họa
Dựa vào mẫu vần có âm đệm, âm chính /loa/, em thay âm đầu để tìm tiếng mới.
Kiểu 3: BT phát âm vần chỉ có âm chính, âm cuối
 Quy trình
B1. Phát âm tiếng mẫu: /lan/
B2. Phân tích tiếng
B3. Vẽ mô hình vần /an/
B4. Tìm tiếng có vần /an/
 Bài tập minh họa
BT 1: Dựa vào mẫu vần có âm chính và âm cuối trong tiếng /nan/, em thay âm đầu
để tìm tiếng mới.
BT 2: Dựa vào mẫu vần có âm chính và âm cuối trong tiếng /nan/, em thay âm
cuối /n/ bằng âm cuối /t/ để tìm tiếng mới.

Kiểu 4: BT phát âm vần chỉ có âm đệm, âm chính, âm cuối
 Quy trình
B1. Phát âm làm tròn môi vần /an/: /an/ → /o/ - /an/ - /oan/
B2. Phân tích vần /oan/: /oan/ → /o/ - /an/ - /oan/
B3. Vẽ mô hình tiếng /loan/:
B4. Tìm tiếng có vần /oan/
 Bài tập minh họa
Dựa vào mẫu vần có âm đệm, âm chính, âm cuối /oan/, em hãy làm tương tự với
vần /oat/
NHÓM 2: BT RÈN LUYỆN KNNN QUA HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP
A. HỆ THỐNG BÀI TẬP
Nhóm bài tập rèn kĩ năng nghe - nói cho HS tiểu học qua hoạt động giao tiếp có thể
chia thành 3 loại:
16
b a
l o a n
1. Loại BT rèn kĩ năng nghe - nói trong việc dùng từ
Kiểu 1: BT nghe nói và phát triển từ thông qua sơ đồ tư duy
Kiểu 2: BT nghe nói và phát triển từ thông qua trò chơi học tập
Kiểu 3: BT nghe nói và phát triển từ thông qua từ đồng nghĩa
2. Loại BT rèn kĩ năng nghe - nói qua việc đặt câu
Kiểu 1: BT nghe hiểu và diễn đạt câu theo mẫu
Kiểu 2: BT nghe hiểu và diễn đạt câu thông qua đặt câu hỏi và trả lời
Kiểu 3: BT nghe hiểu và diễn đạt câu thông qua kênh hình
3. Loại BT rèn kĩ năng nghe - nói qua tình huống giao tiếp
Kiểu 1: BT rèn kĩ năng nghe - nói thông qua đàm thoại
Kiểu 2: BT rèn kĩ năng nghe - nói thông qua đóng vai
Kiểu 3: BT rèn kĩ năng nghe - nói thông qua thảo luận
Kiểu 4: BT rèn kĩ năng nghe - nói qua câu chuyện được nghe kể
Thông qua hệ thống bài tập trên, chúng ta thấy được các biện pháp rèn KNNN phù

hợp với tâm lí nhận thức của HS lớp 1 (VD: sử dụng mẫu, sử dụng sơ đồ tư duy, sử dụng
kênh hình, tổ chức trò chơi, đàm thoại, đóng vai, kể chuyện, thảo luận…). Các biện pháp
này được vận dụng một cách linh hoạt, khéo léo và có hiệu quả trong quá trình tổ chức
rèn kĩ năng.
B. TỔ CHỨC LUYỆN TẬP
(Phần này có thiết kế minh họa kèm theo trong phụ lục)
1. Loại BT rèn kĩ năng nghe - nói trong việc dùng từ
 Quy trình
- Bước 1: Nghe và quan sát
- Bước 2: Lựa chọn, phân loại, suy đoán, liên kết…thông qua các hình thức đàm
thoại, sơ đồ tư duy, trò chơi học tập …
- Bước 3: Thực hiện luyện nói từ, câu chứa từ
 Minh họa
Kiểu 1: Rèn kĩ năng nghe nói và phát triển từ qua sơ đồ tư duy
Kiểu 2: Rèn kĩ năng nghe nói và phát triển từ qua trò chơi học tập
Kiểu 3: Rèn kĩ năng nghe - nói và phát triển từ thông qua từ đồng nghĩa
2. Loại BT rèn kĩ năng nghe - nói qua việc đặt câu
 Quy trình
- Bước 1: Tiếp cận ngữ liệu mẫu
- Bước 2: Phân tích ngữ liệu
- Bước 3: Vận dụng
- Bước 4: Nhận xét, đánh giá
 Minh họa
Kiểu 1: Rèn kĩ năng nghe - nói câu theo mẫu
Kiểu 2: Rèn kĩ năng nghe hiểu và diễn đạt câu thông qua đặt câu hỏi và trả lời
Kiểu 3: Rèn kĩ năng nghe hiểu và diễn đạt câu thông qua kênh hình
17
3. Loại BT rèn kĩ năng nghe - nói qua các tình huống giao tiếp
 Kiểu 1: BT rèn kĩ năng nghe - nói thông qua hoạt động đàm thoại
 Quy trình

