Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
TRẦN QUANG HÙNG
" XÁC ĐỊNH ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC PHƢƠNG PHÁP
CHẾ BIẾN KHÁC NHAU CỦA CỎ BRACHIARIA BRIZANTHA
ĐẾN KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG VÀ CHẤT LƢỢNG BÒ THỊT
NUÔI TRONG VỤ ĐÔNG"
Chuyên ngành: Chăn nuôi
Mã số: 60. 62. 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Phan Đình Thắm
2. GS. TS. Từ Quang Hiển
THÁI NGUYÊN - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là hoàn toàn trung thực và chưa hề sử dụng cho bảo vệ một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn và các
thông tin, tài liệu trích dẫn trong luận văn này đã được ghi rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 9 năm 2010
Tác giả luận văn
Trần Quang Hùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn tập thể khoa Sau Đại học, khoa Chăn nuôi thú
y - Trường Đại học Nông Lâm - Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập và thực hiện đề tài luận văn Thạc sỹ nông nghiệp.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới PGS-TS. Phan Đình Thắm
- Trường Đại học Nông Lâm - Thái Nguyên; GS-TS. Từ Quang Hiển - Giám
đốc Đại học Thái Nguyên, những người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ
tôi hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các cô, chú, anh, chị em, các bạn bè đồng
nghiệp trường Cao Đẳng nghề công nghệ và nông lâm Đông Bắc đã nhiệt
tình giúp đỡ và tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn.
Cuối cùng xin được dành lời cảm ơn tới gia đình, những người thân
đã động viên, chia sẻ và khích lệ tôi trong suốt quá trình thực hiện khoá học
và luận văn này.
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 9 năm 2010
Tác giả luận văn
Trần Quang Hùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 0
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu của đề tài 2
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Cỏ hòa thảo và đặc điểm sinh học của chúng 3
1.1.1 Giới thiệu về cỏ hoà thảo 3
1.1.2. Đặc tính sinh thái 3
1.1.3. Đặc tính sinh vật 4
1.1.4. Đặc tính sinh lý 5
1.1.5. Đặc tính sinh trưởng 6
1.1.6. Sức sống của cỏ hòa thảo 12
1.2. Cỏ Brachiaria brizantha 13
1.3. Các phương pháp chế biến 14
1.3.1. Tiến hành làm cỏ khô 14
1.3.2. Chế biến thức ăn bằng phương pháp kiềm hóa 17
1.4. Đặc điểm tiêu hoá của động vật nhai lại 20
1.4.1. Hệ vi sinh vật dạ cỏ 20
1.4.2. Tác động tương hỗ của VSV trong dạ cỏ 25
1.4.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của VSV dạ cỏ 28
1.5. Thức ăn thô đối với gia súc nhai lại. 29
1.5.1. Thành phần và cấu trúc của thức ăn thô 30
1.5.2. Phân giải thức ăn thô trong dạ cỏ 33
1.6. Một số nghiên cứu về cỏ hoà thảo 34
1.6.1. Tình hình nghiên cứu cỏ trên thế giới 34
1.6.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 37
1.7. Sử dụng cỏ hòa thảo trong chăn nuôi trâu bò 39
1.7.1. Sử dụng cỏ tươi 39
1.7.2. Sử dụng cỏ khô 41
Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 43
2.1. Đối tượng nghiên cứu 43
2.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu 43
2.3. Nội dung nghiên cứu 43
2.4. Phương pháp nghiên cứu 44
2.4.1. Nghiên cứu khoảng cách cắt thích hợp với cỏ B.brizantha 44
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
1
2.4.2. Xác định khối lượng cỏ ăn được/bò/ngày 44
2.4.3. Thời điểm thu cắt và thành phần hóa học của cỏ sau khi phơi 46
2.4.4. Đánh giá hiệu quả chăn nuôi của cỏ trên bò thịt 46
2.4.5. Phương pháp theo dõi các chỉ tiêu 49
2.4.6. Phương pháp xử lý số liệu 57
Chƣơng 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 58
3.1. Xác định khoảng cách cắt thích hợp với cỏ Brachiaria brizantha. 58
3.1.1. Ảnh hưởng của khoảng cách cắt đến năng suất cỏ B. brizantha. 58
3.1.2. Thành phần hoá học của cỏ B. brizanthsa ở các KCC khác nhau 61
3.1.3. Sản lượng cỏ B.brizantha ở các khoảng cách cắt khác nhau 63
3.2. Xác định khối lượng cỏ ăn được/bò/ngày. 64
3.2.1. Xác định khối lượng cỏ ăn được/1 bò/ ngày 65
3.2.2. Xác định tỷ lệ cỏ được sử dụng ở các tuổi cắt khác nhau 67
3.2.3. Kết quả tính tỷ lệ tiêu hóa vật chất hữu cơ lý thuyết của cỏ ở tuổi cắt
khác nhau 67
3.3. Xác định thời điểm thu cắt và thành phần hóa học của cỏ khô 68
3.3.1. Thời điểm cắt để phơi 68
3.3.2. Thành phần hóa học của khô 69
3.4. Đánh giá hiệu quả chăn nuôi của cỏ tươi trên bò thịt 70
3.4.1. Khối lượng bò qua các kỳ cân 70
3.4.2. Tăng khối lượng trung bình của bò qua các giai đoạn 71
3.4.3. Tiêu thụ VCK/1 bò và tiêu tốn VCK cho 1 kg khối lượng 72
3.5. Đánh giá hiệu quả chăn nuôi của cỏ khô trên bò thịt 72
3.5.1. Khối lượng của bò ở các kỳ cân 73
3.5.2. Tăng khối lượng của bò ở các giai đoạn 73
