Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

nghiên cứu ảnh hưởng của loại hình thức ăn và phương thức nuôi đến khả năng sản xuất thịt của vịt cv super m3 thương phẩm tại vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 120 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
–––––––––––––––––––––





PHẠM THANH VŨ






NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA LOẠI HÌNH
THỨC ĂN VÀ PHƢƠNG THỨC NUÔI ĐẾN KHẢ NĂNG
SẢN XUẤT THỊT CỦA VỊT CV SUPER M
3

THƢƠNG PHẨM TẠI VĨNH PHÚC










LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP









THÁI NGUYÊN - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
––––––––––––––––––––––




PHẠM THANH VŨ





NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA LOẠI HÌNH
THỨC ĂN VÀ PHƢƠNG THỨC NUÔI ĐẾN KHẢ NĂNG
SẢN XUẤT THỊT CỦA VỊT CV SUPER M
3

THƢƠNG PHẨM TẠI VĨNH PHÚC


Chuyên ngành: CHĂN NUÔI
Mã số: 60.62.40


LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. PHÙNG ĐỨC TIẾN
TS. NGUYỄN THỊ THUÝ MỴ





THÁI NGUYÊN - 2010


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


i


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Mọi sự giúp đỡ
cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn
trong luận văn đều đã dược chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả


Phạm Thanh Vũ


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi xin trân thành cảm ơn tới TS. Phùng
Đức Tiến, TS. Nguyễn Thị Thuý Mỵ là những người đã tận tình hướng dẫn và
giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy, cô giáo khoa Chăn
nuôi - Thú y và khoa Sau đại học trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên,
các cán bộ, nhân viên Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thuỵ Phương và phòng
phân tích - Viện chăn nuôi Quốc gia đã giúp đỡ tạo điều kiện cho tôi trong
quá trình nghiên cứu, học tập và bảo vệ luận văn.
Tôi xin cảm ơn sự tạo điều kiện và giúp đỡ về nhân lực, vật lực và thời
gian của Đảng uỷ - BGH trường Cao đẳng KT-KT Vĩnh Phúc và các hộ nông
dân xã Bình Định - Yên Lạc đã hợp tác giúp đỡ tôi thực hiện đề tài.

Tôi xin trân trọng cảm ơn sự động viên, giúp đỡ vô hạn của gia đình và
bạn bè, đồng nghiệp… đã góp phần to lớn để tôi hoàn thành thí nghiệm và
luận văn.
Thái Nguyên, ngày 02 tháng 05 năm 2010
Học viên


Phạm Thanh Vũ


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


iii
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN I
LỜI CẢM ƠN II
MỤC LỤC III
DANH MỤC BẢNG V
MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu của đề tài 2
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 2
1.3.1. Ý nghĩa khoa học 2
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 2
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA
ĐỀ TÀI 3
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 3
1.1.1. Đặc điểm sinh vật học của vịt 3

1.1.2. Cơ sở khoa học về các tính trạng sản xuất 5
1.1.3. Cơ sở khoa học về sinh trưởng 7
1.1.4. Cơ sở khoa học về năng suất, chất lượng thịt 13
1.1.5. Cơ sở khoa học về tiêu tốn thức ăn 15
1.1.6. Cơ sở khoa học về khẩu phần ăn 17
1.1.7. Cơ sở khoa học về tỷ lệ nuôi sống và sức kháng bệnh 18
1.1.8. Cơ sở khoa học của phương thức chăn nuôi 20
1.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước 22
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thề giới 22
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 25
CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG, ĐỊA ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU 30
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu 30


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


iv
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 30
2.1.2. Địa điểm, thời gian thí nghiệm 30
2.2. Nội dung, phương pháp và các chỉ tiêu theo dõi 30
2.2.1. Nội dung nghiên cứu 30
2.2.2. Các chỉ tiêu nghiên cứu 30
2.2.3. Phương pháp bố trí thí nghiệm 31
2.2.4. Phương pháp theo dõi các chỉ tiêu 33
2.2.5. Phương pháp xử lý số liệu 36
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ 37
3.1. Tỷ lệ nuôi sống của vịt thí nghiệm qua các tuần tuổi 37
3.2. Khả năng sinh trưởng 39

3.2.1. Sinh trưởng tích lũy 39
3.2.2. Sinh trưởng tuyệt đối của vịt thí nghiệm 44
3.2.3. Sinh trưởng tương đối của vịt thí nghiệm 48
3.2.4. Hệ số sinh trưởng 53
3.3. Khả năng sử dụng và chuyển hóa thức ăn 55
3.3.1. Lượng thức ăn tiêu thụ của vịt thí nghiệm qua các tuần tuổi 55
3.3.2. Khả năng chuyển hóa thức ăn 57
3.4. Chỉ số sản xuất PI (Performance-Index) 67
3.5. Chỉ số kinh tế (EN - Economic Number) 69
3.6. Khả năng sản xuất thịt của vịt thí nghiệm 70
3.6.1. Năng suất thịt 70
3.6.2. Thành phần hóa học của thịt xẻ 73
3.7. Hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi vịt broiler 73
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 76
1. Kết luận 76
2. Đề nghị 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
SO SÁNH THỐNG KÊ 87


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


v

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1. Số lượng vịt trên thế giới năm 2001 - 2007 23
Bảng 1.2. Sản lượng thịt vịt trên thế giới năm 2001 - 2007 23
Bảng 1.3. Số lượng đầu con thủy cầm năm 2001 - 2006 26

Bảng 1.4: Sản lượng thịt thủy cầm giai đoạn 2003 - 2005 26
Bảng 2.1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm 32
Bảng 2.2: Tỷ lệ thức ăn phối trộn cho vịt thương phẩm 32
Bảng 2.3: Giá trị dinh dưỡng có trong 1kg thức ăn của vịt thí nghiệm 33
Bảng 3.1. Tỷ lệ nuôi sống cộng dồn của vịt thí nghiệm (n=3 đàn) 37
Bảng 3.2. Khối lượng cơ thể vịt thí nghiệm qua các tuần tuổi 40
Bảng 3.2a. Ảnh hưởng của loại hình thức ăn đến sinh trưởng tích lũy của vịt
thí nghiệm 41
Bảng 3.2b. Ảnh hưởng của phương thức chăn nuôi đến sinh trưởng tích lũy
của vịt thí nghiệm 42
Bảng 3.3a. Ảnh hưởng của thức ăn đến sinh trưởng tuyệt đối của vịt thí nghiệm 45
Bảng 3.3b: Ảnh hưởng của phương thức chăn nuôi đến sinh trưởng tuyệt đối
của vịt thí nghiệm 46
Bảng 3.4a. Ảnh hưởng của loại hình thức ăn đến sinh trưởng tương đối của vịt
thí nghiệm 50
Bảng 3.4b: Ảnh hưởng của phương thức chăn nuôi đến sinh trưởng tương đối
của vịt thí nghiệm 52
Bảng 3.5a. Hệ số sinh trưởng cộng dồn của vịt thí nghiệm theo phương thức
chăn nuôi 54
Bảng 3.5b. Hệ số sinh trưởng cộng dồn của vịt thí nghiệm theo thức ăn 54
Bảng 3.6b: Khả năng thu nhận thức ăn của vịt thí nghiệm theo phương thức nuôi 57
Bảng 3.7a. Tiêu tốn thức ăn cộng dồn cho tăng khối lượng của vịt thí nghiệm
theo loại hình thức ăn 58