- Bước 1: HS quan sát tranh
- Bước 2: HS đàm thoại
- Bước 3: HS nói thành câu, thành bài
- Bước 4: Nhận xét, động viên
 Bài tập minh họa: Bức tranh: quét nhà.
 Kiểu 2: BT rèn kĩ năng nghe - nói qua hoạt động đóng vai
 Quy trình
Quy trình Giáo viên Học sinh
Bước 1: Chuẩn bị - Nêu yêu cầu chung
- Giao nhiệm vụ
- Nghe yêu cầu
- Nhận nhiệm vụ (nhận vai)
Bước 2: Thực hiện - Tổ chức thực hiện - Đóng vai
Bước 3: Nhận xét,
đánh giá
- Tổng hợp ý kiến nhận xét
- Định hướng điều chỉnh
- Tự nhận xét, đánh giá
- Tự điều chỉnh theo gợi ý
của GV (nếu có)
 Bài tập minh họa: Tuần 3, Lớp 1: Truyện “ Bạn của Nai nhỏ”
 Kiểu 3: BT rèn kĩ năng nghe - nói theo hoạt động thảo luận nhóm
 Quy trình
Quy trình Giáo viên Học sinh
Bước 1: Chuẩn bị - Nêu yêu cầu chung
- Chia nhóm
- Giao nhiệm vụ
- Nghe yêu cầu
- Chia nhóm
- Nhận nhiệm vụ

Bước 2: Thực hiện - Tổ chức HS thảo luận vấn đề
- Gợi ý, dẫn dắt, định hướng
cho HS bằng câu hỏi
- Quan sát, lắng nghe và hỗ trợ
các nhóm (nếu cần)
- Thảo luận
- Các thành viên trình bày
ý kiến thảo luận trước
nhóm
- Đại diện nhóm trình bày
kết quả thảo luận trước lớp
Bước 3: Nhận xét,
đánh giá
- Tổng hợp ý kiến nhận xét
- Định hướng điều chỉnh
- Tổ chức nhận xét, đánh giá
xếp loại, bổ sung những ý kiến
cần thiết, động viên tinh thần
làm việc của nhóm
- Tự nhận xét, đánh giá
- Tự điều chỉnh theo gợi ý
của GV (nếu có)
18
 Bài tập minh họa: Truyện “Bà cháu” (TV2 - tuần 11)
 Kiểu 4: BT rèn kĩ năng nghe - nói qua hoạt động kể lại chuyện đã nghe
 Quy trình
- Bước 1: Cung cấp ngữ liệu:
- Bước 2: Thực hiện liên kết ý để diễn đạt chủ đề
- Bước 3: Nhận xét, chỉnh sửa
 Minh họa