3.5.3. Tiêu thụ VCK/1 bò, tiêu tốn thức ăn của bò ăn khô 74
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 76
1. Kết luận 76
2. Tồn tại 76
3. Đề nghị 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
DANH TỪ VIẾT TẮT
VCK : Vật chất khô
VSV : Vi sinh vật
N : Nitơ
P : Phốt pho
K : Kali
CP : Protein thô
UFL : Đơn vị thức ăn tạo sữa
PDI : (Protein Digestible dans l’intestin) Protein được tiêu hoá ở ruột non
DXKN : Dẫn xuất không chứa nitơ
KCC : Khoảng cách cắt
VCHC : Vật chất hữu cơ
SL : Sản lượng
NSCX : Năng suất chất xanh
NS : Năng suất
TB : Trung bình
TCVN : Tiêu chuẩn Việt Nam
TS : Tổng số
NSTB : Năng suất trung bình
CS : Cộng sự
ATP : Adrenosine triphotphate
ABBH : Axít béo bay hơi
B.brizantha : Brachiaria brizantha
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Thành phần carbohydrate của TA thô (Delaval, 2002, Trích
Nguyễn Xuân Trạch, 2003) [39] 30
Bảng 2.1: Công thức thí nghiệm 47
Bảng 2.2: Công thức thí nghiệm 48
Bảng 3.1: Năng suất cỏ B.brizantha ở các KCC khác nhau ở năm 1 58
Bảng 3.2: Năng suất cỏ B. brizantha ở các KCC khác nhau ở năm 2 60
Bảng 3.3: Thành phần hoá học của cỏ B.brizantha ở các KCC khác nhau (%) 62
Bảng 3.4: Sản lượng cỏ B.brizantha ở các KCC khác nhau ở năm 1 và 2 63
Bảng 3.5: Khối lượng bò ăn được ở các tuổi cỏ khác nhau 66
Bảng 3.6: Tỷ lệ cỏ được sử dụng ở các tuổi cắt khác nhau 67
Bảng 3.7: Tỷ lệ tiêu hóa vật chất hữu cơ lý thuyết ở tuổi cắt khác nhau 67
Bảng 3.8: Thành phần hóa học của cỏ B.brizatha khi phơi khô (%) 69
Bảng 3.9: Khối lượng trung bình của bò ở các kỳ cân 70
Bảng 3.10: Tăng khối lượng trung bình của bò qua các giai đoạn 71
Bảng 3.11: Tiêu thụ cỏ/1 bò và tiêu tốn cho 1 kg tăng khối lượng 72
Bảng 3.12: Khối lượng của bò ở các kỳ cân 73
Bảng 3.13: Tăng khối lượng của bò ở các giai đoạn 74
Bảng 3.14: Tiêu thụ thức ăn, tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng 75
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta là một nước nông nghiệp, dân số chủ yếu sống ở nông thôn.
Nguồn thu nhập chính của nông dân đó là sản phẩm của các ngành chăn nuôi
và trồng trọt. Trong đó chăn nuôi trâu bò chiếm một vị trí quan trọng.
Trước đây chăn nuôi trâu bò chủ yếu là cung cấp sức kéo và phân bón phục
vụ cho sản xuất nông nghiệp. Ngày nay, cơ khí hoá trong sản xuất nông
nghiệp đang được áp dụng rộng rãi nhưng ngành chăn nuôi trâu bò vẫn giữ
một vị trí rất quan trọng. Bởi vì, ngoài cung cấp sức kéo và phân bón thì
chăn nuôi trâu bò còn cung cấp các thực phẩm quý cho xã hội đó là thịt
và sữa. Đời sống của nông dân ngày càng cao nhu cầu thịt và sữa càng tăng
thúc đẩy ngành chăn nuôi trâu bò ngày càng phát triển. Tuy nhiên, song song
với việc phát triển đàn bò thì vấn đề đáp ứng đầy đủ lượng thức ăn thô xanh
quanh năm và cân bằng dinh dưỡng là hết sức quan trọng. Tuy giá trị dinh
dưỡng của cỏ thấp nhưng lại là nguồn thức ăn rẻ tiền. Gia súc nhai lại nhờ
cấu tạo đăc biệt của hệ tiêu hoá cùng với hệ VSV sống cộng sinh trong
dạ cỏ có thể sử dụng được thức ăn xơ thô một khả năng độc đáo so với
các loại động vật khác.
Tuy lượng cỏ dùng làm thức ăn cho bò hàng năm ở nước ta là rất lớn,
nhưng lại mang tính chất thời vụ. Trong thu hoạch khối lượng nguồn phụ
phẩm này trâu bò không ăn hết, phần lớn cỏ ăn không hết được dùng làm
chất đốt hoặc rơi vãi lãng phí. Chính vì vậy để đảm bảo nguồn thức ăn thô
xanh quanh năm cho trâu bò thì sản xuất cỏ khô là một biện pháp đảm bảo
thức ăn thô xanh có giá trị dinh dưỡng cao trong vụ đồng là rất cần thiết. Sử
dụng cỏ hiệu quả thức ăn xanh trong vụ hè thu và thức ăn phơi khô trong vụ
Đông xuân luôn là vấn đề thời sự trong chăn nuôi gia súc nhai lại không chỉ
ở nước ta, mà còn ở hầu hết các nước trên thế giới. Trong những năm gần
đây để giải quyết vấn đề này, nước ta đã nhập hàng trăm giống cỏ về trồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
2
và tiến hành chọn lọc, nhân rộng. Từ năm 2005 đến nay tại trường Đại học
Nông lâm Thái Nguyên đã thực hiện việc tuyển chọn các giống cỏ có khả
năng thích nghi cao với điều kiện trung du miền núi vùng Đông Bắc. Kết quả
đã chọn được một số giống cỏ tốt, trong đó có cỏ Brachiara Brizantha. Nhằm
nâng cao năng suất chất lượng của giống cỏ này cho gia súc trong vụ hè thu,
đồng thời tạo nguồn nguyên liệu để sản xuất cỏ khô chất lượng cao, đảm bảo
cho trâu bò trong vụ đông xuân cũng như xác định hiệu quả chăn nuôi khi sử
dụng cỏ ở dạng tươi và sau khi phơi khô chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
“Xác định ảnh hưởng của các phương pháp chế biến khác nhau
của cỏ Brachiaria brizantha đến khả năng sinh trưởng và chất lượng thịt
của bò nuôi trong vụ đông”.
2. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá được chất lượng cỏ B.brizantha ở các khoảng cách cắt ở
các thời điểm khác nhau
- Xác định được hiệu quả và khả năng sử dụng cỏ tươi và cỏ khô nuôi
vỗ bò thịt trong vụ đông.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
3
Chƣơng 1:
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cỏ hòa thảo và đặc điểm sinh học của chúng
1.1.1 Giới thiệu về cỏ hoà thảo
Cỏ hòa thảo chỉ có một họ duy nhất là họ hòa thảo (Graminea) và có 28
họ phụ, 563 giống, 6802 loài. Ở nước ta, cỏ hòa thảo chiếm vị trí quan trọng
trong nguồn thức ăn xanh của gia súc ăn cỏ, vì nó chiếm 95 - 98 % trong
thảm cỏ. Từ Quang Hiển, (2002) [18]; Hason A.A., (1972) [60] cho biết, có
gần 75 % cỏ được trồng ở vùng đất trồng cỏ là loài hòa thảo. Hòa thảo chiếm
phần lớn trong phạm vi tự nhiên. Riêng ở Mỹ có 1500 loài hòa thảo.
Cỏ hòa thảo trồng nói chung, là những loại cỏ được nghiên cứu lai tạo
hay tuyển chọn từ tự nhiên, với mục đích tạo ra giống có năng suất cao, chất
lượng tốt, thích nghi với điều kiện tự nhiên và điều kiện canh tác ở một vùng
hay một khu vực nào đó.
1.1.2. Đặc tính sinh thái
Cỏ hòa thảo chiếm vị trí quan trọng trong thảm cỏ do đó tính thích ứng
rộng và chúng có mặt ở tất cả các vùng khí hậu cũng như các vùng đất đai
khác nhau. Một số loài có thể sinh trưởng được ở các vùng rất khô hạn, độ
ẩm trung bình 20 - 30 %, mùa đông nhiệt độ thấp nhưng chúng vẫn sinh
trưởng và phát dục tốt như: Cỏ xương cá, cỏ lông đồi (Eulalia), cỏ
decumbens…
Một số loài sinh trưởng được ở những vùng đất ẩm thấp, độ ẩm lớn từ
60 - 80 %, mùa khô độ ẩm thấp hơn nhưng chúng vẫn sinh trưởng và phát
dục bình thường như: Cỏ Paspalum atratum, cỏ đuôi bò (Festucarubra), cỏ
đuôi mèo (Pleuin pratense)…
Có loài sống được cả ở những nơi đất ngập nước, đất lầy thụt như: Cỏ môi
(Leersia hexandra), cỏ bấc (Juncus effusus), cỏ lồng vực (Echinochloa crus - galli)…
Trên cơ sở những hiểu biết về đặc tính sinh thái của các loài cỏ mà ta có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
4
thể chọn và trồng thích nghi với những điều kiện có khí hậu và địa chất
tương tự như vùng gốc của chúng.
1.1.3. Đặc tính sinh vật
Cỏ hòa thảo là cây có một lá mầm. Cũng giống như những cây một lá
mầm khác, thân của chúng có hình tròn hay bầu dục, lá mọc thành hai dãy,
đa số không có cuống nhưng có bẹ, có thìa lìa, phiến lá dài, gân lá song
song, thân thuộc dạng thân rạ rỗng, có chia đốt. Cũng có một số loài thân
đặc như cỏ Voi, cỏ Goatemala. Rễ thuộc loại rễ chùm, hoa phần lớn là hoa
lưỡng tính.
Căn cứ vào hình dáng thân và đặc điểm sinh trưởng của chúng, người ta
chia cỏ hòa thảo thành các loại sau:
Loại thân rễ
Đối với loại này có đặc điểm đặc trưng là thân luôn nằm dưới mặt đất
và chia nhánh ở dưới mặt đất, đại diện là cỏ tranh. Loài này yêu cầu đất tơi
xốp. Mật độ cỏ thưa, độ che phủ thấp, thích hợp chăn thả nhẹ, không chăn
thả gia súc quá đông và lâu vì cỏ này thường không chịu được giẫm đạp và
vùng đất rí chặt.
Loại thân bụi
Loại này từ gốc đẻ ra nhiều nhánh tạo thành bụi như khóm lúa. Nhánh
có thể được sinh ra dưới mặt đất hoặc trên mặt đất. Cỏ này thường có năng
suất cao nhưng đòi hỏi đất phải tơi xốp và thoáng khí. Do tốc độ đẻ nhanh,
cao nên đòi hỏi phải trồng thưa. Có thể trồng để thu cắt hoặc chăn thả. Đại
diện là các cỏ như: Cỏ Mộc Châu, Paspalum atratum, Ghinê TD58, Tây
Nghệ An…
Loại thân bò
Cỏ này thân thường nhỏ và mềm nên thường nằm ngả trên mặt đất, từ
các đốt có khả năng (hoặc không) đâm rễ xuống đất. Do thân bò và nằm ngả
trên mặt đất nên tạo thành thảm cỏ dày che phủ kín mặt đất. Cỏ này có khả
năng chịu giẫm đạp tốt nên dùng được trong chăn thả, hay thu cắt làm cỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
5
khô. Tuy nhiên, do đặc tính bò nên khó thu cắt và năng suất thường thấp hơn
so với các cỏ khác. Đại diện của chúng là cỏ Pangôla (Digitaria decumbens),
cỏ Lông para (Brachiaria multica), cỏ Lông đồi Hòa Bình (Ischaenum
indicum).
