Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
i
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
o0o
NGUYỄN THÙY DƢƠNG
KẾT TRỊ TỰ DO CỦA ĐỘNG TỪ TIẾNG VIỆT
CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ : 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN VĂN LỘC
THÁI NGUYÊN, NĂM 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ii
LỜI CẢM ƠN
Em xin bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Văn Lộc, người
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình thực hiện luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Viện Ngôn ngữ học,
các thầy cô giáo Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, Khoa
Sau đại học Trường ĐHSP Thái Nguyên đã giảng dạy trong khóa học và tạo
điều kiện, giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Em trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Hội đồng đã nhận
xét, góp ý để luận văn được hoàn thiện hơn.
Thái Nguyên, tháng 08 năm 2011
Tác giả luận văn
Nguyễn Thùy Dương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa có ai công bố
trong một công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả
Nguyễn Thùy Dương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iv
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
Dấu (+) chỉ ra tính hiện thực hóa của cấu trúc
Dấu (-) chỉ ra tính không hiện thực hóa của cấu trúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
v
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 2
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 4
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4
5. NGỮ LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN 5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT 6
1.1. LÍ THUYẾT KẾT TRỊ 6
1.1.1. Khái niệm kết trị 9
1.1.2. Khái niệm kết trị của động từ 9
1.2. CÁC KIỂU KẾT TRỊ CỦA ĐỘNG TỪ 10
1.2.1. Kết trị nội dung và kết trị hình thức 10
1.2.1.1. Kết trị nội dung 10
1.2.1.2. Kết trị hình thức 11
1.2.2. Kết trị bắt buộc và kết trị tự do 13
1.2.2.1. Kết trị bắt buộc 13
1.2.2.2. Kết trị tự do 13
1.2.3. KHÁI NIỆM KẾT TỐ VÀ KẾT TỐ TỰ DO 14
1.2.3.1. Khái niệm kết tố 14
1.2.3.2. Khái niệm kết tố tự do 14
1.2.4. Khái niệm hiện thực hóa kết trị 15
1.3. NGUYÊN TẮC, THỦ PHÁP VÀ QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU KẾT TRỊ
CỦA ĐỘNG TỪ 16
1.3.1. Nguyên tắc nghiên cứu kết trị của động từ 16
1.3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính cú pháp triệt để, nhất quán 16
1.3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính hai mặt: ý nghĩa và hình thức cú pháp khi xác
định phân tích kết trị của động từ 17
1.3.1.3. Nguyên tắc xuất phát từ thuộc tính kết trị của từ 19
1.3.2. Thủ pháp nghiên cứu kết trị của động từ 19
1.3.3. Quy trình nghiên cứu kết trị của động từ 23
1.4. TIỂU KẾT 24
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vi
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KẾT TRỊ TỰ DO CỦA
ĐỘNG TỪ TIẾNG VIỆT 25
2.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA KẾT TỐ TỰ DO 25
2.1.1. Sự phong phú về kiểu loại ý nghĩa của kết tố tự do 25
2.1.2. Tính độc lập về nghĩa cú pháp so với động từ 26
2.1.3. Tính tự do về khả năng xuất hiện bên động từ 26
2.1.4. Tính tự do, linh hoạt về vị trí so với động từ 27
2.1.5. Phạm vi kết hợp rộng rãi với các nhóm động từ 29
2.2. VỀ PHẠM VI, RANH GIỚI CỦA KẾT TRỊ TỰ DO 30
2.2.1. Ranh giới giữa kết trị tự do và kết trị bắt buộc 30
2.2.2. Kết tố tự do và trạng ngữ của câu 32
2.3. PHÂN LOẠI KẾT TỐ TỰ DO 37
2.3.1. Phân loại theo ý nghĩa 37
2.3.2. Phân loại theo cấu tạo 38
2.3.3. Phân loại theo phƣơng thức kết hợp 40
2.3.4. Phân loại theo vị trí 41
2.4. TIỂU KẾT 45
CHƢƠNG 3: CÁC KIỂU KẾT TỐ TỰ DO CỦA ĐỘNG TỪ TIẾNG VIỆT 46
3.1. KẾT TỐ KHÔNG GIAN 46
3.1.1. Đặc điểm của kết tố không gian 46
3.1.1.1. Về ý nghĩa 46
3.1.1.2. Về cấu tạo và phƣơng thức kết hợp 46
3.1.1.3. Về phạm vi kết hợp 49
3.1.1.4. Về vị trí 49
3.1.1.5. Về sự đối lập nội bộ (sự phân loại) 52
3.1.2. Phân biệt kết tố không gian với một vài kiểu kết tố khác 53
3.1.2.1. Phân biệt kết tố không gian với kết tố bắt buộc 53
3.1.2.2. Phân biệt kết tố không gian với các kiểu kết tố tự do khác 54
3.2. KẾT TỐ THỜI GIAN 55
3.2.1. Đặc điểm của kết tố thời gian 55
