Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón lá và chế phẩm vi sinh biogro đến sinh trưởng, phát triển và năng suất lúa tại duy tiên – hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 120 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan, các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã
được chỉ rõ nguồn gốc./.
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Đức
i
LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc tôi xin chân thành cảm ơn GS.TS. Hoàng Minh
Tấn đã trực tiếp hướng dẫn chỉ bảo tận tình giúp tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Nông
nghiệp – Hà Nội, Lãnh đạo Khoa Sau Đại học, Khoa Nông học, đặc biệt các
thầy, cô giáo trong Bộ môn Sinh lý thực vật.
Tôi bày tỏ lời cảm ơn tới Uỷ ban nhân dân huyện Duy Tiên, anh chị
em đồng nghiệp, gia đình, bạn bè đã động viên tạo mọi điều kiện tốt nhất để
tôi hoàn thành luận văn này.
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Đức

ii
MỤC LỤC
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
6. TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
iii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Sản xuất lúa gạo ở Việt nam trong những năm gần đây Error:
Reference source not found
Bảng 2.2: Nhu cầu và cân đối phân bón ở Việt Nam đến năm 2020 Error:
Reference source not found
Bảng 4.1. Ảnh hưởng của phân bón lá đến thời gian sinh trưởng qua các giai đoạn.Error:


Reference source not found
Bảng 4.2. Ảnh hưởng của phân bón lá đến động thái tăng trưởng chiều cao cây
Error: Reference source not found
Bảng 4.3. Ảnh hưởng của phân bón lá đến động thái tăng trưởng số lá của lúa
Error: Reference source not found
Bảng 4.4. Ảnh hưởng của phân bón lá đến động thái đẻ nhánh của lúa Error:
Reference source not found
Bảng 4.5: Ảnh hưởng của phân bón lá đến chỉ số diện tích lá (LAI ) Error:
Reference source not found
Bảng 4.6: Ảnh hưởng của phân bón lá đến khả năng tích lũy chất khô Error:
Reference source not found
Bảng 4.7. Ảnh hưởng của phân bón lá đến khả năng chống chịu sâu, bệnh hại
Error: Reference source not found
Bảng 4.8. Ảnh hưởng của phân bón qua lá đến các yếu tố cấu thành năng
suất và năng suất trên hai giống lúa Khang Dân 18 và Nàng Xuân Error:
Reference source not found
Bảng 4.9: Ảnh hưởng của phân bón qua lá đến hiệu quả kinh tế Error:
Reference source not found
Bảng 4.10. Ảnh hưởng của phân bón Biogoro đến thời gian sinh trưởng qua các giai
đoạn Error: Reference source not found
iv
Bảng 4.11. Ảnh hưởng của phân bón Biogro đến động thái tăng trưởng chiều cao
cây lúa Error: Reference source not found
Bảng 4.12. Ảnh hưởng phân bón Biogro đến động thái tăng trưởng số lá của lúa
Error: Reference source not found
Bảng 4.13. Ảnh hưởng của phân bón Biogro đến tốc độ đẻ nhánh của lúa Error:
Reference source not found
Bảng 4.14. Ảnh hưởng của phân bón Biogro đến chỉ số diện tích lá LAI Error:
Reference source not found
Bảng 4.15. Ảnh hưởng của phân bón Biogro đến khả năng tích lũy chất khô Error:

Reference source not found
Bảng 4.16. Ảnh hưởng của phân bón Biogro đến khả năng chống chịu sâu,
bệnh hại Error: Reference source not found
Bảng 4.17: Ảnh hưởng của phân bón qua rễ đến các yếu tố cấu thành năng
suất trên hai giống lúa Khang Dân 18 và Nàng Xuân Error: Reference source
not found
Bảng 4.18. Ảnh hưởng của phân bón Biogro đến hiệu quả kinh tế Error:
Reference source not found
v
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 4.1: Ảnh hưởng của phân bón lá đến chiều cao cuối cùng 43
Hình 4.2: Ảnh hưởng của phân bón lá đến số nhánh hữu hiệu 47
Hình 4.3: Ảnh hưởng của phân bón lá đến NSTT 56
Hình 4.4: Ảnh hưởng của phân bón lá đến hiệu quả kinh tế 59
Hình 4.5: Ảnh hưởng của phân bón Biogro đến chiều cao cây cuối cùng 62
Hình 4.6: Ảnh hưởng của phân bón Biogro đến NSTT 71
Hình 4.7: Ảnh hưởng của phân bón Biogro đến hiệu quả kinh tế 74
vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
LAI : Chỉ số diện tích lá
NSTT : Năng suất thực thu
NSLT : Năng suất lý thuyết
CT : Công thức
NL : Nhắc lại
Đ/C : Đối chứng
BĐĐN : Bắt đầu đẻ nhánh
ĐNTĐ : Đẻ nhánh tối đa
TGST : Thời gian sinh trưởng
HT : Hoàn toàn
DM : Khối lượng chất khô tích luỹ

VK : Vi khuẩn
vii
1. MỞ ĐẦU
1.1.Tính cấp thiết của đề tài.
Ở cây lúa, lượng phân đạm bón có tương quan thuận chặt với năng
suất hạt. Nhưng bón nhiều phân đạm để tăng năng suất có thể lãng phí và
gây ô nhiễm môi trường do lượng dư thừa mà cây không sử dụng hết. Vì
vậy, bón phân đạm cho lúa để vừa đạt được năng suất cao vừa giữ được cân
bằng dinh dưỡng trong đất, tránh lãng phí và bảo vệ môi trường là rất cần
thiết (Bertrand, 2001).
Theo FAO, sản lượng lúa nước ta tăng từ 32,1 nghìn tấn (2001) lên
36,8 nghìn tấn (2008). Trong đó, 17-25% sản lượng lương thực tăng là do sử
dụng phân hoá học, chủ yếu N, P, K. Song nền nông nghiệp ở nước ta đang
đứng trước thực trạng là đang sử dụng phân bón ở mức cao và mỗi năm
chúng ta phải nhập khẩu hơn 60% lượng phân bón từ nước ngoài. Việt Nam
là một trong 20 quốc gia sử dụng phân bón cao nhất thế giới (Vũ Hữu Yêm,
2004) [22]. Trong khi nhiều nước phát triển đang có xu hướng giảm sử dụng
phân bón thì các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam lại có chiều
hướng sử dụng tăng mạnh. Lượng phân bón sử dụng tăng trung bình 9% mỗi
năm trong 15 năm qua và trong thời gian tới có xu hướng tăng khoảng 10%
mỗi năm. Bên cạnh đó hệ số sử dụng phân bón ở nước ta thấp (30% – 40% đối
với phân đạm, 22% phân lân, 45% K ). Vì vậy mà các hình thức bón phân cho
lúa ngày càng đa dạng thông qua các dạng hấp thụ dinh dưỡng của cây như qua
rễ, qua lá, qua các bộ phận khác trên cây. Sự kết hợp hợp lý giữa các cách thức
bón sẽ mang lại hiệu quả tốt nhất đối với cây trồng và môi trường sống. Phân
bón lá là hỗn hợp của một số phân đa lượng, vi lượng và một số chất điều hoà
sinh trưởng (Lê Văn Tri, 2001)[19]. Dùng phân bón lá có nhiều ưu điểm:
Chất dinh dưỡng được cung cấp cho cây nhanh hơn bón gốc, hiệu suất sử
1
dụng dinh dưỡng cao hơn, chi phí thấp hơn, ít ảnh hưởng đến môi trường và

