Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG KỂ CHUYỆN CHO HỌC SINH LỚP 5 TRƯỜNG TIỂU HỌC 15 - 10 HUYỆN MỘC CHÂU – TỈNH SƠN LA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (740.58 KB, 72 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC



ÔN THỊ HƯỜNG



MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG KỂ CHUYỆN
CHO HỌC SINH LỚP 5 TRƯỜNG TIỂU HỌC 15 - 10
HUYỆN MỘC CHÂU – TỈNH SƠN LA




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC





SƠN LA, NĂM 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




ÔN THỊ HƯỜNG



MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG KỂ CHUYỆN
CHO HỌC SINH LỚP 5 TRƯỜNG TIỂU HỌC 15 - 10
HUYỆN MỘC CHÂU – TỈNH SƠN LA



CHUYÊN NGÀNH: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Người hướng dẫn: ThS. Khổng Cát Sơn


SƠN LA, NĂM 2013

LỜI CẢM ƠN !

Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành nhất đến Thạc sĩ Khổng Cát Sơn – người đã tận tình chỉ dẫn và giúp đỡ
trong quá trình hoàn thành cuốn tư liệu này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô trong khoa : Tiểu
học – Mầm non; thư viện trường Đại học Tây Bắc; Trường Tiểu học 15 – 10,
Thị trấn Nông trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện khóa luận.
Đồng thời tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các bạn sinh viên lớp K50_Đại

học Giáo dục Tiểu học đã động viên, đóng góp ý kiến và chia sẻ kinh nghiệm
cho tôi.
Đề tài còn rất nhiều thiếu sót rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
các thầy cô và các bạn để đề tài thêm hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cảm ơn !

Người thực hiện

ÔN THỊ HƯỜNG












DANH MỤC NHỨNG TỪ VẾT TẮT

GV : Giáo viên
HS : Học sinh
TBDH : Thiết bị dạy học
SGK : Sách giáo khoa
NXB : Nhà xuất bản























MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vẫn đề 2
3. Mục đích nghiên cứu 4
4. Đối tượng nghiên cứu 4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5
6. Phương pháp nghiên cứu 5

7. Giả thiết khoa học 6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 7
1.1. Cơ sở lí luận 7
1.1.1. Khái niệm Kể chuyện 7
1.1.2. Cơ sở khoa học của việc dạy và học kể chuyện 7
1.1.2.1. Nhu cầu kể chuyện 7
1.1.2.2. Vị trí, nhiệm vụ của dạy học kể chuyện trong trường tiểu học 9
1.1.3. Đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học 11
1.2. Cơ sở thực tiễn 12
1.2.1. Khảo sát thực trạng dạy và học kể chuyện trong nhà trường tiểu học 12
1.2.1.1. Nội dung chương trình và yêu cầu cần đạt khi dạy và học môn Kể
chuyện lớp 5 12
1.2.1.2. Quy trình dạy học phân môn kể chuyện hiện nay 14
1.2.2. Kết quả khảo sát 15
1.2.2.1. Quan điểm của GV và HS về việc dạy và học phân môn Kể chuyện 15
1.2.2.2. Thuận lợi 16
1.2.2.3. Khó khăn 17
1.2.2.4. Số liệu thống kê 18
1.2.2.5. Nguyên nhân mắc lỗi trong khi kể chuyện của HS 19

CHƯƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG KỂ CHUYỆN CHO
HỌC SINH LỚP 5 22
2.1. Một số vấn đề về phương pháp và kĩ thuật lên lớp của phân môn Kể
chuyện 22
2.1.1. Đặc trưng của phân môn Kể chuyện 22
2.1.2. Phương pháp dạy học đặc trưng của phân môn Kể chuyện 22
2.1.3. Kĩ thuật lên lớp của một tiết học kể chuyện 23
2.2. Một số biện pháp rèn kĩ năng kể chuyện cho học sinh lớp 5 24
2.2.1. Hướng dẫn học sinh kể chuyện 24
2.2.1.1. Hướng dẫn học sinh đọc và cảm thụ câu chuyện 24

2.2.1.2. Hướng dẫn sử dụng lời kể trong khi kể chuyện 24
2.2.1.3. Lựa chọn ngữ điệu kể: 25
2.2.1.4. Cử chỉ điệu bộ của người kể: 25
2.2.1.5. Sử dụng các phương tiện hỗ trợ cho kể chuyện: 26
2.2.1.6. Thực hiện trong tiết dạy: 26
2.2.2. Tổ chức hoạt động kể chuyện sắm vai 27
2.2.2.1. Hoạt động sắm vai 27
2.2.2.2. Quá trình sắm vai 28
2.2.2.3. Ví dụ kịch bản sắm vai 31
2.2.3. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa về kể chuyện cho học sinh 33
2.2.3.1. Hoạt động thi kể chuyện 33
2.2.3.2. Ví dụ về một cuộc thi kể chuyện cấp trường 34
2.2.4. Sử dụng các thiết bị dạy học vào trong phân môn Kể chuyện 39
2.2.5. Hoạt động tham quan, du lịch 40
CHƯƠNG 3: : THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỂ NGHIỆM 42
3.1. Mục đích thể nghiệm 42
3.2. Đối tượng và địa bàn thể nghiệm 42
3.3. Thời gian thể nghiệm 42
3.4. Nội dung và phương pháp thể nghiệm 43

3.5. Kết quả thể nghiệm 44
KẾT LUẬN 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Trong thư gửi HS nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc
lập, Bác Hồ thiết tha căn dặn các em HS: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi
đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các
cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần công học tập của
các em”. Lời dạy của Bác đã khẳng định vai trò của trẻ em đối với tương lai của
đất nước.
Thế kỉ 21, thế kỉ của sự phát triển, nâng cao không ngừng của văn hóa,
kinh tế đất nước. Để có thể bắt kịp đà phát triển của những nước lớn mạnh thì
cần sự chung sức, đồng lòng của toàn dân mà lực lương chủ yếu chính là
những chủ nhân tương lai của đất nước, là nhân vật chính góp phần tạo nên
cái thế, cái dáng đứng cho Tổ Quốc Việt Nam, đó chính là trẻ em. Trẻ em là
đối tượng chủ yếu trong chiến lược con người của Đảng, Nhà nước ta và được
cả xã hội quan tâm.
“Tiểu học là cấp học nền tảng trong nhà trường phổ thông, đặt cơ sở ban
đầu cho việc hình thành, phát triển toàn diện nhân cách con người, là nền tảng
vững chắc cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân”.
Giáo dục tiểu học “hình thành cho HS những cơ sở ban đầu về sự phát triển
đúng đắn và lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất và các kĩ năng cơ bản để học
tiếp trung học hoặc đi vào cuộc sống lao động”.
(Mục tiêu, kế hoạch giáo dục tiểu học)
Nhiều nhà chuyên môn cho rằng bậc Tiểu học là bậc học kĩ năng và bậc
Tiểu học ở bất cứ quốc gia nào cũng vậy, cũng phải hình thành cho HS kĩ năng
cơ bản tối thiểu và đặc trưng nhất, đó là kĩ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ: nghe, nói,
đọc, viết. Những kĩ năng được hình thành trên cơ sở tư duy phát triển, và ngược
lại nhờ có kĩ năng cơ bản đó mà HS tiếp tục học tập tốt hơn, tạo được bước phát
triển cao hơn.
Mục tiêu của giáo dục Tiểu học hiện nay là nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện. Nhà trường Tiểu học là cái nôi cung cấp cho HS những tri thức khoa
học, kĩ năng, kĩ xảo cần thiết, giúp các em hình thành và phát triển nhân cách.
Ở trường Tiểu học, Kể chuyện là một môn học lý thú, hấp dẫn đối với HS.