Loại thân đứng
Đây là những loại cỏ mọc mầm từ phần gốc ở dưới đất hoặc hom trồng,
mầm vươn thẳng, thân cao, to nên cho năng suất cao.
1.1.4. Đặc tính sinh lý
Cỏ hòa thảo yêu cầu nước cao, hệ số tỏa hơi nước lớn hơn cỏ họ đậu.
Hệ số tỏa hơi nước vào khoảng 400 - 500.
Độ ẩm yêu cầu theo giai đoạn
Từ nẩy mầm đến chia nhánh: 25 - 30 %
Giai đoạn phát triển nhánh: 75 %
Cuối thời kỳ sinh trưởng nhu cầu nước giảm dần.
Đối với cỏ hòa thảo dùng để chăn thả thì yêu cầu về độ ẩm thấp hơn cỏ
cắt vì thảm cỏ thấp hơn và cành lá phát triển kém hơn. Tuy nhiên, vẫn cần
đảm bảo tưới đủ nước và đòi hỏi phải giữ độ ẩm đất từ 50 - 60 %.
Nhu cầu về dinh dƣỡng
Để có được năng suất cao, cỏ hòa thảo đòi hỏi đất tốt, giàu mùn và đạm
(N), lân (P), kali (K). Nhu cầu về N, P, K phụ thuộc vào giai đoạn sinh
trưởng của cỏ.
Giai đoạn I: Từ nẩy mầm đến phân nhánh đòi hỏi cần nhiều N, P, K.
Giai đoạn II: Phân nhánh đòi hỏi cần nhiều N, P.
Giai đoạn III: Ra hoa, hình thành hạt cần nhiều P, K.
Cỏ càng cho năng suất cao thì yêu cầu lượng phân bón càng lớn,
đồng thời cần chống rét cho cỏ bằng cách bón phân cho cỏ vào cuối thu -
đầu đông.
Nhu cầu về không khí
Các loại cỏ thuộc loại thân đứng, thân bụi, thân rễ chia nhánh dưới mặt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
6
đất thì đòi hỏi đất phải tơi xốp, thoáng khí.
Các loại cỏ thuộc họ thân bụi chia nhánh trên mặt đất và thân bò thì có
thể chịu được đất kém thoáng khí và độ ẩm thấp hơn.
Tính chịu đựng sƣơng giá và kháng xuân
Loại cỏ chịu sương giá tốt thì trong giai đoạn cuối thu, đầu đông chúng
vẫn sinh trưởng và phát triển bình thường, còn loại chịu sương giá yếu kém
thì ngừng sinh trưởng hoặc bị chết vào mùa đông.
Tính kháng xuân hay còn gọi là khả năng chịu đựng của cỏ qua mùa
đông. Nó thể hiện khả năng của cỏ chịu đựng được sự chênh lệch giữa nhiệt
độ không khí và nhiệt độ đất, sự chênh lệch này làm cho quá trình vận
chuyển chất dinh dưỡng trong thân cây cỏ và quá trình đồng hóa, dị hóa của
cỏ mất điều hòa nên cỏ có tính kháng xuân kém sẽ bị chết. Tuy nhiên, tính
kháng xuân của cỏ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Cỏ địa phương
kháng xuân tốt hơn cỏ nhập nội, cỏ mọc riêng rẽ thấp bé kháng xuân mạnh,
cỏ thân rễ, cỏ sinh trưởng phát triển chậm kháng xuân tốt. Loại cỏ mà mùa
xuân phục hồi nhanh thì kháng xuân kém hơn loại phục hồi chậm; Cỏ có
hàm lượng vật chất khô cao thì kháng xuân tốt và ngược lại. Loại cỏ bộ phận
trên mặt đất bị chết trong vụ thu đông thì kháng xuân mạnh và ngược lại.
1.1.5. Đặc tính sinh trưởng
Đặc tính sinh trƣởng chung
Theo David W.Pratt (1993) [57] thì tính hiệu quả của cỏ là làm biến đổi
năng lượng mặt trời thành lá xanh, để động vật có khả năng thu nhận chúng,
tuy nhiên sử dụng năng lương từ lá lại phụ thuộc vào những chu kỳ phát triển
của cây. Các giống cỏ nói chung và cỏ hòa thảo nói riêng, sinh trưởng và tái
sinh trải qua ba giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có đặc điểm riêng và đường mô
tả sinh trưởng của nó có cấu tạo theo đường cong chữ S như sau:
Giai đoạn I (sinh trưởng chậm): Xảy ra sau khi cây cỏ mới bị chăn thả,
thu cắt hay mới gieo trồng. Sau khi thu cắt, lá mất đi, cây không có khả năng
chắn ánh sáng mặt trời trong khi đó cây đòi hỏi nhiều năng lượng để phát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
7
triển. Vì vậy, để bù lại sự thiếu hụt đó, năng lượng được huy động từ rễ. Rễ
trở nên nhỏ và yếu hơn vì năng lượng được sử dụng để phát triển lá. Chính vì
vậy khi cây bị ngập úng vào giai đoạn này sẽ rất dễ bị chết do không có
lá để thoát hơi nước, còn rễ thì yếu nên dễ bị tổn thương dẫn đến thối rễ
và cây chết.