đất trồng (Nguyễn Huy Phiêu và cs, 1994)[13].
Vì vậy để nâng cao hiệu quả kinh tế cần cung cấp phân bón hợp lý, sử
dụng phân bón lá kết hợp bón phân hoá học ở mức thấp, đảm bảo cung cấp
đầy đủ các chất dinh dưỡng cho cây. Do đó việc kết hợp bón phân qua rễ và
qua lá cho cây lúa để tăng năng suất và chất lượng là điều cần thiết.
Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi tiến hành đề tài:
“Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón lá và chế
phẩm vi sinh Biogro đến sinh trưởng, phát triển và năng
suất lúa tại Duy Tiên – Hà Nam”.
1.2.Mục đích và yêu cầu:
1.2.1. Mục đích.
Trên cơ sở nghiên cứu ảnh hưởng của một số phân bón lá và chế
phẩm vi sinh Biogro đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của lúa để đề
xuất biện pháp sử dụng có hiệu quả của các chế phẩm, phân bón này cho lúa
tại Hà Nam.
1.2.2.Yêu cầu:
- Xác định ảnh hưởng của một số loại phân bón lá đến các chỉ tiêu
nông sinh học của giống lúa Khang dân 18 và Nàng Xuân.
- Đánh giá ảnh hưởng của chế phẩm vi sinh Biogro bón qua rễ đến các chỉ
tiêu sinh trưởng, phát triển và năng suất giống lúa Khang dân 18 và Nàng Xuân.
1.3.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
1.3.1. Ý nghĩa khoa học.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp các dấu hiệu khoa học có
giá trị về ảnh hưởng của một số loại phân bón lá và chế phẩm vi sinh Biogro
đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của giống lúa Khang Dân 18 và
Nàng Xuân tại Hà Nam.
2
- Có thể sử dụng kết quả của đề tài như là tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và sử dụng các chế phẩm này cho lúa ở các địa phương khác.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn.

Bổ xung vào quy trình thâm canh của 2 giống lúa Khang Dân 18 và
Nàng Xuân tại Hà Nam.
1.4. Giới hạn của đề tài.
- Thí nghiệm được thực hiện từ tháng 6 năm 2010 đến tháng 6 năm
2011 tại xã Trác Văn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
- Đề tài chỉ giới hạn trên một số loại phân bón lá thông dụng và phân hữu cơ
vi sinh Biogro trên 2 giống lúa trồng phổ biến ở địa phương là Khang Dân 18 và
Nàng Xuân
Do đề tài được thực hiện tại địa phương nên một số chỉ tiêu về sinh lý,
hóa sinh không có điều kiện để xác định mà chỉ giới hạn ở một số chỉ tiêu
nông học đối với cây lúa.
3
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Đặc điểm chung về cây lúa
2.1.1 Nguồn gốc và phân loại
Cây lúa là cây trồng có lịch sử trồng trọt lâu đời. Căn cứ vào các tài
liệu khảo cổ ở Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam…, cây lúa đã có mặt từ 2000
– 3000 năm trước công nguyên. Theo Lu và cs, 1996 cho rằng lúa trồng ở
Châu Á xuất hiện cách đây 8.000 năm (Nguyễn Đình Giao và cs, 2001) [19].
Từ trung tâm khởi nguyên là Ấn Độ và Trung Quốc, cây lúa được
phát triển cả về hai hướng đông và tây. Cho đến thế kỷ thứ nhất, cây lúa
được đưa vào trồng ở vùng Địa Trung Hải như Ai Cập, Italia, Tây Ban Nha.
Đến đầu thế kỷ thứ XV cây lúa từ Bắc Italia nhập vào các nước Đông Nam
Âu như Nam Tư, Bungari, Rumani…Đầu thế chiến thứ hai, lúa mới được
trông đáng kể ở Pháp, Hungari.
Có ý kiến cho rằng lúa được hình thành đầu tiên ở vùng Tây Bắc Ấn
Độ, Myanma, Thái Lan, Lào, Nam Trung Quốc, Việt Nam. Watt G, 1908 và
Vavilop NT, 1926 cho rằng cây lúa bắt nguồn từ Ấn Độ (dẫn theo Nguyễn
Đình Giao và cs, 2001) [19].
G. Second khi nghiên cứu mối quan hệ của các loài trong chi Oryza