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


vi
Bảng 3.7b: Tiêu tốn thức ăn cộng dồn cho tăng khối lượng của vịt thí nghiệm

theo phương thức nuôi 59
Bảng 3.8a. Ảnh hưởng của loại hình thức ăn đến tiêu tốn protein cộng dồn
cho tăng khối lượng của vịt thí nghiệm 61
Bảng 3.8b: Ảnh hưởng của phương thức chăn nuôi đến tiêu tốn protein cộng
dồn cho tăng khối lượng của vịt thí nghiệm 62
Bảng 3.9a. Tiêu hóa protein hữu hiệu của vịt thí nghiệm theo loại hình thức ăn 63
Bảng 3.9b. Tiêu hóa protein hữu hiệu của vịt thí nghiệm theo phương thức nuôi 63
Bảng 3.10a. Tiêu tốn ME cộng dồn cho tăng khối lượng của vịt thí nghiệm
theo loại hình thức ăn 65
Bảng 3.10b. Tiêu tốn ME cho tăng khối lượng của vịt thí nghiệm theo phương
thức nuôi 66
Bảng 3.11a. Ảnh hưởng của loại hình thức ăn đến chỉ số sản xuất của vịt thí
nghiệm (chung đực, cái;) 68
Bảng 3.11b. Ảnh hưởng của phương thức chăn nuôi đến chỉ số sản xuất của
vịt thí nghiệm (chung đực, cái) 68
Bảng 3.12a: Chỉ số kinh tế của vịt thí nghiệm theo loại hình thức ăn 69
Bảng 3.12b. Chỉ số kinh tế của vịt thí nghiệm theo phương thức chăn nuôi 70
Bảng 3.13: Kết quả mổ khảo sát vịt thí nghiệm ở 56 ngày tuổi 71
Bảng 3.14: Thành phần hóa học thịt xẻ ở dạng tươi của vịt thí nghiệm ở 56
ngày tuổi 73
Bảng 3.15: Hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi vịt thương phẩm 74



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài

Chăn nuôi vịt ở Việt Nam có truyền thống lâu đời gắn liền với nghề trồng lúa
nước, cơ cấu đàn vịt chủ yếu là các giống vịt địa phương. Trong 10 năm gần đây, do
yêu cầu đổi mới về công nghệ giống nên các giống vịt năng suất trứng cao như;
Khakicampell, Layer CV 2000 đạt 270 - 290 quả/mái/năm, các giống vịt chuyên thịt
cao sản của thế giới như; Super M, Super M
2
đã được nhập vào Việt Nam, chọn
lọc nâng cao qua nhiều thế hệ và chúng đã nhanh chóng thích nghi với điều kiện khí
hậu của nước ta. Vì vậy, tốc độ tăng trưởng của ngành chăn nuôi gia cầm đạt tới
7,6%/năm giai đoạn 1990 - 2003. Tăng trưởng giai đoạn 2000 - 2003 đạt 8,6%/năm
về số lượng đầu con, trong đó đàn thuỷ cầm tăng 94%, tổng đàn thuỷ cầm năm 2003
đạt 68,8 triệu con (trong đó vịt 54 triệu con, ngan 14 triệu con và ngỗng đạt 0,8 triệu
con), chăn nuôi vịt nước ta được tổ chức nông lương thế giới (FAO) xếp thứ 2 thế
giới chỉ sau Trung Quốc [3].
Vịt Super M
2
dòng ông có năng suất trứng 164 - 170 quả/mái/46 tuần đẻ,
dòng bà có năng suất trứng 181 quả/mái/46 tuần đẻ [58], vịt bố mẹ có năng suất
trứng đạt 202,6 quả, tỷ lệ phôi 92,7%, tỷ lệ nở 81,4% [58], con thương phẩm nuôi
đến 49 ngày đạt 3,15kg, tỷ lệ nuôi sống đạt 98,67%, tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối
lượng 2,35kg [58]. Tuy nhiên, các dòng vịt này còn hạn chế về năng suất.
Để nâng cao năng suất và đáp ứng nhu cầu thị trường, tháng 10 năm 2006
Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương đã nhập vịt Super M
3
ông
,
bà một giới
tính từ Hãng Cherry Valley Vương quốc Anh. Đây là dòng vịt có năng suất thịt,
trứng cao vượt trội so với các dòng vịt Super M
2

. Năng suất trứng 238 -
263quả/mái/48 tuần đẻ, tỷ lệ phôi 85%, tỷ lệ nở 62 - 64%. Vịt thương phẩm nuôi
đến 47 ngày tuổi có khối lượng trung bình 3,66kg, tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối
lượng 2,18kg, tỷ lệ nuôi sống 97% [58].
Các tính trạng của một giống được hình thành, ngoài các yếu tố di truyền, tác
động của con người thì các yếu tố bên ngoài như nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm, thức ăn,
phương thức chăn nuôi … có ảnh hưởng rất lớn đến đặc tính sinh trưởng, sinh sản,
các chỉ tiêu sản xuất của giống đó.
Chăn nuôi thuỷ cầm nói chung và chăn nuôi vịt nói riêng ở nước ta hiện nay
vẫn mang tính tận dụng, nuôi vịt chạy đồng, phân tán. Do đó, một số khâu trong kỹ


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


2
thuật chăn nuôi thuỷ cầm còn hạn chế, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, chất lượng sản
phẩm thấp, giá thành cao, gây ô nhiễm môi trường, không an toàn vệ sinh phòng
dịch. Chính vì vậy, phải định hướng cho người chăn nuôi theo các phương thức
chăn nuôi phù hợp với từng vùng sinh thái, đồng thời đảm bảo phát triển bền vững.
Từ lâu nay các nghiên cứu về giống, thức ăn dinh dưỡng, quy trình chăm sóc
nuôi dưỡng, quy trình vệ sinh thú y phòng bệnh… còn đơn lẻ, đặc biệt trong những
năm qua dịch cúm gia cầm xảy ra hàng năm gây thiệt hại nặng nề về kinh tế cho
người chăn nuôi. Để ngăn chặn, hạn chế sự lây lan dịch cúm gia cầm xảy ra trên đàn
vịt và nâng cao hiệu quả chăn nuôi vịt, đồng thời đáp ứng nhu cầu của xã hội về sản
phẩm thịt vịt an toàn, chất lượng cao, nước ta đã hạn chế chăn nuôi vịt theo phương
thức chăn thả chạy đồng.
Nhằm góp phần đánh giá ảnh hưởng của loại hình thức ăn và phương thức
chăn nuôi đến khả năng sinh trưởng và để có cơ sở khoa học về khả năng sản xuất,
làm nguyên liệu để lai tạo và hoàn thiện qui trình chăn nuôi vịt đảm bảo tính bền

vững, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của loại hình thức ăn và
phương thức nuôi đến khả năng sản xuất thịt của vịt CV Super M
3
thương phẩm
tại Vĩnh Phúc”.
1.2. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá khả năng sản xuất của vịt Super M
3
thương phẩm nuôi nhốt khô
(không có ao hồ), bằng thức ăn viên và thức ăn đậm đặc phối trộn nguyên liệu tại
Vĩnh Phúc.
- Đánh giá khả năng sản xuất của vịt Super M
3
thương phẩm nuôi có ao hồ,
bằng thức ăn viên và thức ăn đậm đặc phối trộn với nguyên liệu tại Vĩnh Phúc.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
Có số liệu công bố về khả năng sản xuất thịt của vịt CV Super M
3
thương
phẩm nuôi tại Vĩnh Phúc.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Góp phần vào việc phát triển chăn nuôi vịt thịt tại Vĩnh Phúc nói riêng và cả
nước nói chung.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