Cây cỏ ở trong giai đoạn I sinh trưởng rất chậm nhưng lá vô cùng ngon
và có giá trị dinh dưỡng cao, số lượng ít.
Giai đoạn II (sinh trưởng nhanh): Sau khi gieo trồng hoặc sau khi thu
cắt hay sau chăn thả từ 10 - 15 ngày tới 35 - 40 ngày. Lúc này, tốc độ tái sinh
của cây đạt tới 1/4 hay tới 1/3 kích thước của cây trưởng thành, năng lượng
được hấp thu đủ qua quá trình quang hợp để cung cấp cho sự phát triển và
bắt đầu bổ sung cho rễ. Đây là thời gian phát triển nhanh nhất. Trong giai
đoạn này, lá chứa đủ protein và năng lượng thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng
cho gia súc. Cỏ có chất lượng dinh dưỡng cao và số lượng lớn.
Giai đoạn III (sinh trưởng chậm hoặc ngừng hẳn): Sau khi gieo trồng
hoặc sau khi chăn thả, sau khi cắt cỏ khoảng 40 - 70 ngày. Cây tiếp tục phát
triển mau, lá ngày càng trở nên nhạt dần, lá thấp chết đi và bị phân hủy. Lá
sử dụng nhiều năng lượng để hô hấp hơn là chúng có thể tạo ra từ quang
hợp. Ở giai đoạn 3, cỏ có phần thân chiếm đa số và nhiều xơ. Hàm lượng
dinh dưỡng cao, ngon, số lượng nhiều, tuy nhiên khả năng tiêu hóa của gia
súc đối với lá và thân cây giai đoạn này thấp dần.
Vì vậy, cần chăn thả hay thu cắt khi kết thúc giai đoạn II và thời gian
nghỉ hợp lý để duy trì cây cỏ lâu dài.
Không cho động vật gặm hay cắt cỏ quá thấp để cỏ quay lại giai đoạn I,
giai đoạn này tái sinh rất chậm và sẽ làm giảm tổng sản lượng cỏ. Không để
cây chuyển sang giai đoạn III, vì trong giai đoạn III, lá cây nhạt dần và bắt
đầu già yếu làm giảm hiệu suất quang hợp. Thu hoạch năng lượng từ đồng cỏ
sẽ cao nhất nếu thu cắt cây ở giai đoạn II hoặc đầu giai đoạn III.
Căn cứ vào đặc điểm sinh trưởng của từng giống theo từng giai đoạn để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
8
chúng ta định ra thời gian chăm sóc và thu cắt hợp lý.
Giai đoạn I và đầu giai đoạn II: Cần chăm sóc, xới xáo, diệt cỏ dại và
bón thúc phân cho cỏ.
Cuối giai đoạn II đầu giai đoạn III: Cần nhanh chóng thu cắt hoặc chăn
thả. Nếu không thu hoạch ngay cỏ sẽ già, giá trị dinh dưỡng kém, ảnh hưởng
đến khả năng tái sinh lần sau và giảm số lứa cắt hay số lần chăn thả trên
năm. Còn nếu thu hoạch non, năng suất sẽ thấp, đồng thời nếu thu hoạch quá
nhiều lứa trên năm thì dự trữ đường bột ở gốc để phát triển cành lá sẽ bị kiệt, đồng
cỏ chóng bị tàn lụi.
Thời gian thu cắt ở một số giống cỏ như sau: Cỏ thân bò vào khoảng
45 - 50 ngày sau khi trồng hoặc 35 - 45 ngày sau khi thu cắt; cỏ thân bụi vào
khoảng 60 ngày sau khi trồng 45 - 50 ngày sau khi cắt hoặc chăn thả lứa
trước; cỏ thân đứng thì sau khi trồng hoặc sau khi cắt vào khoảng trên dưới
60 ngày. Tuy nhiên, động thái sinh trưởng của thân lá và rễ không hoàn toàn
giống nhau.
Động thái sinh trƣởng của thân và lá
Theo dõi sinh trưởng của thực vật, người ta thấy rằng: Sau khi nẩy mầm
khối lượng VCK sẽ giảm dần do chất dự trữ ở hạt được sử dụng trong quá
trình nẩy mầm. Sinh trưởng lúc này chậm. Cho tới khi những lá xanh đầu
tiên xuất hiện, cây con bắt đầu hoạt động quang hợp, sự sinh trưởng bắt đầu
tăng dần đến mức đáng kể. Đến gần giai đoạn trưởng thành thì sinh trưởng
giảm dần và ngừng hẳn, cũng có khi ở giai đoạn này khối lượng VCK của
cây bị giảm đi.
a) Nhân tố ảnh hưởng tới sinh trưởng của thân, lá
+ Sức nẩy mầm của giống
Sự sinh trưởng của cỏ phụ thuộc và sức nẩy mầm của hạt, hạt có sức
nẩy mầm cao sẽ tạo điều kiện tốt cho sinh trưởng sau này. Sức nẩy mầm của
giống không những phụ thuộc vào bản thân hạt, mà còn vào sự chuẩn bị
giống, điều kiện đất đai và khí hậu. Đối với các giống cỏ dùng hom cũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
9
vậy. Người ta thấy rằng: Những đoạn hom đầu có tỷ lệ nẩy mầm cao nhất và
khi tăng số đốt của hom sẽ tăng tỷ lệ nẩy mầm, tuy nhiên từ đốt thứ 3 trở đi
thì tỷ lệ nẩy mầm giảm xuống đột ngột.
