Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty đầu tư và phát triển nhà hà nội (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (821.73 KB, 123 trang )

MỤC LỤC
1.2.3.3.Các lực lượng tham gia cạnh tranh với doanh nghiệp trên thị trường 38
2.2.5. Về năng lực cạnh tranh sản phẩm và thị phần của HANDICO: 64
DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ
1.2.3.3.Các lực lượng tham gia cạnh tranh với doanh nghiệp trên thị trường 38
2.2.5. Về năng lực cạnh tranh sản phẩm và thị phần của HANDICO: 64
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh vừa là một tất yếu kinh tế, vừa đồng
thời là đặc trưng nổi bật nhất. Khi Việt Nam chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh
nghiệp ngày càng phải đối mặt nhiều hơn với cạnh tranh. Nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp là xây dựng chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp theo ý
muốn và những lộ trình mang lại quả nhằm vượt qua các đối thủ cạnh tranh để duy
trì và phát triển bản thân doanh nghiệp. Do đó, Năng lực cạnh tranh là yếu tố mang
tính quyết định sự thành bại của một doanh nghiệp. Nếu sản phẩm của doanh
nghiệp được thị trường chấp nhận thì mới bảo đảm cho sự tồn tại, tái sản xuất cũng
như mở rộng phát triển. Chính vì vậy, nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh
nghiệp phải có được, nắm được các lợi thế để đưa ra thị trường các sản phẩm vượt
trội hơn so với các đối thủ khác cùng ngành, cùng lĩnh vực kinh doanh.
Sau 5 năm Việt Nam gia nhập WTO, thực hiện cam kết WTO về mở cửa thị
trường, năm 2011 là năm đánh dấu sự kiện các doanh nghiệp xây dựng và bất động
sản nước ngoài đầu tư vào thị trường bất động sản và nhà ở Việt Nam. Trong bối
cảnh hiện nay, các doanh nghiệp xây dựng và bất động sản Việt Nam không chỉ
phải cạnh tranh với nhau mà còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp bất động sản
nước ngoài vốn rất mạnh về tiềm lực tài chính, công nghệ hiện đại ngay trên sân
nhà. Đây thực sự là thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp xây dựng và bất
động sản Việt Nam, đặt ra yêu cầu cấp bách phải tìm kiếm các biện pháp mới nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường nội địa đồng thời tích cực, chủ động
tìm kiếm cơ hội kinh doanh mới thông qua việc hợp tác kinh doanh với các đơn vị
trong và ngoài nước.


Tổng công ty Đầu tư và Phát triển nhà Hà Nội (HANDICO) là Tổng công ty
đầu tiên của thành phố Hà Nội, được thành lập năm 1999 nhằm đáp ứng những yêu cầu
1
đổi mới trong lĩnh vực xây dựng, phát triển nhà ở và các khu đô thị của thành phố.
Với 17 đơn vị thành viên trực thuộc khi mới thành lập, hơn 10 năm xây
dựng và phát triển, hiện HANDICO có trên 60 đầu mối đơn vị trực thuộc đóng
tại địa bàn Hà Nội và nhiều tỉnh, thành trên cả nước như Hà Nam, Ninh Bình,
Nghệ An, Thừa Thiên Huế, TP. Hồ Chí Minh,… Quy mô tổ chức sản xuất của
HANDICO liên tục phát triển, đảm bảo khả năng bảo toàn và phát triển vốn; thị
trường không ngừng được củng cố và mở rộng. Chuyển sang hoạt động theo mô
hình Công ty mẹ - Công ty con năm 2005, HANDICO tiếp tục phát triển, nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Có được những thành quả này, ngoài những sự năng động, cố gắng từ phía
doanh nghiệp cũng phải kể đến nguyên nhân thành công xuất phát từ hợp tác kinh
doanh với các doanh nhiệp trong ngành. Tuy nhiên, hiện tại, môi trường kinh doanh
đã có nhiều sự thay đổi với sự xuất hiện nhiều nhà khai thác mới, đặc biệt khi Việt
Nam đã trở thành viên chính thức của tổ chức Thương mại thế giới thì môi trường
cạnh tranh trong lĩnh vực xây dựng và bất động sản sẽ trở lên khốc liệt hơn bao giờ
hết, đây là một thách thức rất lớn đối với HANDICO để duy trì được lợi thế kinh
doanh trên thị trường.
Chính vì lý do đó tôi chọn đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng
công ty đầu tư và phát triển nhà Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan đề tài nghiên cứu:
Đã có nhiều công trình đề tài nghiên cứu về năng lực cạnh tanh của doanh
nghiệp và nghiên cứu về Tổng công ty đầu tư và phát triển nhà Hà Nội. Tuy nhiên
nghiên cứu về năng lực cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công
ty đầu tư và phát triển nhà Hà Nội thì chưa có đề tài nào đề cập. Từ góc độ chuyên
ngành Kinh tế chính trị, luận văn đã đưa ra cái nhìn tổng quan về những định hướng
chiến lược trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng và
kinh doanh bất động sản trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, phân tích nội lực

cũng như môi trường bên ngoài ảnh hưởng tác động đến năng lực cạnh tranh của
2
HANDICO. Đề tài cũng tổng hợp khái quát về năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp nói chung và lĩnh vực xây dựng và kinh doanh bất động sản nói riêng; hệ
thống về năng lực cạnh tranh trên các cấp độ và từ đó nêu lên thực trạng của doanh
nghiệp viễn thông nhằm áp dụng mô hình phân tích để đạt hiệu quả SXKD cao.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh, thực tiễn và xu
hướng cạnh tranh trong lĩnh vực xây dựng và kinh doanh bất động sản, đề tài đi sâu
phân tích và đánh giá thực trạng tình hình nội lực, phân tích môi trường cạnh tranh
của HANDICO trong việc cung cấp các sản phẩm về nhà ở, hạ tầng và khu đô thị,
đề xuất những định hướng nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm xác định các mục
tiêu của đơn vị và thực hiện nó một cách hiệu quả trong điều kiện nhiều doanh
nghiệp cạnh tranh trên địa bàn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Những vấn đề liên quan đến lý luận và kinh
nghiệm thực tiễn về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Vận dụng lý luận chung
vào Tổng công ty đầu tư và phát triển nhà Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu: Tổng công ty đầu tư và phát triển nhà Hà Nội và các
doanh nghiệp cung cấp sản phẩm nhà ở, hạ tầng và khu đô thị trên thị trường Việt
Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp
nghiên cứu chủ đạo của đề tài. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp hệ
thống hoá và khái quát hoá, thống kê so sánh, phân tích thực chứng, bảng biểu và
mô hình hoá.
6. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
3