cho rằng loài O. Sativa hình thành từ loài O.rufipogon Châu Á, mối quan hệ
giữa loài O. sativa và các loài khác với các loài lúa dại có thể được giải thích
do sự phân nhánh trong quá trình tiến hoá do thay đổi khí hậu ở thế giới cổ
đại kỷ thứ 3.
Từ đó mà lúa trồng hiện nay được phân loại thực vật có tên danh pháp
khoa học Oryza sativa L. với bộ nhiễm sắc thể 2n = 24 và được xếp như sau
trong thang phân loại:
- Loại cây 1 lá mầm: Monocotyledoneae.
- Họ hoà thảo: Gramineae.
- Chi: Oryza
4
- Loài: Oryza sativa.
- Tên khoa học: Oryza sativa L.
Bên cạnh đó nó còn được phân loại theo loài phụ :
- Oryza sativa ssp Indica (Lúa tiên)
- Oryza sativa ssp Japonica (Lúa cánh)
- Oryza sativa ssp Javanica
2.1.2 Đặc điểm sinh trưởng, phát triển
Lúa là một trong những cây lương thực chủ yếu và quan trọng trên thế
giới, có ảnh hưởng tới đời sống ít nhất 65% số dân trên thế giới. Ở Việt
Nam, lúa vừa đảm bảo lương thực cho hầu hết dân số, vừa đóng góp vào việc
đưa Việt Nam trở thành quốc gia xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới. Ngoài
việc sử dụng làm lương thực, các sản phẩm phụ của cây lúa còn được sử
dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Lúa có thể gieo trồng trong điều kiện nhiệt đới và á nhiệt đới. Cây lúa
có thể sinh trưởng trong phạm vi nhiệt độ từ 10
0
C đến 40
0
C, nhiệt độ thích

hợp nhất cho cây sinh trưởng là từ 22
0
C đến 30
0
C. Khi nhiệt độ thấp hơn
20
0
C, cây lúa chậm phát triển, thấp hơn 15
0
C gây hại cây lúa (mức độ hại
tùy thuộc vào giai đoạn sinh trưởng). Cường độ ánh sáng thuận lợi cho hoạt
động quang hợp của cây lúa là 250 - 400calo/cm
3
/ngày. Thời gian chiếu sáng
ngắn 9 – 10 giờ/ngày có tác dụng rõ đối với việc xúc tiến quá trình làm đòng
và trỗ bông của cây lúa.
Yêu cầu về nước của cây lúa cũng đặc biệt, trong đất ngập nước, cây
lúa được cung cấp nước thuận lợi nhất và cho năng suất cao, ổn định nhất.
Cây lúa có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau nhưng đất trồng lúa tốt
cần có khả năng giữ nước tốt, có thành phần cơ giới thịt trung bình, hay
nặng, có pH thích hợp nhất trong khoảng 5,5-6,0, giàu các chất dinh dưỡng.
Tuỳ theo điều kiện thời tiết khí hậu ở các vùng khác nhau mà thời vụ
gieo cấy khác nhau. Ở Đồng bằng Bắc bộ có hai vụ chính: vụ Mùa và vụ Xuân,
5
mỗi vụ đều có thể chia ra các trà cấy sớm, chính vụ và muộn. Vụ Mùa có thời vụ
cấy của 3 trà từ 25/6 - 25/8. Vụ Xuân có thời vụ cấy của 3 trà cấy từ 15/1 – 5/3.
Thời gian sinh trưởng của cây lúa thay đổi từ 90 đến 180 ngày, tuỳ
theo giống và điều kiện ngoại cảnh. Ở miền Bắc, do thời tiết biến động trong
năm, nên thời gian sinh trưởng của cây lúa cũng thay đổi theo thời vụ cấy.
Trong điều kiện bình thường, các giống có khả năng thâm canh tăng vụ cao

thường có thời gian sinh trưởng khoảng 100-120 ngày. Đối với các giống lúa
thường có thời kỳ sinh trưởng sinh thực khoảng 60 ngày, trong đó có thời kỳ
làm đòng khoảng 30 ngày và thời kỳ chín khoảng 30 ngày. Sự khác nhau của
các giống lúa về thời gian sinh trưởng chủ yếu là ở thời kỳ sinh trưởng dinh
dưỡng. Lúa cấy thường chín muộn hơn lúa gieo thẳng khoảng 7 - 10 ngày do
phải mất thời gian bén rễ.
2.2 Tình hình sản xuất lúa trên thế giới và Việt Nam
2.2.1 Tình hình sản xuất lúa trên thế giới
Cây lúa có nguồn gốc nhiệt đới, dễ trồng, cho năng suất cao. Hiện nay
trên thế giới hiện nay có trên 100 quốc gia trồng lúa, diện tích lúa gạo tương
đối lớn, đứng thứ 2 sau lúa mỳ. Trong đó Châu Á là châu lục đứng đầu thế
giới về diện tích cũng như sản lượng, tiếp theo là Châu Phi, Bắc Mỹ đến
Nam Mỹ Vùng trồng lúa tương đối rộng: có thể trồng ở các vùng có vĩ độ
cao như Hắc Long Giang (Trung Quốc) 53
0
B; Tiệp 49
0
B, Nhật, Italia, Nga
(Krasnodar) 45
0
B đến nam bán cầu, New South Wales (Australia): 35
0
N.
Vùng phân bố chủ yếu ở Châu Á từ 30
0
B đến 10
0
N
Sản xuất lúa gạo trong những thập kỷ gần đây đã có mức tăng đáng
kể, nhưng do dân số tăng nhanh, nhất là ở các nước đang phát triển (Châu Á,

