Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam – chi nhánh tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (704.21 KB, 95 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, trong đó có sự
hỗ trợ của Giáo viên hướng dẫn là: PGS.TS Phan Thị Nhiệm và những người tôi đã cảm
ơn trong luận văn này.
Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa được
công bố trong bất cứ công trình nào.
Tuyên Quang, ngày 25 tháng 12 năm 2011
Tác giả
Đào Anh Tuấn
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên cho phép tôi được gửi lời cảm ơn chân thành đến cô PGS.TS Phan
Thị Nhiệm – Khoa kế hoạch và Phát triển – Đại học kinh tế Quốc dân Hà Nội đã tận
tình hướng dẫn, góp ý và động viên tôi trong suốt thời gian nghiên cứu và làm luận văn
thạc sỹ.
Xin phép cho tôi được gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô thuộc Khoa
Kế hoạch và Phát triển; quý thầy, cô thuộc Viện Đào tạo Sau Đại học và các bạn học
viên Lớp Cao học kinh tế phát triển 18L ( Khoá 2009-2011) Đại học kinh tế Quốc dân
Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ tôi suốt thời gian học vừa qua.
Những lời cảm ơn sau cùng xin dành cho bố mẹ và các anh chị em trong gia
đình đã hết lòng quan tâm và tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành được cuốn
Luận văn thạc sỹ này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tuyên Quang, ngày 25 tháng 12 năm 2011
Đào Anh Tuấn
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại
Thế giới (WTO). Việc ra nhập WTO là một cơ hội lớn không chỉ đối với nền kinh tế
nước ta nói chung, các doanh nghiệp nói riêng mà còn đặt ra những thách thức không
nhỏ đối với sự phát triển bền vững của hầu hết các doanh nghiệp. Cũng như nhiều
ngành kinh tế khác, ngành tài chính ngân hàng là lĩnh vực được mở cửa mạnh nhất song


cũng đối mặt với nhiều thách thức nhất, một trong những thách thức đối với các ngân
hàng Việt Nam đó chính là sự cạnh tranh quyết liệt không chỉ giữa các ngân hàng trong
nước với các ngân hàng nước ngoài mà còn bao gồm cả giữa các ngân hàng thương mại
trong nước với nhau.
Cũng không nằm ngoài quy luật đó, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
(BIDV) - Chi nhánh Tuyên Quang là một trong những ngân hàng thương mại quốc
doanh lớn của nhà nước trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang cũng đang phải chịu sự cạnh
tranh quyết liệt với các ngân hàng thương mại khác đang phát triển nhanh chóng về thị
phần, dịch vụ, mạng lưới, chất lượng hoạt động…. Để đứng vững và phát triển trong
môi trường kinh doanh khốc liệt như hiện nay, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Tuyên Quang ( BIDV Tuyên Quang) phải tìm mọi cách để đứng vững và phát
triển, kinh doanh thực sự ổn định và có hiệu quả, đóng góp to lớn vào sự phát triển của
BIDV cũng như ngành ngân hàng Tuyên Quang. Một trong những vấn đề cấp thiết cần
phải thực hiện hiện nay đó chính là nâng cao sức cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh
ngân hàng của Chi nhánh.
Năng lực cạnh tranh của BIDV Tuyên Quang trong những năm qua đã đạt được
những kết quả đáng khích lệ về các mặt như: Huy động tiền gửi, chất lượng tăng trưởng
tín dụng, thu dịch vụ, lợi nhuận, chất lượng nguồn nhân lực, năng lực quản trị điều
hành…. Tuy nhiên, đánh giá chung cho thấy năng lực cạnh tranh của Chi nhánh vẫn
còn nhiều bất cập như: Hiệu quả hoạt động kinh doanh còn chưa tương xứng với tiềm
năng phát triển, chất lượng sản phẩm dịch vụ chưa cao, sản phẩm ngân hàng bán lẻ
đang bị mất thị phần và thiếu tính cạnh tranh, nguồn nhân lực còn thiếu và chất lượng
còn hạn chế, năng lực quản trị điều hành chưa bắt kịp với yêu cầu của quá trình phát
triển, thương hiệu Chi nhánh chưa được nhiều khách hàng biết đến….xây dựng và phát
triển doanh nghiệp vững mạnh, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh cũng là một
trong những biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của Chi nhánh.
Xuất phát từ tầm quan trọng để khẳng định thương hiệu và vị thế trong kinh
doanh, những thực tế, bất cập đặt ra trong quá trình hoạt động kinh doanh và sức cạnh
tranh của Chi nhánh nên đề tài: “ Nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Tuyên Quang” đã được chọn làm đề tài nghiên

cứu cho bản luận văn này. Mục đích nghiên cứu chính của đề tài này là tìm ra những
nguyên nhân và những hạn chế, bất cập về năng lực cạnh tranh hiện tại của Chi nhánh
và đưa ra một số giải pháp hoàn thiện, nâng cao sức cạnh tranh trong thời gian tới. Giải
quyết tốt đề tài trên cũng là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu thúc đẩy sự
phát triển và thành công của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích chính của luận văn là phân tích, đánh giá năng lực cạnh tranh hiện tại
của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Tuyên Quang trong giai
đoạn hiện nay. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp cơ bản, thiết thực nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh trong thời gian tới.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là năng lực canh tranh của BIDV Tuyên Quang và thực
trạng năng lực cạnh tranh của BIDV Tuyên Quang hiện nay.
Pham vi nghiên cứu: Đánh giá năng lực cạnh tranh của BIDV Chi nhánh Tuyên
Quang những năm qua và một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong
những năm tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn bao gồm:
+ Phương pháp diễn dịch, quy nạp
+ Phương pháp điều tra, phỏng vấn thông qua phiếu hỏi
+ Phương pháp so sánh, đối chiếu
+ Phương pháp phân tích thống kê
5. Tổng quan các công trình nghiên cứu từ trước cho đến nay tại Chi nhánh
Cho đến thời điểm hiện nay, đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu của các
bạn sinh viên, học viên cao học, các báo cáo, phân tích đánh giá của các chuyên gia liên
quan đến năng lực cạnh tranh trong các ngân hàng thương mại quốc doanh cũng như
NHTM cổ phần. Đối với BIDV cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về năng lực
cạnh tranh của hệ thống, tuy nhiên đối với Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Tuyên Quang, chưa có công trình nào nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của Chi
nhánh.