Tiết Kể chuyện thường được các em chờ đón và tiếp thu bằng một tâm trạng hào
hứng. Khác hẳn với những tiết học khác, ở tiết học kể chuyện, GV và các em HS
hầu như thoát li hẳn sách vở, giao hoà tình cảm một cách hồn nhiên thông qua

2
những nội dung câu chuyện được kể, thông qua lời kể của GV và lời kể lại của
HS. Gần như mối quan hệ thầy trò mới được xác lập giữa một không khí mới,
không khí của lòng vị tha và nhân ái.
Mục đích của phân môn Kể chuyện là đem lại niềm vui cho HS, giáo dục
cho các em tư tưởng, tình cảm lành mạnh, cung cấp cho các em vốn hiểu biết về
Văn, Tiếng Việt. Kể chuyện còn có mục đích rèn luyện ngôn ngữ nói và kể
trước đám đông một cách có nghệ thuật, góp phần khêu gợi tư duy hình tượng
cho trẻ.
Phân môn Kể chuyện cung cấp cho HS những tri thức về tự nhiên và xã
hội, rèn cho các em một số kỹ năng cần thiết phục vụ cho việc học tập cũng như
cho cuộc sống, hình thành cho các em những phẩm chất đạo đức cao đẹp.
Kể chuyện có sức hấp dẫn, có vai trò quan trọng như vậy nhưng rất tiếc,
thực tế hiện nay một số không ít GV vẫn còn coi nhẹ, chưa dành thời gian xứng
đáng cho tiết dạy kể chuyện. Một số GV cho rằng kể chuyện phụ thuộc nhiều
vào năng khiếu. Ai có năng khiếu, người đó sẽ dạy giỏi, trò giỏi. Ai không có
năng khiếu thì có cố gắng đến mấy cũng không thể thành công Những nhận
thức đó của GV đã dẫn đến chất lượng giờ Kể chuyện còn hạn chế.
Bên cạnh đó là nhận thức của HS về vai trò của việc kể chuyện trong cuộc
sống còn ở mức độ nhỏ hẹp, chưa có sự quan tâm và dành thời gian đúng mức
cho việc luyện tập kể chuyện. Đó chính là lí do cho kết quả việc kể chuyện chưa
tốt cũng như hiệu quả của giờ dạy học kể chuyện chưa cao.
Chính vì thế, tôi đã lựa chọn vấn đề: “Một số biện pháp rèn kĩ năng kể
chuyện cho HS lớp 5 trường Tiểu học 15 – 10, Huyện Mộc Châu, Tỉnh Sơn La”
để nghiên cứu, từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả của giờ dạy và học kể chuyện cho HS lớp 5 nói chung và cấp học tiểu học

nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Dạy và học môn Tiếng Việt là một nhiệm vụ khó khăn mà không phải bất
kì nhà giáo dục nào cũng có thể làm được. Với một môn học được số ít các nhà
giáo quan tâm như phân môn Kể chuyện thì đó cũng là một vấn đề lớn. Đã có rất
nhiều tài liệu giáo dục nghiên cứu và chỉ ra vai trò, tầm quan trọng của việc dạy
kể chuyện, phương pháp dạy kể chuyện tuy nhiên các tài liệu đó còn mang tính
chung chung, chưa chỉ rõ vấn đề cũng như chưa đưa ra các biện pháp cụ thể để
áp dụng vào thực tiễn.
Trong đề tài này, tôi đã sưu tầm, tổng hợp và xử lí các tài liệu sau đây:

3
1. Rèn kĩ năng sử dụng tiếng Việt ( Đào Ngọc, Nguyễn Quang Ninh, Nhà
xuất bản Giáo dục). Tài liệu này vừa là cuốn sách thực hành về tiếng Việt, vừa
là cuốn sách rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm đối với GV tiểu học. Cuốn
sách trình bày việc rèn luyện kĩ năng giao tiếp ngôn ngữ gắn liền với các kĩ năng
nghiệp vụ ở tiểu học như: kĩ năng đọc thầm, kĩ năng đọc diễn cảm, kĩ năng viết
chữ, kĩ năng viết các loại văn bản dạy ở tiểu học, kĩ năng nghe, kĩ năng nói, kĩ
năng kể chuyện.
2. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học (Tài liệu đào tạo GV -
2007) của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dự án phát triển GV tiểu học. Cuốn sách đã
cập nhật những thông tin đổi mới về nội dung chương trình SGK và phương
pháp dạy học theo chương trình mới. Cuốn sách đã trình bày một cách chi tiết,
cụ thể về cấu trúc, nội dung và phương pháp dạy học cho từng phân môn trong
môn Tiếng Việt. Ngoài ra, cuốn sách còn giới thiệu được một số phương pháp
dạy học tích cực theo hướng đổi mới như: sử dụng bộ đồ dùng học tập trong dạy
học, sử dụng máy chiếu, băng hình… nhằm phục vụ cho quá trình dạy - học có
thể đạt được hiệu quả cao nhất.
3. Vui học Tiếng Việt: (Trần Mạnh Hưởng, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục -
2002). Tác giả đã đề cập đến những kiến thức tiếng Việt cơ bản giúp HS luyện