+ Nhiệt độ
Nhiệt độ là nhân tố sinh thái có ảnh hưởng rất lớn đối với sinh vật nói
chung và thực vật nói riêng. Nhiệt độ có ảnh hưởng trực tiếp tới sinh trưởng
của cây, nhiệt độ tăng (nằm trong nhiệt độ giới hạn) thì sinh trưởng tăng và
cũng tương tự nhiệt độ giảm thì sinh trưởng chậm lại. Nếu tăng nhiệt độ tới
giới hạn nhất định có tác dụng thúc đẩy quá trình hấp thu chất khoáng của rễ
(Trịnh Xuân Vũ và cộng sự, 1976) [44]. Theo Bogdan (1977) [46] nhiệt độ
thấp nhất để cỏ nhiệt đới nẩy mầm là 15 - 20
o
C và tối ưu là 25 - 35
o
C. Nhiệt
độ tối ưu cho cỏ ôn đới quang hợp là 15 - 20
o
C và cỏ nhiệt đới là 30 - 40
o
C.
Sự hình thành diệp lục bắt đầu khi T
o
> 10 - 15
o
C.
Cỏ hòa thảo nhiệt đới và á nhiệt đới có nhiệt độ sinh trưởng thích hợp
cao hơn so với cỏ ôn đới. Những cỏ như Suđăng, Paspalum dilatatum…sinh
trưởng rất chậm hoặc không sinh trưởng trong khoảng nhiệt độ 10 - 15
o
C và
ở nhiệt độ 30 - 35
o
C thì tốc độ sinh trưởng cao nhất. Cây thức ăn gia súc
sinh trưởng tốt nhất trong nhiệt độ ban ngày hẹp từ 7,2
o
C đến 35
o
C. Nhiệt
độ thích hợp cho đẻ nhánh con của cỏ nhiệt đới thường nhỏ hơn nhiệt độ
thích hợp cho nhánh sinh trưởng (Cooper và Tainton, 1968) [54]. Ở nhiệt độ
thấp dưới 10
o
C cây cỏ nhiệt đới có hiện tượng úa vàng, sau đó chết do diệp
lục bị phá hủy.
Sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm có ảnh hưởng rất lớn tới sinh
trưởng của cỏ. Đối với cây hòa thảo nhiệt đới phản ứng với sự thay đổi này
mang tính chất đặc trưng, khi nhiệt độ ban đêm giảm xuống sinh trưởng của cây
cũng giảm.
Nhiệt độ đất có tác dụng đối với nhiệt độ bên trong thực vật lớn hơn nhiệt
độ không khí, do vỏ và cây dẫn nhiệt kém, còn nhiệt độ đất thông qua nước hấp
thu từ đất mà chuyển vào cây dễ dàng (Phan Nguyên Hồng, 1971) [19].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
10
+ Ẩm độ
Ẩm độ là một nhân tố cần thiết cho sự sinh trưởng của cây. Cây sinh
trưởng mạnh nhất khi tế bào bão hòa nước. Giảm mức độ bão hòa thì tốc độ
sinh trưởng chậm lại. Đối với các tế bào đầu rễ vì không có mô che chở như
các tế bào trên mặt đất nên phải đủ ẩm thì rễ mới sinh trưởng được. Về mùa
xuân nước trong đất nhiều, độ ẩm không khí cao, cây ít mất nước và chất
nguyên sinh được bão hòa nên sinh trưởng mạnh, còn mùa đông thì ngược
lại. Trong mùa đông có nhiều yếu tố thay đổi làm ảnh hưởng tới sinh trưởng
nhưng thực tế trong mùa đông nhiệt độ và ẩm độ là 2 yếu tố chủ yếu ảnh
hưởng đến sinh trưởng. Trong đó, nhiều nhà nghiên cứu nhận định rằng ẩm
độ là nhân tố hạn chế nhất. Cho nên tưới nước cho cỏ trong mùa đông là cần
thiết để tăng năng suất cây trồng.
Ẩm độ không khí cũng là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp tới sinh trưởng
của nó, vì ẩm độ giảm thì cường độ thoát hơi nước tăng và ngược lại. Nếu
thừa nước thì cây bị ngập úng không lấy được oxy. Vì vậy, tưới và tiêu nước
cũng rất cần thiết trong quá trình phát triển đồng cỏ.
+ Ánh sáng là nguồn cung cấp năng lượng cho cây tiến hành quang
hợp, thoát hơi nước, hình thành chất diệp lục. Có ánh sáng cây mới sinh
thân, cành, lá, ra hoa kết quả bình thường.
+ Dinh dưỡng trong đất điều kiện thổ nhưỡng có ảnh hưởng trực tiếp tới
sinh trưởng của cỏ trồng, trong đó các chất dinh dưỡng trong đất đóng vai trò
quan trọng là N, P, K, và kể cả những nguyên tố đa vi lượng khác. Độ pH
trong đất: Quyết định trạng thái dễ tiêu hay không tiêu của các nguyên tố. Cỏ
hòa thảo ưa đất trung tính còn cỏ bộ đậu ưa đất kiềm vì chúng cần nhiều
canxi hơn, chính vì vậy đồng cỏ nhiệt đới thường ít cây họ đậu.
b) Nhân tố ảnh hưởng tới tái sinh của thân và lá
Cây cỏ đã được thu hoạch bằng dạng này hay dạng khác chỉ có khả
năng tái sinh khi trong rễ và thân còn lại có chứa đầy đủ chất dinh dưỡng cần
thiết cho quá trình tái sinh. Vì vậy, khả năng tái sinh phụ thuộc vào các nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
11
tố như: Tuổi thiết lập, tuổi thu hoạch, độ cao cắt vì nó ảnh hưởng tới lượng
dinh dưỡng dự trữ để tái sinh.