6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, các bảng biểu, phụ lục danh mục tài liệu
tham khảo, Luận văn được trình bày gồm 3 chương, tên các chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về năng lực cạnh tranh của các ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam – Chi nhánh Tuyên Quang.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Tuyên Quang thời gian tới.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Một số vấn đề cơ bản về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Từ khi ra đời đến nay, ngân hàng luôn chứng tỏ mình là một loại tổ chức có
vai trò quan trọng trong nền kinh tế, khái niệm ngân hàng được hiểu dựa trên những
chức năng, nhiệm vụ đặc trưng của chúng. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền
kinh tế và sự giao thoa, xâm nhập giữa các ngành nghề, ngày càng nhiều tổ chức
không phải là ngân hàng đang tiến tới việc cung cấp các sản phẩm trước đây vốn độc
quyền thuộc về ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng hiện nay cũng đảm nhận những
công việc mà ngân hàng truyền thống không hề có. Theo quan điểm của Giáo sư
Peter S.Rose: "Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức nào trong nền kinh tế" [14]
Ở Việt Nam, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 đã xác định:
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật
này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch
vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung
cấp các dịch vụ thanh toán [3]
Và trong các loại hình tổ chức tín dụng thì:
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động

ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục
tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng
phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại
hình ngân hàng khác [ 3]
1.1.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại
- Chức năng trung gian tài chính ( trung gian tín dụng): Thực hiện chức
năng này, NHTM đóng vai trò trung gian khi thực hiện các nghiệp vụ cấp tín dụng,
thanh toán, kinh doanh ngoại tệ, kinh doanh chứng khoán và nhiều hoạt động môi
giới khác. Từ "trung gian" ở đây có thể được hiểu theo hai nghĩa:
+ Trung gian giữa các khách hàng với nhau: NHTM làm trung gian giữa
người gửi tiền và người vay tiền; trung gian giữa người trả tiền và người nhận tiền;
trung gian giữa người mua và người bán ngoại tệ
+ Trung gian giữa Ngân hàng Trung Ương và công chúng: Ngân hàng Trung
Ương không giao dịch trực tiếp với công chúng mà chỉ giao dịch với các NHTM
trong khi các NHTM vừa giao dịch với Ngân hàng trung ương vừa giao dịch với
công chúng.
Trung gian tín dụng là chức năng quan trọng và cơ bản nhất của NHTM,
chức năng này không những cho thấy bản chất của NHTM mà còn cho thấy nhiệm
vụ chính của NHTM. Trong chức năng này, NHTM đứng ra tập trung, huy động các
nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế và biến nó thành nguồn vốn
tín dụng để đáp ứng các nhu cầu tín dụng của toàn xã hội.
- Chức năng tạo tiền: NHTM có chức năng tạo tiền tức là chức năng sáng tạo
ra bút tệ góp phần gia tăng khối tiền tệ phục vụ cho nhu cầu chu chuyển và phát
triển của nền kinh tế. Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), khối tiền tệ của một quốc gia
bao gồm: tiền giấy, tiền kim loại và tiền gửi không kỳ hạn tại các NHTM. Còn tiền
gửi tiết kiệm và tiền gửi định kỳ không được xem là bộ phận của khối tiền tệ mà chỉ
được xem là "chuẩn tiền" vì tính chất kém thanh khoản của bộ phận này. Nhưng từ
thập niên 1980 trở đi nhiều ngành kinh tế học bắt đầu xem "chuẩn tiền" là một
thành phần của khối tiền tệ. IMF và Ngân hàng thế giới (WB) gần như chấp nhận
quan điểm này nhưng còn ngần ngại nên phân biệt thành nhiều dạng khối tiền tệ

như M1, M2, M3 và L, trong đó:
+ M1 = Tiền mặt phát hành bao gồm tiền giấy và tiền kim loại cộng với tiền
gửi không kỳ hạn;
+ M2 = M1 + tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi định kỳ tại các NHTM;
+ M3 = M2 + tất cả các loại tiền gửi ở các định chế tài chính khác;
+ L = M3 + các loại trái phiếu, thương phiếu và công cụ khác ở thị trường tiền tệ.
- Chức năng sản xuất ( cung ứng các dịch vụ và các hoạt động kinh doanh
khác): Chức năng sản xuất của NHTM bao gồm việc huy động và sử dụng các
nguồn lực để tạo ra sản phẩm dịch vụ ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế. Trên cơ
sở sử dụng các yếu tố đầu vào đặc thù của quá trình sản xuất, NHTM tạo ra sản
phẩm dịch vụ đặc thù để cung cấp cho khách hàng. Các sản phẩm và dịch vụ
NHTM có thể cung cấp bao gồm:
+ Các sản phẩm huy động vốn như tiền gửi và chứng từ có giá các loại.
+ Các sản phẩm tín dụng như cho vay doanh nghiệp, cá nhân; cho vay sản
xuất, tiêu dùng, tài trợ xuất nhập khẩu, tài trợ dự án; thẻ ghi nợ, thẻ ATM
+ Các sản phẩm dịch vụ khác như chuyển tiền, thanh toán không dùng tiền
mặt, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ [18]
1.1.3. Bản chất của Ngân hàng thương mại
Bất kể nguồn gốc, tính chất sở hữu về quy mô của NHTM như thế nào,
chúng ta đều có thể nhận thấy rằng, NHTM là một định chế tài chính trung gian đặc
biệt trong nền kinh tế, với các mặt hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng. Bản chất của NHTM thể hiện qua các khía cạnh sau đây:
- NHTM là một loại hình định chế tài chính trung gian đặc biệt, và là một tổ
chức kinh doanh trong ngành dịch vụ tài chính ngân hàng. NHTM là một định chế
tài chính trung gian và là một đơn vị kinh tế, nghĩa là NHTM hoạt động trong một
ngành kinh tế, có cơ cấu, tổ chức bộ máy như một doanh nghiệp bình đẳng trong
quan hệ kinh tế quốc tế với các doanh nghiệp khác, phải tự chủ về kinh tế và phải có
nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước như các đơn vị kinh tế khác.
- Hoạt động của NHTM là hoạt động kinh doanh. Để hoạt động kinh doanh,
các NHTM phải có vốn ( vốn được cấp nếu là NHTMNN, được cổ đông góp vốn

nếu là NHTMCP) phải tự chủ về tài chính ( tự lấy thu nhập để bù đắp chi phí); đặc
biệt hoạt động kinh doanh cần đạt đến mục tiêu tài chính cuối cùng là lợi nhuận,
hoạt động kinh doanh của NHTM cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Tuy nhiên,
việc tìm kiếm lợi nhuận là phải chính đáng trên cơ sở chấp hành pháp luật của Nhà
nước.
- Hoạt động kinh doanh của NHTM là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch
vụ ngân hàng. Đây là lĩnh vực đặc biệt vì trước hết nó liên quan trực tiếp đến tất cả
các ngành, mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội và mặt khác lĩnh vực tiền tệ ngân
hàng là lĩnh vực nhạy cảm nó đòi hỏi một sự thận trọng và khéo léo trong điều hành
hoạt động ngân hàng để tránh những thiệt hại cho xã hội. Lĩnh vực hoạt động này
của NHTM góp phần cung ứng một khối lượng tín dụng lớn cho nền kinh tế xã hội.
[18]
1.2. Năng lực cạnh tranh của NHTM
1.2.1. Khái niệm về cạnh tranh
Cạnh tranh là một hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường, khái niệm cạnh
tranh đã xuất hiện trong quá trình hình thành, phát triển sản xuất, trao đổi hàng hoá
và phát triển kinh tế thị trường.
Hầu hết các lý thuyết của Trường phái kinh tế học Cổ điển đều quan niệm:
Cạnh tranh là một cuộc đua giữa hai hay nhiều cá nhân hoặc tổ chức để giành thị
phần và lợi nhuận trên thị trường. Các Mác cho rằng: Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa
là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những
điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu lợi nhuận siêu ngạch.
Quan niệm cạnh tranh hiện đại ( như của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), Tổ chức
hợp tác và phát triển kinh tế ( OECD), của Ngân hàng thế giới (WB), của Giáo sư
Michael Porter) lại cho rằng: Cạnh tranh là sự đua tranh giữa các doanh nghiệp,
chủ thể kinh doanh trên thị trường, bằng những biện pháp thủ đoạn nhất định giành
lấy những điều kiện có lợi, hoặc thị phần nhằm tối đa hoá lợi nhuận…. Cũng xuất
phát từ cách tiếp cận như vậy và kế thừa các kết quả nghiên cứu, cuốn từ điển Bách
khoa Việt Nam đã định nghĩa:
Cạnh tranh ( trong kinh doanh) là hoạt động ganh đua giữa những người

sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường, bị chi phối bởi quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu
thụ, thị trường có lợi nhất. [19]
Như vậy, các quan niệm đều thống nhất coi cạnh tranh là hành vi của các chủ
thể trong nền kinh tế hàng hoá. Theo đó, nguồn gốc của hiện tượng cạnh tranh gắn
liền với điều kiện tồn tại của sản xuất hàng hoá, mà trực tiếp là sự độc lập về kinh
tế của các chủ thể trong nền sản xuất xã hội. Bản chất của cạnh tranh phản ánh quan
hệ về kinh tế giữa các chủ thể của nền kinh tế hàng hoá cùng theo đuổi mục đích
tối đa hoá lợi ích, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi chủ thể kinh tế. Do đó,
cạnh tranh là phương thức giải quyết mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa các chủ thể của
thị trường bằng hành vi đua tranh với nhau trên thị trường.
Từ các góc độ xem xét khác nhau có các dấu hiệu và cách phân loại cạnh
tranh tương ứng. Dưới góc độ chủ thể có cạnh tranh giữa người mua và người bán,
giữa những người bán hoặc người mua với nhau; xét theo đối tượng cạnh tranh, có
thể là cạnh tranh giành độc quyền, chiếm lĩnh các yếu tố đầu vào, hoặc chi phối thị
trường đầu ra…; dưới góc độ phương thức hay công cụ thì có cạnh tranh bằng giá
cả, chất lượng, tính độc đáo, khác biệt của sản phẩm, cạnh tranh bằng tốc độ đưa
sản phẩm ra thị trường, bằng dịch vụ hoặc cách thanh toán, cạnh tranh bằng cả biện
pháp kinh tế và phi kinh tế….; dưới góc độ cơ cấu thị trường có cạnh tranh hoàn
hảo và cạnh tranh không hoàn hảo, xét theo mục tiêu kinh tế của chủ thể có cạnh
tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành ( cạnh tranh dọc và cạnh
tranh ngang); ở phạm vi lãnh thổ có cạnh tranh trong nước và cạnh trạnh tranh quốc
tế; xét theo tính chất hành vi, có cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp và cạnh tranh
không lành mạnh , bất hợp pháp….
1.2.2. Đặc điểm cạnh tranh của NHTM
Cũng giống như bất kỳ loại hình đơn vị nào trong kinh tế thị trường, các
NHTM trong kinh doanh luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt quyết liệt. Tuy
nhiên, nếu so sánh với sự cạnh tranh của các tổ chức kinh tế khác, cạnh tranh giữa
các ngân hàng có những đặc trưng nhất định:
Một là, các đối thủ cạnh tranh trong sự ganh đua nhưng cũng có sự hợp tác

với nhau trong một lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm và có nhiều rủi ro là tiền tệ, ngân
hàng và các dịch vụ tài chính.
Hai là, cạnh tranh trong ngân hàng luôn phải hướng tới sự cạnh tranh lành
mạnh, tránh xảy ra rủi ro hệ thống, đổ vỡ hàng loạt trong hệ thống NHTM.
Ba là, cạnh tranh ngân hàng thông qua thị trường có sự can thiệp gián tiếp và
thường xuyên của ngân hàng trung ương của mỗi quốc gia hoặc của khu vực.
Bốn là, cạnh tranh ngân hàng phụ thuộc mạnh mẽ vào các yếu tố bên ngoài
ngân hàng như môi trường kinh doanh, doanh nghiệp, dân cư, tập quán dân tộc, hạ
tầng cơ sở, sự phát triển của nền kinh tế, khoa học công nghệ….
Năm là, cạnh tranh ngân hàng nằm trong vùng ảnh hưởng và biến động
thường xuyên, liên tục của thị trường tài chính, ngân hàng quốc tế.
1.2.3. Năng lực cạnh tranh
1.2.3.1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh là thuật ngữ ngày càng được sử dụng rộng rãi, nhưng
cho đến hiện nay vẫn là một khái niệm chung và khó đo lường, định lượng, bao hàm
hết ý nghĩa.
Hiện nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau khi nói về năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp. Theo quan điểm của Vũ Trọng Lâm “ Năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp chính là khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của
doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh trong và ngoài nước” [21]. Ý kiến khác
lại nhấn mạnh đến vai trò của các yếu tố sản xuất, rằng năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp là khả năng sáng tạo công nghệ độc đáo để tạo ra sản phẩm có chất
lượng và giá cả có sức cạnh tranh cao. Lại có quan điểm nhấn mạnh yếu tố kết quả
khi quan niệm, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở vị thế, chỗ đứng
của nó trên thị trường và mức độ tín nhiệm của khách hàng về thương hiệu của
doanh nghiệp

[21]
Theo từ điển Kinh tế học: “Năng lực cạnh tranh là khả năng giành được thị
phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một

phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp.”[20]
Michael Porter quan niệm: năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc
vào khả năng năng khai thác các năng lực độc đáo của doanh nghiệp để tạo ra sản
phẩm có chi phí giá thành thấp và sự khác biệt hoá sản phẩm….
Như vậy, từ những lập luận trên, khái niệm năng lực cạnh tranh có thể được
tóm lại như sau: “Năng lực cạnh tranh của một ngân hàng là khả năng ngân
hàng đó tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế nhằm duy trì và mở rộng thị
phần; đạt được mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình của ngành và liên tục
tăng đồng thời đảm bảo sự hoạt động an toàn và lành mạnh, có khả năng chống
đỡ và vượt qua những biến động bất lợi của môi trường kinh doanh”
1.2.3.2. Các quan niệm về các cấp độ của năng lực cạnh tranh
Hiện nay, có 03 quan niệm về các cấp độ năng lực cạnh tranh gồm: Năng lực
cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh sản
phẩm.
Năng lực cạnh tranh quốc gia: Là năng lực của một nền kinh tế đạt được
mức tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, đảm bảo ổn định được kinh tế xã
hội, nâng cao đời sống người dân.
Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp: Được đo bằng khả năng duy trì và mở
rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong và
ngoài nước.
Theo PGS.TS Nguyễn Thị Quy: “ Năng lực cạnh tranh của một doanh
nghiệp là khả năng doanh nghiệp đó tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế
nhằm duy trì và mở rộng thị phần; đạt được mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình
của ngành và liên tục tăng đảm bảo đồng thời đảm bảo sẽ hoạt động an toàn và
lành mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua mọi bất lợi của môi trường kinh
doanh” [16]
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ: Được đo bằng thị phần của sản
phẩm hay dịch vụ trên thị trường.
Ba cấp độ năng lực cạnh tranh có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau, tạo
điều kiện cho nhau, chế định và phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi nền kinh tế có năng lực