- Khảo sát kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của một số doanh
nghiệp xây dựng và kinh doanh BĐS từ đó rút ra bài học cho Tổng công ty đầu tư
và phát triển nhà Hà Nội.
- Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của Tổng công ty đầu tư và phát
triển nhà Hà Nội trên các mặt: thành tưu, hạn chế và nguyên nhân của những hạn
chế để đề xuất hướng khắc phục.
- Đề xuất quan điểm và các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của Tổng công ty đầu tư và phát triển nhà Hà Nội
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Tổng công ty đầu tư và phát
triển nhà Hà Nội
Chương 3: Định hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của Tổng công ty đầu tư và phát triển nhà Hà Nội
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh và cạnh tranh của Doanh nghiệp
Nền kinh tế thị trường được xem là mô hình kinh tế năng động nhất trong tất
cả các mô hình kinh tế, nền kinh tế thị trường mang lại nhiều thành tựu kinh tế
góp phần đáng kể cho sự phát triển văn minh nhân loại. Kinh tế thị trường vận
động dưới sự tác động tổng hợp của các quy luật kinh tế khách quan, trong đó phải
nói đến quy luật cạnh. Quy luật cạnh tranh đòi hỏi các Doanh nghiệp phải tự thích
nghi với những vận động, biến đổi của nền kinh tế để tồn tại và phát triển. Cạnh
tranh đã, đang và sẽ là vấn đề được nhiều tổ chức, cá nhân quan tâm nghiên cứu cả

trên phương diện lý luận và trong thực tiễn xã hội, nhằm tìm ra và vận dụng ngày
càng hiệu quả quy luật này phục vụ cho sự phát triển của mỗi Doanh nghiệp và
mỗi quốc gia.
1.1.1. Khái niệm và phân loại cạnh tranh
1.1.1.1.Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là một thuật nghữ đã được xã hội loài người nhắc đến từ rất lâu,
song trong những năm gần đây chúng ta thấy thuật nghữ này đuợc nhắc đến nhiều
hơn, đặc biệt là ở Việt Nam. Bởi trong nèn kinh tế mở như hiện nay, khi xu hướng
tự do hóa thương mại ngày càng phổ biến thì cạnh tranh là phương thức để đứng
vững và phát triển của Doanh nghiệp. nhưng trong thực tế “cạnh tranh là gì?” thì
vẫn đang là một khái niệm chưa được thống nhất, các nhà nghiên cứu kinh tế đã đưa
ra các khái niệm về cạnh tranh khác nhau dưới nhiều góc độ khác nhau.
Ví dụ như:
Theo diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và Phát
triển Kinh tế OECD, thì cạnh tranh là “ Cạnh tranh là khả năng các Doanh nghiệp,
ngành, quốc gia và vùng tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh
5
tranh quốc tế” Định nghĩa trên đã cố gắng kết hợp cả hoạt động cạnh tranh của
Doanh nghiệp, của ngành của quốc gia và vùng lãnh thổ.
Trong khi đó Ủy ban cạnh tranh Công nghiệp của Tổng thống Mỹ đưa ra khái
niệm cạnh tranh đối với một quôc gia là: “Cạnh tranh đối với một quốc gia thể hiện
trình độ sản xuất hàng hóa dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị trường quốc tế,
đồng thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của nhân dân nước đó trong
những điều kiện thị trường tự do và công bang xã hội” trong khái niệm cạnh tranh
này người ta nhấn mạnh đến vai trò của các điều kiện cạnh tranh là “ Tự do và công
bằng xã hội.”
Như vậy, xét trên góc độ vĩ mô các khái niệm về cạnh tranh đều cho thấy mục
tiêu chung của hoạt động cạnh tranh là thỏa mãn tối đa nhu cầu của thị trường trong
nước và quốc tế , tạo thêm việc làm và và thu nhập cao hơn cho nền kinh tế.
Trong khi đó các nhà kinh tế của trường phái cổ điển cho rằng. “ Cạnh tranh là

một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng. Quá trình này tạo ra cho mỗi thành viên
thị trường một dư địa hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần
xứng đáng so với khả năng của mình” Theo quan niệm này cạnh tranh chủ yếu là cạnh
tranh về giá cả, chính vì vậy lý thuyết giá cả gắn chặt với lý thuyết cạnh tranh.
Khi Các - Mác nghiên cứu về cạnh tranh Tư bản chủ nghĩa, Mác đã đưa khái
niệm về cạnh tranh như sau. “ Cạnh tranh tư bản là sự ganh đua, sự đấu tranh gay
gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và
tiêu thụ hàng hóa nhằm thu lợi siêu ngạch.” Như vậy cạnh trạnh là hoạt động của
các Doanh nghiệp trong nền sản xuất hàng hóa với mục đích ganh đua với nhau để
chiếm lĩnh thị trường nhằm mục đích thu lợi nhuận cao.
Nhằm kế thừa những nghiên cứu mang tính khoa học của các tư tưởng, khái
niệm về cạnh tranh trước đây, bài viết luận văn cho rằng để đưa ra một khái niệm
đầy đủ cần chỉ ra được chủ thể cạnh tranh, tính chất, phương thức và mục đích của
quá trình cạnh tranh. Và từ đó chúng ta có thể khái quát. “ Cạnh tranh là một quá
trình kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ( quốc gia, ngành hoặc Doanh nghiệp)
ganh đua với nhau để chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cùng các điều
kiện sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có lợi nhất nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận”
6
Như vậy chúng ta có thể nói về bản chất, cạnh tranh là mối quan hệ giữa
người với người trong việc giải quyết các lợi ích kinh tế. Bản chất kinh tế của cạnh
tranh thể hiện ở mục đích lợi nhuận và quyền chi phối thị trường. Trong khi đó bản
chất xã hội của cạnh tranh được thể hiện đạo đức kinh doanh, uy tín kinh doanh của
mỗi chủ thể cạnh tranh trong quan hệ với những người lao động trực tiếp tạo ra sức
cạnh tranh cho doanh nghiệp và được thể hiện trong mối quan hệ của người tiêu
dùng và đối thủ cạnh tranh khác.
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường, nó chịu nhiều
chi phối của quan hệ sản xuất và nó giữ vị trí thống trị trong xã hội, quy luật lưu thông
tiền tệ, quy luật cung cầu, đây là một đặc trưng gắn với bản chất của cạnh tranh. Quy
luật cạnh tranh chỉ ra cách thức làm cho giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội, do đó nó
làm giảm giá cả thị trường, nó tạo ra sức ép làm gia tăng hiệu quả sử dụng các yếu tố

xuất, và từ đó nó chỉ ra ai là người sản xuất kinh doanh thành công nhất.
1.1.1.2.Phân loại cạnh tranh.
+ Căn cứ tính chất cạnh tranh trên thị trường.
- Cạnh tranh hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có rất nhiều
người bán và rất nhiều người mua những sản phẩm tương tự, mỗi người bán chỉ
cung ứng một lượng hang rất nhỏ trong toàn bộ tổng cung của thị trường. Họ luôn
bán hết số hàng mà họ mang ra bán với giá cả thị trường. Bất cứ Doanh nghiệp nào
gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường cũng không gây ảnh hưởng tới giá cả thị
trường. Để tối đa hóa lợi nhuận họ chỉ còn có thể tìm mọi cách giảm tối đa chi phí
sản xuất. Trong thị trường này mọi thông tin đều đầy đủ chính xác và không có hiện
tượng cung cầu giả tạo trên thi trường. Khi chi phí cận biên của Doanh nghiệp giảm
xuống bằng với giá cả thị trường Doanh nghiệp sẽ đạt lợi nhuận tối đa.
- Cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà ở đó mỗi Doanh
nghiệp đều có sức mạnh thị trường, họ có quyền quyết định giá bán của mình, và
qua đó nó tác động đến giá cả thị trường.
- Cạnh tranh độc quyền, là trên thị trường có nhiều người bán và cũng có
nhiều người mua, sản phẩm của các Doanh nghiệp có thể thay thế cho nhau ở một
mức độ nào đó. Bằng các các biện pháp công nghệ, Doanh nghiệp có thể thay đổi
7
mẫu mã, chất lượng, kiểu dáng, quảng bá, tiếp thị…các`Doanh nghiệp cố gắng khác
biệt hoá sản phẩm của mình để cạnh tranh và thu hút khách hàng về phía mình.
Trong thị trường này, bên cạnh các biện pháp khác biệt hóa sản phẩm, chiến lược
giá cả và chính sách đối với khách hàng là các vấn đề mà mỗi Doanh nghiệp luôn
phải quan tâm để đảm bảo kha năng cạnh tranh của mình.
- Độc quyền tập đoàn là trường hợp mà trên thị trường chỉ có một số hãng lớn
sản xuất và bán các sản phẩm đồng nhất hoặc không đồng nhất. Họ gần như kiểm
soát toàn bộ lượng cung hàng hóa trên thị trường nên họ có sức mạnh lớn trên thị
trường, họ có thể đièu tiết thị trường theo ý muốn. Các hãng trong tập đoàn có tính
phụ thuộc lẫn nhau nên quyết định giá và sản lượng của mỗi hãng đều ảnh hưởng
trực tiếp đến hãng khác trong tập đoàn và giá cả thị trường, chính vì vậy mà họ