3

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Đặc điểm sinh vật học của vịt
Decarville, Decroutte, 1985, [7], Thummabood, 1990, [82], sau khi nghiên
cứu đều đưa ra kết luận: Vịt nhà có nguồn gốc từ vịt trời đầu xanh (Anas
platyrhynchos). Loài vịt trời hiện nay (là tổ tiên của vịt nhà) đang sinh sống ở hầu
hết các châu lục, nhưng tập chung ở Bắc bán cầu. Đó là loài chim ham ăn, hay bay,
hay kiếm mồi ở chỗ đầm lầy, chúng ăn những thức ăn hạt, củ, quả, giun, sên, côn
trùng, cá, ếch, nhái… kích thước dài thân của chúng 45 - 55cm, cân nặng 700 -
1400g, tầm vóc con đực lớn hơn con cái. Vịt trời thuộc loại đơn giao và kết đôi
trong màu sinh sản. Thịt vịt cổ xanh không béo bằng thịt vịt nhà nhưng nó có mùi vị
đặc biệt gần giống thịt chim rừng. Vịt trời hoang dã rất dễ thuần hoá và được thuần
hoá độc lập ở nhiều nước. Sự thuần hoá vịt được tiến hành bằng nhiều con đường
khác nhau, trong thời gian dài và điều kiện môi trường hết sức khác nhau, nên các
giống vịt hiện nay có kích thước, hình dáng và màu lông khác nhau.
Theo Nguyễn Văn Thiện, 1996 [40], cho biết vị trí sắp xếp của vịt nhà trong
hệ thống của giới động vật như sau:
- Giới (Kingdom): Animal
- Ngành (Phylum): Aves
- Bộ (Order): Anseriformes
- Họ (Family): Anatidea
- Chủng (Genus): Anas
- Loài (Species): Anas platyrhynchos
Hiện nay số lượng các giống vịt rất lớn có khoảng 50 giống. Dựa trên quan
điểm về kinh tế, Nguyễn Thị Bạch Yến trích dẫn của Abakumov, 1977 và Neumeister,
1972, [48] đã chia các gống vịt nhà ra làm 3 loại:
- Vịt hướng trứng: mục đích để sản xuất trứng
- Vịt hướng thịt: mục đích để sản xuất thịt
- Vịt kiêm dụng (trứng - thịt, thịt - trứng): để sản xuất trứng và thịt



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


4
Các giống vịt thuộc họ Anatidea được con người quan tâm đến nhằm các
mục đích như chăn nuôi, săn bắn, làm cảnh. Trong chăn nuôi gia cầm các giống vịt
đã được khai thác mức độ nhiều hay ít (Decarville, Decroutte, 1985, [7]).
Khác với các loài gia cầm khác, vịt có khả năng thích ứng rộng rãi đối với
môi trường sống và có khả năng sử dụng chất thải một cách tuyệt vời và nhờ có các
tiềm năng sinh học đặc biệt của nó. Cũng nhờ có tiềm năng đó mà vịt có khả năng
kỳ diệu về việc kiếm mồi trong tự nhiên (Khajarern, 1990, [66]).
Khi theo dõi hoạt động của hai đàn vịt chăn thả, Farrell, 1985, [56] cho biết
vịt sử dụng hơn 10h/ngày cho các hoạt động, trong đó hơn 50% thời gian sử dụng
cho việc tìm kiếm thức ăn và di chuyển ít nhất 7 km mỗi ngày.
Hetzel và Gunawan, 1984, [60] đã tính toán lượng thức ăn cần cung cấp cho
vịt nuôi chăn thả tự nhiên trên các cánh đồng sau khi thu hoạch trong giai đoạn vịt
đẻ, thấy mỗi vịt ăn được 70 g gạo lật, mà theo tính toán vịt chăn thả có tỷ lệ đẻ 48 %
cần 178 g/ngày. Điều này có nghĩa là vịt tự kiếm được lượng thức ăn tự nhiên, quy
đổi tới 108 g thức ăn trên ngày.
Theo Setioko, E vans và Raharjo, 1985, [78], cho biết khi phân tích thành
phần chứa trong diều của vịt sau khi chăn thả cho kết quả: Hạt thóc 77 %, Ốc (còn
lại) 17 %, côn trùng 1 %, ếch, nhái nhỏ 0,2 % và động vật giáp xác 0,1 %.
Ở Indonesia, vịt nuôi truyền thống những đàn nhỏ 15 - 30 con, thì thức ăn
chủ yếu là đồ thừa thải ra từ nhà bếp và các loại thức ăn khác kiếm được từ gia
đình, không bao giờ mua thức ăn. Còn đàn đông 30 - 100 con, được chăn thả bởi
đàn ông có kinh nghiệm (Sabrani M, Mulzdi A. and Kusnadi U, 1985, [79]).
Bulbule, 1985, [52] cho biết, người dân Ấn Độ nuôi vịt với số lượng đàn từ
100 - 1000 con, tỷ lệ đực/cái =1/25 vẫn cho phôi tốt. Năng suất trứng nuôi chăn thả

đạt trên 200 quả/mái/năm, thức ăn chủ yếu là nhặt thóc rơi vãi, chỉ khi giáp vụ mới
cho ăn.
Vịt Deshi được nuôi chăn thả ở Ấn Độ, chúng tự kiếm mồi ở cánh đồng hoặc
ven bờ sông, đêm đến vịt được quây ngay ở trên cánh đồng hay bờ sông. Mùa vịt đẻ
trứng cũng là mùa thu hoạch, vịt ăn hoàn toàn bằng thóc rơi rụng ngoài đồng (Rama
Krishnam, 1996, [70]). Nhờ khả năng tìm kiếm thức ăn của vịt mà nó giúp làm sạch
nước ao, vịt ăn ốc nên làm giảm bệnh, đặc biệt bệnh sán lá gan ở trâu bò (Sathe,
1995, [77].


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


5
Nuôi vịt ở các nước Châu Á nói chung, không chỉ là tận dụng khả năng tìm
kiếm thức ăn tự nhiên mà còn là sự tương tác phát triển vật nuôi, cây trồng khác.
Đặc biệt là tương tác: vịt - lúa; vịt - cá, thế mạnh nghề cổ truyền của các nước văn
minh lúa nước đem lại hiệu quả kinh tế cao, nâng cao năng suất của các đối tượng
tham gia tương tác kết hợp (Nguyễn Thiện và cộng sự, 1997, [42]).
Chính nhờ các khả năng trên mà vịt dễ thích ứng với các điều kiện chăn nuôi ở
môi trường mới và điều kiện khí hậu khác nhau, vịt vẫn cho năng suất sản phẩm cao.
1.1.2. Cơ sở khoa học về các tính trạng sản xuất
Khi nghiên cứu các tính trạng sản xuất của một giống gia súc, gia cầm trong
điều kiện chăn nuôi cụ thể thực chất là nghiên cứu đặc điểm di truyền và ảnh hưởng
của những tác động xung quanh đến các tính trạng đó. Theo quan điểm di truyền
học, hầu hết các tính trạng về năng suất của gia súc, gia cầm như; sinh trưởng, sinh
sản, cho thịt, cho sữa, cho lông, cho trứng… đều là các tính trạng số lượng. Cơ sở di
truyền của các tính trạng số lượng cũng là các gen nằm trên nhiễm sắc thể quy định.
Các tính trạng sản xuất là các tính trạng số lượng (thường gọi là các tính trạng đo
lường) như khối lượng cơ thể, kích thước các chiều đo, sản lượng sữa, sản lượng