3.2.1.1. Về ý nghĩa 55
3.2.1.3. Về phạm vi kết hợp 57
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vii
3.2.1.4. Về vị trí 58
3.3. KẾT TỐ NGUYÊN NHÂN 61
3.3.1. Đặc điểm của kết tố nguyên nhân 61
3.3.1.1. Về ý nghĩa 61
3.3.1.2. Về cấu tạo và phƣơng thức kết hợp 62
3.3.1.3. Về phạm vi kết hợp 64
3.3.1.4. Về vị trí 65
3.4. KẾT TỐ MỤC ĐÍCH 66
3.4.1. Đặc điểm của kết tố mục đích 66
3.4.1.1. Về ý nghĩa 66
3.4.1.2. Về cấu tạo và phƣơng thức kết hợp 66
3.4.1.3. Về phạm vi kết hợp 72
3.4.1.4. Về vị trí 72
3.4.2. Phân biệt kết tố mục đích với kết tố nguyên nhân 75
3.5. KẾT TỐ CHỈ TÍNH CHẤT, CÁCH THỨC 76
3.5.1. Đặc điểm chung của kết tố tính chất, cách thức 76
3.5.1.1. Về ý nghĩa 76
3.5.1.2. Về cấu tạo và phƣơng thức kết hợp 76
3.5.1.3. Về phạm vi kết hợp 77
3.5.1.4. Về vị trí: 77
3.6. KẾT TỐ CHỈ CÔNG CỤ, PHƢƠNG TIỆN, PHƢƠNG THỨC 78
3.6.1. Đặc điểm của kết tố phƣơng tiện công cụ 78
3.6.1.1. Về ý nghĩa 78
3.6.1.2. Về cấu tạo và phƣơng thức kết hợp 79
3.6.1.3. Về phạm vi kết hợp 82
3.6.1.4. Về vị trí 83
3.7. KẾT TỐ CHỈ KẺ ĐƢỢC QUAN TÂM PHỤC VỤ 85
3.7.1. Đặc điểm của kết tố chỉ kẻ đƣợc quan tâm phục vụ 85
3.7.1.1. Về ý nghĩa 85
3.7.1.2. Về cấu tạo và phƣơng thức kết hợp 85
3.7.1.3. Về phạm vi kết hợp 87
3.7.1.4. Về vị trí 87
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
viii
3.7.2. Phân biệt kết tố chỉ kẻ quan tâm phục vụ với kết tố chỉ kẻ tiếp nhận 88
3.8. KẾT TỐ CHỈ SỐ LẦN HÀNH ĐỘNG 91
3.8.1. Đặc điểm của kết tố chỉ số lần hoạt động 91
3.8.1.1. Về ý nghĩa 91
3.8.1.2. Về cấu tạo và phƣơng thức kết hợp 91
3.8.1.3. Về phạm vi kết hợp 92
3.8.1.4. Về vị trí 93
3.9. KẾT TỐ CHỈ KẺ CÙNG THAM GIA HOẠT ĐỘNG 95
3.9.1. Đặc điểm của kết tố chỉ kẻ cùng tham gia hoạt động 95
3.9.1.1 Về ý nghĩa 95
3.9.1.2. Về cấu tạo và phƣơng thức kết hợp 96
3.9.1.3. Về phạm vi kết hợp 97
3.9.1.4. Về vị trí 97
KẾT LUẬN 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO 102
NGUỒN DỮ LIỆU TRÍCH DẪN………………………………………… 105
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Động từ là từ loại có số lƣợng rất lớn và có đặc tính hết sức phức
tạp. Về vai trò ngữ pháp, động từ là trung tâm của tuyệt đại đa số câu tiếng
Việt. Do có địa vị quan trọng trong hệ thống từ loại, cho nên động từ luôn thu
hút đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
1.2. Việc nghiên cứu động từ đƣợc tiến hành ở nhiều góc độ với nhiều
công trình khác nhau nhƣ: Cụm động từ tiếng Việt của Nguyễn Phú Phong,
Động từ trong tiếng Việt của Nguyễn Kim Thản, Ngữ nghĩa và cấu trúc
của động từ của Vũ Thế Thạch, Vị từ hành động và các tham tố của nó của
Nguyễn Thị Quy, Kết trị của động từ tiếng Việt của Nguyễn Văn Lộc…Tuy
nhiên, việc nghiên cứu động từ từ góc độ kết trị còn ít đƣợc chú ý đến.
1.3. Lí thuyết kết trị là một lí thuyết ngôn ngữ học quan trọng. Sau khi
ra đời, lí thuyết kết trị đã có ảnh hƣởng lớn và đƣợc vận dụng rộng rãi vào
việc nghiên cứu ngữ pháp, ngữ nghĩa của các ngôn ngữ, trong đó có các ngôn
ngữ đơn lập.
1.4. Việc nghiên cứu động từ theo quan điểm kết trị là hƣớng đi mới
mẻ và có nhiều triển vọng. Trên thế giới, đã có khá nhiều công trình vận dụng
lí thuyết kết trị để nghiên cứu một cách có hiệu quả thuộc tính ngữ pháp của
động từ và các mô hình cú pháp của câu. Ở Việt Nam, Nguyễn Văn Lộc là
ngƣời đầu tiên vận dụng lí thuyết kết trị vào việc nghiên cứu ngữ pháp. Trong
công trình nghiên cứu Kết trị của động từ tiếng Việt, Nguyễn Văn Lộc đã
phân loại và mô tả kết trị bắt buộc của động từ. Trong công trình Vị từ hành
động và các tham tố của nó, Nguyễn Thị Quy cũng đã tiến hành phân tích
cấu trúc tham tố của vị từ hành động theo lí thuyết kết trị. Tuy nhiên, đến nay,
kết trị tự do của động từ chƣa đƣợc chú ý nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
1.5. Việc nghiên cứu kết trị tự do của động từ có ý nghĩa quan trọng cả
về lí luận lẫn thực tiễn.
Về lí luận, việc nghiên cứu kết trị tự do của động từ góp phần làm sáng
tỏ, làm phong phú lí thuyết kết trị qua cứ liệu của các ngôn ngữ đơn lập, đồng
thời cũng góp phần làm sáng tỏ đặc điểm, bản chất của mối quan hệ giữa
động từ và thành phần phụ (thƣờng đƣợc gọi là trạng ngữ), qua đó làm rõ hơn
bản chất của quan hệ ngữ pháp trong câu.
Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu kết trị tự do của động từ có thể đƣợc
sử dụng trong việc biên soạn giáo trình, tài liệu phục vụ cho việc dạy – học
động từ nói riêng, ngữ pháp tiếng Việt nói chung trong nhà trƣờng.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Kết
trị tự do của động từ tiếng Việt”.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Từ cuối thế kỷ XIX đến đầu những năm sáu mƣơi của thế kỷ XX, việc
nghiên cứu động từ tiếng Việt chƣa đạt đƣợc những kết quả lớn. Trong suốt thời
kỳ này, chƣa có công trình chuyên khảo về động từ. Chỉ từ giữa những năm sáu
mƣơi cho đến nay, việc nghiên cứu về động từ mới thực đi vào chiều sâu. Trong
giai đoạn này, bên cạnh những công trình chung về ngữ pháp trong đó thƣờng đề
cập đến động từ, đã xuất hiện một số chuyên luận đáng chú ý nhƣ:
- Phân loại động từ tiếng Việt của I.S.Bystov (1966)
- Cụm động từ tiếng Việt của Nguyễn Phú Phong (1973)
- Các động từ chỉ hƣớng trong tiếng Việt của Nguyễn Lai (1976)
- Động từ trong tiếng Việt của Nguyễn Kim Thản (1977)
- Ngữ nghĩa và cấu trúc của động từ của Vũ Thế Thạch (1984)
Trong các công trình kể trên, có một số nghiên cứu tƣơng đối toàn diện
về các đặc điểm ngữ pháp của động từ. Thuộc số này là các công trình của
Nguyễn Phú Phong và Nguyễn Kim Thản. Một số công trình đi sâu vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
nghiên cứu từng mặt hoặc từng nhóm động từ, chẳng hạn: I.S.Bystov đi sâu
vào vấn đề phân loại động từ, Nguyễn Lai đi vào nhóm động từ chỉ hƣớng,
còn Vũ Thế Thạch đi vào mặt ngữ nghĩa của động từ
Tiếp tục nghiên cứu về động từ còn có công trình Kết trị của động từ
tiếng Việt của Nguyễn Văn Lộc (1994). Trong công trình này, tác giả nghiên
cứu động từ theo một hƣớng tiếp cận hoàn toàn mới là: hƣớng nghiên cứu
động từ theo lí thuyết kết trị, dựa vào lí thuyết kết trị. Từ đó, tác giả đã phân
loại, mô tả khá tỉ mỉ kết trị bắt buộc của động từ với hai kiểu kết tố cơ bản là
kết tố chủ thể (chủ ngữ) và kết tố đối thể (bổ ngữ), đồng thời phân tích một số
kiểu hiện thực hoá kết trị bắt buộc của động từ. Tuy nhiên, kết trị tự do của
động từ chƣa đƣợc chú ý nghiên cứu trong công trình này.
Ngoài các công trình trên, gần đây, một số luận văn Thạc sĩ cũng tiến
hành nghiên cứu kết trị của động từ ở các góc độ khác nhau. Chẳng hạn, luận
văn Thạc sĩ của Trịnh Thị Thu Hòa với tên gọi Động từ trung tính trong
tiếng Việt (2008). Khi nghiên cứu đặc điểm kết trị của động từ trung tính, tác
giả của luận văn này đã đề cập đến khả năng kết hợp của động từ trung tính
với các kiểu kết tố tự do là kết tố không gian, kết tố mục đích, kết tố nguyên
nhân, kết tố chỉ cách thức Hay trong luận văn Thạc sĩ Động từ chủ động
trong tiếng Việt (2010), tác giả Gia Thị Đậm đã phân tích và chỉ ra khả năng
kết hợp động từ chủ động với bổ ngữ mục đích và bổ ngữ chỉ công cụ,
phƣơng tiện. Còn luận văn Thạc sĩ Phân tích và phân loại câu theo lý
thuyết kết trị của tác giả Nguyễn Mạnh Tiến (2010) lại là hƣớng nghiên cứu
vận dụng lí thuyết kết trị vào việc phân tích, phân loại câu tiếng Việt. Qua
việc phân tích, phân loại câu theo lí thuyết kết trị, tác giả đã xác định và làm
rõ ranh giới giữa câu đơn và câu ghép, đồng thời cho phép xác lập và miêu tả
bằng thủ pháp mô hình hóa các mô hình câu phổ biến trong tiếng Việt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Bên cạnh những công trình chuyên sâu về động từ, các công trình
nghiên cứu chung về ngữ pháp Tiếng Việt cũng đều đề cập đến động từ ở các
mức độ khác nhau. Chẳng hạn, trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt. Tiếng. Từ
ghép, đoản ngữ (1975), khi miêu tả đoản ngữ có động từ làm trung tâm
(động ngữ), Nguyễn Tài Cẩn đã xác định hai kiểu thành tố phụ sau của động
từ là bổ tố (thành tố phụ riêng hay thanh tố phụ bắt buộc) và trạng tố (thành tố
phụ chung hay thành tố phụ tự do). Tuy nhiên, tác giả chƣa có điều kiện đi
sâu phân tích miêu tả tỉ mỉ các kiểu trạng tố nói trên.
Tóm lại, đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về động từ tiếng
Việt theo các bình diện lí thuyết khác nhau. Trong đó, đáng chú ý là hƣớng
nghiên cứu động từ theo lí thuyết kết trị. Tuy nhiên, kết trị tự do của động từ
chƣa đƣợc chú ý nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là vận dụng những thành tựu của lí
thuyết kết trị vào việc nghiên cứu, làm rõ thuộc tính kết trị tự do của động từ
trong tiếng Việt hiện đại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn đề ra ba nhiệm vụ cụ thể:
1) Nghiên cứu cơ sở lí luận của đề tài.
2) Phân tích, miêu tả các kiểu kết trị tự do của động từ tiếng Việt.
3) Phân tích sự hiện thực hóa kết trị tự do của động từ tiếng Việt.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là thuộc tính kết trị tự do của động
từ tiếng Việt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung vào việc phân tích, miêu tả các kiểu kết trị tự do của
động từ trong tiếng Việt hiện đại, xét về mặt tiềm tàng lẫn mặt hiện thực hóa,
mặt nội dung lẫn mặt hình thức biểu hiện.
5. NGỮ LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Ngữ liệu nghiên cứu
Những ngữ liệu mà chúng tôi dựa vào để khảo sát động từ, kết trị của
động từ là các tác phẩm văn học, báo chí và một số loại văn bản khác của
các tác giả có uy tín về sử dụng tiếng Việt.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp chính của luận văn là phƣơng pháp miêu tả. Với phƣơng
pháp này, chúng tôi đi sâu vào phân tích, miêu tả các kiểu kết trị tự do của
động từ tiếng Việt (ý nghĩa, hình thức của các kết tố tự do). Bên cạnh đó,
phƣơng pháp thống kê cũng đƣợc sử dụng nhằm điều tra, thu thập các tƣ liệu
cần thiết về thuộc tính kết trị tự do của động từ. Ngoài ra, chúng tôi còn sử
dụng phƣơng pháp so sánh, đối chiếu, để làm rõ thêm đặc điểm của kết trị tự
do của động từ tiếng Việt. Về thủ pháp nghiên cứu, luận văn kết hợp sử dụng
các thủ pháp lược bỏ, bổ sung, thay thế và cải biến.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc
triển khai qua ba chƣơng.