thường liên kết với nhau nhằm thu được lợi siêu ngạch.
Sự hình thành thị trường cạnh tranh không hoàn hảo nguyên nhân chính là do
quá trình phấn đấu tối đa hóa lợi nhuận của các Doanh nghiệp, cạnh tranh thúc đẩy
quá trình tích tụ và tập trung tư bản diễn ra không đều ở một số ngành, lĩnh vực
kinh tế khác nhau. Mặc dù vậy, cạnh tranh độc quyền lại có tác động tích cực, tạo
động lực cho sản xuất phát triển, nó làm lợi cho xã hội nhiều hơn là gây thiệt hại.
- Cạnh tranh độc quyền là hình thái hoàn toàn đối lập với cạnh tranh hoàn hảo.
Chỉ có một người bán hoặc một người mua duy nhất trên thị trường, hàng hóa được
bán là hàng được bán là hàng hóa độc nhất vô nhị và không có hàng hóa thay thế nên
họ có sức mạnh thị trường rất lớn. Doanh nghiệp độc quyền luôn có quyền quyết định
giá bán và sản lượng sao cho họ thu được lợi nhuận siêu ngạch. Nguyên nhân của độc
quyền là do họ đạt được các lợi thế kinh tế nhờ vào quy mô (độc quyền tự nhiên),
hoặc do cấu kết, thôn tính, kiểm soát được đầu vào. Độc quyền luôn có tác động xấu
đến kinh tế xã hội như sản lượng bán ra trên thị trường luôn thấp hơn nhu cầu tiêu
dùng của xã hội, giá bán luôn ở mức quá cao làm thiệt hại cho người tiêu dùng và gây
bất công xã hội. Ở một số nước phát triển đã áp dụng luật chống độc quyền nhằm
đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng và các lợi ích kinh tế xã hội.
+ Căn cứ chủ thể tham gia thị trường.
Đây là sự cạnh tranh trong khâu lưu thông hàng hóa nhằm tối đa hóa lợi ích
cho những chủ thể tham gia cạnh tranh.
8
- Thứ nhất: Cạnh tranh giữa người bán và người mua với những đặc trưng nổi
bật của quan hệ này là người bán luôn muốn bán giá cao và người mua lại luôn
muốn mua giá thấp, do vậy hai lực lượng này hình thành hai phía cung cầu trên thị
trường, và kết quả của sự cạnh tranh đó là hình thành giá cân bằng của thị trường,
đó là giá mà cả bên bán và bên mua đều chấp nhận được.
- Thứ hai: Cạnh tranh giữa những người mua với nhau, đó là sự cạnh tranh do
ảnh hưởng của quy luật cung cầu. Khi trên thị trường một lượng cung hàng hóa thấp
hơn nhiều so với lượng cầu, làm cho những người mua phải cạnh tranh nhau để mua
được hàng hóa mà mình cần, dẫn đến đẩy giá bán tăng cao. Kết quả là người bán

thu được một khoản lợi nhuận rất cao, còn người mua phải bỏ thêm một khoản tiền
lớn. Như vậy sự cạnh tranh này sẽ làm cho người bán thu được lợi, còn người mua
thì bị thua thiệt.
- Thứ ba: Cạnh tranh giữa những người bán với nhau, đó là sự cạnh tranh
nhằm tăng sản lượng bán hàng. Khi sản xuất ngày càng phát triển do áp dụng khoa
học công nghệ, thị trường mở cửa, lượng cung hàng hóa trên thị trường tăng nhanh,
trong khi đó lượng cầu hàng hóa đó tăng chậm, dẫn đến những người bán hàng phải
cạnh tranh nhau khốc liệt để giành lấy thị trường và khách hàng, dẫn đến giá bán
không ngừng được giảm xuống. Kết quả là người mua được lợi, còn Doanh nghiệp
nào thắng trong cuộc cạnh tranh này thì mới có thể tồn tại và phát triển.
+ Căn cứ cấp độ cạnh tranh. Đây là sự cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất.
- Cạnh tranh sản phẩm là sự cạnh tranh về mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng, giá
cả, phương thức bán hàng, cách thức tiếp cận, sản phẩm nào phù hợp nhất với yêu
cầu của khách hàng thì sản phẩm đó sẽ đảm bảo được khả năng tiêu thụ, kéo dài chu
kỳ sống của sản phẩm và là điều kiện thu thêm nhiều lợi nhuận cho Doanh nghiệp.
- Cạnh tranh Doanh nghiệp, là sự cạnh tranh giữa các Doanh nghiệp cùng sản
xuất một loại hàng hóa mà Doanh nghiệp nào cũng nhằm đến thu được lợi nhuận
siêu ngạch. Trong nền kinh tế thị trường, theo quy luật, Doanh nghiệp nào có hao
phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao lao động xã hội cần thiết sẽ thu được lợi
nhuận siêu ngạch. Các Doanh nghiệp sẽ áp dụng các biện pháp như cải tiến kỹ
thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng xuất lao động, giảm tối đa chi phí sản xuất,
9
nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm. Doanh nghiệp nào có nhiều sản phẩm
có sức cạnh tranh cao sẽ cạnh tranh thắng lợi trong ngành và sẽ thu được lợi nhuận
siêu ngạch.
Như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng cạnh giữa các Doanh nghiệp trong
nội bộ ngành sẽ làm giảm chi phí sản xuất và giá cả hàng hóa, là động lực thúc đẩy
phát triển lực lượng sản xuất và tiến bộ khoa hoc kỹ thuật. Nếu không có cạnh tranh
nội bộ ngành thì ngành đó, lĩnh vực sản xuất đó không thể phát triển và kinh tế sẽ bị
trì trệ lạc hậu.