Châu Phi, Châu Mỹ La Tinh) nên vấn đề lương thực vẫn là yêu cầu cấp bách
phải quan tâm trong những năm trước mắt và lâu dài.
Theo thống kê của tổ chức Nông nghiệp và Lương thực của Liên hợp
quốc (FAO) thì trong vòng 30 năm từ năm 1970 đến năm 2000 diện tích
6
trồng lúa tăng từ 134.390 nghìn ha lên 154.377 nghìn ha. Tổng sản lượng
lương thực tăng từ 308,76 triệu tấn lên 598,98 triệu tấn.
Nhìn tổng quan về diện tích và năng suất thì năm 2008 có diện tích
trồng lúa thấp nhất đạt 148.730 ha nhưng lại có năng suất cao nhất là 42,1
tạ/ha. Sở dĩ có sản lượng cao như vậy là do áp dụng được các tiến bộ về
khoa học kỹ thuật như: Đầu tư phân bón, sử dụng các giống lúa mới có năng
suất cao và phẩm chất tốt, xây dựng cơ sở vật chất, hoàn chỉnh về biện pháp
kỹ thuật. Năng suất bình quân trên thế giới trong mấy năm gần đây có xu
hướng tăng lên rõ rệt. Năm 2004, năng suất đạt 39,7 tạ/ha và năm 2006 đạt
40,3 tạ/ha và đến năm 2008 năng suất đạt 42,1 tạ/ha.
Về sản lượng lúa của thế giới trong những năm gần đây tăng nhanh,
trong đó sản lượng đạt thấp nhất vào năm 2004 là 608, 49 triệu tấn. Năm
2008 có sản lượng cao nhất đạt 626,15 triệu tấn.
Tốc độ tăng năng suất và sản lượng lúa của các nước trong khu vực
Châu Á đã góp phần đảm bảo lương thực, thực phẩm, cung cấp cho toàn cầu
một cách tích cực và có vai trò quan trọng. Năm 2008, tổng sản lượng lương
thực về lúa của Châu Á là 582,39 triệu tấn, chiếm 94,9% sản lượng lúa toàn thế
giới. Như vậy Châu Á có thể coi là nguồn cung cấp lương thực cho toàn cầu.
Theo số liệu dự đoán về sự phát triển dân số thế giới đến năm 2050 thì
đến năm 2010 dân số thế giới sẽ là 6,795 tỷ người với tỷ lệ tăng hàng năm
1,2%. Đến năm 2050 là 8,9 tỷ người với tỷ lệ tăng hàng năm 0,4%. Với tốc
độ tăng dân số nhanh chóng, diện tích đất trồng trọt ngày càng bị thu hẹp thì
vấn đề an ninh lương thực vẫn luôn đóng vai trò quan trọng hàng đầu với
nhiều quốc gia trên thế giới.
Những tiến bộ trong sản xuất lúa trên thế giới trong vài ba thập kỷ qua

rất đáng khích lệ. Việc đầu tư thâm canh, áp dụng giống mới, xây dựng cơ
sở vật chất, hoàn chỉnh các biện pháp kỹ thuật… là những lý do để đạt được
kết quả trên.
7
2.2.2 Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước có điều kiện khí hậu nhiệt đới nên
rất thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của các loại cây trồng, trong
đó đặc biệt là cây lúa. Từ lâu cây lúa đã trở thành cây lương thực chủ yếu và
có ý nghĩa đáng kể trong nền kinh tế xã hội của đất nước. Với địa bàn trải
dài trên 15 vĩ độ Bắc bán cầu, đã hình thành những vùng đồng bằng châu thổ
trồng lúa phì nhiêu trong đó đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu
Long là 2 vựa lúa lớn nhất của nước ta, cung cấp nguồn lương thực chủ yếu
nuôi sống cả mấy chục triệu con người.
Trước năm 1945, diện tích trồng lúa của hai đồng bằng Bắc Bộ và
Nam Bộ là 1,8 triệu ha và 2,7 triệu ha với sản lượng tương ứng là 2,4 triệu
tấn và 3 triệu tấn, năng suất bình quân là 13 tạ/ha. Khoảng hai thập kỷ sau,
vào những năm của thập kỷ 60 miền Bắc có phong trào phấn đấu đạt 5
tấn/ha/năm cho đến năm 1974 đạt đạt được mục tiêu này. Năng suất lúa bình
quân đạt 51,4 tạ/ha/năm (Nguyễn Đình Giao và cs) [19]. Sau năm 1975 đất
nước ta hoàn toàn thống nhất, sản xuất lúa ở nước ta đã có những bước phát
triển đáng kể, đã đưa đất nước ta từ một nước nhập khẩu khoảng 0,8 triệu
tấn trở thành một nước tự túc lương thực cho 70 triệu dân, ngoài ra cũng có
một phần dành cho xuất khẩu (Nguyễn Đình Giao và cs) [19].
Sau năm 1975, trong điều kiện đất nước thống nhất sản xuất lúa ở
nước ta đã có những thuận lợi mới và đã có những bước phát triển đáng kể.
Bình quân lương thực tiêu thụ của Việt Nam năm 1975 đạt 200
kg/người/năm, năm 1985 đạt 300kg/người/năm và đến năm 2001 đạt 420
kg/người/năm.
Theo đánh giá của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp
quốc (FAO), hiện tại trong 10 nước trồng lúa lớn nhất thế giới, Việt Nam

xếp hạng thứ 5 với 7,5 triệu ha gieo trồng, sản lượng 34,5 triệu tấn lúa/năm,
xếp sau Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônexia và Bănglades.
8
Những năm gần đây sản xuất lúa gạo ở Việt Nam đã đạt được những
thành tựu rất ấn tượng với cộng đồng quốc tế. Từ một nước thiếu lương thực,
Việt nam đã từng bước vươn lên trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu
gạo hàng đầu thế giới.
Kể từ năm 1989, năm đầu tiên Việt nam có gạo xuất khẩu đến nay Việt
Nam đã đóng góp với thế giới trên 40,7 triệu tấn gạo với giá trị trên 9 tỷ USD,
từng bước vươn lên trở thành quốc gia đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo.
Năng suất và sản lượng lúa tăng do nhiều nguyên nhân, trong đó trước
tiên là những thay đổi về cơ chế chính sách mới trong nông nghiệp nông
thôn, sau đó là những thay đổi trong kỹ thuật trồng lúa. Nhờ có sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước với chủ trương của Bộ Nông nghiệp & Phát triển
nông thôn, tình hình sản xuất lúa của nước ta mấy chục năm gần đây đã có
sự tăng trưởng mạnh.
Diện tích trồng lúa những năm gần đây của nước ta không ổn định và
có xu hướng giảm xuống, biến động từ 7,41 triệu ha xuống còn 7,31 triệu ha,
năm 2008 có diện tích thấp nhất là 7,31 triệu ha. Diện tích trồng lúa của
nước ta trong năm gần đây có xu hướng giảm qua các năm và nguyên nhân
gây ra sự biến đổi đó là do dân số tăng, các khu công nghiệp và đô thị hình
thành. Đây là xu hướng không có lợi cho việc phát triển nông nghiệp nói
chung và nghành trồng lúa nói riêng.
Năng suất lúa có xu hướng ngày càng tăng được thể hiện qua các năm.
Năm 2004, năng suất đạt 47,9 tạ/ha và năm 2008 năng suất đạt 51,1 tạ/ha.
Có được sự tăng trưởng trên là do nhà nước đã có những chính sách đúng
đắn trong việc phát triển ngành nông nghiệp, đặc biệt là đối với nghề trồng
lúa cùng với việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Cùng với sự tăng năng suất thì sản lượng lúa của Việt Nam trong
những năm gần đây cũng có xu hướng tăng nhanh từ 35,5 triệu tấn năm