+ Tuổi thiết lập là tuổi kể từ khi trồng cỏ cho đến khi cỏ thiết lập và có
thể đưa vào sử dụng lần đầu tiên. Tuổi này rất quan trọng vì nó tạo điều kiện
để các bộ phận dưới đất (rễ, thân ngầm,…) phát triển làm cơ sở cho việc dự
trữ dinh dưỡng sau này để có thể tái sinh. Vì chỉ khi các bộ phận này đã phát
triển và dự trữ dinh dưỡng đầy đủ mới cho phép quá trình tái sinh mạnh.
Người ta đã lợi dụng quá trình sinh trưởng của cây ở thời điểm chất dự trữ
là nhiều nhất để thu hoạch vừa cung cấp dinh dưỡng nhiều gia súc đồng
thời không gây hại cho cây trồng, vì lúc này điều kiện tái sinh của cây
trồng là tối ưu.
+ Tuổi thu hoạch kể từ lứa cắt lần thứ nhất trở đi, thời gian giữa các lần
thu hoạch gọi là tuổi thu hoạch. Khi cây dự trữ đủ dinh dưỡng thì ta bắt đầu
thu hoạch. Voisin 1963 [76] khẳng định: Một cây cỏ nếu bị cắt trước khi rễ
và những phần còn lại của lứa cắt trước dự trữ đủ dinh dưỡng thì sự tái tạo sẽ
gặp khó khăn và có thể không tái sinh được. Nếu tuổi thu hoạch chỉ bằng 1/2
tuổi thu hoạch thích hợp thì năng suất chỉ còn 1/3. Nếu tăng hơn tuổi thích
hợp nhất 50% thì chỉ tăng năng suất 20% nhưng chất lượng giảm, tỷ lệ chất
xơ tăng.
+ Chiều cao cỏ còn lại sau khi cắt, chỉ tiêu này là một trong những nhân
tố ảnh hưởng tới việc tăng sản lượng và chất lượng của các giống cỏ.
Khi cắt cỏ quá cao sẽ làm giảm sản lượng cỏ vì còn phần để lại, khi cắt
cỏ quá thấp sẽ ảnh hưởng tới các lần tái sinh sau đó, làm mất đi phần thân
gần gốc là cơ quan dự trữ chất dinh dưỡng cơ bản để nuôi rễ và toàn bộ lá,
không tạo ra các chất hữu cơ khác được. Tùy từng loại cỏ khác nhau mà
chiều cao khi cắt để lại là khác nhau.
Đối với thân đứng cắt cách mặt đất 4 - 5 cm
Đối với thân bụi cắt cách mặt đất 3 - 5 cm
Đối với thân bò cắt cách mặt đất 7 - 10 cm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
12
Đặc điểm sinh trƣởng của rễ
Động thái sinh trưởng của rễ
Sinh trưởng của rễ cũng mang tính chất mùa vụ rõ rệt như các bộ phận
trên mặt đất. Phần lớn bộ rễ sinh trưởng mạnh vào mùa xuân đạt tới mức cao
nhất trước khi bộ phận trên mặt đất đạt được và ngừng khi cây ra hoa. Khi
sinh trưởng của cây cao thì sự ra rễ ngừng và một vài rễ bắt đầu chết. Sinh
trưởng của rễ cũng phụ thuộc vào nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng và tuổi của rễ…
Nhân tố ảnh hưởng tới sinh trưởng của rễ
+ Nhiệt độ Whyte và cộng sự (1964) cho rằng rễ cần nhiệt độ thấp hơn
so với thân và lá để sinh trưởng và phát triển. Bởi vậy, ở nhiệt độ cao rễ sinh
trưởng chậm hơn so với thân và lá. Ở nhiệt độ thấp, sinh trưởng của rễ tương
đối tăng hơn thân lá, nhiệt độ cao thì sinh trưởng của thân lá tương đối tăng
hơn rễ.
+ Ẩm độ, độ sâu của rễ phụ thuộc vào mực nước ngầm, nước ngầm cao
thì độ sâu của rễ giảm và phát triển ngang. Nếu mực nước ngầm thấp thì phát
triển cả về độ sâu lẫn bề ngang của rễ. Điều này là cơ sở để chọn lọc cỏ chịu
hạn hay chịu úng ngập.
+ Ánh sáng, nếu chiếu sáng đầy đủ thì bộ rễ phát triển mạnh mẽ hơn và
ngược lại. Ngày ngắn và việc dự trữ dinh dưỡng trong rễ có tỷ lệ thuận với
nhau. Tăng cường độ chiếu sáng dẫn đến tăng phát triển rễ và dẫn đến tăng
sinh trưởng thân và lá.
+ Dinh dưỡng trong đất, phân bón đặc biệt là phân đạm có ảnh hưởng
tới kiểu và độ sâu của rễ. Với lượng đạm ít sẽ tạo ra bộ rễ phát triển và với
hàm lượng hydratcacbon cao ở rễ và ngược lại nếu đạm nhiều thì tăng phát
triển bộ phận trên mặt đất và giảm lượng hydratcacbon trong rễ. Đạm thấp
làm rễ nhiều và chia nhiều nhánh còn đạm cao thì rễ mập và ngắn.
1.1.6. Sức sống của cỏ hòa thảo
Sức sống của cỏ cũng như một số loài hòa thảo khác có thời gian sống
là khác nhau. Căn cứ vào độ dài ngắn của thời gian sống của chúng mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
13
người ta chia ra thành loại sống ngắn ngày hay lâu năm. Cụ thể người ta chia
làm 4 loại sau:
Loại sống một năm: Chúng chỉ sống trong vòng một năm hoặc ngắn
hơn rồi tàn lụi và chết, thường gọi là cỏ hàng năm như: Cỏ lồng vực, cỏ ngô
(Zea mays), cỏ Su đăng (Sorghum sudanense)…
Loại cỏ có sức sống ngắn (2 - 3 năm) như cỏ dầy (Hemarthria
compressa), cỏ mật (Melinis minutiflora)…
Loại cỏ có sức sống 4 - 5 năm gọi là cỏ có sức sống vừa như: Pangôla,
cỏ Voi, cỏ Ghinê, Paspalum, Brizantha…
Loại sống 6 - 10 năm gọi là cỏ có sức sống lâu như: Cỏ tước mạch không râu.