- Cạnh tranh ngành là sự cạnh tranh mà các Doanh nghiệp sản xuất ở các
ngành khác nhau nhằm tìm nơi đầu tư thuận lợi nhất để có thể thu được lợi nhuận
siêu ngạch. Giữa các ngành kinh tế, do điều kiện tự nhiên, điều kiện kỹ thuật và một
số điều kiện khách quan khác, như: Văn hóa, tâm lý, thị hiếu, kỳ vọng, mức độ quan
trọng…dẫn đến việc cùng với một lượng vốn nhưng đầu tư vào ngành này sẽ mang
lại tỷ suất lợi nhuận cao hơn ngành khác. Các Doanh nghiệp sản xuất ở các ngành
có tỷ xuất lợi nhuận thấp có xu hướng chuyển dịch các nguồn lực sang ngành có tỷ
suất lợi nhuận cao. Kết quả là trong những ngành sản xuất có tỷ suất lợi nhuận cao sẽ
có thêm nhiều Doanh nghiệp tham gia sản xuất, dẫn đến lượng cung hàng hóa tăng
cao vượt quá lượng cầu,cạnh tranh về giá, giá giảm dẫn đến tỷ suất lợi nhuận của
ngành giảm. ngược lại, với những ngành có nhiều Doanh nghiệp rút lui, sản xuất toàn
ngành giảm, lúc đó trên thị trường sẽ xuất hiện lượng cung hàng hóa nhỏ hơn lượng
cầu, hàng hóa khan hiếm, giá tăng và tỷ suất lợi nhuận của ngành tăng.
Việc di chuyển nguồn lực giữa các ngành kéo theo sự biến động của tỷ suất
lợi nhuận diễn ra cho đến khi với một số vốn nhất định dù đầu tư vào ngành nào
cũng sẽ thu được tỷ suất lợi nhuận như nhau. (Đó là tỷ suất lợi nhuận bình quân).
Như vậy có thể nói cạnh tranh giữa các ngành sẽ tạo ra sự cân bằng cung cầu
sản phẩm trong mỗi ngành và bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, đảm bảo sự bình
đẳng cho việc đầu tư nguồn vốn giữa các ngành, tạo nhân tố tích cực cho sự phát
triển kinh tế.
- Cạnh tranh quốc gia là các hoạt động nhằm duy trì cải thiện vị trí của nền
kinh tế của mỗi quốc gia trên thị trường thế giới một cách lâu dài để thu được lợi
10
ích ngày càng cao cho nền kinh tế của quốc gia đó. Tuy nhiên chủ thể trực tiếp tham
gia cạnh tranh là những Doanh nghiệp của quốc gia đó. Do vậy quốc gia nào có
nhiều Doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao thì quốc gia đó có năng lực cạnh
tranh tốt hơn những quốc gia khác.
1.1.2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế
Trong lịch sử kinh tế thế giới, các nhà nhà kinh tế học đã nghiên cứu và chỉ ra
vai trò quan trọng của cạnh tranh. Từ thế kỷ 18, nhà kinh tế học cổ điển Anh với tác

phẩm “ Của cải của các dân tộc” ông đã chỉ ra vai trò quan trọng của cạnh tranh
trong quá trình phát triển kinh tế, Ông cho rằng với sức ép của cạnh tranh buộc mỗi
cá nhân phải cố gắng làm công việc của mình một cách chính xác và do đó tạo ra sự
cố gắng lớn nhất.
Kết quả của sự cố gắng đó là lòng hăng say lao động, sự phân phối các yếu tố
sản xuất một cách hợp lý và tăng của cải cho xã hội. Hiện nay, cạnh tranh được coi
là phương thức hoạt động để tồn tại và phát triển của mỗi Doanh nghiệp, nếu không
có cạnh tranh thì không có tăng trưỏng và phát triển kinh tế. Vai trò cạnh tranh cũng
có hai mặt, tích cực và tiêu cực và được thể hiện như sau.
1.1.2.1. Những ảnh hưởng tích cực
- Đối với nền kinh tế, Cạnh tranh làm sống động nền kinh tế, thúc đẩy quá
trình lưu thông và các yếu tố sản xuất. Thông qua cạnh tranh, các nguồn tài nguyên
được phân phối một cách hợp lý hơn, dẫn đến sự điều chỉnh kết cấu ngành, cơ cấu
lao động được thực hiện mau chóng và tối ưu.
Cạnh tranh là đòn bẩy mạnh mẽ nhất của quá trình luân chuyển vốn, luân
chuyển các yếu tố sản xuất, phân phối lại tài nguyên, tập chung sản xuất và tích
luỹ tư bản. Đồng thời cạnh tranh còn là cơ chế điều tiết việc phân phối lợi nhuận
giữa các ngành và trong nền kinh tế, do chịu ảnh hưởng của quy luật bình quân
hóa lợi nhuận.
- Cạnh tranh đối với Doanh nghiệp kinh doanh, do động lực tối đa hóa lợi
nhuận và áp lực bị phá sản nếu dừng lại, cạnh tranh buộc các chủ thể kinh tế phải
không ngừng tăng cường thực lực của mình bằng các biện pháp đầu tư mở rộng sản
xuất, đầu tư cho nghiên cứu khoa học, sáng tạo và thường xuyên cải tiến kỹ thuật,
11
công nghệ, tăng năng xuất lao động, tăng chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản
xuất. Qua đó cạnh tranh nâng cao trình độ mọi mặt của người lao động, nhất là đội
ngũ quản trị kinh doanh, đồng thời chọn lọc và đào thải những chủ thể kinh tế
không thích nghi được với sự khắc nghiệt của thị trường.
- Cạnh tranh đối với người tiêu dùng, qua cạnh tranh cho thấy trên thị trường,
những hàng hóa nào phù hợp nhất với yêu cầu sử dụng và khả năng thanh toán của

người tiêu dùng, bởi cạnh tranh làm cho giá cả có xu hướng ngày càng giảm, lượng
hàng hóa được bán trên thị trường ngày càng tăng, chất lượng ngày một tốt hơn,
hàng hóa đa dạng phong phú. Chính vì vậy cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích cho
người tiêu dùng. Bên cạnh đó cạnh tranh còn đảm bảo rằng cả người sản xuất và
người tiêu dùng đều không thể dùng sức mạnh áp đặt ý muốn chủ quan cho người
khác. Nói cách khác cạnh tranh còn có vai trò là một lực lượng điều tiết thị trường.
Như vậy, chúng ta thấy cùng với tác động của các quy luật kinh tế khách
quan khác, cạnh tranh đã giúp cho các Doanh nghiệp trả lời được câu hỏi, đó là: Sản
xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Và sản xuất như thế nào? một cách thỏa đáng nhất.
Vận dụng quy luật cạnh tranh Nhà nước và Doanh nghiệp có điều kiện hoạch định
các chiến lược phát triển một cách khoa học mà vẫn đảm bảo được tính thực tiễn,
chủ động hơn trong công tác đối phó với mọi biến động của thị trường.
1.1.2.2. Những hạn chế
Bên cạnh những tích cực mà quy luật cạnh tranh mang lại, là những tiêu cực, đó
là do chạy theo lợi nhuận nên cạnh tranh có tác dụng không hoàn hảo, nó vừa lá động
lực tăng trưởng kinh tế vừa bao hàm sức mạnh tàn phá mù quáng. Sự đào thải không
khoan nhượng những Doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả. Tuy rằng sự đào
thải đó là phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, nhưng nó lại gây ra những hậu
quả về kinh tế xã hội to lớn, như nạn thất nghiệp ra tăng, mất ổn định xã hội…
Cạnh tranh là quá trình kinh tế mà các chủ thể sử dụng mọi biện pháp trong đó
có cả những thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh để giành chiến thắng trên thương
trưòng như gian lận, quảng cáo lừa gạt khách hàng, tình trạng cá lớn nuốt cá bé,
lũng loạn thị trường. Như vậy lợi ích người tiêu dùng bị xâm hại, và cuối cùng cạnh
tranh có xu hướng dẫn đến độc quyền làm cho nền kinh tế phát triển theo chiều
hướng không tốt.
12
Với những đóng góp của cạnh tranh trong quá trình tăng trưởng và phát triển
kinh tế, cạnh tranh đã, đang và sẽ luôn là phương thức hoạt động hữu hiệu của nền
kinh tế thị trường, chúng ta cần nhận thức được các vai trò quan trọng của nó cũng
như những mặt tích cực, tiêu cực của cạnh tranh mang lại để chúng ta vận dụng quy