cạnh tranh quốc gia phải có nhiều doanh nghiệp có cạnh tranh, ngược lại, để tạo
điều kiện cho doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh, môi trường kinh doanh cho nền
kinh tế phải thuận lợi, các chính sách kinh tế vĩ mô phải rõ ràng, ổn định. Năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp được đo thông qua thị phần, lợi nhuận. Là tế bào của nền kinh tế, năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp tạo điều kiện cho năng lực cạnh tranh quốc gia. Đồng
thời năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua năng lực cạnh tranh
của sản phẩm dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh.
1.3. Các nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh của NHTM
1.3.1. Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô
Môi trường kinh tế và vai trò của nhà nước: Mỗi một biến động bất lợi của
kinh tế vĩ mô cũng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh bình thường của một ngân
hàng. Khi các nhân tố vĩ mô biến động thì các chính sách, chiến lược kinh doanh
cũng sẽ thay đổi để hạn chế sự suy giảm của lợi nhuận. Có thể nói, thể chế kinh tế
vĩ mô, đặc biệt là chính sách tài chính, tiền tệ…ảnh hưởng mạnh mẽ đến các yếu tố
cấu thành sức cạnh tranh cũng như hiệu quả hoạt động của NHTM, như tác động
các yếu tố đầu vào ( lãi suất huy động vốn cũng như lãi suất cho vay), thu hẹp hay
mở rộng mức độ cạnh tranh….
Môi trường chính trị pháp luật: Một đất nước có môi trường chính trị ổn
định, luật pháp được quy định rõ ràng và đầy đủ, minh bạch, sự thay đổi diễn ra phù
hợp với thông lệ quốc tế sẽ khuyến khích các doanh nghiệp nói chung và các tổ
chức tín dụng nói riêng an tâm hơn trong hoạt động kinh doanh của mình đồng thời
bảo đảm vững chắc cho một hành lang pháp lý để các NHTM có thể hoạt động tốt.
Môi trường quốc tế: Quá trình hội nhập của nền kinh tế đòi hỏi một đất
nước cũng phải tuân thủ các luật chơi quốc tế. Sự biến động của nền kinh tế thế
giới, đặc biệt là các chỉ số như lãi suất, tỷ giá, giá vàng, giá dầu, đô la… cũng tác
động rất lớn tới nền kinh tế trong nước và từ đó ảnh hưởng tới hoạt động của
NHTM. Mức độ mở cửa của nền kinh tế càng cao, các doanh nghiệp nội địa càng có
điều kiện mở rộng thị trường cùng cơ hội khai thác, sử dụng các nguồn lực từ bên
ngoài, song cũng đặt doanh nghiệp trong nước trước áp lực cạnh tranh quốc tế gay

gắt. Điều đó đòi hỏi Nhà nước và các doanh nghiệp phải tích cực, chủ động tạo ra
các điều kiện và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế với lộ trình, bước đi phù hợp.
Nền tảng vật chất kỹ thuật của nền kinh tế, trình độ phát triển của kinh tế
thị trường: Nền tảng vật chất kỹ thuật của nền kinh tế như kết cấu hạ tầng kinh tế
xã hội, các cơ sở đào tạo, nghiên cứu – triển khai khoa học công nghệ ( R& D), các
cơ sở sản xuất dịch vụ của nền kinh tế…. Đây là các yếu tố thể hiện trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất xã hội, có tác động rất lớn đến chi phí sản xuất, khả
năng khai thác các yếu tố đầu vào, do đó, ảnh hưởng khá lớn đến sức cạnh tranh của
các doanh nghiệp, thuộc nền kinh tế đó. Về trình độ phát triển của nền kinh tế thị
trường, nền kinh tế thị trường phát triển phải tạo lập đầy đủ, đồng bộ các loại thị
trường. Theo đó, các yếu tố đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp đều được thực hiện
trên thị trường. Sự phát triển đồng bộ của kinh tế thị trường, một mặt khách quan
tạo ra áp lực cạnh tranh, buộc các doanh nghiệp phải luôn nâng cao sức cạnh tranh;
mặt khác, cho phép doanh nghiệp khai thác, sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực
của xã hội. Thực tế cho thấy, quốc gia nào có nền kinh tế thị trường càng phát triển
thì các doanh nghiệp của quốc gia đó càng có sức cạnh tranh cao trên thị trường
quốc tế.
1.3.2. Những nhân tố thuộc môi trường vi mô ảnh hưởng đến năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Áp lực cạnh tranh của các đối thủ hiện tại trong ngành: Một hành động
của một đối thủ này để khai thác nhiều hơn phần thị trường đó thì sẽ nhận được sự
đáp trả của đối thủ khác để giành lại phần thị trường bị mất. Nếu cạnh tranh giữa
các đối thủ trong ngành mãnh liệt thì nguy cơ chiến tranh giá xảy ra, thị trường bị
thu hẹp, lợi nhuận bị giảm sút. Cường độ cạnh tranh giữa các đối thủ cạnh tranh
hiện tại phụ thuộc số lượng, quy mô và sự đa dạng của các đối thủ cạnh tranh; tốc
độ tăng trưởng sản phẩm và nhu cầu, tính khác biệt của sản phẩm….
Nguy cơ nhập cuộc của các đối thủ cạnh tranh tiềm năng: Đó là những
doanh nghiệp hiện tại chưa xuất hiện trên thị trường nhưng có khả năng cạnh tranh
trong tương lai. Số lượng các đối thủ này nhiều hay ít tuỳ thuộc ở mức độ thuận lợi
hay khó khăn khi gia nhập một ngành kinh doanh nhất định. Sự suất hiện của những