trứng, khối lượng trứng…. (Nguyễn Ân và cộng sự, 1993 [1]).
Tính trạng số lượng là những tính trạng mà ở đó sự sai khác nhau về mức độ
giữa các cá thể rõ nét hơn các là sự sai khác về chủng loại. Sự sai khác nhau này
chính là nguồn vật liệu cho chọn lọc tự nhiên cũng như chọn lọc nhân tạo. Các tính
trạng số lượng được qui định bởi nhiều gen, các gen điều khiển tính trạng số lượng
phải có môi trường phù hợp mới được biểu hiện hoàn toàn.
Theo Nguyễn Văn Thiện, 1995 [39], ở các tính trạng số lượng thì giá trị kiểu
hình cũng do kiểu gen và sai lệch môi trường qui định, nhưng giá trị kiểu gen của
tính trạng số lượng do nhiều gen nhỏ (minorgene) cấu tạo thành. Đó là các gen mà
hiệu ứng riêng biệt của từng gen thì rất nhỏ nhưng tập hợp nhiều gen nhỏ sẽ ảnh
hưởng rõ rệt đến tính trạng nghiên cứu. Các gen tác động lên tính trạng theo 3
phương thức: Cộng gộp, trội và át gen. Khác với tính trạng chất lượng, tính trạng
số lượng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các yếu tố, các tác động của ngoại cảnh, tuy
nhiên các điều kiện bên ngoài không thể làm thay đổi cấu trúc di truyền, nhưng nó
sẽ phát huy hoặc kìm hãm cho vịêc biểu hiện các hoạt động của gen. Tóm lại, các
tính trạng số lượng được qui định bởi nhiều kiểu gen và chịu ảnh hưởng nhiều của
điều kiện ngoại cảnh, được biểu thị theo công thức sau;


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


6
P = G + E
Trong đó: P; là giá trị kiểu hình (Phenotypic value)
G; là giá trị kiểu gen (Genotypic value)
E; là sai lệch môi trường (Environmental deviation)
Nhưng giá trị kiểu gen (G) hoạt động theo 3 phương thức: Cộng gộp, trội và
át gen nên được biểu thị theo công thức sau;
G = A + D + I

Trong đó: G; là giá trị kiểu gen
A; là giá cộng gộp (Additive value)
D; là sai lệch trội (Dominance deviation)
I; là giá trị sai lệch tương tác (Interaction deviation)
Trong đó giá trị cộng gộp (A) là do giá trị giống quy định, là thành phần
quan trọng nhất của kiểu gen vì nó ổn định, có thể xác định được và di truyền lại
cho thế hệ sau, có ý nghĩa trong chọn dòng thuần, là cơ sở cho việc chọn giống.
Hai thành phần sai lệch trội (D) và tương tác gen (I) cũng có vai trò quan
trọng, là giá trị giống đặc biệt chỉ có thể xác định được thông qua con đường thực
nghiệm. D và I không di truyền được và phụ thuộc vào vị trí và sự tương tác giữa
các gen. Chúng là cơ sở của việc lai giống.
Ngoài ra các tính trạng số lượng còn chịu ảnh hưởng nhiều của môi trường,
có 2 loại môi trường chính.
- Sai lệch môi trường chung (Genneral Environmental deviation - Eg) là sai
lệch do các yếu tố môi trường tác động lên toàn bộ các cá thể trong nhóm vật nuôi.
Loại yếu tố này có tính chất thường xuyên và không cục bộ như; thức ăn, khí hậu…
Do vậy, đó là sai lệch giữa các nhóm, giữa các cá thể và giữa các phần khác nhau
trên một cơ thể.
- Sai lệch môi trường riêng (Special Environmental deviation - Es) là sai lệch
do các yếu tố môi trường tác động riêng rẽ lên từng cá thể trong nhóm vật nuôi,
hoặc trong một giai đoạn nào đó trong cuộc đời con vật. Loại yếu tố này có tính
chất không thường xuyên và cục bộ như các thay đổi về thức ăn, khí hậu, trạng thái
sinh lý… gây ra. Do đó, nếu bỏ qua mối tương tác giữa di truyền và ngoại cảnh thì
quan hệ của kiểu hình (P), kiểu gen (G) và môi trường (E) của một cá thể có biểu thị
như sau:


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



7
P = A + D + I + Eg + Es
Trong đó:
- P; là giá trị kiểu hình (Phenotypic value)
- A; là giá cộng gộp (Additive value)
- D; là sai lệch trội (Dominance deviation)
- I; là giá trị sai lệch tương tác hay sai lệch át gen (Interaction deviation)
- Eg; là sai lệch môi trường trung (General enviromental deviation)
- Es; là sai lệch môi trường riêng (Special enviromental deviation)
Như vậy, năng suất giống vật nuôi phụ thuộc vào yếu tố di truyền và ngoại
cảnh. Vật nuôi nhận được khả năng di truyền từ bố mẹ, nhưng sự thể hiện khả năng
đó ở kiểu hình lại phụ thuộc vào ngoại cảnh môi trường sống như chế độ chăm sóc,
nuôi dưỡng, quản lý Đây là cơ sở để tạo lập điều kiện ngoại cảnh thích hợp nhằm
củng cố và phát huy khả năng di truyền của các giống vật nuôi, đặc biệt là gia cầm.
Khi quan sát các tính trạng số lượng (cân, đo, đếm…) người ta thường xác
định các tham số sau;
+ Số trung bình của các tính trạng (X)
+ Hệ số biến dị (CV%)
+ Hệ số di truyền của các tính trạng (h
2
)
+ Hệ số lặp lại của các tính trạng (Rs)
+ Hệ số tương quan giữa các tính trạng (r)
1.1.3. Cơ sở khoa học về sinh trưởng
Trần Đình Miên, Nguyễn Kim Đường, 1992 [19], cho biết theo Driesch H,
1990, thì sự tăng thể tích và khối lượng cơ thể là do các tế bào trong cơ thể đều tăng
về số lượng và kích thước, theo Slec F, 1898, sự sinh trưởng bao giờ cũng phải có
quá trình phân chia tế bào, tăng thể tích và các chất giữa tế bào, trong đó hai quá
trình đầu là quan trọng nhất. Gatner, 1992, cho rằng quá trình sinh trưởng, trước hết
là kết quả của phân chia tế bào, tăng thể tích tế bào để tạo nên sự sống. Theo tài liệu

của Chambers, 1990 [53] thì Mozan, 1977, định nghĩa sinh trưởng là tổng sự sinh
trưởng của các bộ phận như thịt, da, xương.
Về mặt sinh học, sinh trưởng được xem như quá trình tổng hợp protein, nên
người ta thường lấy việc tăng khối lượng làm chỉ tiêu đánh giá quá trình sinh
trưởng. Tuy có khi tăng khối lượng mà không phải tăng trưởng (chẳng hạn béo mỡ,


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


8
chủ yếu là tích nước không có sự phát triển của mô cơ). Sinh trưởng thực chất là sự
tăng khối lượng, số lượng các chiều của các tế bào mô cơ. Quá trình sinh trưởng
phải thông qua 3 quá trình:
- Phân chia tế bào để lấy số lượng tế bào
- Tăng thể tích tế bào
- Tăng thể tích giữa các tế bào
Trần Đình Miên, Nguyễn Kim Đường, 1992 [19] cho biết; Midedorpho
(1867) là người đầu tiên phát hiện ra quy luật sinh trưởng theo giai đoạn của gia
súc, ông cho rằng gia súc non phát triển mạnh nhất sau khi mới sinh, sau đó tăng
khối lượng giảm dần theo từng tháng tuổi.
* Khái niệm sinh trưởng
Theo Chambers, 1990 [53] cho rằng; sinh trưởng là quá trình sinh lý, sinh hóa
phức tạp, duy trì từ khi phôi được hình thành cho đến khi con vật đã trưởng thành. Để
có được số đo chính xác về sinh trưởng ở từng thời kỳ không phải dễ dàng.
Theo Trần Đình Miên, Nguyễn Kim Đường, 1992 [19] (dẫn của Ganer
(1992)) cho biết sinh trưởng trước hết là kết quả phân chia tế bào, tăng thể tích tế
bào để tạo nên sự sống. Từ đó đã khái quát: sinh trưởng là một quá trình tích lũy các
chất hữu cơ thông qua trao đổi chất, là sự tăng lên về chiều cao, chiều dài, bề ngang,
khối lượng của từng cơ quan, bộ phận cũng như toàn bộ cơ thể trên cơ sở di truyền