luật này sao cho hiệu quả nhất cho nền kinh tế.
1.1.3. Cạnh tranh của doanh nghiệp
Như ở trên đã đề cập, cạnh tranh của doanh nghiệp là cấp độ cạnh tranh đứng
từ góc độ các doanh nghiệp, được thể hiện ở khả năng duy trì và mở rộng thị phần của
doanh nghiệp. Mục tiêu của cạnh tranh doanh nghiệp là giành giật lợi thế trong kinh
doanh, thu hút khách hàng, tranh giành thị phần. Chỉ tiêu về lợi nhuận chính là tiêu chí
cuối cùng phản ánh kết quả của cạnh tranh doanh nghiệp.
1.1.3.1. Các công cụ cạnh tranh của Doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế hoạt động cạnh tranh trên thị trường doanh nghiệp có thể sử
dụng các công cụ cạnh tranh khác nhau để chiếm lĩnh thị trường, tăng tốc độ tiêu
thụ sản phẩm, tăng thị phần…Các công cụ thường được các doanh nghiệp sự dụng
là chất lượng sản phẩm, giá cả, hệ thống phân phối, và quảng bá thương hiệu.
* Chất lượng sản phẩm
Để có thể sử dụng công cụ chất lượng sản phẩm nhằm cạnh tranh có hiệu quả
cần làm rõ thế nào là chất lượng sản phẩm. Cách hiểu và nhận biết về chất lượng
sản phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến quản lý chất lượng sản phẩm, bởi chất lượng sản
phẩm là một phạm trù khá rộng lớn và phức tạp phản ánh tổng hợp các nội dung
kinh tế, kỹ thuật và xã hội.
Đối với khách hàng hoặc người tiêu dùng chất lượng sản phẩm được xem là
sự phù hợp và thỏa mãn nhu cầu hoặc mục đính sử dụng mang lại họ.
Về phía Doanh nghiệp hoặc nhà sản xuất thì chất lượng sản phẩm là sự hoàn
hảo, tiện ích và sự phù hợp của sản phẩm với một tập hợp các yêu cầu hoặc tiêu
chuẩn, quy phạm, quy cách đã được quy định trước.
Nếu chúng ta chỉ xét từng loại sản phẩm một cách riêng biệt, thì chất lượng
sản phẩm được phản ánh bởi các thuộc tính đặc trưng của sản phẩm đó. Chất lượng
sản phẩm phụ thuộc vào số lượng và chất lượng các thuộc tính được các nhà nghiên
13
cứu thiết kế đưa vào sản phẩm đó tước khi sản xuất. Những thuộc tính đó phản ánh
công năng hoặc giá trị sư dụng của sản phẩm và được biểu hiện ở những chỉ tiêu
chất lượng cụ thể.

Nếu xét trên góc độ giá trị, chất lượng sản phẩm được hiểu là đại lượng đo
lường giữa tỷ số lợi ích thu được từ tiêu dùng của sản phẩm với chi phí phải bỏ ra
để người sử dụng có được lợi ích đó.
Qua nghiên cứu và dựa trên các định nghĩa về chất lượng, tổ chức quốc tế về
tiêu chuẩn hóa gọi tắt là ISO đã đưa ra định nghĩa cụ thể về chất lượng sản phẩm
trong bộ tiêu chuẩn ISO - 9000 như sau: “ Chất lượng sản phẩm là một tập hợp các
thuộc tính của sản phẩm, tạo cho sản phẩm đó khả năng thỏa mãn yêu cầu đã nêu ra
hoăcc tiềm ẩn.” Định nghĩa trên cho thấy sự thống nhất giữa các thuộc tính của sản
phẩm, các nhu cầu của khách hàng, giữa các yêu cầu của người sản xuất và người
tiêu dùng, giữa nhu cầu hiện tại và những kỳ vọng tương lai của khách hàng về sản
phẩm. Cũng chính vì sự khái quát của định nghĩa này, mà nó được chấp nhận và sử
dụng rộng rãi trong các hoạt động kinh tế hiện nay trên phạm vi toàn cầu.
Chất lượng sản phẩm có vai trò đặc biệt quan trọng trong cạnh tranh của mỗi
Doanh nghiệp, một trong những căn cứ quan trọng khi người tiêu dùng quyết định
lựa chọn và sử dụng sản phẩm của Doanh nghiệp là chất lượng của sản phẩm. Theo
nhà nghiên cứu kinh tế M.Porter thì năng lực cạnh tranh của mỗi Doanh nghiệp
được thể hiện thông qua hai chiến lược cơ bản đó là phân biệt hóa sản phẩm (chất
lượng) và chi phí thấp. Chính vì vậy chất lượng sản phẩm trở thành một trong
những công cụ quan trọng nhất làm gia tăng năng lực cạnh tranh cho Doanh nghiệp.
Chất lượng sản phẩm thể hiện khả năng đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu khách
hàng của Doanh nghiệp, tốc độ tiêu thụ sản phẩm sẽ gia tăng cùng với sự gia tăng
mức độ sản phẩm đó thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Đặc biệt là hiện nay khi
trình độ xã hội ngày càng cao, xã hội ngày càng văn minh, thì thị hiếu của người
tiêu dùng đòi hỏi những sản phẩm có chất lượng cao về mọi mặt chứ không chỉ đơn
thuần là Tốt - Bền - Đẹp như trước kia nữa. Như vậy có thể nói chất lượng và cạnh
tranh là hai phạm trù luôn đi cùng và gắn bó chặt chẽ với nhau, chất lượng sẽ làm
gia tăng năng lực cạnh tranh cho Doanh nghiệp và ngược lại năng lực cạnh tranh
14
cao sẽ bán được nhiều sản phẩm, tạo lợi nhuận siêu ngạch cho Doanh nghiệp, nâng
cao cơ sở tài chính và vật chất cần thiết để đầu tư nghiên cứu khoa học, đổi mới

công nghệ nhằm ngày càng tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao phục vụ nhu
cầu thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi tham gia các tổ chức thương mại
quốc tế như (AFTA, WTO…) cùng với những cơ hội kinh doanh trên thị trưòng lớn
là việc các nước thành viên đều phải dỡ bỏ rất nhiều những hàng rào thuế quan để
cho hàng của các nước tràn vào cạnh tranh tự do ngay trên sân nhà. Tuy vậy, không
một quốc gia nào lại không tìm cách để bảo hộ nền sản xuất trong nước, để hạn chế
hàng ngoại tràn vào và khi đó một số hàng rào mới lại được dựng lên, đó là những
tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng sản phẩm, như giấy chứng nhận về mức độ phóng
xạ cho phép đói với hàng thực phẩm, chất lượng đóng gói bao bì, nhãn mác, giấy
chứng nhận xuất sứ hàng hóa …Việc các Doanh nghiệp đầu tư nâng cao chất lượng
sản phẩm không những đảm bảo cạnh tranh giành thắng lợi trên sân nhà mà còn xây
dựng chiến lược đem sản phẩm của mình ra nước ngoài để cạnh tranh với thị trường
quốc tế.
Để sử dụng có hiệu quả công cụ chất lượng sản phẩm trong cạnh tranh, các
Doanh nghiệp cần làm tốt công tác quản lý chất lượng sản phẩm. Quản lý chất
lượng là các hoạt động có tổ chức phối hợp nhằm định hướng và kiểm soát một quy
trình chặt chẽ về chất lượng sản phẩm. Nói theo cách khác quản lý chất lượng sản
phẩm bao gồm toàn bộ các hoạt động từ việc xây dựng các quy trình đảm bảo chất
lượng, thiết lập các văn bản xác định trình tự và tương tác các quy trình, đảm bảo
nguồn lực và thông tin cần thiết, theo dõi kiểm tra và phân tích các quá trình, nhằm
đảm bảo mục tiêu chất lượng đề ra, và hệ thống quản lý chất lượng là một hệ thống
để định hướng và kiểm soát một tổ chức về chất lượng đã đề ra, và hệ thống quản lý
chất lượng này là một hệ thống để định hướng và kiểm soát một tổ chức về chất
lượng, đây là một hệ thống không thể thiếu đối với mỗi doanh nghiệp để phát huy
được tối đa lợi ích cạnh tranh đích thực từ sản phẩm.
Trên cơ sở nhận thức đầy đủ hơn về vai trò của chất lượng sản phẩm và quản
lý chất lượng, các Doanh nghiệp cần xây dựng và tổ chức triển khai các hoạt động
15
đẩy nhanh quá trình cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm, tận dụng tốt nhất