tập thành thạo các kĩ năng “nghe, nói, đọc, viết”, giúp các em sẽ có suy nghĩ lạc
quan, diễn đạt trong sáng, có khả năng làm chủ được tiếng nói và chữ viết của
dân tộc.
4. Dạy và học môn Tiếng Việt ở Tiểu học theo chương trình mới (Nguyễn
Trí, Nhà xuất bản Giáo dục - 2003). Cuốn sách trình bày những vấn đề cơ bản
của phương pháp dạy học mới ở nhà trường tiểu học nói chung và bộ môn Tiếng
Việt 5 nói riêng. Đặc biệt, tác giả đã quan tâm đến việc truyền đạt cho HS bốn kĩ
năng: nghe - nói - đọc - viết. Dựa trên cơ sở đó, GV biết cách vận dụng linh hoạt
các phương pháp vào dạy học phân môn Tiếng Việt.
5. Đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học (Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dự
án phát triển GV tiểu học, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội - 2005). Cuốn sách
trình bày cụ thể những đổi mới trong nội dung và phương pháp dạy học theo
chương trình và SGK mới giúp nhà sư phạm nắm được bản chất của phương
pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của HS; vận dụng sáng tạo,
linh hoạt những hiểu biết đã có vào thiết kế kế hoạch bài học theo hướng phát
huy tính tích cực của từng HS. Thực hành dạy học đạt hiệu quả, chất lượng.
6. Dạy học Tiếng Việt 2 (Nguyễn Trí, Lê Phương Nga, Nhà xuất bản Giáo
dục). Tài liệu nghiên cứu các phương pháp dạy học kể chuyện, vạch ra mục đích

4
quan trọng và ý nghĩa thiết thực của việc dạy học kể chuyện. Đồng thời, xây
dựng cách tổ chức dạy học một tiết kể chuyện.
7. Xác định quan niệm và biện pháp dạy học Kể chuyện ở tiểu học (Trần
Thị Mến). Tác giả xác định quan niệm về dạy học kể chuyện và một vài biện
pháp dạy học cụ thể, hướng dẫn HS kể lại câu chuyện vừa nghe GV kể trên lớp.
8. Trong quyển Dạy Kể chuyện ở Tiểu học, tác giả Chu Huy đã nêu ra vị trí,
nhiệm vụ cùng những phương pháp dạy học kể chuyện rất cụ thể.
Dựa trên những công trình nghiên cứu đã trình bày ở trên, tôi tìm hiều và
nghiên cứu để thực hiện đề tài “Một số biện pháp rèn kĩ năng kể chuyện cho HS
lớp 5 trường Tiểu học 15 – 10, Huyện Mộc Châu, Tỉnh Sơn La”

3. Mục đích nghiên cứu
Là một GV tiểu học trong tương lai, mục tiêu phấn đấu của bản thân tôi là
truyền thụ những tri thức khoa học cho HS, đào tạo những con người có tư cách,
phẩm chất đạo đức, có năng lực để trở thành người công dân có ích cho xã hội.
Tìm hiểu thực tiễn của việc dạy học nói chung và dạy học môn Tiếng Việt
nói riêng ở các trường tiểu học thông qua việc đi thực tế và trực tiếp tiếp xúc với
môi trường giảng dạy và học tập của nhà trường nhằm mục đích:
- Nghiên cứu thực trạng dạy và học phân môn Kể chuyện ở trường tiểu học,
đặc biệt là ở lớp 5, tìm hiểu về những thuận lợi và khó khăn trong quá trình dạy
học phân môn Kể chuyện.
- Từ thực trạng đã tìm hiểu, đưa ra một số biện pháp rèn kĩ năng kể chuyện
cho HS lớp 5 nhằm tạo hứng thú học tập cho HS, giúp các em nhận thấy tầm
quan trọng của phân môn kể chuyện từ đó giáo dục động cơ học tập cho các em.
Hình thành kĩ năng kể chuyện cho HS, giúp các em diễn đạt tư tưởng tình cảm
một cách rõ ràng, chính xác. Đó cũng là cơ sở để các em học tốt các môn học
khác và bồi dưỡng những tình cảm đạo đức tốt đẹp.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu việc dạy và học phân môn Kể chuyện và một số lỗi
thường mắc trong quá trình nói, kể chuyện của HS lớp 5.
Khách thể nghiên cứu của đề tài là 48 HS lớp 5 Trường Tiểu học 15 – 10,
Thị trấn Mộc Châu, Huyện Mộc Châu, Tỉnh Sơn La.
Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến vấn đề.


5
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến việc rèn kĩ
năng kể chuyện cho HS lớp 5.
. - Nghiên cứu thực trạng rèn kĩ năng kể chuyện cho HS lớp 5.
- Tìm hiểu nguyên nhân khiến HS lớp 5 kể chuyện chưa hay và không có

hứng thú học phân môn Kể chuyện, những khó khăn mà các em gặp phải trong
quá trình rèn luyện kể chuyện.
- Đề xuất một số giải pháp có hiệu quả để rèn kĩ năng kể chuyện cho HS
lớp 5.
- Giúp HS nhận thấy vai trò của kể chuyện trong cuộc sống cũng như trong
học tập nhằm nâng cao động cơ học tập để các em tự giác rèn luyện có như vậy
mới đạt hiệu quả cao.
- Tìm hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến thiếu sót của từng em để có biện pháp
khắc phục kịp thời, hợp lý.
- Thiết kế giáo án ứng dụng cho đề tài.
6. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sự dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài bao gồm:
6.1. Phương pháp quan sát và đàm thoại
- Quan sát cử chỉ, điệu bộ, nét mặt của HS khi kể chuyện.
- Trực tiếp phỏng vấn, trò chuyện, tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp
để tìm hiểu những khó khăn, nguyện vọng của HS trong quá trình rèn luyện từ
đó đưa ra các biện pháp giải quyết phù hợp.
- Tìm hiểu nhận thức của HS về vai trò của kể chuyện.
6.2. Phương pháp khảo sát và điều tra
Sử dụng phiếu điều tra để tìm hiểu:
- Thực trạng rèn kĩ năng kể chuyện cho HS ở những năm học trước.
- Kết quả rèn kĩ năng kể chuyện của HS.
- Những khó khăn, nguyện vọng khi rèn kĩ năng kể chuyện.
- Đánh giá của HS về phân môn Kể chuyện.
- Những quy định đặt ra cho HS và mức độ đạt dược của HS khi thực hiện
các quy định đó.