Chƣơng 1: Cơ sở lí thuyết
Chƣơng 2: Một số vấn đề chung về kết trị tự do
Chƣơng 3: Các kiểu kết trị tự do của động từ tiếng Việt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. LÍ THUYẾT KẾT TRỊ
Thuật ngữ kết trị (còn đƣợc gọi là hoá trị, ngữ trị) vốn đƣợc dùng đầu
tiên trong hoá học, để đánh dấu khả năng của các nguyên tử làm hình thành
các mối liên kết hoá học [47, tr.121]. Thuật ngữ này đƣợc dùng trong ngôn
ngữ học vào những năm 40 của thế kỉ XX để “đánh dấu khả năng kết hợp của
từng kí hiệu ngôn ngữ có thể có với các kí hiệu khác để tạo thành giá trị
chung nhiều hơn hoặc ít hơn giá trị của các yếu tố đó cộng lại” [47, tr.121].
Không nằm ngoài quy luật của sự phát triển, lí thuyết kết trị cũng trải
qua quá trình phát triển để hoàn thiện. Khuynh hƣớng phát triển lí thuyết kết
trị là đi theo hƣớng mở rộng từ cấp độ từ sang các cấp độ khác của ngôn ngữ
nhƣ âm vị , hình vị, cấu tạo từ…
Theo cách hiểu hẹp, kết trị chỉ là thuộc tính kết hợp của động từ hoặc
một số từ loại nhất định. Nhƣ vậy, lí thuyết kết trị ban đầu chỉ đƣợc sử dụng ở
phạm vi hẹp, nói cách khác, mới chỉ đƣợc dùng để nghiên cứu thuộc tính kết
hợp của từ.
Ngƣời đầu tiên sử dụng thuật ngữ kết trị theo cách hiểu hẹp là nhà ngôn
ngữ học ngƣời Pháp L.Tesniere. Lí thuyết kết trị đƣợc ông nói đến trong cuốn
Các yếu tố của cú pháp cấu trúc. Khác với ngữ pháp học truyền thống,
L.Tesniere cho rằng, động từ trong vai trò mà ngữ pháp truyền thống gọi là vị
ngữ chính là thành tố hạt nhân, tạo thành cái nút chính của câu. Trong vai trò
đó, động từ quy định số lƣợng và đặc tính của các thành tố có quan hệ với nó.
Các thành tố này đƣợc chia thành hai loại dựa trên mức độ gắn bó với động từ
trong câu: các thành tố bắt buộc (diễn tố) và các thành tố tự do (chu tố). Trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
đó, các thành tố bắt buộc tƣơng ứng với thành phần chủ ngữ và bổ ngữ truyền
thống, còn các thành tố tự do tƣơng ứng với thành phần trạng ngữ truyền
thống. Các nhà ngôn ngữ học Liên Xô (cũ) đã phát triển lí thuyết này, mà tiêu
biểu là S.D Kaselson. Trong bài Về khái niệm các kiểu kết trị, tác giả đƣa ra
cách hiểu khái niệm kết trị nhƣ sau: Kết trị là thuộc tính của lớp từ nhất định
kết hợp vào mình những từ khác [Theo 25, tr.27]. Trong công trình nghiên
cứu trên, ông khẳng định: “ Mỗi từ về nguyên tắc đều có khả năng kết hợp với
một từ nhất định nào đó, thế nhƣng cũng không có nghĩa tất cả các từ đều có
kết trị mà trên thực tế, chỉ những từ có khả năng tạo ra các “ô trống” đòi hỏi
làm đầy trong các phát ngôn mới có kết trị” [25, tr.27]. Từ quan điểm đó, S.D
Kaselson nghiên cứu các vị trí mở bên của động từ để xác định kết trị của từ
loại này. Căn cứ vào số lƣợng các vị trí mở (các ô trống) bên động từ, tác giả
chia động từ thành động từ một vị trí, động từ hai vị trí, động từ ba vị trí.
Ngoài ra, cũng trong tác phẩm này, S.D Kaselson còn chú ý phân biệt kết trị
nội dung (tức là mối quan hệ ngữ nghĩa gắn với mặt nghĩa của từ) và kết trị
hình thức (tức là mối quan hệ về hình thức gắn với mặt hình thái của từ). Nhƣ
vậy, có thể nói, đến S.D Kaselson, lí thuyết kết trị đã đƣợc mở rộng và phát
triển sâu hơn một bƣớc trên cứ liệu của tiếng Nga.
Không chỉ dừng lại ở cấp độ từ, lí thuyết kết trị tiếp tục đƣợc phát triển
và mở rộng sang phạm vi cú pháp. Trong bài báo Câu động từ trong các
ngôn ngữ đơn lập, N.I.Tjapkna đã đề cập đến kết trị của từ ở phạm vi rộng.
Bà cho rằng, kết trị của động từ đƣợc xác định dựa toàn bộ vào các mối quan
hệ cú pháp có thể đối với nó [25, tr.28]. Cùng quan điểm với N.I.TJapkna,
A.M.Mukhin cũng cho rằng, ngoài khả năng kết hợp của động từ với các
thành tố bắt buộc, cần tính đến khả năng kết hợp của động từ với các thành tố
tự do (trạng ngữ truyền thống). Xuất phát từ quan điểm đó, theo A.M.Mukhin,
khi xác định kết trị của động từ, không những cần xác định kết trị bắt buộc mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
còn phải xác định các kiểu kết trị tự do (kết trị nguyên nhân, kết trị mục đích,
kết trị phƣơng tiện).
Trong quá trình phát triển lí thuyết kết trị, không dừng lại ở cấp độ từ
và ở mặt khả năng kết hợp cú pháp, một số tác giả còn chủ chƣơng mở rộng
khái niệm kết trị sang cả các cấp độ và các bình diện khác của ngôn ngữ.