công cụ này cho nâng cao năng lực cạnh tranh.
* Giá cả sản phẩm.
Giá cả của hàng hóa là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh, phát triển
cùng với lịch sử ra đời và phát triển của nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Ngày nay,
giá cả hiện diện trong tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, các ngành,
các khu vực của nền kinh tế, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Giá cả không chỉ là
sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa, nó còn biểu hiện tổng hợp các quan hệ
kinh tế như cung cầu hàmg hóa, tích luỹ tiêu dùng…Vì vậy giá cả hình thành thông
qua quan hệ cung cầu hàng hóa, thông qua sự thỏa thuận giữa người mua và người
bán, khi giá được chấp thuận là giá mà cả người mua và người bán đều thấy có lợi.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì giá bán sản phẩm là một trong
những công cụ quan trọng thường được sử dụng. Bởi giá bán sản phẩm có ảnh
hưởng trực tiếp đến sự hấp dẫn của sản phẩm và sản lượng tiêu thụ trên thị trường.
Ví dụ: hai hàng hóa có cùng công dụng và có chất lượng tương đương nhau, khách
hàng sẽ lựa chọn hàng hóa nào có giá bán thấp hơn. Trong thực tế có nhiều chính
sách giá khác nhau được Doanh nghiệp sử dụng nhằm đáp ứng và phù hợp với sản
phẩm, mục tiêu, tình hình thị trường và khả năng thanh toán của khách hàng. Trong
quá trình hình thành và xây dựng giá bán sản phẩm, Doanh nghiệp có thể tham khảo
một số chính sách xây dựng giá như sau:
+ Chính sách xây dựng giá thấp, là chính sách mà Doanh nghiệp xây dựng giá
bán sản phẩm thấp hơn giá cả thị trường, có hai cách áp dụng chính sách này.
- Doanh nghiệp xây dựng giá thấp hơn giá thị trường đối với sản phẩm cùng
loại, nhưng vẫn cao hơn giá thành sản xuất. Đây là trường hợp Doanh nghiệp áp
dụng khi sản phẩm mới thâm nhập thị trường, Doanh nghiệp cần thu hút khách
hàng, cạnh tranh với sản phẩm cùng loại để chiếm lĩnh thị phần, trong trường hợp
này Doanh nghiệp sẽ nhanh chóng chiếm được thị phần mà lợi nhuận vẫn đạt được
mặc dù không lớn.
- Doanh nghiệp chấp nhận xây dựng giá sản phẩm thấp hơn giá thị trường và
thấp hơn giá thành sản xuất, đây là trường hợp mà doanh nghiệp chấp nhận thua lỗ
16

tạm thời để phát triển thị trường, chiếm lĩnh thị phần, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ
hàng hóa, tăng nhanh vòng quay của đồng vốn, Tạo tiền đề cho chiến lược xây dựng
giá bán cao cho sản phẩm sau này.
+ Chính sách xây dựng giá bán cao.
Đây là chính sách mà Doanh nghiệp định giá bán sản phẩm của mình cao hơn
giá thị trường và cao hơn giá thành sản phẩm. Trong trường hợp này áp dụng cho
những sản phẩm mới lần đầu được tung ra thị trường, chưa có sản phẩm cạnh tranh,
người tiêu dùng chưa biết rõ về sản phẩm và chưa có điều kiện để so sánh về giá cả
và chất lượng. Giai đoạn này Doanh nghiệp tranh thủ chiếm lĩnh thị trường sau đó
sẽ dần giảm giá để tương đương với giá thị trường, nhưng vẫn đảm bảo cao hơn giá
thành sản phẩm Doanh nghiệp vẫn thu được lợi nhuận như mong muốn.
- Chính sách ổn định giá, theo đó Doanh nghiệp sẽ xây dựng và đưa ra một
mức giá phù hợp và sẽ được áp dụng trong một thời gian dài để tạo uy tín và củng
cố niềm tin của khách hàng về sự ổn định của thị trường đối với sản phẩm. Nó giúp
sản phẩm có những nét độc đáo, khác biệt, nhằm phân biệt với những sản phẩm
cùng loại của đối thủ cạnh tranh, từ đó có điều kiện mở rộng thị trường và chiếm
lĩnh thị phần của sản phẩm.
- Chính sách bán phá giá, là chính sách mà doanh nghiệp dùng biện pháp hạ
giá bán ở mức rất thấp, Doanh nghiệp chấp nhận thua lỗ trong một thời gian nhất
định, nhằm làm cho đối thủ cạnh tranh không thể bán sản phẩm cùng loại trong một
thời gian, từ chỗ thua lỗ do không cạnh tranh được về giá đối thủ cạnh tranh buộc
phải rút khỏi thị trường. Khi đó Doanh nghiệp độc chiếm thị trường, độc quyền với
sản phẩm và lúc đó Doanh nghiệp sẽ chủ động nâng giá lên cao và thu lại lợi nhuận.
Chính sách bán phá giá được coi là rất mạo hiểm, nó là con dao hai lưỡi do vậy ít
Doanh nghiệp sử dụng chính sách này để bán hàng, và hiện nay chính sách bán phá
giá được coi là phương thức cạnh tranh không lành mạnh, và bị cấm ở một số quốc
gia trên thế giới.
Chính sách phân biệt giá, đó là chính sách xây dựng và đưa ra những mức giá
khác nhau đối với cùng một loại sản phẩm khi bán cho các đối tượng khách hàng
khác nhau, cho các khu vực thị trường khác nhau, khách hàng mua với số lượng