2004 lên tới 37,55 triệu tấn năm 2008, mặc dù diện tích trồng lúa từ năm
2004 đến năm 2008 giảm xuống chỉ còn 7,31 triệu ha. Tốc độ tăng trưởng
9
sản lượng lương thực lúa như vậy là một dấu hiệu đáng mừng cho ngành
nông nghiệp nước nhà.
Năng suất và sản lượng lúa của nước ta trong những năm qua và mấy
năm gần đây tăng lên cũng là do nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó trước
tiên là những thay đổi về chính sách trên phạm vi vĩ mô từ thời kỳ đổi mới mở
cửa, sau đó là những thay đổi về cơ cấu giống chuyển đổi mùa vụ, giải quyết
tưới tiêu, cải tạo đất phèn. Đặc biệt từ năm 1961 với cuộc cách mạng xanh, việc
đưa giống mới và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất đã từng
bước nâng cao năng suất cũng như sản lượng của nước ta ngày càng tăng
nhanh (Bùi Huy Đáp, 1980) [4].
Trên đồng ruộng cây lúa chịu ảnh hưởng tổng hợp của các điều kiện
khác nhau. Sự sinh trưởng , phát triển và năng suất lúa phụ thuộc rất nhiều vào
các yếu tố khách quan và chủ quan như điều kiện thời tiết, khí hậu, đất đai,
giống, phân bón, chế độ nước và kỹ thuật chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh…trong
đó chế độ dinh dưỡng hợp lý là yếu tố quan trọng để tăng năng suất lúa.
Bảng 2.1. Sản xuất lúa gạo ở Việt nam trong những năm gần đây
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
1990 6.042,8 31,8 19.225,1
1995 7.666,3 42,4 32.529,5
2001 7.492,7 42,9 32.108,4
2002 7.504,3 45,9 34.447,2

2003 7.452,2 46,4 34.568,8
2004 7.445,3 48,6 36.148,9
2005 7.329,2 48,9 35.832,9
2006 7.324,8 48,9 35.849,5
2007 7.201,0 49,8 35.867,5
2008 6.930,1 52,7 36.513,8
(Nguồn: Tổng cục thống kê, năm 2008)
Mặc dù sản lượng lúa tăng nhưng lợi nhuận từ sản xuất lúa năm 2008
không cao hơn so với năm trước do chi phí sản xuất tăng cao. Tốc độ tăng giá
10
lúa chỉ bằng 1/2 tốc độ tăng giá của các loại vật tư đầu vào, trong đó phần lớn
chi phí do đầu tư vào phân bón.
2.3 Yêu cầu dinh dưỡng của cây lúa
2.3.1 Yêu cầu dinh dưỡng đạm của cây lúa
N là một yếu tố dinh dưỡng quan trọng, quyết định sự sinh trưởng và
phát triển của cây trồng. N là một trong những nguyên tố cơ bản của cây
trồng, là thành phần cơ bản của axit amin, axit nucleotit và diệp lục. Trong
thành phần chất khô của cây có chứa từ 0,5 – 6% N tổng số. Hàm lượng N
trong lá liên quan chặt chẽ với cường độ quang hợp và sản sinh lượng sinh
khối. Đối với cây lúa thì N lại càng quan trọng hơn, nó có tác dụng trong
việc hình thành bộ rễ; thúc đẩy nhanh quá trình đẻ nhánh và sự phát triển
thân lá của lúa dẫn đến làm tăng năng suất lúa. Do vậy, N thúc đẩy cây sinh
trưởng nhanh (chiều cao, số dảnh) và tăng kích thước lá, số hạt, tỷ lệ hạt
chắc, hàm lượng protein trong hạt. N ảnh hưởng đến tất cả các chỉ tiêu sinh
trưởng, phát triển, các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất lúa.
N ảnh hưởng lớn đến việc hình thành đòng và bông lúa sau này, sự
hình thành số hạt trên bông, tỷ lệ hạt chắc, khối lượng nghìn hạt…
Lúa là cây trồng rất mẫn cảm với việc bón phân N. Nếu giai đoạn đẻ
nhánh mà thiếu N sẽ làm năng suất lúa giảm do đẻ nhánh ít, dẫn đến số bông
ít. Nếu bón không đủ lượng phân đạm sẽ làm thấp cây, đẻ nhánh kém, phiến

lá nhỏ, lá có thể biến thành màu vàng, bông đòng nhỏ, từ đó làm cho năng
suất giảm. Nhưng nếu bón thừa N lại làm cho cây lúa có lá to, dài, phiến lá
mỏng, dễ bị sâu bệnh, dễ lốp đổ; ngoài ra chiều cao phát triển mạnh, nhánh
vô hiệu nhiều, trỗ muộn, năng suất giảm. Khi cây lúa được bón đủ N thì nhu
cầu tất cả các chất dinh dưỡng khác như lân và kali đều tăng (Đỗ Thị Thọ,
2004) [11], (Lê Văn Tiềm, 1986) [15]. Theo Bùi Huy Đáp,1980 [4] , N là
yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng suất lúa, cây có đủ N thì các yếu tố khác
mới phát huy hết được tác dụng.
11
Nhu cầu N của cây lúa đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới đi
sâu nghiên cứu và có nhận xét chung là: nhu cầu N của cây lúa có tính chất
liên tục từ đầu thời kỳ sinh trưởng cho đến lúc thu hoạch. Trong suốt quá
trình sinh trưởng, phát triển của cây lúa, có hai thời kỳ mà nhu cầu dinh
dưỡng N cao nhất đó là thời kỳ đẻ nhánh rộ và thời kỳ làm đòng. ở thời kỳ
đẻ nhánh rộ cây hút nhiều N nhất (Cục khuyến nông và khuyến lâm, 1998)
[5], (Nguyễn Thị Lang, 1994) [26].
Theo Yoshida (1985) [39], lượng N cây hút ở thời kỳ đẻ nhánh quyết
định tới 74% năng suất. Bón nhiều N làm cây lúa đẻ nhánh khoẻ và tập
trung, tăng số bông /m
2
; số hạt/ bông, nhưng trọng lượng nghìn hạt (P
1000
) ít
thay đổi [64].
Theo các tác giả Đinh Văn Lữ (1978) [10]; Bùi Huy Đáp (1980) [4];
Đào Thế Tuấn (1980) [7] và Nguyễn Hữu Tề (1997) [20]: thông thường cây
lúa hút 70% tổng lượng N là trong giai đoạn đẻ nhánh, đây là thời kỳ hút N
có ảnh hưởng lớn đến năng suất, 10 – 15% là hút ở giai đoạn làm đòng,
lượng còn lại là từ giai đoạn sau làm đòng đến chín.
Qua nhiều năm nghiên cứu, Đào Thế Tuấn đã đi đến nhận xét: Cây