6
6.3. Phương pháp thống kê và phân loại
6.4. Phương pháp so sánh - đối chiếu

6.5. Phương pháp phân tích - tổng hợp
6.6. Phương pháp thực hành – luyện tập
6.7. Phương pháp thiết kế mẫu
Ngoài các phương pháp nêu trên, tôi cũng đã sử dụng thêm hai phương
pháp nghiên cứu để nhằm đưa ra các cơ sở về lí luận cũng như thực tiễn, thực
trạng dạy học kể chuyện của GV và HS đó bao gồm hai phương pháp:
6.8. Nghiên cứu lý luận
- Tham khảo tài liệu, sách báo có liên quan đến việc rèn kĩ năng kể chuyện
cho HS lớp 5.
- Tham khảo nội dung, phương pháp, hình thức dạy học Kể chuyện cho HS
lớp 5.
6.9. Nghiên cứu thực nghiệm dạy học
- Quan sát qua dự giờ, khảo sát chất lượng dạy và học.
-Tìm hiểu nguyên nhân khiến HS kể chuyện chưa tốt từ đó không chỉ tìm
cách sửa chữa mà quan trọng hơn là đề xuất những giải pháp rèn kĩ năng kể
chuyện đạt hiệu quả cao hơn.
- Thực nghiệm trên HS để kiểm tra tính khả thi của vấn đề và biện pháp đề
ra để nâng cao hiệu quả rèn kĩ năng kể chuyện cho HS lớp 5.
7. Giả thiết khoa học
Dạy tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp là định hướng trong dạy học hiện
nay nhất là đối với bậc học tiểu học. Đây là vấn đề được nhiều thầy cô dạy tiểu
học quan tâm, nghiên cứu và thực hiện.
Nếu đề tài tôi nghiên cứu chứng minh được tính hiệu quả của các biện pháp
đề xuất, sẽ góp thêm tiếng nói vào việc tìm ra biện pháp nâng cao chất lượng
dạy và học theo quan điểm giao tiếp qua lĩnh vực rèn kĩ năng nói cho HS lớp 5.






7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Khái niệm Kể chuyện
Kể là một động từ biểu thị hành động nói. Từ điển tiếng Việt (Văn Tân chủ
biên) giải thích: Kể là nói rõ đầu đuôi và nêu ví dụ: kể chuyện cổ tích.
Khi ở vị trí thuật ngữ, kể chuyện bao hàm bốn phạm trù ngữ nghĩa sau:
- Chỉ loại hình tự sự trong văn học (phân biệt với các loại hình trữ tình, loại
hình kịch) – còn gọi là truyện hoặc tiểu thuyết.
- Chỉ tên một phương pháp nói trong diễn giảng.
- Chỉ tên một loại văn thuật truyện trong môn Tập làm văn.
- Chỉ tên một phân môn học ở các lớp trong trường Tiểu học
Kể chuyện là một thuật ngữ bởi nó có một kết cấu âm tiết ổn định, một
phạm trù ngữ nghĩa (còn gọi là khái niệm) nhất định. Thuật ngữ kể chuyện lâu
nay vẫn được dùng với ý nghĩa kể một câu chuyện bằng lời, kể câu chuyện có
hình thức hoàn chỉnh, được in trong sách báo hay lưu truyền bằng miệng.
Trong phạm vi đề tài này, Kể chuyện chính là tên gọi của một phân môn
Tiếng Việt ở tiểu học. Có người hiểu đơn giản kể chuyện nhằm mục đích phát
triển lời nói cho HS, bồi dưỡng cho các em những cảm xúc thẩm mĩ lành mạnh,
cung cấp những kiến thức về vốn sống và văn học có tác dụng giáo dục.
Hoạt động kể chuyện là hình thức trình bày lại câu chuyện với một chuỗi các
sự việc có đầu có cuối liên quan đến một hay một số nhân vật bằng lời kể một cách
hấp dẫn, sáng tạo, giàu ngữ điệu và có sự phối hợp diễn xuất qua nét mặt, cử chỉ,
điệu bộ của người kể một cách tự nhiên nhằm truyền cảm đến người nghe.
1.1.2. Cơ sở khoa học của việc dạy và học kể chuyện
1.1.2.1. Nhu cầu kể chuyện
Kể chuyện được coi là một môn nghệ thuật có từ xa xưa cùng với sự xuất
hiện của thế giới loài người. Nhờ có tiếng nói và lao động mà con người đã thoát
hẳn đời sống loài vật, vươn lên làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ thiên
nhiên.

Dưới thời kỳ nguyên thuỷ, bầy người nguyên thuỷ quây quanh đám lửa
nướng thịt thú rừng, nướng quả hạt, thường kể những câu chuyện về săn bắn, hái
lượm cho nhau nghe. Đó cũng là khởi đầu của sự tích luỹ tri thức khoa học và kể
chuyện ở đây mang chức năng thông tin.

8
Khi ngôn ngữ ngày càng phát triển, khối lượng từ tăng thêm, đời sống vật
chất và tinh thần ngày một phong phú thì kể chuyện không chỉ dừng ở mức độ
thông tin nữa mà còn mang thêm chức năng giải trí hay cao hơn nữa là chức
năng nghệ thuật. Nhờ vậy mà kho tàng truyện cổ dân gian hết sức giàu có và đa
dạng được truyền lại đến ngày nay bằng hình thức kể chuyện.
Những nghệ sĩ dân gian đứng trước đám đông kể lại những bản tình ca,
những truyện thần thoại, cổ tích bằng ngôn ngữ kể trong sáng, đẹp đẽ và đầy hấp
dẫn. Các tác phẩm anh hùng ca Iliát và Ôđítxê, truyện cổ Nghìn lẻ một đêm… đã
tồn tại truyền miệng như vậy.
Trải qua 1000 năm Bắc thuộc, dân tộc Việt Nam sở dĩ bảo toàn được bản
lĩnh và bản sắc dân tộc độc đáo, không bị phong kiến phương Bắc xâm lược
đồng hoá, thôn tính, một phần là nhờ ở hùng khí của những câu chuyện cổ được
truyền lại như Vè chàng Lía, truyện Tống Trân Hoa Cúc, chùm truyền thuyết về
Âu cơ, Lạc Long Quân, Hùng Vương, Thánh Gióng…
Trong một thời gian lịch sử lâu dài khi chưa có văn tự để ghi chép thì kể
chuyện là một hình thức chiếm địa vị độc tôn. Khi đã có văn tự ghi chép, in ấn
rồi thì kể chuyện vẫn tồn tại và phát triển song song với sự phát triển của văn tự.
Cho đến ngày nay, kể chuyện và nghe kể chuyện vẫn là một nhu cầu không thể
thiếu của mỗi người nói riêng và của cuộc sống nói chung.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và
vô cùng quý báu. Chúng ta phải biết quý trọng nó, giữ gìn nó, phát triển nó”.
Nhờ có tiếng nói mà ranh giới giữa con người và loài vật được phân biệt rõ ràng.
Từ tuổi lên 3 khi mới bập bẹ biết nói, con người đã thích nghe kể chuyện,
đến sau tuổi Mẫu giáo nhu cầu nghe kể chuyện ngày càng tăng thêm nhất là ở