BT1: Diễn đạt câu chuyện theo trình tự thời gian
BT2: Diễn đạt câu chuyện bằng cách sử dụng các đại từ
3.3.1. Phương hướng vận dụng HTBT vào việc rèn kĩ năng
- Vận dụng trong các phân môn TV
- Vận dụng trong quá trình học các môn học khác
- Vận dụng trong đời sống thực tiễn
19
CHƯƠNG 4
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
4.1. Mục đích thực nghiệm
Mục đích của thực nghiệm ở đây là kiểm chứng tính khả thi cũng như tính hiệu quả
của HTBT và quy trình sử dụng HTBT mà tác giả đã đề xuất. Từ đó, khẳng định được
tính đúng đắn của giả thuyết khoa học đã nêu trong luận án.
4.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm
4.2.1. Đối tượng thực nghiệm
- Về học sinh: Đề tài chọn HS lớp 1 triển khai thực nghiệm để phù hợp với nội dung
trọng tâm của đề tài nghiên cứu. Đối tượng thực nghiệm mà chúng tôi lựa chọn là ngẫu
nhiên, mang đầy đủ những đặc điểm về đặc trưng vốn có của HSTH hiện nay và mang
tính đại diện cho các vùng miền.
- Về GV tiến hành dạy học thực nghiệm, chúng tôi lựa chọn những GV tiểu học được đào
tạo cơ bản, có năng lực chuyên môn vững vàng. Tất cả các GV này đều nắm vững mục
đích, yêu cầu thực nghiệm, để có thể lĩnh hội được tư tưởng, nội dung và phương pháp
mà đề tài đề xuất một cách nhanh nhất, có khả năng phối hợp một cách hiệu quả với
người nghiên cứu.
4.2.2. Địa bàn thực nghiệm
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm ở thành phố Hà Nội và 2 tỉnh (Hưng Yên, Lào
Cai). Riêng ở tỉnh Lào Cai, chúng tôi triển khai thực nghiệm ở 3 khu vực khác nhau.
Cùng thuộc địa bàn của một tỉnh miền núi nhưng huyện Bảo Yên lại là một huyện thuận
lợi rất nhiều so với huyện Simacai. Bên cạnh 2 huyện ở vùng khó khăn thuộc tỉnh Miền
Bắc chúng tôi chọn 1 trường tại thành phố Lào Cai để có thể thực hiện so sánh và đối

chứng. Các trường chúng tôi chọn đại diện cho các địa bàn miền núi, nông thôn, thành
phố.
4.3. Cách thức tiến hành thực nghiệm
Để có được số liệu tin cậy, chúng tôi tiến hành thực nghiệm theo hai giai đoạn:
- Vòng 1: thực nghiệm thăm dò (năm học 2010- 2011).
- Vòng 2: Thực nghiệm kiểm tra, đánh giá ( năm học 2011-2012).
4.4. Nội dung thực nghiệm
4.4.1. Thực nghiệm thăm dò
Trên cơ sở HTBT rèn KNNN cho HS lớp 1 đã được xây dựng trong luận án, chúng
tôi lựa chọn một số bài tập để thiết kế thành các đề kiểm tra dưới hình thức phiếu bài tập.
Sau đó tổ chức dạy học ngoài giờ theo thời lượng phù hợp với yêu cầu của chương trình.
Trước khi lựa chọn các bài tập để đưa vào thực nghiệm thăm dò, chúng tôi đưa ra một số
những yêu cầu cần đảm bảo đó là: tính tiêu biểu, tính mới mẻ, tính toàn diện và tính phù
hợp. Sau đây là các nhóm bài tập được sử dụng để thực nghiệm thăm dò:
Nhóm 1: BT rèn kĩ năng nghe - nói qua phát âm
Nhóm 2: BT rèn kĩ năng nghe - nói qua hoạt động giao tiếp
Chúng tôi đều tiến hành thăm dò ở cả 2 nhóm bài tập với 5 loại bài tập, chúng tôi
chọn 3 loại tương ứng với 3 phiếu bài tập khảo sát thăm dò (phụ lục 4):
20
• Phiếu bài tập 1: BT rèn kĩ năng phát âm các loại vần
• Phiếu bài tập 2: BT rèn kĩ năng nghe - nói trong việc dùng từ
• Phiếu bài tập 3: BT rèn kĩ năng nghe - nói trong việc đặt câu
4.4.2. Thực nghiệm dạy học
Như đã trình bày, nội dung chủ yếu của thực nghiệm đối chứng là tiến hành dạy học
theo 2 loại giáo án khác nhau: giáo án thực nghiệm (có sử dụng HTBT luận án đề xuất)
và giáo án đối chứng (dạy theo giáo án bình thường). Trên thực tế, điều này cũng có
nghĩa là: Một bộ phận GV và HS tiến hành dạy học thực nghiệm, còn lại vẫn hoạt động
dạy học bình thường (tuy nhiên với giáo án bình thường, chúng tôi cũng giúp đỡ GV thiết
kế bài giảng kĩ lưỡng hơn thường nhật theo tinh thần của SGK và SGV của từng lớp triển
khai thực nghiệm).