Theo hƣớng đó, thuật ngữ kết trị lúc này cũng đƣợc dùng với nghĩa rộng hơn
rất nhiều. Tiêu biểu cho khuynh hƣớng này là quan điểm của M.B.Stepanova
đƣợc trình bày trong cuốn Lý thuyết kết trị và việc phân tích kết trị. Theo
bà, ngoài kết trị của từ còn có kết trị của các đơn vị ngôn ngữ thuộc các cấp
độ khác (kết trị của các thân từ - kết trị cấu tạo từ); ngoài kết trị chủ động còn
có kết trị bị động; ngoài kết trị cú pháp còn có kết trị ngữ nghĩa và kết trị
logic [25, tr.30].
Tổng kết các ý kiến đề cập ở trên, ta nhận thấy rất rõ khuynh hƣớng
phát triển của lí thuyết kết trị: khuynh hƣớng mở rộng khái niệm kết trị từ cấp
độ từ sang các cấp độ khác của ngôn ngữ; từ bình diện cú pháp sang bình diện
ngữ nghĩa, logic. Tuy nhiên, cũng qua các ý kiến này, ta có thể nhận thấy hai
vấn đề hiện chƣa thực sự thống nhất. Thứ nhất, vấn đề xác định phạm vi của
các đơn vị có kết trị (chỉ ở động từ hay có ở tất cả các từ loại và các đơn vị
ngôn ngữ nói chung?). Thứ hai, vấn đề xác định thuộc tính kết trị (những
thuộc tính nào của đơn vị ngữ pháp đƣợc coi là thuộc tính kết trị?). Có thể
nói, cùng với sự phát triển của lí thuyết kết trị, một số vấn đề phức tạp trên
đây đã và đang đƣợc làm sáng tỏ. Hiện nay, lí thuyết kết trị không chỉ đƣợc
vận dụng để nghiên cứu về động từ và các từ loại khác, mà đã xuất hiện
những công trình vận dụng lí thuyết kết trị để nghiên cứu thuộc tính kết hợp
của các đơn vị ngôn ngữ ở các cấp độ khác nhau. Mặc dù việc mở rộng khái
niệm kết trị sang các cấp độ khác của ngôn ngữ là rất cần thiết, song cần phải
thừa nhận một thực tế là việc nghiên cứu kết trị của từ (đặc biệt là động từ)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
luôn là một nhiệm vụ then chốt. Để phù hợp với mục đích nghiên cứu đặt ra,
trong luận văn này, chúng tôi vận dụng những thành tựu của lí thuyết kết trị
vào việc nghiên cứu làm rõ thuộc tính kết trị tự do của động từ trong tiếng
Việt hiện đại.
Có thể nói, nghiên cứu ngôn ngữ theo lí thuyết kết trị là một khuynh
hƣớng nghiên cứu còn mới mẻ. Tuy ra đời muộn hơn so với một số khuynh
hƣớng khác, song cho đến nay, hƣớng nghiên cứu này cũng đã có những
thành tựu đáng kể. Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về lí thuyết kết trị vẫn còn ít
đƣợc chú ý. Tính cho đến nay, những công trình chuyên khảo nghiên cứu về lí
thuyết kết trị còn rất ít.
1.1.1. Khái niệm kết trị
Theo Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học của Nguyễn Nhƣ Ý, “kết trị là
thuật ngữ dùng trong ngôn ngữ học vào thế kỷ XX, đánh dấu khả năng kết
hợp của từng ký hiệu ngôn ngữ có thể có với các ký hiệu khác để tạo thành
giá trị chung nhiều hơn hoặc ít hơn giá trị của các yếu tố đó cộng lại” [47,
tr.121]. Trong công trình này, chúng tôi hiểu kết trị là thuộc tính kết hợp của
các đơn vị ngôn ngữ cùng cấp độ.
1.1.2. Khái niệm kết trị của động từ
Kết trị của động từ là khả năng của động từ tạo ra xung quanh mình các
vị trí mở cần hoặc có thể làm đầy bởi những thành tố cú pháp (những thực từ)
mang ý nghĩa bổ sung nhất định. Nói cách khác, kết trị của động từ là thuộc
tính của động từ kết hợp vào mình những thành tố cú pháp bắt buộc hay tự do.
Thuộc tính kết hợp này hàm chứa trong ý nghĩa của bản thân động từ. Nó
chính là sự phản ánh những đòi hỏi hoặc khả năng của động từ đƣợc cụ thể
hoá về mặt nào đó” [25, tr.31].
Kết trị của động từ theo cách hiểu trên đây sẽ đƣợc phân biệt với:
a. Khả năng kết hợp từ vựng của từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Nói đến khả năng kết hợp từ vựng của từ là nói đến khả năng kết hợp
của từ với tƣ cách là cá thể hoặc đại diện của nhóm chủ đề. Khả năng kết hợp
từ vựng bị quy định bởi ý nghĩa từ vựng riêng của từ. Còn nói đến kết trị của
từ là nói đến khả năng kết hợp của từ với tƣ cách là đại diện của từ hoặc tiểu
loại nhất định, đƣợc đặc trƣng bởi ý nghĩa từ vựng - ngữ pháp hoặc ý nghĩa
ngữ pháp chung nhất định.
b. Khả năng kết hợp của thực từ với các hƣ từ
Sự kết hợp của thực từ với các hƣ từ (ví dụ: đã, sẽ, đang…) tạo thành
một tổ hợp đặc biệt, dùng trong vai trò tƣơng đƣơng với một thực từ. Trong
những tổ hợp nhƣ vậy, hƣ từ chỉ là những yếu tố bổ sung ý nghĩa thuần ngữ
pháp cho thực từ và hiện thực hoá thuộc tính kết trị của thực từ, chúng không
phải là thành tố cú pháp thực sự.
c. Khả năng kết hợp cú pháp bắt buộc của từ
Kết trị của từ theo cách hiểu trên đây không chỉ là khả năng kết hợp của
từ với các thành tố cú pháp bắt buộc, mà còn là khả năng kết hợp của từ với
các thành tố cú pháp tự do.