lứa tuổi tiểu học. Bởi lẽ thông qua những câu chuyện, các em tiếp nhận tuổi
thơ ấu của mình, là một trong những hình thức để các em nhận thức về thế giới
xung quanh, giúp các em chính xác những hiện tượng đã có về thực tế xã hội,
từng bước cung cấp thêm những khái niệm mới, mở rộng kinh nghiệm sống
cho các em.
Trong quyển Giáo dục những con người chân chính như thế nào ? của tác
giả Xukhômlinxki – NXB Giáo dục (1982) đã cho rằng “Truyện cổ tích gắn liền
với cái đẹp góp phần phát triển các xúc cảm thẩm mĩ mà thiếu chúng không
thể có tâm hồn cao thượng lòng mẫn cảm chân thành trước nỗi bất hạnh,đau
đớn và khổ ải của con người. Nhờ có truyện cổ tích mà trẻ nhận thức về thế
giới không chỉ bằng trí tuệ mà còn bằng trái tim.Và trẻ em không phải chỉ có
nhận thức mà còn đáp ứng lại sự kiện và hiện tượng của thế giới xung quanh,

9
tỏ thái độ của mình đối với các điều thiện và điều ác. Truyện cổ tích cung cấp
cho trẻ những biểu tượng đầu tiên về chính nghĩa và phi nghĩa. Giai đoạn đầu
tiên của giáo dục lí tưởng cũng diễn ra nhờ có truyện cổ tích. Truyện cổ tích là
ngọn nguồn phong phú và không gì thay thế được để giáo dục tình yêu Tổ
Quốc”. Đó là lí do giúp ta hiểu tại sao trẻ em HS tiểu học lại rất thích được
nghe và thích được kể chuyện.
1.1.2.2. Vị trí, nhiệm vụ của dạy học kể chuyện trong trường tiểu học
a) Vị trí của phân môn Kể chuyện
Phân môn Kể chuyện được xếp liền ngay sau phân môn Tập đọc, Học
thuộc lòng của bộ môn Tiếng Việt, sở dĩ như vậy là vì kể chuyện có vị trí đặc
biệt trong dạy học tiếng mẹ đẻ, vì hành động kể là một hành động “nói” đặc biệt
trong hoạt động giao tiếp. Kể chuyện vận dụng một cách tổng hợp sự hiểu biết
về đời sống và tạo điều kiện để HS rèn luyện một cách tổng hợp các kĩ năng
tiếng Việt như: nghe, nói, đọc trong hoạt động giao tiếp.
Khi nghe thầy giáo kể chuyện, HS đã tiếp nhận tác phẩm văn học ở dạng
lời nói có âm thanh. Khi HS kể chuyện là các em đang tái sản sinh hay sản sinh

một tác phẩm nghệ thuật ở dạng lời nói.
Vì truyện là một tác phẩm văn học nên kể chuyện có được cả sức mạnh của
tác phẩm văn học. Truyện có khả năng bồi dưỡng tâm hồn cho trẻ thơ. Sự hiểu
biết về cuộc sống, về con người, tâm hồn, tình cảm của các em sẽ nghèo nàn đi
biết mấy nếu không có môn học kể chuyện trong trường học.
b) Nhiệm vụ của phân môn Kể chuyện
- Giờ kể chuyện có liên quan đến nhu cầu nghe kể chuyện của trẻ em, góp
phần hình thành nhân cách, đem lại những cảm xúc thẩm mỹ lành mạnh cho tâm
hồn HS.
Thích nghe kể chuyện là một đặc điểm của trẻ em. Từ thủa hai, ba tuổi trẻ
em đã say mê nghe kể chuyện. Các em được sống với những nhân vật cổ tích,
được tham gia và hòa mình vào những chuyến phiêu lưu kì thú, được gặp những
nàng công cúa xinh đẹp và chàng hoàng tử dũng cảm qua những câu chuyện kể
của bà, của mẹ. Nhiều người không bao giờ quên những kỷ niệm về các buổi tối
nghe kể chuyệm. Puskin từng tâm sự: “Buổi tối, tôi nghe kể chuyện cổ tích và
lấy việc đó bù đắp những thiếu sót trong sự giáo dục đáng nguyền rủa của mình.
Mỗi truyện cổ tích ấy mới đẹp làm sao, mỗi truyện là một bài ca”. Lớn lên các
em đi học, biết chữ, có thể đọc được truyện nhưng vẫn không giảm hứng thú
nghe kể chuyện để được đến với những vùng đất mới, vùng đất của sự sáng tạo,

10
của trí tưởng tượng mà ở đó các em thấy mình đang “bay bổng” trong tâm hồn.
Phân môn Kể chuyện trong chương trình tiểu học trước tiên đáp ứng yêu cầu
trên của trẻ.
Kể chuyện có sức mạnh riêng trong việc giáo dục trẻ. Sức mạnh này bắt
nguồn từ sức mạnh của công cụ mà phân môn Kể chuyện sử dụng, đó là tác
phẩm văn học nghệ thuật GV dùng để kể trong lớp. Các tác phẩm văn học có tác
dụng lớn đến tâm hồn và cảm xúc của trẻ em, đem lại những cảm xúc thẩm mỹ
lành mạnh.
- Giờ kể chuyện góp phần tích luỹ vốn văn học, mở rộng vốn sống cho trẻ em.

Giờ kể chuyện giúp cho trẻ sớm tiếp xúc với tác phẩm văn học. Suốt 5 năm
ở bậc tiểu học, HS được nghe và tham gia kể hàng trăm câu chuyện với đủ thể
loại, gồm tác phẩm có giá trị của Việt Nam và thế giới, từ truyện cổ tích đến
hiện đại. Do đó vốn văn học của HS được tích luỹ dần. Đây là những hành trang
quý sẽ theo các em trong suốt cuộc đời mình.
Giờ Kể chuyện còn mở rộng tầm hiểu biết, khêu gợi trí tưởng tượng cho
các em. Qua từng câu chuyện, thế giới muôn màu sắc mở rộng trước các em.
Các em gặp trong đó từ phong tục tập quán đến cảnh sắc thiên nhiên, từ cách
phục trang đến kiến trúc nhà ở, và đặc biệt là cách cư xử của con người trong
muôn vàn trường hợp khác nhau Nói cách khác, các truyện kể đã làm tăng
thêm cho HS vốn hiểu biết về thế giới và xã hội loài người xưa và nay.
Các truyện kể còn chắp cánh cho trí tưởng tượng của HS bay bổng. Cùng
với lí tưởng, óc tưởng tượng là bệ phóng cho những hoài bão, ước mơ cao đẹp
khi các em bước vào cuộc sống, bệ phóng cho sự sáng tạo. Lê Nin cho rằng,
“Thật là bất công nếu nghĩ rằng óc tưởng tượng chỉ cần thiết cho người làm thơ,
ngay cả trong toán học cũng cần có tưởng tượng, ngay cả việc phát minh ra
phép tính vi phân và tích phân cũng sẽ không thể nào có được nếu thiếu óc
tưởng tượng. Óc tưởng tượng là phẩm chất quí giá vô cùng”.
- Giờ kể chuyện góp phần rèn luyện và phát triển kỹ năng nói và kể trước
đám đông một cách có nghệ thuật, góp phần khêu gợi tư duy của trẻ.
Sống với các nhân vật trong truyện, tư duy hình tượng của trẻ được khêu
gợi và có điều kiện phát triển cùng với cảm xúc thẩm mỹ. Qua từng câu chuyện,
các em biết giá trị của từng chi tiết, thấm thía với từng hình ảnh nghệ thuật, từng
nhân vật Do đó kể chuyện là miếng đất màu mỡ để trên đó tư duy hình tượng
HS phát triển.