đối thủ cạnh tranh tiềm tàng là mối nguy lớn đe doạ đến thị phần của các ngân hàng
bằng cách đem vào ngành những năng lực sản xuất mới. Nếu có các rào cản hay có
sự trả đũa quyết liệt của các đối thủ cạnh tranh hiện hữu thì khả năng xâm nhập của
các đối thủ mới rất thấp.
Sự xuất hiện các sản phẩm có khả năng thay thế: Sản phẩm thay thế là
những sản phẩm có thể thoả mãn những nhu cầu tương tự của khách hàng. Khả
năng của sản phẩm thay thế có nguy cơ làm hạn chế khả năng đặt giá cao và do đó
có thể hạn chế khả năng sinh lợi của ngân hàng. Mức độ đa dạng của các sản phẩm
thay thế càng tạo nên sức ép cạnh tranh hơn đối với doanh nghiệp cung cấp sản
phẩm tương tự, vì nó làm “ loãng” nhu cầu của khách hàng.
Quyền lực thương lượng của người mua: Khách hàng là những tổ chức, cá
nhân tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ cho doanh nghiệp. Nếu khách hàng là người mua
với khối lượng lớn trong tổng doanh thu của doanh nghiệp thì họ có quyền ép giá
nhất định. Khi khách hàng có thu nhập thấp thường tạo áp lực buộc doanh nghiệp
sản xuất cung cấp với giá rẻ hơn, trong khi những khách hàng có thu nhập cao thì
lại đòi hỏi về chất lượng và các dịch vụ đi kèm. Áp lực từ phía cầu càng mạnh mẽ
hơn nếu khách hàng nắm được đầy đủ các thông tin về thị trường. Áp lực từ phía
người mua chủ yếu có là đòi hỏi giảm giá hay mặc cả để có chất lượng phục vụ tốt
hơn. Khi người mua ở vị thế cao hơn trong đàm phán thì ngân hàng sẽ bị giảm lợi
nhuận, và ngược lại thì ngân hàng sẽ có cơ hội thu được lợi nhuận cao hơn.
Sức ép của nhà cung cấp: Đó là các nhà cung cấp những yếu tố đầu vào cho
doanh nghiệp. Mức độ dồi dào hay khan hiếm của các yếu tố đầu vào nói trên và số
lượng nhiều hay ít các nhà cung cấp các yếu tố đó sẽ quyết định vị thế, “quyền lực”
có thể gây sức ép từ thấp đến cao của các nhà cung ứng đối với doanh nghiệp.
Những người bán được xem là một đe đoạ khi họ yêu cầu tăng giá hoặc giảm chất
lượng đầu vào, do đó làm giảm khả năng sinh lợi của ngân hàng và ngược lại.
1.3.3. Những nhân tố thuộc môi trường doanh nghiệp
Tiềm lực tài chính: Ngân hàng là đơn vị kinh doanh tiền tệ, vì vậy ngân
hàng mà ít vốn giống như người mở cửa hàng mà không có hàng bày bán ra. Vốn
điều lệ là cơ sở để ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh, phát triển nhiều sản

phẩm, dịch vụ mới và là nhân tố tạo dựng uy tín ban đầu đối với khách hàng.
Nguồn nhân lực: Trong một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ như NHTM
thì yếu tố con người có vai trò quan trọng trong việc thể hiện chất lượng dịch vụ.
Đội ngũ nhân viên của ngân hàng chính là người trực tiếp đem lại cho khách hàng
những cảm nhận về ngân hàng và sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, đồng thời tạo
niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng.
Nguồn nhân lực là nguồn lực không thể thiếu của bất kỳ doanh nghiệp cũng
như ngân hàng nào. Năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực của một doanh nghiệp
nói chung thể hiện ở những yếu tố như: trình độ đào tạo, trình độ thành thạo nghiệp
vụ, động cơ phấn đấu, mức độ cam kết gắn bó với doanh nghiệp. Nhân sự của một
ngân hàng là yếu tố mang tính kết nối nguồn lực của ngân hàng, đồng thời cũng là
cái gốc của mọi cải tiến và thay đổi. Trình độ hay kỹ năng của người lao động là
những chỉ tiêu quan trọng thể hiện chất lượng nguồn nhân lực của NHTM. Động cơ
phấn đấu và mức độ cam kết gắn bó cũng là những chỉ tiêu quan trọng phản ánh
một ngân hàng có lợi thế cạnh tranh từ nguồn nhân lực của mình hay không.
Ngân hàng là một ngành đòi hỏi người lao động phải có kinh nghiệm và trình
độ cao được tích luỹ theo thời gian. Rõ ràng, nếu một ngân hàng có tốc độ chu
chuyển nhân viên cao sẽ không phải là một ngân hàng có lợi thế về nguồn nhân lực.
Quá trình tuyển dụng và đào tạo một nhân viên ngân hàng thường rất tốn kém cả về
thời gian và công sức. Hiệu quả của các chính sách nhân sự, đặc biệt là chính sách
tuyển dụng, cơ chế thù lao là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả năng duy trì
một đội ngũ nhân sự chất lượng cao của một ngân hàng.
Quy trình nghiệp vụ và công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ ngân hàng
Các quy trình nghiệp vụ của ngân hàng xây dựng nên chuẩn chung, các bước
chi tiết của mỗi hoạt động nghiệp vụ. Một quy trình nghiệp vụ chặt chẽ sẽ đảm bảo
mỗi hoạt động nghiệp vụ, để hoàn thiện được cần phải có sự phối hợp của ít nhất
hai bộ phận: Bộ phận tác nghiệp và bộ phận kiểm soát, góp phần hạn chế sự thất
thoát cho ngân hàng. Công tác kiểm tra nội bộ chính là công tác kiểm tra sự tuân
thủ quy trình. Tất cả tạo nên một vòng tròn khép kín nhằm nâng cao an toàn trong
hoạt động ngân hàng.

1.4. Các tiêu chính đánh giá và xếp hạng năng lực cạnh tranh của
NHTM
1.4.1. Nhóm tiêu chí về tài chính:
Năng lực tài chính là thước đo sức mạnh của một ngân hàng tại một thời
điểm nhất định, thể hiện qua các chỉ tiêu:
Hệ số an toàn vốn: Hệ số an toàn vốn (CAR) là một thước đo đo độ an toàn
vốn của ngân hàng. Nó được tính theo tỷ lệ của vốn tự có so với tổng tài sản có rủi
ro điều chỉnh. Tỷ lệ này thường được dùng để bảo vệ những người gửi tiền trước rủi
ro của ngân hàng và tăng tính ổn định cũng như hiệu quả của hệ thống tài chính
ngân hàng. Tiềm lực về vốn chủ sở hữu phản ánh sức mạnh tài chính của một ngân
hàng vả khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng đó. Cách thức mà một ngân hàng
có khả năng cơ cấu lại vốn, huy động thêm vốn cũng là một khía cạnh phản ánh
tiềm lực về vốn của một ngân hàng. Đây là một trong những nguồn lực quan trọng
nhất quyết định đến khả năng cạnh tranh của một ngân hàng.
Khả năng huy động vốn: Ngân hàng hoạt động chủ yếu dựa trên nguồn vốn
huy động. Khi ngân hàng không huy động được vốn, tức là ngân hàng không có tiền
để cho vay, mở rộng nền khách hàng hoặc không có tiền để thanh toán các khoản
huy động, các khoản phải trả đến hạn. Trong trường hợp thứ nhất, ngân hàng sẽ
không có lợi nhuận, trong trường hợp thứ hai, ngân hàng dễ mất thanh khoản, dẫn
đến phá sản. Vì vậy, có thể nói nguồn vốn huy động rất quan trọng đối với hoạt
động của ngân hàng. Với nền huy động ổn định, ngân hàng có nhiều cơ hội gia tăng
lợi nhuận, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Chất lượng tài sản có: Chất lượng tài sản có phản ánh sức khỏe của một
ngân hàng. Chất lượng tài sản có được thể hiện thông qua các chỉ tiêu như: Tỷ lệ nợ
xấu, tỷ lệ nợ nhóm 2 trên tổng dư nợ, mức độ trích lập dự phòng rủi ro, mức độ tập
trung và đa dạng hoá danh mục tín dụng.
Khả năng thanh khoản: Khả năng thanh khoản là khả năng thanh toán các
khoản phải trả đến hạn. Chỉ tiêu này được thể hiện thông qua các chỉ tiêu như: Khả
năng thanh toán tức thì, khả năng thanh toán nhanh, đánh giá định tính về năng lực
quản lý thanh khoản của các NHTM, đặc biệt là khả năng quản lý rủi ro thanh