17
hàng hóa khác nhau hoặc trong những thời điểm khác nhau. Với chính sách này
Doanh nghiệp sẽ làm thỏa mãn được nhiều đối tượng khách hàng có nhu cầu khác
nhau, có điều kiện tài chính khác nhau, tạo nên sự linh hoạt về giá nhằm hấp dẫn
khách hàng đồng thời vẫn đảm bảo được lợi ích cho Doanh nghiệp khi sản xuất
những sản phẩm có chất lượng cao hơn, hoặc phải vận chuyển sản phẩm đến nhiều
địa điểm khác nhau.
* Hệ thống phân phối
Chúng ta có thể hiểu kênh phân phối là một tập hợp các cá nhân hoặc tổ chức
tham gia vào quá trình làm cho sản phẩm bán ra tới được tay khách hàng, do vậy
nếu Doanh nghiệp lựa chọn kênh phân phối không hợp lý có thể sẽ làm giảm sản
lượng tiêu thụ sản phẩm, dẫn đến hàng hóa ế ẩm, không tiêu thụ được và Doanh
nghiệp sẽ thất bại trong cạnh tranh. Đặc biệt là hiện nay các kênh phân phối càng thể
hiện được vai trò quan trọng của mình trên thị trường bởi vì.
+ Chi phí vận chuyển thường tăng lên sau mỗi lần biến động giá nhiên liệu,
điều đó đặt ra cho mỗi Doanh nghiệp phải tìm ra cho mình những phương thức vận
chuyển hợp lý nhất, tiết kiệm nhất trong lưu thông cho sản phẩm của mình.
+ Với tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật nhanh như hiện nay những Doanh
nghiệp chỉ dựa vào lợi thế về công nghệ để cạnh tranh thì khó tồn tại lâu, bởi đối
thủ rất rễ bắt trước hoặc họ đầu tư những công nghệ thế hệ sau sẽ hiện đại hơn. Hơn
nữa hiệu quả sản xuất không thể tăng vô hạn, khi đó nó gần như đã đạt điểm tối đa
nên các Doanh nghiệp khó có thể hy vọng vượt trội ở mặt này, do vậy các Doanh
nghiệp cạnh tranh phần lớn đặt nhiều hy vọng vào kênh phân phối của minh
+ Hiện nay các sản phẩm ngày càng đa dạng và phong phú về mẫu mã, chất
lượng, kích cỡ, chính vì vậy các Doanh nghiệp sẽ rất dễ gặp khó khăn trong thời
hạn giao sản phẩm có chất lượng của mình cho khách hàng đúng hẹn, và nhiệm vụ
quan trọng này Doanh nghiệp lại tin tưởng đặt lên vai của những nh phân phối.
+ Trong thời buổi công nghệ thông tin phát triển như hiện nay, các Doanh
nghiệp sản xuất đã có nhiều thay đổi lớn trong phương pháp quản lý hàng tồn kho.
Nếu để số lượng hàng hóa tồn kho lớn sẽ làm tăng chi phí bảo quản, lưu kho và làm

giảm chất lượng của sản phẩm. Khi đó các Doanh nghiệp có xu hướng giảm hàng
18
tồn kho xuống mức cần thiết thấp nhất để giảm chi phí giá thành. Điển hình nhất
trong phương pháp quản lý này là phương pháp quản lý “ vừa kịp lúc” của Nhật bản
chính phương pháp quản lý này đã giúp cho các Doanh nghiệp Nhật bản có được lợi
thế cạnh tranh rất lớn trên thương trường và đã thắng được các Doanh nghiệp Mỹ.
Để thực hiện hiệu quả phương pháp quản lý này không gì tốt hơn là các Doanh
nghiệp phải lựa chọn được kênh phân phối hợp lý nhất và tốt nhất cho mình.
+ Trên thực tế để xây dựng hoặc thay đổi được một kênh phân phối cần rất
nhiều thời gian và công sức bởi nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan khác
chứ không đơn thuần là mong muốn chủ quan của Doanh nghiệp sản xuất. Để lựa
chọn và tiến hành xây dựng một kênh phân phối vận hành một cách trơn tru có khi
Doanh nghiệp phải mất nhiều năm, chính vì vậy nếu Doanh nghiệp chọn được kênh
phân phối có chất lượng tốt sẽ đảm bảo khả năng tiêu thụ sản phẩm, duy trì và nâng
cao năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp.
1.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm và sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của
Doanh nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp
Như chúng ta đã nghiên cứu ở phần trên các định nghĩa về cạnh tranh, để có
thể cạnh tranh thắng lợi trước các đối thủ mỗi Doanh nghiệp phải có năng lực cạnh
tranh nhất định. Vậy năng lực cạnh tranh là gì? với câu hỏi này thật khó trả lời một
cách chính xác, hiện nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa đưa ra một định nghĩa chính
xác cho vấn đề này.
Trên thương trường khi các chủ thể cạnh tranh với nhau để giành thắng lợi về
phía mình, các chủ thể đó phải áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp nhằm duy trì và
phát triển vị thế của Doanh nghiệp mình trên thương trường đó. Các biện pháp mà
Doanh nghiệp áp dụng thể hiện một sức mạnh nào đó, một khả năng nào đó hoặc
một năng lực nào đó của chủ thể, và nó được gọi là năng lực canh tranh của chủ thể
đó. Khi muốn chỉ một sức mạnh, một khả năng duy trì được vị trí của một hàng hóa

nào đó trên thị trường người ta cũng dùng thuật ngữ năng lực cạnh tranh của hàng
hóa, thuật ngữ đó cũng là để chỉ mức độ hấp dẫn của hàng hóa đó đối với khách
19
hàng. Một tác giả sau khi đã nghiên cứu phân tích bản chất năng lực cạnh tranh của
Doanh nghiệp cho rằng “Năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp thể hiện thực
lực và lợi thế so sánh của nó so với đối thủ khác trong việc thỏa mãn tốt nhất các
đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ích ngày càng cao cho Doanh nghiệp mình.”
Một số quan điểm cho rằng khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp là khả
năng giành được và duy trì thị phần trên thị trường với việc thu lợi nhuận nhất định.
Tất cả các nghiên cứu mặc dù xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng đều
cho thấy năng lực cạnh tranh đều liên quan đến hai khía cạnh đó làchiếm lĩnh thị
trường và lợi nhuận mang lại. Như vậy có thể nói năng lực cạnh tranh của Doanh
nghiệp là “Khả năng tồn tại, duy trì hoặc gia tăng lợi nhuận, chiếm lĩnh thị phần
trên thị trường của các sản phẩm và dịch vụ của Doanh nghiệp”.
Với những nghiên cứu ở trên chúng ta cần phân biệt năng lực cạnh tranh của
hàng hóa, dịch vụ, năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh
của quốc gia.
Trong đó năng lực cạnh tranh hàng hóa dịch vụ có thể hiểu khái quát là tổng
thể các yếu tố gắn liền với hàng hóa, dịch vụ đó cùng với các điều kiện, công cụ và
biện pháp cấu thành khả năng cạnh tranh được chủ thể dùng để ganh đua với nhau
nhằm chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng và đem lại nhiều lợi ích hơn cho
chủ thể tham gia cạnh tranh.
Đối với năng lực cạnh tranh quốc gia, Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) cho
rằng “Khả năng cạnh tranh của một quốc gia là khả năng đạt và duy trì được
mức tăng trưởng trên cơ sở các chính sách thể chế vững bền tương đối và các
đặc trưng kinh tế khác”.
Năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ khác nhau ở chỗ Doanh nghiệp là một tổ chức chặt chẽ, có thể
đồng thời sản sản nhiều mặt hàng với năng lực cạnh tranh khác nhau. Năng lực cạnh
tranh của sản phẩm được thể hiện năng lực của sản phẩm đó có thể thay thế một sản