11
Mặt khác giờ Kể chuyện phát triển ngôn ngữ nói của HS. Điều đáng chú ý,
đây là cách nói trước đám đông một cách nghệ thuật. Cần phải rèn luyện để nắm
được thủ pháp hấp dẫn người nghe, để có thể điều khiển được giọng kể hợp với

diễn biến từng loại truyện khác nhau. Có thể nói, ngôn ngữ nói được rèn luyện
trong giờ kể chuyện hướng tới phong cách nghệ thuật.
1.1.3. Đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học
Từ ngày xưa ông cha ta đã có câu “Biết người biết ta trăm trận trăm
thắng”. Vậy để “thắng” được trong dạy học nói chung và trong phân môn Kể
chuyện nói chung hơn ai hết thầy cô giáo phải nắm vững được đặc điểm tâm
sinh lí của HS là đối tượng mà mình trực tiếp giảng dạy từ đó có những phương
pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng HS.
a) Đặc điểm tâm sinh lí của HS lớp 1
Đối với HS lớp 1 việc đến trường là một bước ngoặt vĩ đại trong cuộc đời
các em. Khi đến trường tuổi ấu thơ hồn nhiên, vô tư của các em đã có thêm trách
nhiệm nhất định, các em phải đi học đúng giờ, học hết tiết mới được ra chơi…
Những hoạt động này mang tính chất bắt buộc song trẻ lớp 1 vốn có tính hưng
phấn cao về mặt cảm xúc, biết khát khao tìm hiểu các hiện tượng thiên nhiên,
các hiện tượng về đời sống con người… Tuy vậy ngôn ngữ và tư duy của HS
lớp 1 mới bắt đầu phát triển, cách phát âm, cách dùng từ còn nhiều hạn chế. Từ
đó có thể thấy phương pháp chung được sử dụng trong phân môn Kể chuyện ở
lớp 1 là: sau khi nghe GV, HS dựa vào những câu hỏi gợi ý đơn giản để kể được
cốt truyện và các chi tiết cơ bản của truyện, tập phát biểu cảm nghĩ của mình đối
với các nhân vật. Khi kể, GV chú ý luyện cách diễn đạt cho các em.
b) Đặc điểm tâm sinh lí của HS lớp 2, 3
Trải qua một năm học lớp 1, các em đã biết tư duy và xác định được yêu
cầu học tập như: đi học đứng giờ, học bài và làm bài nghiêm túc, giữ trật tự
trong lớp học… các em đã biết đọc, biết viết, biết nhận xét, tính toán, năng lực
tư duy và ngôn ngữ của các em đều có bước phát triển song còn hạn chế và chưa
thuần thục. Phương pháp kể chuyện chung ở lứa tuổi này là: GV kể, HS nghe và
tập kể lại từng đoạn hoặc cả truyện đối với truyện cổ tích. Trong khi HS tập kể,
GV nên khuyến khích HS sử dụng ngôn ngữ của riêng mình và có sự sáng tạo.
c) Đặc điểm tâm sinh lí của HS lớp 4, 5
So với HS lớp 2, 3, HS lớp 4, 5 có sự phát triển đột biến về chất. Về mặt cơ

thể các em đều từ 9 đến 11 tuổi, có đủ chiều cao và cân nặng để thực hiện các
hoạt động học tập và lao động trong nhà trường. Về tâm lí, các em là lớp HS

12
cuối cấp, được rèn luyện và làm quen với môi trường học tập trong thời gian khá
dài và đặc biệt các em chính là những anh chị trong trường nên các em thường
tỏ ra chững chạc, mạnh mẽ.
HS ở lứa tuổi này đã ý thức được mình, biết đánh giá hành vi theo chuẩn
mực đạo đức của xã hội. Do đó về mặt thực tiễn các em giàu vốn sống thực tiễn
và khả năng hoạt động thực tế. Chỉ đến khối lớp này thuật ngữ dạy kể chuyện
mới thực sự bao hàm những nội dụng đầy đủ của nó. Xuất phát từ đặc điểm của
đối tượng nêu trên, vấn đề dạy kể chuyện ở lớp 4, 5 không đơn giản là vấn đề
GV kể mà là HS tự kể. Dạy kể chuyện ở đây là quá trình GV hướng dẫn HS
thuộc truyện và nhớ truyện sau đó kể lại truyện bằng ngôn ngữ của mình, GV
khuyến khích HS diễn xuất một cách sáng tạo qua nét mặt, điệu bộ, cử chỉ.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Khảo sát thực trạng dạy và học kể chuyện trong nhà trường tiểu học
1.2.1.1. Nội dung chương trình và yêu cầu cần đạt khi dạy và học môn Kể
chuyện lớp 5
Nội dung chương trình: 1tiết/1tuần, cả năm gồm 35 tiết, trong đó có 31 tiết
kể chuyện và 4 tiết ôn tập.
Như vậy chương trình kể chuyện lớp 5 có 31 câu chuyện được chia ra
thành 3 kiểu bài tập:
a) Bài tập nghe- kể gồm 10 câu chuyện.
- Đó là các truyện:
+ Lý Tự Trọng
+ Tiếng Vĩ Cầm ở Mỹ Lai
+ Cây cỏ nước Nam
+ Pa- Xtơ và em Bé
+ Chiếc đồng hồ

+ Ông Nguyễn Khoa Đăng
+ Người đi săn và con nai
+ Vì muôn dân
+ Lớp trưởng lớp tôi
+ Nhà vô địch