Trong khuôn khổ có hạn, luận án không trình bày tất cả các bài soạn thực nghiệm
mà chỉ giới thiệu 5 thiết kế trong chủ đề “gia đình của em” để minh họa cho quy trình
thực nghiệm và làm rõ ý tưởng của người thiết kế (xem phần phụ lục 6 - Thiết kế minh
họa):
THIẾT KẾ CHỦ ĐỀ GIA ĐÌNH CỦA EM
1 Bà ơi bà cháu yêu bà lắm!
2 Cả nhà ta cùng yêu thương nhau.
3 Công cha nghĩa mẹ.
4 Anh em như thể tay chân.
5 Chị ngã em nâng.
Sau mỗi bài học thực nghiệm, HS lớp thực nghiệm và lớp đối chứng làm bài kiểm
tra trong cùng một điều kiện để đánh giá kết quả dạy học. Để đảm bảo độ tin cậy, chúng
tôi đã xây dựng 2 phiếu khảo sát nhằm kiểm tra kĩ năng phát âm vần, nghe - nói từ và câu
của HS. Việc xây dựng các phiếu bài tập khảo sát này dựa trên nội dung và biện pháp mà
đề tài đã đưa ra nhằm kiểm định trong thực tiễn. Mỗi phiếu bài tập bao gồm 4 bài tập ở 4
mức độ; hiểu, biết, vận dụng và sáng tạo. Mục đích kiểm tra bằng phiếu bài tập tổng hợp
nhằm đánh giá kĩ năng nghe - nói của HS. Việc đánh giá kết quả của HS làm phiếu bài
tập được thể hiện bằng hình thức cho điểm theo thang điểm 10. Do thời gian làm thực
nghiệm có hạn và do sự quy định về khuôn khổ luận án, chúng tôi chỉ chọn một số bài tập
được cho là điển hình và có thể phản ánh tường minh mức độ khả thi của HTBTcủa luận
án.
21
4.5. Kết quả thực nghiệm
Kết quả thực nghiệm được thể hiện cụ thể trong 3 biểu đồ sau:
Biểu đồ 1. So sánh kết quả kiểm tra của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng về
rèn kĩ năng phát âm cho HS lớp 1
Biểu đồ 2. So sánh kết quả kiểm tra của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng về rèn kĩ năng
nghe - nói trong việc dùng từ cho HS lớp 1.
22
23

Biểu đồ 3: So sánh kết quả điểm kiểm tra giữa lớp thực nghiệm và đối chứng về rèn kĩ
năng nghe - nói trong việc đặt câu
4.6. Kết luận chung về thực nghiệm
4.6.1. Về thực nghiệm thăm dò
Các bài khảo sát, điều tra đưa vào thực nghiệm thăm dò đều có những nội dung và
hình thức mới mẻ. Tuy nhiên, kết quả thống kê, phân tích và tổng hợp kết quả khảo sát
điều tra HS trên cả 3 địa bàn thành phố, nông thôn và miền núi cho thấy tình hình chung
khá khả quan và mở ra những hướng đi mới trong công tác dạy học ở thành phố cũng như
nông thôn, ở miền xuôi cũng như miền ngược, ở vùng khó khăn cũng như thuận lợi. Với
kết quả thu được nói trên, chúng tôi có thể kết luận sơ bộ là HTBT rèn kĩ năng nghe - nói
có tính khả thi, có thể sử dụng trong thực tiễn dạy học môn TV ở tiểu học.
4.6.2. Về thực nghiệm dạy học
Kết quả thực nghiệm dạy học cho HTBT rèn kĩ năng nghe - nói mà chúng tôi đề
xuất có tác dụng tích cực đối với việc rèn luyện một số kĩ năng quan trọng như: kĩ năng
phát âm, nghe - nói từ, kĩ năng nghe - nói câu. Để HS có được kĩ năng nghe - nói tốt, GV
không chỉ quan tâm đến quy trình hình thành các kĩ năng được thông qua một hệ thống
làm việc lôgic, chặt chẽ và tường minh mà việc ứng dụng các biện pháp dạy học hiệu quả
trong từng tiết học nhằm nâng cao chất lượng rèn kĩ năng nghe - nói cho HS cũng là vấn
đề mà nhiều GV gặp khó khăn. Trong quá trình dạy học, song song với việc cung cấp
kiến thức là việc luyện các kĩ năng tương ứng, đề tài đặc biệt chú trọng đến hai kĩ năng
nghe và nói.
KẾT LUẬN CHUNG
Đề tài chắt lọc những thành tựu cơ bản của các lí thuyết (lí thuyết hoạt động giao
tiếp bằng ngôn ngữ, lí thuyết hội thoại, lí thuyết tâm lí học hoạt động) làm cơ sở lí luận
khoa học nền tảng cho việc rèn KNNN đối với HS đầu cấp TH. Đồng thời, dựa vào kết
quả khảo sát thực tiễn tình hình dạy học môn TV cho HS TH hiện nay, đề tài đưa ra định
24
hướng nghiên cứu mới trong việc rèn KNNN cho HS lớp 1. Việc rèn KNNN cho HS
được xem xét từ các bình diện ngữ âm, từ vựng và cú pháp. Nói cách khác, HS được
luyện cách phát âm, tăng cường vốn từ, luyện cách diễn đạt câu và vận dụng năng lực