từ đời trước. Hay nói cách khác : Sinh trưởng là quá trình tích lũy các chất hữu cơ
do đồng hóa và dị hóa, chính là sự tích lũy dần dần các chất, chủ yếu là protein nên
tốc độ và khối lượng tích lũy các chất phụ thuộc vào tốc độ hoạt động của các gen
điều khiển sinh trưởng (Trần Đình Miên, Nguyễn Kim Đường, 1992 [19]).
Sinh trưởng của con vật được tính từ khi trứng được thụ tinh cho đến khi đã
trưởng thành và được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn trong thai và giai đoạn ngoài
thai (gia súc), đối với gia cầm là giai đoạn trong trứng và giai đoạn sau khi nở.
Johanson, 1972 [12] cho rằng cường độ phát triển qua giai đoạn bào thai và
giai đoạn sau khi sinh có ảnh hưởng đến chỉ tiêu phát triển của con vật. Nhìn từ khía
cạnh giải phẫu sinh lý thì sự sinh trưởng của các mô diễn ra theo trình tự như sau;
+ Hệ thống tiêu hoá, nội tiết
+ Hệ thống xương
+ Hệ thống cơ bắp
+ Mỡ


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


9
Trong thực tế chăn nuôi gia súc, gia cầm lấy thịt ở giai đoạn đầu của sự sinh
trưởng thì thức ăn, dinh dưỡng được dùng tối đa cho sự phát triển của xương, mô
cơ, một phần rất ít dùng lưu giữ trong cấu tạo của mỡ. Đến giai đoạn cuối của sự
sinh trưởng nguồn dinh dưỡng vẫn được sử dụng nhiều để nuôi hệ thống cơ, xương
nhưng hai hệ thống này tốc độ phát triển đã giảm, càng ngày con vật càng tích lũy
dinh dưỡng để cấu tạo mỡ.
Trong các tổ chức cấu tạo cơ thể gia cầm thì khối lượng cơ chiếm nhiều nhất
(42 - 45 % khối lượng cơ thể). Khối lượng cơ con trống luôn lớn hơn khối lượng cơ
con mái (phụ thuộc vào lứa tuổi và loại gia cầm).
Khối lượng cơ thể thường được theo dõi theo từng tuần tuổi và đơn vị tính là

kg/con hoặc g/con. Để xác định khối lượng cơ thể ở các khoảng thời gian khác nhau
người ta còn biểu thị khối lượng thông qua đồ thị sinh trưởng.
Khối lượng cơ thể ở từng thời kỳ là thông số để đánh giá sự sinh trưởng một
cách đúng đắn nhất, song lại không chỉ ra được sự khác nhau về tỷ lệ sinh trưởng
của các thành phần trong khoảng thời gian của cấc độ tuổi.
Tất cả các đặc tính của gia súc, gia cầm như ngoại hình, thể chất, sức sản
xuất đều không phải đã có sẵn trong tế bào. Các bộ phận hình thành trong quá trình
sinh trưởng là thừa hưởng các đặc tính di truyền của bố mẹ nhưng hoạt động mạnh
hay yếu còn do tác động của môi trường.
* Các chỉ tiêu đánh giá sinh trưởng
Sinh trưởng là một quá trình sinh lý phức tạp, khá dài, từ lúc thụ tinh đến khi
trưởng thành. Do vậy, việc xác định chính xác toàn bộ quá trình sinh trưởng không
phải dễ dàng. Tuy nhiên các nhà chọn giống gia cầm có khuynh hướng sử dụng
cách đo đơn giản và thực tế, đó là khả năng sinh trưởng theo 3 hướng là: chiều cao,
thể tích và khối lượng. (Chambers, 1990, [53])
Khối lượng cơ thể: về mặt sinh học, sinh trưởng được xem như là quá trình
tổng hợp, tích lũy dần các chất mà chủ yếu là protein. Do vậy, có thể lấy việc tăng
khối lượng cơ thể làm chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh trưởng của gia súc, gia cầm.
Khối lượng cơ thể gia súc, gia cầm là những tính trạng di truyền số lượng. Sinh
trưởng có khả năng di truyền cao và liên quan chặt chẽ với những đặc điểm trao đổi
chất đặc trưng cho từng giống và từng cá thể gia cầm.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


10
Trần Đình Miên, Nguyễn Kim Đường, 1992 [19] cho rằng, sinh trưởng là
cường độ tăng các chiều cơ thể trong một khoảng thời gian nhất định. Trong chăn
nuôi gia cầm người ta thường dùng 3 chỉ tiêu để mô tả sinh trưởng là sinh trưởng

tích lũy, sinh trưởng tuyệt đối và sinh trưởng tương đối.
- Sinh trưởng tuyệt đối là sự tăng lên về khối lượng, kích thước và thể tích cơ
thể trong khoảng thời gian giữa 2 lần khảo sát. Sinh trưởng tuyệt đối thường được
tính bằng g/con/ngày hoặc g/con/tuần. Đồ thị sinh trưởng tuyệt đối có dạng parabol.
Giá trị sinh trưởng tuyệt đối càng cao thì hiệu quả kinh tế càng lớn ( T.C.V.N 2, 39 -
77 [24]).
- Sinh trưởng tương đối là tỷ lệ % tăng lên của khối lượng, kích thước và thể
tích cơ thể lúc khảo sát so với lúc đầu khảo sát (T.C.V.N 2, 40 - 77 [25]), đơn vị
tính là %. Đồ thị sinh trưởng tương đối có dạng Hypebol. Sinh trưởng tương đối
giảm dần qua các tuần tuổi.
Trần Đình Miên, Nguyễn Kim Đường, 1992 [19] cho biết có mối quan hệ ở
cơ thể gia cầm giữa sinh trưởng và một số tính trạng liên quan. Mối liên quan giữa
sinh trưởng và tốc độ mọc lông đã được xác định, cũng có mối liên quan giữa sinh
trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn.
Trong chọn giống vật nuôi hiện nay để đánh giá khả năng sinh trưởng, người
ta sử dụng các phương pháp đơn giản và thực tế như;
- Kích thước các chiều đo: kích thước và khối lượng xương có tầm quan
trọng lớn đối với khối lượng cơ thể và hình dáng con vật, quan hệ giữa khối lượng
thân, tốc độ lớn và chiều dài đùi, chiều dài xương ngực với chất lượng giết thịt có
tầm quan trọng đặc biệt. Kích thước các chiều đo có liên quan rõ rệt với khối lượng
cơ thể, độ dài chân có liên quan đến tính biệt.
- Tốc độ sinh trưởng: là cường độ tăng các chiều cơ thể trong khoảng thời
gian nhất định.
- Đường cong sinh trưởng: đường cong sinh trưởng biểu thị sinh trưởng của
gia súc, gia cầm nói chung. Theo Chambers, 1990 [53] đường cong sinh trưởng của
gia cầm thịt gồm 4 pha chính như sau:
+ Pha sinh trưởng tích lũy tăng tốc nhanh sau khi nở
+ Điểm uốn của đường cong tại thời điểm có sinh trưởng cao nhất
+ Pha sinh trưởng có tốc độ giảm dần sau điểm uốn
+ Pha sinh trưởng tiệm cận với giá trị khi gia cầm trưởng thành