13
- Nội dung cần đạt: GV kể - HS nghe - HS kể lại.
- Mục đích: Rèn kĩ năng nói và kĩ năng nghe.
b) Bài tập kể chuyện đã nghe, đã đọc gồm 11 câu chuyện.
- Đó là các đề bài:
+ Kể về các anh hùng, danh nhân của nước ta
+ Kể về một câu chuyện ca ngợi hoà bình, chống chiến tranh
+ Kể một câu chuyện nói về quan hệ giữa con người với thiên nhiên
+ Kể một câu chuyện có nội dung bảo vệ môi trường
+ Kể một câu chuyện nói về những người đã góp sức mình chống lại đói
nghèo, lạc hậu, vì hạnh phúc của nhân dân
+ Kể về những ngời biết sống đẹp, biết mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc
cho những người xung quan
+ Kể về những tấm gương sống, làm việc theo pháp luật, theo nếp sống văn minh
+ Kể về những người đã góp sức mình bảo vệ trật tự, an ninh
+ Kể về truyền thống hiếu học hoặc truyền thống đoàn kết của dân tộc
Việt Nam
+ Kể về một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài
+ Kể về gia đình, nhà trường và xã hội chăm sóc, giáo dục trẻ em hoặc trẻ
em thực hiện bổn phận với gia đình, nhà trường và xã hội
c) Bài tập kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia gồm 10 câu chuyện.
- Đó là các đề bài:
+ Kể việc làm tốt góp phần xây dựng quê hương đất nước
+ Kể một câu chuyện em đã chứng kiến hoặc một việc em đã làm thể hiện

tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước
+ Kể chuyện về một lần em được đi thăm cảnh đẹp ở địa phương em hoặc
ở nơi khác
+ Kể một việc làm tốt của em hoặc của những người xung quanh để bảo vệ
môi trường
+ Kể về một buổi sum họp đầm ấm trong gia đình

14
+ Kể một câu chuyện thể hiện ý thức bảo vệ các công trình công cộng, di
tích lịch sử - văn hoá, ý thức chấp hành Luật Giao thông hoặc một việc làm thể
hiện lòng biết ơn các thương binh liệt sĩ
+ Kể một việc làm tốt của bạn em
+ Kể một việc làm tốt góp phần bảo vệ trật tự, an toàn nơi làng xóm, phố
phường
+ Kể một chuyện nói lên truyền thống tôn sư trọng đạo của người Việt
Nam hoặc một kĩ niệm về thầy giáo, cô giáo
+ Kể một chuyện về việc gia đình, nhà trường hoặc xã hội chăm sóc, bảo
vệ thiếu nhi hoặc em cùng các bạn làm công tác xã hội
1.2.1.2. Quy trình dạy học phân môn kể chuyện hiện nay
Hiện nay có hai quy trình dạy học phân môn Kể chuyện phổ biến cho 3
dạng bài tập kể chuyện trên đó là:
* Dạy bài nghe- kể
a. Kiểm tra bài cũ
b. Định hướng chú ý của HS vào bài mới: GV giới thiệu chuyện bằng lời
hoặc bằng lời kết hợp đồ dùng trực quan hoặc băng hình.
c. HS nghe kể chuyện
- GV kể lần 1, HS nghe.
- GV kể lần 2, vừa kể vừa chỉ vào tranh, HS kết hợp nhìn hình minh hoạ.
d. HS tập kể chuyện
- Kể từng đoạn nối tiếp nhau trong nhóm.

- Kể toàn bộ câu chuyện trong nhóm.
- Thi kể từng đoạn nối tiếp nhau trước lớp.
- Thi kể toàn bộ câu chuyện trước lớp.
e. HS tìm hiểu nội dung, ý nghĩa câu chuyện
- Nói về nhân vật chính.
- Nói về ý nghĩa câu chuyện.
g. Củng cố, dặn dò
* Dạy bài kể chuyện đã nghe, đã đọc; đã chứng kiến hoặc tham gia

15
a. Kiểm tra bài cũ
b. Định hướng chú ý của HS vào bài mới.
- GV giới thiệu yêu cầu kể chuyện của tiết học
c. HS tìm những ví dụ phù hợp với yêu cầu của tiết học ( theo gợi ý trong
SGK)
d. HS tập kể chuyện
- Kể trong nhóm.
- Thi kể trước lớp.
e. HS trao đổi với nhau về nội dung, ý nghĩa câu chuyện
- Nói về nhân vật chính
- Nói về ý nghĩa câu chuyện.
g. Củng cố, dặn dò
1.2.2. Kết quả khảo sát
1.2.2.1. Quan điểm của GV và HS về việc dạy và học phân môn Kể chuyện
a) Học sinh
Đối tượng tôi nghiên cứu là HS lớp 5 của trường tiểu học có điều kiện về cơ
sở vật chất tốt và môi trường học tập ở lớp là hai buổi sáng -chiều thì việc dạy học
kể chuyện là một thuận lợi. Hầu hết các em HS đều được cha mẹ quan tâm, tạo
điều kiện cho các em được tiếp xúc với môi trường học tập khá tốt từ gia đình đến
lớp học cũng như việc tham gia các hoạt động của nhà trường - Đội Thiếu niên

Tiền phong Hồ Chí Minh. Lứa tuổi các em cũng rất hiếu động, thích tìm hiểu,
thích khám phá. Và người GV với phương pháp dạy học tích cực hiện nay cũng là
một phương tiện giúp HS thực hành khi kể chuyện, thể hiện câu chuyện, thể hiện
mình. Nếu có hoạt động dạy học kể chuyện phù hợp, HS có thể nắm nội dung,
thuộc lời kể và ghi nhớ một cách dễ dàng câu chuyện đã được nghe.
Bằng phương pháp điều tra, tiếp xúc với các em HS tôi đã phần nào nắm
được cái nhìn và thái độ của các em hiện nay về phân môn Kể chuyện. Khi được
hỏi “Em có thích phân môn Kể chuyện không?” thì đa số câu trả lời của HS là
rất ưa thích phân môn Kể chuyện.
Tìm hiểu lý do HS yêu thích phân môn này, tôi nắm được một số lý do sau:
- Phần lớn HS tiểu học thích phân môn Kể chuyện vì trong các câu truyện có
nhiều điều lý thú, phù hợp với tâm lý lứa tuổi, có tác dụng giáo dục đối với các em.