ngôn ngữ vào các hoạt động giao tiếp hàng ngày.
1. Đề tài đề xuất nội dung rèn KNNN cho HS lớp 1 theo định hướng nghiên cứu
mới nhằm nâng cao KNNN trong giao tiếp. Nội dung rèn KNNN gồm hai phần là luyện
phát âm và luyện giao tiếp. Phần luyện phát âm giúp HS phát âm chính xác các âm, các
vần khó, phân biệt các phụ âm đầu dễ lẫn, các cặp âm cuối thường đi liền nhau; phát âm
các dấu thanh, phân biệt các cặp dấu thanh dễ lẫn nhằm xử lí những đặc trưng phát âm
theo vùng miền… Phần luyện giao tiếp thông qua các tình huống có thật trong cuộc sống
với những chủ đề gần gũi, thiết thực.
Ngoài việc xác định nội dung rèn KNNN cho HS lớp 1, đề tài xây dựng một HTBT
rèn KNNN bao gồm hai nhóm bài tập: Nhóm BT rèn KNNN qua phát âm, nhóm BT rèn
KNNN qua hoạt động giao tiếp. Nhóm BT thứ nhất gồm hai loại bài tập là BT rèn kĩ
năng phát âm âm và thanh. Nhóm bài tập thứ hai gồm ba loại BT là BT rèn KNNN trong
việc dùng từ, trong việc đặt câu và trong tình huống giao tiếp. Mỗi loại bài tập lại được
chia thành các kiểu bài tập khác nhau tạo thành một HTBT phong phú, đa dạng, hấp dẫn
và phù hợp với tâm lí nhận thức của HS lớp 1.
2. Trong quá trình xây dựng HTBT, đề tài chú trọng tới việc xây dựng các quy trình
thực hiện cho từng loại/ kiểu BT. Với quan điểm rèn kĩ năng thông qua hoạt động, đề tài
xây dựng quy trình tổ chức các bài tập bao gồm hệ thống các việc làm lôgic, khoa học.
Trong đó, HS là nhân vật trung tâm trong quá trình chiếm lĩnh tri thức, HS tự làm, tự trải
nghiệm để luyện tập kĩ năng cho chính mình, GV là người tổ chức, kiểm soát, định
hướng, dẫn dắt, khuyến khích HS thực hiện các hoạt động nhằm nâng cao KNNN trong
suốt quá trình dạy học. Đề tài cho thấy giá trị cốt lõi của HTBT được thể hiện bởi ba yếu
tố cơ bản: nội dung, quy trình thực hiện và các biện pháp tổ chức. Kết quả thực nghiệm
cho phép ta khẳng định: nếu GV nắm chắc mục đích, tác dụng của HTBT, quy trình thực
hiện và các biện pháp ứng dụng thì GV sẽ chủ động trong việc tổ chức cho HS rèn
KNNN để nâng cao hiệu quả dạy học.
3. Không chỉ xác định nội dung nghe - nói, xây dựng HTBT thực hành, đưa ra quy
trình cho từng kiểu/loại bài tập, đề tài còn quan tâm đến hình thức tổ chức hoạt động và
lựa chọn các biện pháp cụ thể vận dụng trong quá trình rèn KNNN: sử dụng mẫu, sử
dụng sơ đồ tư duy, sử dụng kênh hình, tổ chức đàm thoại, đóng vai, trò chơi, kể

chuyện…Các biện pháp này được lồng ghép và vận dụng linh hoạt vào từng nhóm/loại/
kiểu bài tập làm nên sức hấp dẫn và hiệu quả đối với việc rèn KNNN cho HS lớp 1.
Chúng tôi hi vọng những đóng góp của đề tài sẽ hỗ trợ được phần nào cho GV và
HS trong quá trình nâng cao năng lực ngôn ngữ nói chung và KNNN nói riêng. Những
vấn đề được đề tài dày công nghiên cứu có thể ứng dụng ngay trong môn TV cũng như
các môn học khác. Đặc biệt có thể ứng dụng trong môi trường học tập, môi trường sống
của các em.
25

×