lúa được bón N thoả đáng vào thời kỳ đẻ nhánh rộ thúc đẩy cây lúa đẻ nhánh
khoẻ và hạn chế số nhánh bị lụi đi. ở thời kỳ đẻ nhánh của cây lúa, N có vai
trò thúc đẩy tốc độ ra lá, tăng tỉ lệ N trong lá, tăng hàm lượng diệp lục, tích
luỹ chất khô và cuối cùng là tăng số nhánh đẻ (Đào Thế Tuấn, 1980) [8].
Theo tác giả Bùi Đình Dinh, 1993 [3], cây lúa cũng cần nhiều N trong
thời kỳ phân hoá đòng và phát triển đòng thành bông, tạo ra các bộ phận
sinh sản. Thời kỳ này quyết định cơ cấu sản lượng: số hạt/bông, khối lượng
nghìn hạt (P
1000
) (Nguyễn Như Hà, 2005) [23].
S. Yoshida (1985) [39] cho rằng: ở các nước nhiệt đới lượng các chất
dinh dưỡng (N, P, K) cần để tạo ra một tấn thóc trung bình là: 20,5 kg N; 5,1
12
kg P
2
O
5
và 44 kg K
2
O. Trên nền phối hợp 90 P
2
O
5
– 60 K
2
O hiệu suất phân
N và năng suất lúa tăng nhanh ở các mức bón từ 40 – 120 kgN/ha.
Kết quả nghiên cứu của Đinh Văn Cự, tại xã Gia Xuyên – Tứ Lộc – Hải
Dương cho thấy: lượng N cần bón để đạt 1 tấn thóc phải từ 26 – 28 kg N. Kết
quả này cao hơn nhiều so với dự tính của Đào Thế Tuấn năm 1969, muốn đạt

được một tấn thóc cần 22,3 kg N trong vụ chiêm và 22,6 kg N trong vụ Mùa
(Lê Văn Tiềm, 1986) [14].
Theo kết quả tổng kết của Mai Văn Quyền (2002) [18], trên 60 thí
nghiệm thực tiễn khác nhau ở 40 nước có khí hậu khác nhau cho thấy: nếu
đạt năng suất lúa 3 tấn thóc/ha, thì lúa lấy đi hết 50 kg N, 260 kg P
2
O
5
, 80 kg
K
2
O, 10 kg Ca, 6 kg Mg, 5 kg S và nếu ruộng lúa đặt năng suất đến 6 tấn/ha
thì lượng dinh dưỡng cây lúa lấy đi là 100 kg N, 50 kg P
2
O
5
, 160 kg K
2
O, 19
kg Ca, 12 kg Mg, 10 kg S (Nguyễn Như Hà, 1999) [22]. Như vậy, trung bình
cứ tạo 1 tấn thóc, cây lúa lấy đi hết 17 kg N, 8 kg P
2
O
5
, 27 kg K
2
O, 3 kg
CaO, 2 kg Mg và 1,7 kg S.
Theo Yoshida (1985) [39], N là nguyên tố dinh dưỡng quan trọng nhất
đối với cây lúa trong các giai đoạn sinh trưởng và phát triển.

Sau khi tăng N thì cường độ quang hợp, cường độ hô hấp và hàm
lượng diệp lục của cây lúa tăng lên, nhịp độ quang hợp, hô hấp không khác
nhau nhiều nhưng cường độ quang hợp tăng mạnh hơn cường độ hô hấp gấp
10 lần cho nên vai trò của N làm tăng tích luỹ chất khô (Nguyễn Thị Lẫm,
1994) [25].
Nếu bón phân N với liều lượng cao thì hiệu suất cao nhất là bón vào
lúa đẻ nhánh và sau đó giảm dần. Với liều lượng bón N thấp thì bón vào lúc
lúa đẻ và trước trỗ 10 ngày có hiệu quả cao (Yoshida, 1985) [39].
Năm 1973, Xiniura và Chiba có kết quả thí nghiệm bón N theo 9 cách
tương ứng với các giai đoạn sinh trưởng, phát triển. Mỗi lần bón với 7 mức
N khác nhau, 2 tác giả trên đã có những kết luận sau:
13
+ Hiệu suất của N (kể cả rơm, rạ và thóc) cao khi lượng N bón ở mức thấp.
+ Có 2 đỉnh về hiệu suất, đỉnh đầu tiên là xuất hiện ở thời kỳ đẻ
nhánh, đỉnh thứ 2 xuất hiện ở 19 đến 9 ngày trước trỗ, nếu lượng N nhiều thì
không có đỉnh thứ 2. Nếu bón liều lượng N thấp thì bón vào lúc 20 ngày
trước trỗ, nếu bón liều lượng N cao thì bón vào lúc cây lúa đẻ nhánh (Gros.
A, 1977) [13], (Nguyễn Thị Lẫm,1994) [25].
Viện Nông hoá - Thổ nhưỡng đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của
đất, mùa vụ và liều lượng phân N bón đến tỷ lệ N cây lúa hút. Không phải
do bón nhiều N thì tỷ lệ N của lúa sử dụng nhiều. ở mức phân đạm 80 kg
N/ha, tỷ lệ sử dụng N là 46,6%, so với mức N này có phối hợp với phân
chuồng tỷ lệ N hút được là 47,4%. Nếu tiếp tục tăng liều lượng phân N đến
160N và 240N có bón phân chuồng thì tỷ lệ N mà cây lúa sử dụng cũng
giảm xuống. Trên đất bạc màu so với đất phù sa sông Hồng thì hiệu suất sử
dụng N của cây lúa thấp hơn. Khi bón liều lượng N từ 40N- 120N thì hiệu
suất sử dụng phân giảm xuống, tuy lượng N tuyệt đối do lúa sử dụng có tăng
lên (Nguyễn Thị Lẫm, 1994) [25].
Kết quả nghiên cứu sử dụng phân bón N trên đất phù sa sông Hồng
của Viện Khoa học Nông Nghiệp Việt Nam đã tổng kết các thí nghiệm 4