16
- Ngoài ra, các em HS còn yêu thích phân môn Kể chuyện vì các lý do khác
như: trong truyện có những nhân vật em thích, những nhân vật quen thuộc với
các em từ nhỏ, truyện giúp các em giải trí.
Như vậy HS tiểu học nhìn chung đã nhận thức đúng tác dụng của phân môn
Kể chuyện đối với bản thân. Đa số HS đều nắm được những điều tốt đẹp mà các
câu chuyện muốn gửi gắm tới các em.
Khi được hỏi: “Em thích nghe thầy cô giáo kể chuyện hay nghe thầy cô
giáo đọc truyện ?” thì 100% HS đều trả lời: “ Em thích nghe thầy cô giáo kể
chuyện”. Điều này chứng tỏ HS tiểu học rất hứng thú nghe thầy cô giáo kể
chuyện hơn là nghe thầy cô giáo cầm sách đọc lại truyện.
Một điều đáng chú ý là khi điều tra về nhu cầu, hứng thú kể chuyện và hoạt
động kể trong giờ kể chuyện thì phần phần lớn HS được điều tra thích được kể
chuyện cho thầy cô giáo và các bạn nghe. Số còn lại không thích tự mình kể
chuyện mà chỉ thích nghe người khác kể chuyện cho nghe mà thôi.
b) Giáo viên
Khi đã tiến hành thăm dò ý kiến bằng phiếu điều tra và tiến hành vấn đáp

với một số GV ở trường Tiểu học 15 - 10, Thị trấn Mộc Châu, Huyện Mộc
Châu, tỉnh Sơn La, tôi đã thu được những kết quả sau:
- Đa số GV được điều tra trả lời phân môn Kể chuyện có vai trò giáo dục
rất quan trọng đối với HS tiểu học.
- Không có GV nào cho rằng phân môn Kể chuyện không có tác dụng đối
với HS tiểu học.
- 100% GV được phỏng vấn đều cho rằng hoạt động kể chuyện gây được
hứng thú cho HS trong giờ học kể chuyện, giúp các em nhanh chóng nắm được
nội dung truyện.
Tuy nhiên phân môn Kể chuyện không phải là phân môn được đưa vào
kiểm tra học kì như các phân môn: Tập đọc, Luyện từ & câu, Tập làm văn, nên
ít được GV chú trọng đầu tư.
1.2.2.2. Thuận lợi
- Hiện nay đã có nhiều nguồn thông tin, sách báo để GV tham khảo, nghiên
cứu, tự học để nâng cao tay nghề. Nội dung chương trình đã được lựa chọn biên
soạn phù hợp với HS lớp 5 giúp các em dễ dàng tiếp cận và ham thích phân môn
Kể chuyện.

17
- Là một trường Tiểu học nằm ở nơi có điều kiện kinh tế phát triển, là
trường trung tâm của một huyện vì vậy trường luôn được sự quan tâm của các tổ
chức giáo dục, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho GV và HS về cơ sở vật chất, đồ
dùng dạy học cũng được trang bị tương đối đầy đủ.
- Trường tiểu học 15 – 10 có nhiều GV lâu năm trong nghề với kinh
nghiệm sẵn có, lòng yêu nghề, nhiệt huyết với nghề luôn là một thế mạnh trong
viêc đào tạo và giáo dục con người HS tiểu học.
- HS thị trấn hầu hết có điều kiện về kinh tế, vật chất, khả năng hòa nhập,
giao tiếp và khả năng sử dụng ngôn ngữ phát triển khá tốt. Bên cạnh đó các em
đã có ý thức học tập, ham học hỏi, chuyên cần. Đây chính là điều kiện tiên quyết
cho việc học tập có hiệu quả của các em.

- Khối lớp 5 chỉ có 2 lớp với 48 HS, mỗi lớp có 24 HS. Số lượng HS ở
mỗi lớp ít tạo điều kiện cho GV quan tâm tới việc học tập của HS, đồng thời HS
có nhiều cơ hội để thể hiện mình.
1.2.2.3. Khó khăn
- Thực tế hiện nay còn có một số GV chưa xem trọng giờ kể chuyện trên
lớp nên chưa có sự đầu tư đúng mức cho tiết dạy. Trong giờ kể chuyện nhiều
GV chỉ chú trọng cho HS tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của câu chuyện, mới chỉ
dừng lại ở mức yêu cầu HS đọc thuộc lòng truyện mà ít chú ý đến việc rèn luyện
cho HS kỹ năng kể chuyện bằng ngôn ngữ của mình cũng như cảm thụ nội dung
câu chuyện.
- Sĩ số HS ở lớp 5 với số lượng HS là người dân tộc Thái và H’Mông
chiếm ưu thế. Số lượng HS dân tộc được thể hiện qua bảng sau:
Lớp
Tổng số
Dân tộc ít người
5A
24
15
5B
24
16
Các em sống trong môi trường gia đình là người dân tộc thiểu số và
thường sử dụng tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp hàng ngày. Chính vì vậy, khả năng
nói tiếng Việt của các em còn gặp nhiều khó khăn nên việc kể chuyện bằng ngôn
ngữ tiếng Việt cũng như cách diễn đạt qua từng vai của nhân vật trong truyện
vẫn còn hạn chế.
- Một số HS còn có tâm lí thiếu tự tin, mất bình tĩnh khi đứng trước đám
đông. Hầu hết các em chưa thấy được vai trò của kể chuyện đối với giáo dục và

18

trong cuộc sống nên thời gian các em HS dành cho môn học kể chuyện này còn
ít, hứng thú học tập của các em cũng chưa nhiều.
- Thư viện trường chưa có nhiều sách báo để GV tham khảo và nghiên cứu.
1.2.2.4. Số liệu thống kê
Trong quá trình nghiên cứu làm đề tài, tôi đã đi thực tế, tiếp xúc với GV và
HS khối lớp 5 trong nhà trường để tìm hiểu về thực trạng dạy và học kể chuyện.
Tôi đã làm 1 cuộc khảo sát nhỏ và điều tra thực tế để đưa ra những số liệu thống
kê cụ thể về tình hình thực tế của việc dạy và học kể chuyện trong nhà trường.
Đối tượng tôi tiếp xúc là 48 HS khối lớp 5 trường Tiểu học 15 – 10, thị
trấn Mộc Châu, Huyện Mộc Châu, Tỉnh Sơn La.
` - Trước khi thực hiện đề tài này, tôi thu được số liệu từ 48 HS như sau:
Câu 1: Em có thích môn Kể chuyện không ?

Thích
Bình thường
Không thích
Số lượng
21
19
8
%
43,75
39,58
16,67
Câu 2: Trong giờ học Kể chuyện, em có cảm thấy hứng thú với các hoạt
động kể chuyện không ?

Rất hứng thú
Hứng thú
Hoàn toàn không

Số lượng
18
22
8
%
37,5
45,83
16,67
Câu 3: Em dành thời gian như thế nào cho việc thực hành luyện tập kể
chuyện ?

Rất nhiều
Nhiều
Vừa phải
Ít
Không dành
thời gian
Số lượng
5
7
10
24
2
%
10,42
14,58
20,83
50
4,17


×