khoản của NHTM. Đây là một tiêu chí quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh
của ngân hàng. Thực tế chỉ ra rằng, những ngân hàng thiếu hụt khả năng thanh
khoản là biểu hiện của tình trạng không lành mạnh, ngân hàng đang gặp khó khăn.
Khi ngân hàng thương mại không có khả năng thanh toán có thể chỉ một khoản phải
trả nhỏ, có thể sẽ gây nên việc rút vốn ồ ạt từ các ngân hàng khác, có thể dẫn đến
phá sản của ngân hàng hoặc nhẹ hơn là sẽ gây ra mất uy tín, lòng tin rất lớn trong
lòng khách hàng.
1.4.2. Nhóm tiêu chí về kinh doanh
Mức sinh lợi: là tiêu chí phản ánh kết quả hoạt động của ngân hàng, đồng
thời cũng phản ánh một phần kết quả cạnh tranh của ngân hàng. Chỉ tiêu mức sinh
lợi có thể được phân tích thông qua những chỉ tiêu cụ thể như: Tốc độ tăng trưởng
lợi nhuận cho thấy ngân hàng đang trong giai đoạn phát triển đi lên, đi ngang hay
suy thoái; chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu ROE phản ánh hiệu quả sử
dụng vốn chủ sở hữu; và chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản ROA để đánh
gía ngân hàng sử dụng tài sản hiệu quả như thế nào.
Hệ thống sản phẩm và thị phần hoạt động: Mức độ đa dạng hoá các dịch vụ
cung cấp cũng là một chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của một ngân hàng.
Khách hàng sẽ ưa thích một ngân hàng có thể thoả mãn nhu cầu của mình hơn là
một ngân hàng có ít dịch vụ để lựa chọn. Sự đa dạng hoá sản phẩm một mặt tối đa
hoá cơ hội đầu tư, một mặt sẽ phân phối, giảm thiểu rủi ro.
Một ngân hàng có nhiều loại hình dịch vụ cung cấp phù hợp với nhu cầu của
thị trường và năng lực quản lý của ngân hàng sẽ là một ngân hàng có lợi thế cạnh
tranh. Sự đa dạng hoá các dịch vụ một mặt tạo cho ngân hàng phát triển ổn định
hơn, mặt khác cho phép ngân hàng phát huy lợi thế nhờ quy mô. Tất nhiên, sự đa
dang hoá các dịch vụ cần phải được thực hiện trong mối tương quan so với các
nguồn lực hiện có của ngân hàng. Nếu không, việc triển khai quá nhiều các dịch vụ
có thể khiến ngân hàng kinh doanh không hiệu quả do dàn trải quá mức các nguồn
lực, không tập trung vào việc phát huy thế mạnh và sản phẩm dịch vụ có sức cạnh
tranh cao của chính bản thân ngân hàng đó.
Thị phần thị trường chính là phần thị trường do sản phẩm dịch vụ của một

NHTM chiếm lĩnh được, thị phần càng lớn chứng tỏ sức cạnh tranh sản phẩm
dịch vụ của NHTM càng mạnh và ngược lại. Để tồn tại và có sức cạnh tranh, sản
phẩm dịch vụ của NHTM phải chiếm giữ được một phần thị trường nhất định
trong đó có những khách hàng chiến lược và lâu dài, thường xuyên sử dụng các
sản phẩm dịch vụ mang lại doanh số và lợi nhuận ổn định cho NHTM.
Thị phần thị trường của dịch vụ ngân hàng là tỷ lệ dịch vụ nào đó mà một
ngân hàng giành được trong tổng số dịch vụ đó của tất cả các NHTM trên một thị
trường nhất định. Nếu một ngân hàng duy trì được thị phần của mình ổn định qua
các năm thì chứng tỏ ngân hàng đó đã duy trì được sức cạnh tranh của mình trên thị
trường.
Mạng lưới phân phối: Hệ thống kênh phân phối được thể hiện ở số lượng
các chi nhánh và văn phòng giao dịch và sự phân bố các chi nhánh theo vị trí lãnh
thổ. Một ngân hàng có mạng lưới chi nhánh hay phòng giao dịch rộng lớn dễ dàng
tiếp cận được với nhiều khách hàng ở nhiều vùng địa lý khác nhau, điều đó cũng
làm cho nhiều người biết đến ngân hàng hơn. Số lượng khách hàng giao dịch càng
tăng đồng nghĩa với việc năng lực cạnh tranh của ngân hàng càng tăng.
Việc triển khai các công nghệ ngân hàng hiện đại đang làm rút ngắn khoảng
cách về không gian, thời gian và làm giảm tác động của một mạng lưới chi nhánh
rộng khắp đối với năng lực cạnh tranh của một ngân hàng. Tuy nhiên, vai trò của
một mạng lưới chi nhánh rộng lớn vẫn rất có ý nghĩa, đặc biệt là trong điều kiện
dịch vụ truyền thống của ngân hàng vẫn còn rất phát triển như hiện nay ở nước ta.
Hiệu quả mạng lưới ngân hàng rộng cũng là một chỉ tiêu quan trọng, thể hiện tính
hợp lý thông qua phân bổ các đơn vị ở các vùng miền cũng như vấn đề quản lý,
giám sát hoạt động của Chi nhánh.
1.4.3. Nhóm tiêu chí về quản trị điều hành
Năng lực của Ban lãnh đạo: năng lực quản trị, kiểm soát và điều hành của
nhà lãnh đạo trong ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo tính hiệu
quả, an toàn trong hoạt động ngân hàng. Tầm nhìn của nhà lãnh đạo là yếu tố then
chốt để ngân hàng có một chiến lược kinh doanh đúng đắn và dài hạn. Thông
thường, hiệu quả hoạt động cao, có sự tăng trưởng theo thời gian và khả năng vượt