phẩm khác đồng nhất hoặc khác biệt, có thể do đặc tính chất lượng sản phẩm hoặc
giá cả sản phẩm. Do vậy năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa dịch vụ là một
trong những yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh chung cho Doanh nghiệp.
20
Trong khi đó cạnh tranh giữa các Doanh nghiệp có thể diễn ra khi họ cung ứng
trên cùng một thị trường những sản phẩm hàng hóa, dịch vụ hoàn toàn giống nhau hoặc
khác nhau, nhưng có thể thay thế cho nhau. Trong cùng một thời gian nếu Doanh nghiệp
nào bán được nhiều sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của mình hơn và ngày càng chiếm được
thị phần nhiều hơn so với các đối thủ cạnh tranh khác thì Doanh nghiệp đó được đánh
giá là có năng lực cạnh tranh cao hơn.
Còn năng lực cạnh tranh quốc gia là tổng hợp năng lực cạnh tranh của các
Doanh nghiệp trong quốc gia đó. Chính vì vậy nâng cao năng lực cạnh tranh cho
Doanh nghiệp là một vấn đề đặc biệt quan trọng của mỗi quốc gia. Trong giai đoạn
hiện nay, trong xu thế chúng ta đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ngày một
sâu rộng, để tồn tại và phát triển bền vững mỗi Doanh nghiệp nói riêng và quốc gia
nói chung cần quan tâm chú trọng đầu tư toàn diện để nâng cao năng lực cạnh tranh,
chủ động giành phần thắng lợi về mình trước những đối thủ cạnh tranh khác.
1.2.1.2.Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh cho Doanh nghiệp.
Trong giai đoạn hiện nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang thúc đẩy
mạnh mẽ, sâu sắc quá trình chuyên môn hóa và hợp tác quốc tế, lực lượng sản xuất
lớn mạnh đang được dần quốc tế hóa. Cuộc cách mạng công nghệ thông tin đang
làm cho nền kinh tế thế giới gắn bó, ràng buộc lẫn nhau dẫn tới không một quốc gia
nào, một nền kinh tế, một dân tộc nào muốn phát triển mà có thể tách rời khỏi hệ
thống kinh tế thế giới, không hòa nhập vào sự vận động chung của cả nền kinh tế
thế giới. Sự hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của nước mình vào
với nền kinh tế khu vực và thế giới, là tham gia vào sự phân công lao động quốc tế,
chúng ta gia nhập các tổ chức kinh tế song phương và đa phương, là chúng ta chấp
nhận và tuân thủ những quy định chung được hình thành trong quá trình hợp tác và
đấu tranh giữa các thành viên của tổ chức.Trong quá trình hội nhập, các doanh
nghiệp giữ một vị trí vô cùng quan trọng và đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng

và phát triển kinh tế của quốc gia. Trong thời gian qua các doanh nghiệp Việt nam
đã phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, khi gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO
bên cạnh những cơ hội mở ra các cho các doanh nghiệp là rất lớn thì những khó
khăn thách thức từ quá trình hội nhập mang lại cho các doanh nghiệp cũng không
21
hề nhỏ. Mặc dù hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đang có nhiều lợi thế cạnh
tranh, nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế và yếu kém:
Thứ nhất: Chất lượng và khả năng cạnh tranh về mặt quản lý còn yếu kém.
Đội ngũ chủ doanh nghiệp, Giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp còn nhiều
hạn chế về kiến thức và kỹ năng quản lý. Một số Chủ doanh nghiệp và Giám đốc
doanh nghiệp chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến
thức về kinh tế - xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh, đặc biệt là yếu về năng lực
kinh doanh quốc tế. Từ đó, khuynh hướng phổ biến là các doanh nghiệp hoạt động
quản lý theo kinh nghiệm, thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu kiến thức trên các
phương diện: Quản lý tổ chức, chiến lược cạnh tranh, phát triển thương hiệu, sử
dụng máy tính và công nghệ thông tin. Một số doanh nghiệp kinh doanh chỉ vì sẵn
tiền vốn và thích kinh doanh, trong khi đó thiếu kiến thức và kỹ năng kinh doanh, vì
vậy đã dẫn đến rủi ro và thất bại.
Thứ hai: Năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao
làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. So sánh sản phẩm trong nước
với sản phẩm các nước trong khu vực như; Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia,
Philipines, thì sản phẩm sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam có giá thành cao
hơn từ 1,58 đến 9,25 lần mặc dù giá nhân công lao động thuộc lọai thấp so với các
nước trong khu vực.
Thứ ba: Năng lực cạnh tranh về tài chính vẫn còn rất yếu kém. Quy mô vốn và
năng lực tài chính ( kể cả vốn của chủ sở hữu và tổng nguồn vốn) của nhiều doanh
nghiệp còn rất nhỏ bé, vừa kém hiệu quả, vừa thiếu tính bền vững.
Thứ tư: Nhận thức và sự chấp hành luật pháp còn hạn chế. Đặc biệt một số
doanh nghiệp còn chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, như
các quy định về tiền thuế, quả lý tài chính, quả lý nhân sự, chất lượng hàng hóa, và

sở hữu công nghiệp.
Thứ năm: Thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay hầu
hết là máy móc thiết bị thế hệ cũ, công nghệ lạc hậu, trong khi đó, máy móc thiết bị
công nghệ là một yếu tố hết sức quan trọng nhằm để tạo ra những sản phẩm có chất
lượng cao, giá thành sản phẩm thấp đây là công cụ quan trọng tạo lợi thế cạnh trạnh
22
tranh của các doanh nghiệp. Vấn đề này là điểm hạn chế và là khó khăn lớn nhất mà
các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt.
Thứ sáu: Sự yếu kém về thương hiệu đã góp phần làm giảm khả năng cạnh
tranh. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa xây dựng được các
thương hiệu mạnh, chưa khảng định được uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị
trường khu vực và quốc tế. Nhiều doanh nghiệp của Việt Nam chưa có chiến lược
xây dựng thương hiệu, chưa tạo được uy tín về về chất lượng sản phẩm và dịch vụ,
do đó khả năng cạnh tranh còn nhiều hạn chế.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã buộc các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực
cạnh tranh để đủ sức đứng vững trên thị trường. Năng lực của các nhà quản lý
doanh nghiệp là một trong những nhân tố quan trọng nhất có ảnh hưởng quyết định
đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh,
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp có sự quan hệ mật thiết nó tác động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau.
+ Nâng cao năng lực cạnh tranh giúp cho doanh nghiệp đứng vững, phát triển
và hội nhập. Nó thúc đẩy tiến trình phát triển của doanh nghiệp bởi năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp tỷ lệ thuận với tốc độ phát triển của doanh nghiệp. Nó giúp
cho doanh nghiệp chủ động hội nhập kinh tế quốc tế một cách sâu, rộng.
+ Khi cạnh tranh thắng lợi, doanh nghiệp sẽ đứng vững và phát triển không
ngừng, đó là tiền đề tác động ngược trở lại cho doanh nghiệp nâng cao hơn nữa
năng lực cạnh tranh của mình. Những thành tựu của sự phát triển sẽ tạo đà giúp cho
doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội kinh doanh mới. Khi doanh nghiệp có đủ khả
năng nguồn lực về vốn, con người doanh nghiệp sẽ dễ dàng tiếp cận với công nghệ
mới, phương thức quản lý tiên tiến, hiện đại, từ đây những sản phẩm mới có chất

lượng cao được ra đời góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tóm lại, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay vấn đề có tính
chất quyết định là mỗi Doanh nghiệp phải nhận thức được và luôn cố gắng nâng cao
năng lực của mình, sẵn sàng nắm lấy cơ hội để vươn lên, chuẩn bị đủ mọi điều kiện
để đủ khả năng đối mặt với những thách thức trong quá trình hội nhập để Doanh
nghiệp có thể tồn tại và phát triển bền vững.
23

×