mức phân đạm từ năm 1992 đến 1994, kết quả cho thấy: phản ứng của phân
N đối với lúa phụ thuộc vào thời vụ, loại đất và giống lúa (Nguyễn Thị Lẫm,
1994) [25].
Viện nghiên cứu lúa đồng bằng sông Cửu Long đã có nhiều thí
nghiệm về “ảnh hưởng của liều lượng phân N khác nhau đến năng suất lúa
vụ Đông Xuân và Hè Thu trên đất phù sa đồng bằng sông Cửu Long ”. Kết
quả nghiên cứu trung bình nhiều năm, từ năm 1985- 1994 của Viện lúa
Đồng bằng sông Cửu Long, đã chứng minh rằng: trên đất phù sa được bồi
hàng năm có bón 60Kg P
2
O
5
và 30Kg K
2
O làm nền thì khi có bón N đã làm
tăng năng suất lúa từ 15- 48,5% trong vụ Đông Xuân và vụ Hè Thu tăng từ
14
8,5- 35,6%. Hướng chung của 2 vụ đều bón đến mức 90Kg N có hiệu quả
cao hơn cả, bón trên mức 90Kg N này năng suất lúa tăng không không đáng
kể (Nguyễn Thị Lẫm, 1994) [25].
Nguyễn Thị Lẫm (1994) [25], khi nghiên cứu về bón phân N cho lúa
cạn đã kết luận: liều lượng N bón thích hợp cho các giống có nguồn gốc địa
phương là 60Kg N/ha. Đối với những giống thâm canh cao như (CK136) thì
lượng N thích hợp từ 90Kg – 120Kg N/ha.
Theo Nguyễn Như Hà (1999) [22], ảnh hưởng của mật độ cấy và ảnh
hưởng của liều lượng N tới sinh trưởng của giống lúa ngắn ngày thâm canh
cho thấy: tăng liều lượng N bón ở mật độ cấy dày có tác dụng tăng tỷ lệ
nhánh hữu hiệu.
Thời kỳ bón N là thời kỳ rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu lực
của phân để làm tăng năng suất lúa. Với phương pháp bón N (bón tập trung

vào giai đoạn đầu và bón nhẹ vào giai đoạn cuối) của Việt Nam vẫn cho
năng suất lúa cao, năng suất lúa tăng thêm từ 3,5 tạ/ha (Cục khuyến nông và
khuyến lâm, 1998) [5], (Nguyễn Thị Lẫm, 1994) [25], (Nguyễn Văn Luật,
2001) [30].
Liều lượng bón cho 1 ha: 8 tấn phân chuồng + 120 kgN + 90 Kg P
2
O
5
+ 60 kg K
2
O. Kết quả thời kỳ bón cho thấy rất rõ hiệu quả của phân N trên
đất phù sa sông Hồng đạt cao nhất ở thời kỳ bón lót từ 50- 75% tổng lượng
N, lượng N bón nuôi đòng chỉ từ 12,5- 25% (Bộ Nông Nghiệp và PTNT,
1996) [1].
2.3.2 Yêu cầu dinh dưỡng P của cây lúa
Sau N thì P là yếu tố dinh dưỡng rất quan trọng đối với sinh trưởng và
phát triển của cây trồng, vì P là thành phần chủ yếu của axit nucleic, là thành
phần chủ yếu của nhân tế bào. Tác dụng chủ yếu của P được thể hiện trên
một số mặt sau:
- Xúc tiến sự phát triển của bộ rễ lúa, đặc biệt là rễ bên và lông hút.
15
- Làm tăng số nhánh và tốc độ đẻ nhánh lúa, sớm đạt số nhánh cực
đại, tạo thuận lợi cho việc tăng số nhánh hữu hiệu, dẫn đến làm tăng năng
suất lúa.
- Thúc đẩy việc ra hoa, hình thành quả, tăng nhanh quá trình trỗ, chín
của lúa và ảnh hưởng tích cực đến chất lượng hạt.
- Tăng khả năng chống chịu với các điều kiện bất thuận và sâu bệnh hại
- Thúc đẩy phân chia tế bào, tạo thành các hợp chất béo và protein.
- Ngoài ra, P còn có mối quan hệ chặt chẽ với sự hình thành diệp lục,
protit và sự vận chuyển tinh bột.

Khi thiếu P, lá lúa có màu xanh đậm, bản lá nhỏ hẹp và mềm yếu,
mép lá có màu vàng tía, đẻ nhánh kém, kéo dài thời kỳ chỗ chín. Nếu thiếu P
ở thời kỳ làm đòng sẽ ảnh hưởng rất rõ đến năng suất lúa, cụ thể là làm giảm
năng suất lúa. Khi cây lúa được cung cấp P thoả đáng sẽ tạo điều kiện cho
bộ rễ phát triển tốt, tăng khả năng chống hạn, tạo điều kiện cho sinh trưởng,
phát triển, thúc đẩy sự chín của hạt và cuối cùng là tăng năng suất lúa (Lê
Văn Tiềm 1996) [15].
Đào Thế Tuấn (1963) [6], cho biết: bón phân có ảnh hưởng đến phẩm
chất hạt giống rõ rệt, làm tăng trọng lượng nghìn hạt, tăng tỉ lệ P trong hạt,
tăng số hạt trên bông và cuối cùng là cho năng suất lúa cao hơn. Bùi Huy
Đáp, 1980 [4] cho rằng: P có vai trò quan trọng đối với quá trình tổng hợp
đường, tinh bột trong cây lúa và có ảnh hưởng rõ rệt đến năng suất. Theo Vũ
Hữu Yêm (1995) [38], cây non rất mẫn cảm với việc thiếu P. Thiếu P trong
thời kỳ cây non cho hiệu quả rất xấu, sau này dù có bón nhiều P thì cây cũng
trỗ không đều hoặc không thoát. Do vậy, cần bón đủ P ngay từ giai đoạn đầu
và bón lót phân P là rất có hiệu quả.
Dinh dưỡng P có liên quan mật thiết với dinh dưỡng N. Nếu bón đủ P
sẽ làm tăng khả năng hút N và các chất dinh dưỡng khác. Cây được bón cân
đối N, P sẽ xanh tốt, phát triển mạnh, chín sớm, cho năng suất cao và phẩm
16
chất tốt. Như vậy, muốn cho cây lúa sinh trưởng, phát triển và cho năng suất
cao thì không những cần cung cấp đầy đủ N mà còn cần cung cấp đầy đủ cả
P cho cây lúa (Tandon và Kimo, 1995) [36], (Nguyễn Vi, 1995) [33], (Vũ
Hữu Yêm, 1995) [38].
Theo kết quả của Nagai năm 1959, P được hút trong 42 ngày đầu tiên
sau cấy thì chuyển lên bông, có tác dụng rõ rệt đến năng suất lúa, còn P
được hút sau đó, phần lớn được ở rễ và trong rơm rạ (Đào Thế Tuấn, 1963)
[6]. Kết quả nghiên cứu hiệu suất từng phần của P đối với việc tạo thành hạt
thóc của Kamurava và Ishizaka năm 1996 cho thấy: thời kỳ P có hiệu suất
cao nhất là thời kỳ đầu sau cấy 10 – 20 ngày (Katyal J. C, 1978) [43].