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


11
Đồ thị sinh trưởng tích lũy biểu thị một cách đơn giản nhất về đường cong
sinh trưởng.
Theo Knizetova, Hyanck, Knize và Roubicek, 1991, [69], cho biết đường
cong sinh trưởng không những được sử dụng để chỉ rõ về khối lượng mà còn làm rõ
về mặt chất lượng, sự sai khác giữa các dòng, giống, giới tính.
Nguyễn Đăng Vang, 1983 [46] khi nghiên cứu về đường cong sinh trưởng
của ngỗng Rheinland từ sơ sinh đến 77 ngày tuổi thấy hoàn toàn phù hợp với quy
luật sinh trưởng của gia cầm nói chung.
- Tiêu tốn thức ăn: tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng phản ánh quá
trình chuyển hóa thức ăn để sinh trưởng. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng càng
thấp thì hiệu quả kinh tế càng cao và ngược lại.
Sinh trưởng của vật nuôi nói chung và sinh trưởng của vịt nói riêng chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố.
* Một số yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng
- Giống, dòng: có ảnh hưởng lớn tới quá trình sinh trưởng của gia súc, gia
cầm. Nguyễn Mạnh Hùng và cộng sự, 1994 [12], cho biết; sự khác nhau về khối
lượng giữa các giống gia cầm là rất lớn. Thuỷ cầm có tốc độ sinh trưởng cao trong
những tuần đầu tiên, ở tuổi giết thịt 7-8 tuần tuổi đối với vịt nhà, 9 tuần đối với
ngỗng, 10-11 tuần đối với ngan, chúng có thể đạt 70-80% khối lượng trưởng thành,
trong khi đó gà chỉ đạt 40%. Jaap và Morris, 1937, [65], đã phát hiện những sai
khác trong cùng một giống về cường độ sinh trưởng trước 8 tuần tuổi của gà con ở
các bố mẹ khác nhau. Những nghiên cứu trước đây cho biết có 2 hoặc 4 gen chính.
Nhiều tác giả cho rằng có nhiều hơn 15 cặp gen qui định tốc độ sinh trưởng. Như
vậy các tác giả đã chứng tỏ sự khác biệt về tốc độ sinh trưởng do di truyền mà cơ sở

di truyền là do gen, ít nhất có 1 gen về sinh trưởng liên kết giới tính (Phùng Đức
Tiến, 1996 [34]).
Theo tác giả Chambers, 1990 [53], có rất nhiều gen ảnh hưởng tới sự sinh
trưởng và phát triển cơ thể gia cầm. Có gen ảnh hưởng tới sự phát triển chung, có
gen ảnh hưởng tới sự phát triển nhiều chiều, có gen ảnh hưởng tới nhóm tính trạng,
có gen ảnh hưởng tới một vài tính trạng đơn lẻ.
Ở vịt hầu như các giống hướng trứng nhẹ hơn các giống hướng thịt tới 2 lần.
Nguyễn Song Hoan, 1993, [8], cho biết, vịt Anh Đào ở 75 ngày tuổi đạt khối lượng


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


12
cơ thể 1417 - 1570 g, còn theo Hoàng Văn Tiệu, 1993, [35], thì ở 60 ngày tuổi đạt
1,8 kg. Trong khi đó vịt cỏ ở 75 ngày tuổi đạt 1025,28 g - 1042,1g (Lê Xuân Đồng,
Nguyễn Thượng Trữ, 1988, [5]; Lê Xuân Đồng, 1994 [4]).
- Tính biệt: có ảnh hưởng đến sinh trưởng, các loài thuỷ cầm khác nhau thì
có tốc độ sinh trưởng khác nhau, con đực lớn nhanh hơn con cái. Theo Phùng Đức
Tiến, 1996, [34] dẫn của Jull, 1923, cho biết; gà trống có tốc độ sinh trưởng nhanh
hơn gà mái 24 - 32 %. Theo Phạm Quang Hoán và cộng sự, 1994, [9]; Bùi Đức
Lũng, Lê Hồng Mận, 1993, [15] thì khối lượng gà trống và gà mái Broiler V135 có
sự sai khác nhau từng tuần tuổi. Những sai khác này cũng được biểu hiện ở cường
độ sinh trưởng, được quy định không phải do hoocmon sinh học mà do các gen liên
kết giới tính. Tuy nhiên, sự sai khác về mặt sinh trưởng còn thể hiện rõ hơn đối với
các dòng phát triển nhanh so với các dòng phát triển chậm.
Hoàng Toàn Thắng, 1996, [38] đã khuyến cáo đối với người chăn nuôi gia
cầm lấy thịt, để đạt hiệu quả cao trong chăn nuôi cần nuôi tách trống mái.
- Tốc độ mọc lông theo Kushner, 1974, [13] cho rằng có quan hệ chặt chẽ
với tốc độ sinh trưởng.

Theo Siegel và Dumington, 1978 [76] thì những alen quy định tốc độ mọc
lông phù hợp với tăng khối lượng cao.
- Chế độ dinh dưỡng; có ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ sinh trưởng và ảnh
hưởng đến biến động di truyền về sinh trưởng. Chembers, 1990 [53] cho biết; sinh
trưởng là tổng số của sự phát triển các phần cơ thể như thịt, xương, da. Tỷ lệ sinh
trưởng các phần này phụ thuộc vào tuổi, tốc độ sinh trưởng và phụ thuộc vào mức
độ dinh dưỡng. Mức độ dinh dưỡng không chỉ ảnh hưởng tới sự phát triển các bộ
phận khác nhau của cơ thể mà còn ảnh hưởng tới sự phát triển của từng mô này đối
với mô khác.
Theo Bùi Đức Lũng, Lê Hồng Mận, 1993, [16], thì với gia cầm để phát huy
được khả năng sinh trưởng cần phải cung cấp thức ăn tối ưu đầy đủ chất dinh dưỡng
và cân bằng nghiêm ngặt giữa protein, các axit amin với năng lượng. Ngoài ra trong
thức ăn hỗn hợp cho chúng còn được bổ sung hàng loạt các chế phẩm hóa sinh
không mang theo nghĩa dinh dưỡng nhưng có kích thích sinh trưởng làm tăng chất
lượng thịt.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


13
Nguyễn Thị Thúy Mỵ, 2006 [20] đã nghiên cứu ảnh hưởng của các mức
năng lượng và protein khác nhau cùng với tỷ lệ ME/CP khác nhau để tìm ra khẩu
phần ăn hợp lý, nhằm phát huy tối đa đến khả năng sinh trưởng của ngan Pháp nuôi
tại Thái Nguyên.
Chế độ dinh dưỡng ảnh hưởng tới sự phát triển của từng mô khác nhau gây
nên sự biến động trong quá trình phát triển và có sự khác nhau giữa mô này với mô
khác. Chế độ dinh dưỡng không những ảnh hưởng đến sinh trưởng mà còn làm biến
động di truyền về sinh trưởng.
- Điều kiện môi trường chăm sóc nuôi dưỡng