1.2. CÁC KIỂU KẾT TRỊ CỦA ĐỘNG TỪ
1.2.1. Kết trị nội dung và kết trị hình thức
1.2.1.1. Kết trị nội dung
Kết trị nội dung là sự kết hợp (mối quan hệ) về mặt ngữ nghĩa giữa từ
mang kết trị và các kết tố (các thành tố bổ sung của động từ). Kết trị nội dung
thƣờng đƣợc xác định theo đặc điểm về ý nghĩa cú pháp (các nghĩa kiểu nhƣ:
chủ thể, đối thể, công cụ, nguyên nhân…) của các kết tố và gắn chặt với ý
nghĩa của từ mang kết trị.
Chẳng hạn, kiểu kết trị chỉ điểm đến chỉ có ở động từ chuyển động (ra,
vào, lên, xuống, về…), kiểu kết trị chỉ kẻ nhận chỉ có ở động từ ban phát (cho,
gửi, trao, tặng, biếu…). Vì kết trị nội dung phụ thuộc chặt chẽ vào động từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
nên sự thay đổi nghĩa từ vựng – ngữ pháp của động từ luôn kéo theo sự thay
đổi kết trị nội dung của nó. Động từ “chạy” trong tiếng Việt vốn có nghĩa nội
hƣớng và khi đƣợc dùng với ý nghĩa này nó không thể có kết trị đối thể. Ví
dụ: Nó đang chạy trên đường. Nhƣng khi đƣợc dùng với ý nghĩa ngoại
hƣớng, “chạy” hoàn toàn có thể có kết trị đối thể nhƣ các động từ ngoại
hƣớng khác. Ví dụ: Nó chạy thóc vào nhà.
1.2.1.2. Kết trị hình thức
Kết trị hình thức của từ là mối quan hệ (sự kết hợp) về hình thức giữa
từ mang kết trị và các kết tố. Khác với kết trị nội dung chỉ gắn với mặt nghĩa
của từ, kết trị hình thức gắn với mặt hình thức ngữ pháp của từ. Sự đối lập
giữa kết trị nội dung và kết trị hình thức của từ đƣợc bộc lộ đặc biệt rõ rệt
trong ngôn ngữ biến hình. Chẳng hạn, trong tiếng Nga, hình thức động từ
“chitaju” về mặt kết trị nội dung, đòi hỏi hai kết tố bắt buộc là chủ thể và đối
thể hoạt động. Nhƣng khi xác định các yếu tố làm đầy các vị trí bên hình thức
động từ này, không thể chỉ chú ý đến ý nghĩa từ vựng – ý nghĩa của từ. Chỉ có
thể nói “Ja chitaju Knigu” chứ không thể nói “On chitaju kaniga”. Cấu trúc
sau sở dĩ không chấp nhận đƣợc là vì giữa các từ không có sự phù hợp về
hình thức ngữ pháp, tức là thiếu kết trị hình thức.
Đối với các ngôn ngữ không biến hình nhƣ tiếng Việt, tiếng Hán…, vì
trong thành phần cấu tạo của từ không có các yếu tố hình thái dùng để biểu thị
quan hệ cú pháp (quan hệ hình thức) giữa các từ, nên có thể cho rằng hình
thức ngữ pháp theo nghĩa hẹp không có ở từ trong các ngôn ngữ này. Tuy
nhiên, từ thực tế này, không ai lại nghĩ rằng khi kết hợp từ trong các ngôn ngữ
không biến hình, chỉ cần chú ý đến ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa từ vựng – ngữ
pháp của từ là đủ. Động từ “đọc” trong tiếng Việt về kết trị nội dung cũng đòi
hỏi hai kết tố bắt buộc là chủ thể và đối thể hoạt động và các từ “tôi”, “sách”
về mặt từ vựng – ngữ pháp có thể làm đầy các vị trí mở bên động từ này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Nhƣng nếu nói “tôi sách đọc” thì ta chỉ có một chuỗi từ hỗn độn, vì ở các cấu
trúc trên đây không có sự phù hợp về hình thức ngữ pháp (vị trí) giữa các từ.
Trong câu “trong cuộc sống của mỗi con người đều mong muốn được sung
sướng hạnh phúc”, ta dễ dàng nhận thấy ngƣời viết có ý định đặt nhóm danh
từ “mỗi con người” thành chủ ngữ (kết tố chủ thể) của động từ vị ngữ “mong
muốn”, tức là muốn xác lập mối quan hệ chủ vị giữa “mong muốn” và nhóm
danh từ trên (sự tƣơng hợp về nghĩa giữa chúng cho thấy rõ ý định này).
Nhƣng bất chấp ý định của ngƣời viết, mối quan hệ chủ vị ở đây đã không thể
hiện thực hóa. Nhân tố cản trở sự hiện thực hóa mối quan hệ chủ vị rõ ràng
không phải là ý nghĩa từ vựng – ngữ pháp của từ mà là hình thức ngữ pháp
của từ (trong tiếng Việt, chủ ngữ (kết tố chủ thể) về hình thức ngữ pháp,
không những phải chiếm vị trí trƣớc vị ngữ mà còn phải không đƣợc dẫn nối
bởi quan hệ từ). Trong khi đặt câu, vì chỉ chú ý đến kết trị nội dung (khă năng
kết hợp ngữ nghĩa) mà không chú ý đến kết trị hình thức (sự phù hợp về hình
thức ngữ pháp) của từ nên ngƣời viết đã phạm sai lầm nhƣ trên đây.
Xác nhận vai trò của mặt hình thức trong sự tổ hợp của từ trong tiếng
Việt, các sách ngữ pháp khi nói về sự phù hợp của hai thành tố A và B nào đó
thƣờng không những chỉ chỉ ra và trả lời câu hỏi: “A và B có khả năng kết
hợp với nhau không?” mà còn đặt ra và trả lời câu hỏi khác nữa nhƣ: “nếu A
và B kết hợp với nhau thì kết hợp theo trật tự nào? (A đứng trƣớc hay B đứng
trƣớc?), kết hợp theo phƣơng thức nào? (kết hợp trực tiếp hay gián tiếp)? Đề
cập đến trật tự kết hợp và phƣơng thức kết hợp thực chất chính là đề cập đến
mặt hình thức ngữ pháp của từ theo nghĩa rộng, tức là đề cập đến kết trị hình
thức của từ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
1.2.2. Kết trị bắt buộc và kết trị tự do
1.2.2.1. Kết trị bắt buộc
Kết trị bắt buộc là khả năng của các từ loại tạo ra xung quanh mình các
vị trí mở cần làm đầy bởi các thành tố cú pháp bắt buộc.