Tanaka có nhận xét: hiệu quả của bón phân P cho lúa thấp hơn so với cây
trồng cạn. Tuy nhiên, bón P xúc tiến quá trình sinh trưởng của cây trong thời
kỳ đầu, có thể rút ngắn thời gian sinh trưởng, đặc biệt là những vùng lạnh thì
hiệu quả đó càng rõ. Kết quả của Buba năm 1960 cho biết, lúa nước là loại
cây trồng cần ít P, do đó khả năng hút P từ đất mạnh hơn cây trồng cạn
(Katyal J. C, 1978) [43].
Nghiên cứu của Brady, Nylec năm 1985 cho thấy, hầu hết các loại cây
trồng hút không quá 10 – 13% lượng P bón vào đất trong năm, đặc biệt là
cây lúa, chỉ cần giữ cho P có trong đất khoảng 0,2 ppm hoặc thấp hơn một
chút là có thể cho năng suất tối đa. Tuy vậy, cần bón P kết hợp với các loại
phân khác như N, kali mới nâng cao được hiệu quả của nó (Katyal J. C,
1978) [43].
Ở mỗi thời kỳ, lúa hút P với lượng khác nhau, trong đó có hai thời kỳ
hút mạnh nhất là thời kỳ đẻ nhánh và thời kỳ làm đòng. Tuy nhiên, xét về
mức độ thì lúa hút P mạnh nhất vào thời kỳ đẻ nhánh (Nguyễn Văn Uyển,
1994) [31], (Trung H.M et al, 1994) [46]. Trung bình để tạo ra một tấn thóc,
lúa hút khoảng 7,1kg P
2
O
5
. P trong đất là rất ít, hệ số sử dụng P của lúa lại
thấp, do đó phải bón P với liều lượng tương đối khá.
17
Ở Ấn Độ, bón phân P với mức 60kg P
2
O
5
/ha có thể tăng năng suất lúa
lên trung bình 0,5-0,75 tấn thóc/ha. Ở Đài Loan, theo Lian năm 1989, với
mức khoảng 50-60kg P

2
O
5
/ha cho năng suất bội thu cao nhất (Hong D.L và
cs , 1990) [42]. Để nâng cao hiệu quả của việc bón P cho cây lúa ngắn ngày,
trong điều kiện thâm canh trung bình (10 tấn phân chuồng, 90-120N, 60
K
2
O/ha) nên bón P với lượng 80-90 P
2
O
5
/ha và tập trung bón lót (Gros. A,
1977) [13].
Theo nhiều tác giả cho biết, lượng phân bón cho lúa cần thay đổi theo
thời tiết, mùa vụ và từng loại đất. Trên đa số các loại đất, chân lúa cao sản
thường bón lượng P 60kg P
2
O
5
/ha, riêng đối với đất xám bạc màu có thể bón
80-90kg P
2
O
5
/ha. Năm 1996, theo Mai Thành Phụng và một số tác giả cho
rằng, trên đất phèn nặng, muốn trồng lúa có hiệu quả cần phải liên tục cải
tạo: sử dụng nước ngọt tưới để rửa phèn, bón phân P liều lượng cao trong
những năm đầu để tích luỹ P. Trên đất phù sa sông Cửu Long được bồi hàng
năm, bón P vẫn có hiệu quả rất rõ. Vụ Đông Xuân 20 Kg P

2
O
5
/ha đã tăng
năng suất được 20% so với công thức không bón P. Tuy nhiên, bón thêm với
liều lượng cao hơn, năng suất lúa có tăng nhưng không rõ cho nên ruộng
thâm canh thường được bón phối hợp từ 20- 30 kg P
2
O
5
là đủ. Trong vụ Hè
Thu, cây lúa có nhu cầu lượng P cao và hiệu quả xuất hiện rõ hơn vụ Xuân,
bón 20 kg P
2
O
5
thì đã bội thu được 43,7%, tiếp tục bón tăng lượng P, năng
suất lúa có tăng nhưng không rõ (Lê Văn Tiềm, 1996) [15].
Năm 1994, kết quả thí nghiệm bón P cho lúa của trường Đại học
Nông nghiệp II tại xã Thuỷ Dương- Huyện Hương Thuỷ (Thừa Thiên- Huế)
cho thấy: trong vụ Xuân, bón P cho lúa từ 30- 120 kg P
2
O
5
/ha đều làm tăng
năng suất lúa từ 10- 17%. Với liều lượng bón 90 kg P
2
O
5
là đạt năng suất

cao nhất và nếu bón hơn liều lượng 90 kg P
2
O
5
/ha thì năng suất có xu hướng
giảm. Trong vụ Hè Thu, với giống lúa VM1, bón supe P hay P nung chảy
đều làm tăng năng suất rất rõ rệt (Nguyễn Văn Uyển, 1994) [31], (Nguyễn
18

×