Khả năng sinh trưởng của gia cầm chịu ảnh hưởng rất lớn của yếu tố môi
trường và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng. khẩu phần ăn đầy đủ và cân đối các chất
dinh dưỡng, chăm sóc quản lý chu đáo sẽ có tác dụng tăng khả năng sinh trưởng
nâng cao năng suất chăn nuôi.
Điều kiện môi trường như; nhiệt độ, ẩm độ, chế độ chiếu sáng, mật độ nuôi
nhốt, nước uống. Theo Knust, Pingel và Lengerken, 1996, [67] cho biết khi nhiệt độ
cao (30
0
C) ảnh hưởng đến sinh trưởng của vịt, làm giảm thức ăn ăn vào, kết quả là
khối lượng sống giảm và tỷ lệ mỡ của thịt sẽ thấp. Nhiệt độ cao có tác động âm tính
đến chất lượng thịt (tỷ lệ ăn được giảm, chất lượng cơ kém).
Bùi Đức Lũng, Lê Hồng Mận, 1993, [16] sau khi nghiên cứu đã đưa ra
khuyến cáo: với vịt nuôi quảng canh mật độ tối đa 30 vịt/ha mặt nước.
Lewis, Perry và Morris, 1992, [71] cho biết các giống khác nhau bị tác động
của thời gian chiếu sáng cũng khác nhau đặc biệt ở các tuần tuổi 9, 12, 15. Từ 9
tuần tuổi nếu tăng thời gian chiếu sáng sẽ làm phát dục sớm.
1.1.4. Cơ sở khoa học về năng suất, chất lượng thịt
Sức sản xuất thịt là một trong những chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật hết sức quan
trọng của gia cầm. Khả năng sản xuất thịt là khả năng tạo nên khối lượng cơ ở độ
tuổi khi mà đem giết thịt cho hiệu quả kinh tế cao nhất. Khả năng cho thịt được biểu
hiện ít nhất trên 2 góc độ là năng suất thịt và chất lượng thịt.
- Năng suất thịt biểu thị bằng khối lượng sống, tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ thân
thịt, tỷ lệ các bộ phận như nạc, mỡ, da… còn chất lượng thịt biểu hiện bằng thành
phần hoá học (tỷ lệ vật chất khô - thể hiện độ chắc của thịt, protein - thể hiện giá trị
dinh dưỡng, mỡ - thể hiện độ béo của thịt, khoáng - tạo nên độ đậm đà…), cấu trúc
và kích thước sợi cơ, độ mềm, độ ướt và độ ngon của thịt…


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



14
Năng suất thịt cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như:
giống, dòng, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng, tính biệt, phương thức chăn nuôi, vệ
sinh thú y…
Tỷ lệ thịt xẻ chính là tỷ lệ phần trăm của khối lượng thân thịt so với khối
lượng sống của gia cầm. Tương tự như vậy, năng suất của các thành phần thân thịt
là tỷ lệ phần trăm của các phần so với thân thịt và năng suất của cơ là tỷ lệ phần
trăm của cơ so với thân thịt.
Theo Chambers, 1990 [53] tỷ lệ các phần thân thịt như sau: Khối lượng sống
của gia cầm 100 % thì khối lượng thân thịt chiếm khoảng 64 % (trong đó thịt 52 %
và xương là 12 %); phủ tạng chiếm khoảng 6 %; máu, lông, đầu, chân, ruột chiếm
khoảng 17 % và tỷ lệ hao hụt khi giết mổ chiếm 13 %.
Mối tương quan giữa khối lượng sống và khối lượng thịt xẻ là khá cao
thường là 0,9, còn tương quan giữa khối lượng sống và mỡ bụng thì thấp hơn
thường 0,2 - 0,5 (dẫn theo Nguyễn Thị Thuý Mỵ, 1997 [21]).
Chambers, 1990, [53], thì các giống, các dòng khác nhau thì năng suất thịt
cũng khác nhau. Giữa các dòng luôn có sự khác di truyền về năng suất thịt xẻ, hay
năng suất các phần như thịt đùi, thịt ngực và từng phần thịt, da, xương.
Theo Decarville, Decroutte, 1985, [7], tỷ lệ thịt xẻ phụ thuộc vào tính biệt,
vịt Bắc Kinh con đực là 60,3 %, con cái 61 %.
Mối quan hệ di truyền giữa cấu trúc cơ thể và khối lượng cơ thể là 0,5, với
tổng số móc hàm là 0,45, tỷ lệ thịt ngực là 0,6. Khả năng di truyền được ước tính
cho cấu trúc cơ thể dao động từ 0,3-0,5, Vereijken, 1992, [83]. Theo Kosba, et al,
1995, [68] cho biết hệ số di truyền tuyệt đối của thịt xẻ như sau: Hệ số di truyền
theo bố (h
2
S
)= 0,19 - 0,22; hệ số di truyền theo mẹ (h
2

D
)= 1,02 - 1,09; hệ số di
truyền theo cả bố - mẹ (h
2
S+D
)= 0,60 - 0,66.
Knust, Pinge, 1996 [67], cho biết thành phần của thịt xẻ bị ảnh hưởng của
môi trường khá lớn, khi nhiệt độ môi trường cao thì tỷ lệ mỡ của thịt xẻ thấp, tỷ lệ
ăn được giảm, chất lượng cơ kém.
Thành phần của thịt xẻ chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố di truyền. Các giống
vịt cao sản (đặc biệt nuôi nhốt) có khối lượng cơ thể, tỷ lệ thịt xẻ cao hơn vịt địa
phương nuôi truyền thống. Thành phần thịt xẻ có thể được thay đổi bởi nhiều cách
khác nhau trong đó có chọn lọc (Abdelsamie and Farrell, 1985, [50]).


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


15
Touraille C. và cộng sự, 1981 [80] cho biết ở tất cả các giống gia cầm, tuổi
giết mổ và tính biệt có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất thịt. Nhìn chung tỷ lệ thân
thịt chỉ tăng đến một độ tuổi nhất định nào đó. Tỷ lệ thân thịt của gia cầm trống và
mái cũng khác nhau. Rất nhiều nghiên cứu cho rằng tỷ lệ thân thịt ở gia cầm hướng
thịt tăng lên theo tuổi, tuổi gia cầm càng cao thì tỷ lệ này càng cao. Mặt khác, khi
tuổi gia cầm càng tăng, tỷ lệ thịt đùi, lườn càng tăng và tuổi giết mổ gia cầm còn
ảnh hưởng đến độ ngon của thịt.
Chất lượng thịt phụ thuộc vào thành phần hoá học của thịt. Thành phần hóa
học của thịt gồm: protein, lipid, đường, vitamin, men, khoáng, nước. So với thịt gia
súc, thịt gia cầm có hàm lượng các chất dinh dưỡng cao hơn do đó độ đồng hóa khi
sử dụng thịt gia cầm cũng cao hơn thịt gia súc.

Các giống gia cầm khác nhau thì thành phần hoá học của thịt cũng khác
nhau. Hetzel, 1983, [59], khi so sánh thành phần hoá học thịt xẻ của vịt Bắc Kinh,
Alabio, F
1
(BK x A), F
1
(Ngan x Alabio) thấy rằng: Tỷ lệ vật chất khô và mỡ của
thịt xẻ cao nhất ở con lai F
1
(BK x Alabio) = 47,8 % và 31,7 %. Nhưng tỷ lệ protein
lại cao nhất ở con lai F
1
(Ngan x Alabio) = 15 %.
Hetzel và Simon, 1983, [61], khi so sánh 3 giống vịt địa phương với vịt
Khaki Cambell đến 16 tuần tuổi thấy; tỷ lệ sinh trưởng khác nhau rất nhỏ, tỷ lệ mỡ
khác nhau chút ít. Vịt Bali và Tegal có tỷ lệ mỡ thấp hơn Alabio và Khaki Cambell.
Theo Chambers, 1990, [53], tốc độ sinh trưởng có tương quan âm với tỷ lệ mỡ (-
0,32), hệ số di truyền về thành phần hoá học của thịt xẻ như sau; nước 0,38, protein
0,47, mỡ 0,48, khoáng 0,25. Ngoài yếu tố di truyền giống, dòng, thành phần hoá
học thịt xẻ ở vịt còn chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố môi trường, thức ăn, bệnh tật
(Helzel, 1983, [59]).
1.1.5. Cơ sở khoa học về tiêu tốn thức ăn
Khoa học ngày nay đã chứng minh mối lên quan chặt chẽ giữa dinh dưỡng
với duy trì sự sống và năng suất của vật nuôi. Nhu cầu về dinh dưỡng của gia cầm
bằng tổng nhu cầu duy trì và nhu cầu sản xuất. Dinh dưỡng một là quá trình sinh
học nhằm duy trì cơ thể và không ngừng đổi mới những chất tạo nên cơ thể. Trong
chăn nuôi nói chung và chăn nuôi vịt nói riêng, việc tạo ra giống mới có năng suất
cao thì chưa đủ mà còn phải tạo ra nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng phù hợp với đặc
tính sinh lý, phù hợp với mục đích sản xuất của từng giống, dòng và phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của vật nuôi.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