Đặc điểm của kết trị bắt buộc là:
- Về nghĩa: nghĩa của các thành tố bắt buộc phụ thuộc chặt chẽ vào
nghĩa của động từ. Chẳng hạn, trong cấu trúc “Nam đọc sách ở thư viện”,
nghĩa chủ thể và nghĩa đối thể chỉ hoạt động của các thành tố “Nam” và
“sách” (thành tố bắt buộc) chỉ đƣợc xác định trong mối quan hệ với nghĩa của
động từ “đọc”.
- Về vai trò đối với việc tổ chức cấu trúc: các thành tố bắt buộc quan
trọng hơn hẳn thành tố tự do. Sự xuất hiện của các thành tố bắt buộc là do
nghĩa của động từ đòi hỏi. Việc lƣợc bỏ thành tố bắt buộc chỉ cho phép trong
điều kiện ngữ cảnh hoặc tình huống nói năng nhất định.
- Về mặt phân bố (vị trí): thành tố bắt buộc vì gắn với động từ chặt chẽ
hơn nên thƣờng đứng sát động từ.
1.2.2.2. Kết trị tự do
Kết trị tự do là khả năng của các từ loại tạo ra xung quanh mình các vị
trí mở cần làm đầy bởi các thành tố tự do.
Đặc điểm của kết trị tự do là:
- Về nghĩa: nghĩa của thành tố tự do độc lập tƣơng đối với động từ.
Nhƣ ở ví dụ trên, trong cấu trúc “Nam đọc sách ở thư viện” thì nghĩa vị trí của
thành tố “ở thư viện” (thành tố tự do) có thể đƣợc xác định một cách độc lập
với nghĩa của động từ “đọc”.
- Về vai trò đối với việc tổ chức cấu trúc: các thành tố tự do không
quan trọng bằng các thành tố bắt buộc. Sự xuất hiện của các thành tố tự do chỉ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
phản ánh khả năng của động từ đƣợc xác định rõ thêm về nghĩa và phụ thuộc
chủ yếu vào mục đích giao tiếp.
- Về mặt phân bố (vị trí): thành tố tự do thƣờng không gắn chặt chẽ với
động từ nhƣ thành tố bắt buộc.
1.2.3. KHÁI NIỆM KẾT TỐ VÀ KẾT TỐ TỰ DO
1.2.3.1. Khái niệm kết tố
Phân tích và miêu tả kết trị của động từ thực chất chính là phân tích và
miêu tả các thành tố cú pháp bắt buộc và tự do, làm đầy các vị trí mở bên
động từ. Các thành tố này đƣợc gọi chung là kết tố.
Kết tố của động từ là các thành tố hiện thực hóa kết trị, cụ thể hóa ý
nghĩa của động từ, tức là các thành tố bổ sung cho sự tình mà động từ miêu tả
một ý nghĩa nhất định.
Các kết tố của động từ đƣợc xác định từ hai mặt: nội dung và hình thức.
Về nội dung, các kết tố bổ sung cho động từ một ý nghĩa nhất định. Về hình
thức, các kết tố luôn có thể đƣợc thay thế bằng từ nghi vấn, tức là có thể dựa
vào động từ để đặt câu hỏi về chúng. Chẳng hạn, trong cấu trúc: Cô ấy đến
Tokyo bằng tàu điện ngầm, các kết tố cô ấy, Tokyo, bằng tàu điện ngầm về
nội dung, chúng bổ sung cho động từ đến những ý nghĩa nhất định (cô ấy bổ
sung ý nghĩa chủ thể hoạt động, Tokyo bổ sung ý nghĩa điểm đến, bằng tàu
điện ngầm bổ sung ý nghĩa công cụ). Về hình thức, mỗi kết tố trên đều có khả
năng thay thế bằng từ nghi vấn, nghĩa là có thể dựa vào động từ để đặt câu hỏi
về chúng (Ai đến? Đến đâu? Đến bằng gì?).
1.2.3.2. Khái niệm kết tố tự do
Dựa vào mức độ gắn bó với động từ hạt nhân, các kết tố đƣợc chia
thành: kết tố bắt buộc và kết tố tự do. Kết tố bắt buộc (diễn tố) là kết tố thể
hiện kết trị bắt buộc của động từ. Kết tố tự do là kết tố thể hiện kết trị tự do
của động từ. Nhƣ vậy, có thể nói, kết tố bắt buộc chính là các thành tố lập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
thành “bối cảnh tối ưu” của động từ, còn kết tố tự do là kết tố tạo thành “bối
cảnh dư ” của động từ.
Chẳng hạn, trong cấu trúc: Cô ấy đến Tokyo bằng tàu điện ngầm thì cô
ấy và Tokyo là kết tố bắt buộc, còn bằng tàu điện ngầm là kết tố tự do.
1.2.4. Khái niệm hiện thực hóa kết trị
Hiện thực hóa kết trị là sự làm đầy trong lời nói các vị trí mở có thể có
ở động từ bởi các kết tố cụ thể [25, tr.154]. Cũng nhƣ ngôn ngữ với đặc tính
“mở” của mình không bao giờ hiện thực hóa mọi tiềm năng của mình trong
lời nói, động từ khi hoạt động trong lời nói cũng không hiện thực hóa đồng
thời mọi tiềm năng kết hợp của mình. Vì thế, giữa mặt tiềm năng và mặt hiện
thực hóa kết trị của động từ không có sự trùng nhau hoàn toàn. Sở dĩ có hiện
tƣợng trên, là do quá trình hiện thực hóa kết trị của động từ trong lời nói luôn
phải chịu tác động của các nhân tố là: ý nghĩa và hình thức của động từ trong
lời nói ngữ cảnh, tình huống nói năng, mục đích nói năng So sánh:
(1) Chúng tôi treo cờ trên nóc đồn địch.