qua những bất trắc là bằng chứng cho năng lực quản trị cao của ngân hàng.
Năng lực quản lý phản ánh năng lực điều hành của Hội đồng quản trị cũng như
ban giám đốc của một ngân hàng. Năng lực quản lý được thể hiện ở mức độ chi phối
và khả năng giám sát của Hội đồng quản trị đối với Ban giám đốc, mục tiêu, động cơ,
mức độ cam kết của Ban giám đốc cũng như Hội đồng quản trị đối với việc nâng cao
năng lực cạnh tranh của ngân hàng, chính sách tiền lương và thu nhập đối với Ban
giám đốc; số lượng, chất lượng và hiệu lực thực hiện của các chiến lược, chính sách và
quy trình kinh doanh cũng như quy trình quản lý rủi ro, kiểm toán, kiểm soát nội bộ.
Năng lực quản lý quyết định hiệu quả sử dụng các nguồn lực của ngân hàng. Một ban
giám đốc hay hội đồng quản trị yếu kém, không có khả năng đưa ra những chính sách,
chiến lược hợp lý, thích ứng với những thay đổi của thị trường… sẽ làm lãng phí các
nguồn lực và làm yếu đi năng lực cạnh tranh của chính ngân hàng đó.
Năng lực quản lý của Hội đồng quản trị cũng như Ban giám đốc cũng bị chi
phối bởi cơ cấu tổ chức của NHTM. Cơ cấu tổ chức là một chỉ tiêu quan trọng phản
ánh cơ chế phân bổ các nguồn lực của một ngân hàng có phù hợp với quy mô, trình
độ quản lý của ngân hàng; phù hợp với đặc trưng cạnh tranh của ngành và yêu cầu
của thị trường hay không. Cơ cấu tổ chức của một ngân hàng thể hiện ở sự phân
chia các phòng, ban chức năng, các bộ phận tác nghiệp, các đơn vị trực thuộc…
Hiệu quả của cơ chế quản lý không chỉ phản ánh ở số lượng các phòng, ban, sự
phân công, phân cấp các phòng ban mà còn phụ thuộc vào sự phối hợp giữa các
phòng, ban, các đơn vị trong việc triển khai chiến lược kinh doanh, các hoạt động
nghiệp vụ hàng ngày, khả năng thích nghi và thay đổi của cơ cấu trước những biến
động của ngành hay những biến động của môi trường kinh tế vĩ mô…
Công tác quản lý rủi ro trong ngân hàng: Thông qua công tác quản lý rủi
ro, NHTM sẽ có cái nhìn tổng thể về rủi ro hiện hữu cũng như đánh giá được rủi ro
tiềm ẩn của hệ thống ngân hàng mình. Từ đó có những biện pháp phòng ngừa. Làm
tốt công tác quản lý rủi ro, NHTM sẽ tránh được trạng thái bị động, dẫn đến mất an
toàn trong hoạt động ngân hàng. Vì vậy, quản lý rủi ro tốt chính là một nguồn lợi
thế cạnh tranh và là một công cụ tạo ra giá trị, cũng góp phần tạo ra các chiến lược
kinh doanh có hiệu quả hơn.

1.4.4. Nhóm tiêu chí về hạ tầng và công nghệ ngân hàng
Trong lĩnh vực ngân hàng thì việc áp dụng công nghệ ngân hàng là một trong
những yếu tố tạo nên sức cạnh tranh của các NHTM. Những sản phẩm ngân hàng
mới, hiện đại ( đối với Việt Nam) chủ yếu là những sản phẩm yêu cầu công nghệ
cao: Internet banking, thanh toán quốc tế, gửi tiền một nơi, rút tiền nhiều nơi, các
dịch vụ thanh toán hộ, ngân hàng tự động ATM, POS, thẻ ghi nợ… Các sản phẩm
này sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Việc phát triển được
những sản phẩm dịch vụ này rất cần thiết một hệ thống công nghệ thông tin mạnh
và bảo mật.
Trong lĩnh vực ngân hàng, công nghệ đang ngày càng đóng vai trò như là
một trong những nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất của mỗi ngân
hàng. Công nghệ ngân hàng không chỉ bao gồm những công nghệ mang tính tác
nghiệp như hệ thống thanh toán điện tử, hệ thống ngân hàng bán lẻ, hệ thống
ATM… Công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng còn bao gồm cả hệ thống thông tin
quản lý MIS, hệ thống cảnh báo rủi ro…. trong nội bộ ngân hàng. Khả năng nâng
cấp, đổi mới công nghệ của các NHTM cũng là chỉ tiêu phản ánh năng lực công
nghệ của một ngân hàng. Vì với tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ thông
tin nói chung và lĩnh vực ngân hàng nói riêng, nếu chỉ tập trung vào khả năng công
nghệ hiện tại mà không chú ý tới khả năng nâng cấp và thay đổi trong tương lai thì
rất dễ có những nhận thức sai lầm về năng lực công nghệ của các ngân hàng. Vì thế,
năng lực công nghệ không chỉ thể hiện ở số lượng, chất lượng công nghệ hiện tại
mà còn bao gồm cả khả năng mở ( nghĩa là khả năng đổi mới) các công nghệ hiện
tại về mặt kỹ thuật cũng như kinh tế trong tương lai cùng với quá trình phát triển.
1.4.5. Nhóm tiêu chí về uy tín, hình ảnh của ngân hàng trên thị
trường
Hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng luôn gắn với uy tín của ngân hàng đó,
tâm lý của người tiêu dùng luôn là yếu tố quyết định đến sự sống còn đến hoạt động
của NHTM với hiệu ứng dây chuyền do tâm lý của người tiêu dùng mang lại.
Vì thế, danh tiếng và uy tín của NHTM là yếu tố nội lực vô cùng to lớn, nó
quyết định sự thành công hay thất bại cho ngân hàng đó trên thị trường. Việc gia

tăng thị phần, mở rộng mạng lưới hoạt động, tăng thu nhập phụ thuôc rất nhiều vào
uy tín của NHTM.
1.4.6. Đánh giá năng lực cạnh tranh dựa trên Mô hình chuỗi giá trị
của Michael Porter
Từ quan niệm giá trị dành cho khách hàng và tầm quan trọng của nó, các
doanh nghiệp cần ý thức rằng để cung cấp cho khách hàng một giá trị gia tăng lớn
hơn, tạo ra sự thỏa mãn cao hơn cho họ, doanh nghiệp cần phải biết được tổng giá
trị, tổng chi phí của khách hàng tương ứng với từng loại sản phẩm của mình so với
đối thủ cạnh tranh như thế nào.
Để gia tăng giá trị dành cho khách hàng, doanh nghiệp có thể có hai phương
án: hoặc tăng giá trị mà khách hàng có thể nhận được, hoặc giảm tổng chi phí mà họ
bỏ ra. Phương án đầu, đòi hỏi phải củng cố hay nâng cao lợi ích của sản phẩm/dịch
vụ của đội ngũ nhân viên bán hàng hay hình ảnh của doanh nghiệp. Phương án thứ
hai, đòi hỏi phải giảm chi phí của khách hàng thông qua việc giảm giá, đơn giản thủ
tục mua bán, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc mua và sử dụng hàng hoá
cho khách hàng… Cả hai phương án này đòi hỏi có sự phối hợp đồng bộ của tất cả
các biến số của hệ thống Marketing-Mix của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, mặc dù doanh nghiệp lấy khách hàng làm trung
tâm để tìm cách tạo ra sự thỏa mãn cao cho họ, nhưng không có nghĩa là tăng mức
độ thỏa mãn này bằng mọi cách. Việc tăng này phải gắn với mục tiêu kinh doanh,
gắn với các nguồn lực của doanh nghiệp và trong những điều kiện cạnh tranh nhất
định. Doanh nghiệp phải hành động theo triết lý: cố gắng đảm bảo mức độ thỏa mãn
cao cho khách hàng trên cơ sở vẫn đảm bảo mức độ thỏa mãn cho các đối tượng
khác có liên quan tới doanh nghiệp.
Vấn đề đặt ra là, vậy quá trình cung ứng giá trị cho khách hàng được doanh
nghiệp thực hiện như thế nào? Theo Micheal Porter, giáo sư của trường đại học
Harvard, một chuyên gia về chiến lược cạnh tranh đã cho rằng công cụ quan trọng
của doanh nghiệp để tạo ra giá trị lớn hơn dành cho khách hàng chính là chuỗi giá
trị. Về thực chất, đây là một tập hợp các hoạt động nhằm thiết kế, sản xuất, bán
hàng, giao hàng và hỗ trợ sản phẩm của doanh nghiệp. Chuỗi giá trị bao gồm 9 hoạt