16
Gia cầm cũng giống như tất cả các loài vật nuôi khác, chúng đều là các sinh
vật tự dưỡng, không có khả năng tổng hợp các chất hữu cơ cần thiết cho sự sống
như: protein, gluxit, lipid… từ những chất vô cơ đơn giản như sinh vật dị dưỡng.
Nhu cầu về các chất hữu cơ này của cơ thể gia cầm chỉ có thể được đáp ứng thông
qua thức ăn nhờ quá trình tiêu hóa, hấp thu của hệ tiêu hóa.
Trong chăn nuôi ngoài việc tạo ra con giống mới có năng suất cao thì các nhà
chăn nuôi cần phải chú ý đến nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng, cân bằng đầy đủ các
chất dinh dưỡng phù hợp với đặc tính sinh vật học của gia cầm và phù hợp với mục
đích sản xuất của từng giống, dòng, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của cơ thể
mà vẫn đảm bảo được các chỉ tiêu về kinh tế. Để đánh giá về vấn đề này người ta
đưa ra chỉ tiêu “tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng”.
Tiêu tốn thức ăn/đơn vị sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật rất quan trọng
trong chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gia cầm nói riêng và luôn là mối quan tâm
kinh tế lớn nhất của các nhà chăn nuôi, vì chi phí thức ăn thường chiếm tới 70 % giá
thành sản phẩm. Vì vậy, hiệu suất giữa thức ăn/kg tăng khối lượng hay thức ăn/kg
trứng hoặc 10 quả trứng càng thấp thì hiệu quả kinh tế càng cao và ngược lại.
Đối với gia súc, gia cầm thức ăn ăn vào một phần để duy trì cơ thể, một phần
dùng để tăng khối lượng và cho sản phẩm (trứng hoặc lông…). Mặt khác, khi quá
trình đồng hoá và dị hoá tốt tức là khả năng trao đổi chất tốt thì hiệu quả sử dụng
thức ăn cho tạo sản phẩm sẽ cao dẫn đến tiêu tốn thức ăn thấp.
Bằng thực nghiệm đã chứng minh tiêu tốn thức ăn cho tăng khối lượng phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố như; giống, tuổi, tính biệt, mùa vụ, chế độ chăm sóc nuôi
dưỡng cũng như tình hình sức khỏe của đàn gia cầm.
Fox và Bohren, 1954, [57], Willson, 1969 [86] xác định hệ số tương quan

giữa khả năng tăng khối lượng cơ thể và hiệu quả chuyển hoá thức ăn từ 1- 4 tuần
tuổi là r = 0,5.
Hệ số tương quan di truyền giữa khối lượng cơ thể và tăng khối lượng với
tiêu tốn thức ăn thường rất cao được Chambers, 1984 xác định là (0,5 - 0,9), còn
tương quan di truyền giữa sinh trưởng và chuyển hoá thức ăn là âm từ -0,2 đến -0,8
(dẫn theo Phùng Đức Tiến, 1996, [34]). Porodman và cộng sự (1970), Pym (1979)
cho biết ở những giống gia cầm có tốc độ tăng khối lượng cao thì hiệu quả sử dụng
thức ăn cũng tốt hơn đối với gia cầm sinh sản.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


17
Willson, 1969 [86] xác định hệ số tương quan giữa khả năng tăng khối lượng
cơ thể và hiệu quả chuyển hóa thức ăn từ 1 - 4 tuần tuổi là r = -1 đến +1. Hiệu quả
sử dụng thức ăn liên quan chặt chẽ đến sinh trưởng.
Khả năng chuyển hóa protein thức ăn của gia cầm mái cho hoạt động duy trì
cơ thể, sản xuất nói chung và tạo trứng nói riêng là 55 %. Do vậy, gà đẻ 100 % cần
nhu cầu là tạo trứng 8,9 g protein cho tạo trứng (Ivy và Gleaves, 1976, [64]).
Theo Morris và Wasserman, 1971, [11] thì chỉ có 80 % năng lượng của thức
ăn được gia cầm hấp thu, trong đó 25 % ME được hấp thu dùng cho tạo trứng.
Tiêu tốn thức ăn/đơn vị sản phẩm của gia cầm nuôi thịt phụ thuộc vào tốc độ
sinh trưởng, độ tuổi, giai đoạn đầu tiêu tốn thức ăn thấp, giai đoạn sau tiêu tốn thức
ăn cao hơn. Ngoài ra còn phụ thuộc vào tính biệt, khí hậu thời tiết và chế độ chăm
sóc, nuôi dưỡng cũng như tình hình sức khoẻ của đàn gia cầm, đặc biệt mức độ cân
bằng các chất dinh dưỡng trong thức ăn.
Sinh trưởng nhanh và tiêu tốn thức ăn thấp luôn là mục tiêu của nhiều công
trình nghiên cứu về lai tạo giống gia cầm.
1.1.6. Cơ sở khoa học về khẩu phần ăn

Pan, Tai, Chen, 1978, [73], Yang, 1980, [84] tiến hành thí nghiệm các mức
protein và năng lượng ở 3 giai đoạn 0 - 4 tuần tuổi, 5 - 12 tuần tuổi và 13 - đẻ trên
vịt Tsaiya trắng cố định 2 mức ME là 10,87 và 11,71 MJ/kg còn CP (%): 19 - 17 -
15, 17 - 15 - 13, 15 - 13 - 11. Kết quả ở các mức CP khác nhau không làm thay đổi
tăng khối lượng của vịt, tuy nhiên lô có ME cao hơn thì hiệu quả chuyển hóa thức
ăn tốt hơn.
- Lô ăn thức ăn có ME cao thì tuổi đẻ sớm hơn 1,6 ngày nhưng tỷ lệ đẻ 50,%
và 80 % thì chậm hơn 1 và 0,4 ngày.
- Lô ăn thức ăn có CP cao nhất (19 - 17 - 15 % CP) cũng có tuổi đẻ đầu sớm
hơn, nhưng tỷ lệ đẻ 50 % và 80 % sớm hơn lại là lô có CP: 17 - 15 - 13 % và cả 3 lô
không có sự sai khác về nằng suất trứng, khối lượng trứng trong 80 ngày đẻ đầu.
Như vậy, các mức CP và ME của vịt hậu bị không ảnh hưởng tới năng suất
đẻ và khối lượng trứng của vịt giai đoạn sinh sản.
Ngoài yếu tố về CP và ME, các nguyên tố khoáng cũng ảnh hưởng không
nhỏ tới khả năng cho sản phẩm của vịt. Trong đó quan trọng hang đầu phải kể đến
là Canxi. Wu, 1978 [87] cho biết: Ca tối thiểu cho vịt giai đoạn 0 - 3 tuần tuổi là

×