(2) Treo cờ trên nóc đồn địch là nhiệm vụ rất khó khăn [25, tr.154].
Xét (1) và (2), ta thấy treo đều là động từ nhƣng chỉ trong (1), nó mới
có khả năng hiện thực hóa đầy đủ các kết trị bắt buộc.
Ngữ cảnh, hoàn cảnh và tình huống nói năng cũng là những nhân tố chi
phối trực tiếp đến kết trị của động từ. Chẳng hạn, trong các câu: Tôi tìm dấu
vết nạn lụt. Vẫn còn, nhờ vào ngữ cảnh (ở câu thứ nhất) mà ở câu thứ hai,
mặc dù kết tố chủ thể không xuất hiện, nghĩa của động từ (còn) vẫn đƣợc xác
định cụ thể.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
1.3. NGUYÊN TẮC, THỦ PHÁP VÀ QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU
KẾT TRỊ CỦA ĐỘNG TỪ
1.3.1. Nguyên tắc nghiên cứu kết trị của động từ
Với tƣ cách là đơn vị ngữ pháp, các kết tố của động từ đƣợc đặc trƣng
bởi hai mặt: mặt ý nghĩa và mặt hình thức ngữ pháp. Tính hai mặt của các kết
tố đòi hỏi khi xác định phân tích kết trị của động từ phải tính đến mặt nội
dung lẫn mặt hình thức. Việc tuân thủ nguyên tắc này cho phép tránh đƣợc sự
phiến diện trong việc nghiên cứu kết trị của động từ.
1.3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính cú pháp triệt để, nhất quán
Vì kết trị là thuộc tính cú pháp của từ và quan hệ kết trị là quan hệ cú
pháp, nên nghiên cứu kết trị của động từ theo lí thuyết kết trị thực chất là
nghiên cứu theo mặt cú pháp. Khi nghiên cứu kết trị của động từ, tức là
nghiên cứu động từ, về mặt cú pháp, phải tuân thủ theo nguyên tắc: Khi xác
định, phân tích kết trị của động từ phải dựa hoàn toàn vào đặc điểm cú pháp.
Việc tuân thủ nguyên tắc này đảm bảo tránh đƣợc sự lẫn lộn giữa cách phân
tích về mặt cú pháp (phân tích theo kết trị) với cách phân tích theo mặt thông
báo (giao tiếp, tâm lí) và phân tích theo mặt nghĩa biểu hiện (nghĩa sâu). Theo
nguyên tắc này, cần phân biệt các thành phần câu, các kiểu câu xét theo mặt
cú pháp với các thành phần câu, các kiểu câu xét theo mặt thông báo và nghĩa
biểu hiện. Chẳng hạn, cần phân biệt chủ ngữ (chủ thể cú pháp) với chủ đề (đề
ngữ) với chủ thể ngữ nghĩa. Chẳng hạn, thử so sánh:
- Tôi viết thư.
- Thư, tôi viết.
- Thư được viết bằng bút chì.
Trong cấu trúc thứ nhất, tôi vừa là chủ ngữ (chủ thể cú pháp) vừa là chủ
đề đồng thời cũng là chủ thể ngữ nghĩa (nghĩa sâu).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Trong cấu trúc thứ hai, thư là chủ đề nhƣng không phải là chủ ngữ mà
về cú pháp là bổ ngữ đảo, còn về ngữ nghĩa là đối thể hoạt động.
Trong cấu trúc thứ ba, thư là chủ ngữ và chủ đề nhƣng không phải là
chủ thể ngữ nghĩa mà là đối thể ngữ nghĩa.
1.3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính hai mặt: ý nghĩa và hình thức cú
pháp khi xác định phân tích kết trị của động từ
Vì các đơn vị, thành tố cú pháp đƣợc đặc trƣng bởi tính hai mặt nên với
tƣ cách là đơn vị, thành tố cú pháp, các kết tố của động từ cần đƣợc xác định,
nhận diện, phân biệt, miêu tả từ hai mặt: ý nghĩa và hình thức cú pháp. Ý
nghĩa cú pháp đặc trƣng cho mặt nội dung của kết tố, cần phân biệt với nghĩa
sâu. Sự khác nhau giữa chúng là ở chỗ: “nghĩa cú pháp của từ chỉ đƣợc xác
định trong mối quan hệ với nghĩa ngữ pháp của các từ khác và luôn đƣợc biểu
thị bằng hình thức cú pháp nhất định, còn nghĩa sâu đƣợc xác định trong mối
quan hệ giữa các nghĩa từ vựng của từ và không đƣợc biểu thị bằng hình thức
cú pháp" [25, tr.112]. Chẳng hạn, trong câu Mẹ khen Nam, mẹ có ý nghĩa cú
pháp chủ thể (và là kết tố chủ thể - chủ ngữ), đồng thời về nghĩa sâu cũng chỉ
chủ thể của hành động khen, còn trong câu Nam được mẹ khen, Nam chỉ chủ
thể cú pháp (và là chủ ngữ), xét trong mối quan hệ với động từ - vị ngữ được,
nhƣng về nghĩa sâu lại chỉ đối tƣợng của hành động (khen).
Nghĩa cú pháp đặc trƣng cho các kết tố cũng cần đƣợc phân biệt với
nghĩa chủ đề hay nghĩa thông báo. Chẳng hạn, trong câu Nam viết thư, Nam
chính là chủ thể cú pháp (và là chủ ngữ), đồng thời cũng là chủ đề thông báo
(và là đề ngữ) còn trong câu Thư, Nam viết rồi thì thư chỉ chủ thể thông báo
(và là đề ngữ) nhƣng về nghĩa cú pháp lại chỉ đối thể (là bổ ngữ) chứ không
phải là chủ thể.
Hình thức cú pháp đặc trƣng cho các kết tố, bao gồm cách biểu hiện
(đặc tính từ loại, cấu tạo), trật tự từ, hƣ từ cú pháp và ngữ điệu. Vì trên thực