động tương ứng về chiến lược tạo ra giá trị dành cho khách hàng, trong đó, chia ra 5
họat động chủ chốt và 4 hoạt động hỗ trợ.
- Thứ nhất, cần tiến hành tốt 4 hoạt động chủ chốt vì đây là những hoạt động
đóng vai trò chính trong việc tạo ra giá trị cho khách hàng. Các họat động chủ chốt
bao gồm: hậu cần nội bộ, sản xuất, hậu cần bên ngoài, marketing và bán hàng, cung
cấp dịch vụ. Nó là một chuỗi công việc, từ việc đưa các yếu tố đầu vào về doanh
nghiệp, chế biến chúng, sản xuất các thành phẩm, bán hàng và các hoạt động để
phục vụ khách hàng.
- Thứ hai, doanh nghiệp cũng cần đầu tư cho những hoạt động hỗ trợ. Đây là
những hoạt động tuy không trực tiếp và đóng vai trò chính trong việc tạo ra giá trị
dành cho khách hàng nhưng lại có ý nghĩa trợ giúp cho tất cả các hoạt động chủ
chốt nói trên và thiếu chúng thì không thể tiến hành các hoạt động chủ chốt được.
Chẳng hạn: cơ sở hạ tầng của công ty thực sự có ảnh hưởng bao trùm lên mọi họat
động chủ chốt; công tác quản lý nguồn nhân lực cũng đụng chạm đến tất cả mọi
họat động này; việc phát triển công nghệ không chỉ ảnh hưởng đến khâu sản xuất
mà còn ảnh hưởng đến các bộ phận khác; vấn đề mua sắm hay cung ứng đầu vào
không chỉ phục vụ cho khâu sản xuất mà còn phục vụ cho cả công tác hậu cần, bán
hàng và cung cấp dịch vụ.
- Thứ ba, nhiệm vụ của doanh nghiệp là phải thường xuyên kiểm tra chi phí
và kết quả thực hiện của mình trong từng họat động tạo ra giá trị và không ngừng
cải tiến hoạt động này để làm sao có thể thực hiện những họat động đó tốt hơn đối
thủ cạnh tranh. Chỉ có như thế mới đạt được các ưu thế cạnh tranh.
- Thứ tư, để tạo được giá trị tối đa dành cho khách hàng không chỉ đòi hỏi sự
nỗ lực cố gắng đạt kết quả tốt của từng họat động, từng bộ phận riêng rẽ mà còn đòi
hỏi sự phối hợp tốt họat động của tất cả các bộ phận khác nhau của doanh nghiệp.
Nói cách khác, ở đây phải tránh tình trạng mỗi bộ phận trong doanh nghiệp chỉ hành
động nhằm tăng tối đa lợi ích của bộ phận mình mà không chăm lo đến lợi ích của
cdoanh nghiệp và khách hàng.
1.5. Tính tất yếu của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của
NHTM.

- Nâng cao năng lực cạnh tranh góp phần nâng cao uy tín và vị thế của
NHTM. Ngân hàng là ngành cung ứng các sản phẩm dịch vụ đặc biệt đối với nền
kinh tế, sự thành công hay thất bại trong hoạt động của NHTM gắn liền với các sản
phẩm dịch vụ do NHTM cung ứng. Do vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm
dịch vụ của NHTM là hết sức cần thiết nhằm góp phần củng cố NHTM đó lớn
mạnh; nâng cao uy tín và vị thế của NHTM trong nền kinh tế.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh làm tăng lợi nhuận của NHTM. Trong hoạt
động của một NHTM hiện đại, lợi nhuận không chỉ tập trung chủ yếu từ sản phẩm
tín dụng mà còn được khai thác từ các sản phẩm dịch vụ khác. Sự gia tăng nhanh
chóng số lượng các NHTM đã làm tăng mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực ngân
hàng, phần nào giảm chênh lệch lãi suất đầu ra - đầu vào và ảnh hưởng trực tiếp đến
lợi nhuận của NHTM. Vì vậy, để có thể duy trì và tăng trưởng lợi nhuận, các
NHTM phải nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm dịch bằng việc đa dạng hóa sản
phẩm dịch vụ, tập trung phát triển các sản phẩm dịch vụ hiện đại như bảo hiểm, bảo
lãnh, thẻ thanh toán, đại lý uỷ thác, tư vấn gắn với nâng cao chất lượng sản phẩm
với mức giá hợp lý; qua đó có thể khai thác những khoảng trống trên thị trường để
mở rộng thị trường và khách hàng.
Khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, theo cam kết giữa Việt Nam và các
nước thành viên, năm 2010 các ngân hàng nước ngoài sẽ được phép thực hiện hầu
hết các sản phẩm dịch vụ ngân hàng như một NHTM trong nước (trừ dịch vụ tư vấn
và cung cấp thông tin ngân hàng). Cụ thể:
- Các ngân hàng nước ngoài được phép thiết lập sự hiện diện thương mại của
mình tại Việt Nam dưới các hình thức như văn phòng đại diện, chi nhánh NHTM,
các NHTM liên doanh với nước ngoài có vốn nước ngoài dưới 50% vốn điều lệ, các
công ty cho thuê tài chính liên doanh, các công ty tài chính cho thuê 100% vốn
nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài
- Cũng như các pháp nhân Việt Nam, các chi nhánh, văn phòng đại diện và
ngân hàng nước ngoài này sẽ được hưởng quy chế đối xử không phân biệt khi Việt
Nam đã là thành viên chính thức của WTO.
Hiện nay, đã có nhiều động thái cho thấy nhiều ngân hàng nước ngoài có

tiềm lực mạnh mẽ đã và đang nhanh chóng chuẩn bị vào Việt Nam như Ngân hàng
Mizuho (Nhật Bản) đã chính thức khai trương chi nhánh thứ hai tại Thành phố Hồ
Chí Minh (sau chi nhánh Hà Nội đã có từ hơn 10 năm trước). Kết quả từ một cuộc
điều tra của chương trình Phát triển Liên Hiệp quốc phối hợp với Bộ Kế hoạch và
Đầu tư đã đưa ra những con số đáng lo ngại: có khoảng 45% khách hàng (doanh
nghiệp và cá nhân) sẽ chuyển sang vay vốn của ngân hàng nước ngoài thay thế và
50% còn lại chọn ngân hàng nước ngoài để gửi tiền, đặc biệt là ngoại tệ với lý do
các ngân hàng nước ngoài có tính chuyên nghiệp cao hơn, thủ tục đơn giản hơn, sản
phẩm dịch vụ tốt hơn. Như vậy, các NHTM trong nước có khả năng mất đi khoảng

×