Căn cứ vào sức sống của các loại cỏ mà người ta dự tính thời gian trồng
lại để đảm bảo năng suất và chất lượng của các loại cỏ.
1.2. Cỏ Brachiaria brizantha
Cỏ Brachiaria brizantha có nguồn gốc từ Châu Phi, tại đây chúng mọc
tự nhiên ở vùng nhiệt đới ẩm. Hiện nay các dòng chọn lọc trong thí nghiệm
đã được giới thiệu và được trồng ở nhiều nước trên thế giới. Brachiaria
brizantha sinh trưởng tốt trong mùa mưa, nhiệt độ thích hợp từ 25 - 30
o
C,
trong mùa đông vẫn sinh trưởng được ở nơi có độ cao trên 3000 m so với
mặt nước biển. Nhu cầu lượng mưa hàng năm vào khoảng 1500 mm, có khả
năng chịu hạn tốt nhưng không chịu được úng, thích ứng với nhiều loại đất
khác nhau, kể cả đất xấu, đất hơi chua, nhưng cho năng suất cao ở đất mầu mỡ,
tơi xốp, đủ ẩm, pH đất trung tình.
Brachiaria brizantha là cỏ thân bò thấp đẻ nhánh trên mặt đất, thân có
lóng, lá có bẹ ôm lấy thân, bẹ lá và lá có nhiều lông, nhỏ, mịn; thân và lá
nhỏ, mềm vì vậy gia súc thích ăn. Cỏ không ra hoa nhiều lần trong năm, cỏ
có kết hạt nhưng năng suất thấp và tỷ lệ mầm không cao vì vậy cỏ được
trồng chủ yếu bằng gốc.
Ở đất tốt, thâm canh cao, năng suất đạt trên 80 tấn/ha/năm (80 - 140 tấn),
ở đất màu mỡ trung bình, thâm canh trung bình đạt trên dưới 60 tấn/ha/năm. Tỷ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
14
lệ protein trong vật chất khô có thể từ 8 - 15 % tùy theo tuổi cắt và phân bón, tỷ
lệ tiêu hóa VCK 75 % ở 2 tuần tuổi, giảm xuống 55 % ở 12 tuần tuổi. Năng suất
hạt đạt 100 - 500 kg/ha/năm (R. Schultze - Kraft, 1992) [91].
Cỏ B.brizantha lá có nhiều lông, thân có mầu xanh nhạt, thân bụi vươn
cao, khả năng thích nghi với điều kiện khí hậu, đất đai của các tỉnh phía
Đông Bắc.
1.3. Các phƣơng pháp chế biến
1.3.1. Tiến hành làm cỏ khô
Xử lý cỏ khô
Để tạo ra cỏ khô có chất lượng tốt cần đảm bảo rằng, cỏ phải khô một
cách nhanh chóng, tốt nhất là phơi cỏ ngay trên cánh đồng khi mới cắt cỏ và
không được phơi trực tiếp dưới ánh nắng mặt trời khi cỏ chỉ còn độ ẩm từ
(25 - 30 %) mà phải gom lại thành đống để giảm thiểu tác động của ánh
nắng. Cỏ sau khi cắt cần được rải đều và mỏng, phơi dưới nắng để làm cho
cỏ chết một cách nhanh nhất và ngừng quá trình hô hấp, để hạn chế lượng
dinh dưỡng tiêu hao trong quá trình xử lý. Phơi cỏ đến khi độ ẩm chỉ còn
khoảng 25 - 30 %, thì gom lại thành đống nhỏ, có độ cao từ 1,5 - 2 m, để
tránh tác hại của bức xạ mặt trời (Đinh Văn Bình, 2000) [3]; (Chu Thị Thơm,
2006) [34]. Để tiến hành phơi cỏ tiếp tục cho giảm hàm lượng nước xuống
14 - 17% ta cần giữ nguyên đống nhỏ để phơi và sau 4 - 5 ngày thì có thể thu
lại (Thái Đình Dong, 1961) [14]. Ở thời kỳ này, do quá trình quang - hóa học
và tác động của men làm cho tế bào cỏ bị hủy hoại, thời gian này đòi hỏi
phải phơi kéo dài, nên thường tổn thất lớn chất dinh dưỡng. Nếu phơi quá
nhanh ở giai đoạn này cỏ sẽ dòn, dễ gẫy nên dễ bị thất thoát trong quá trình
thu gom để dự trữ.
Đối với nước ta diễn biến thời tiết rất phức tạp, vì vậy đòi hỏi phải
theo dõi thời tiết chặt chẽ để phơi cỏ thuận lợi. Đối với mùa hè thì nước ta
thường hay có các đợt mưa lớn, còn đối với mùa khô, thì chất lượng cỏ lại
không đảm bảo, hơn nữa ban đêm thường có sương nên cỏ dễ hút ẩm trở lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
15
làm cỏ dễ bị mốc và giảm chất lượng. Thời gian cắt cỏ tốt nhất là từ tháng 7
đến tháng 9 dương lịch (Nguyễn Thiện, 2004) [42].
Đảo cỏ
Để làm cho cỏ khô, đều, nhanh. Mỗi ngày đảo ít nhất 1 lần, dùng xiên
3 chạc đảo từ dưới lên, sau mỗi ngày phơi gom lại để tránh mưa và sương
đêm. Đối với một số cỏ như pangola, cỏ Tây Nghệ An, chỉ cần phơi 1 - 2
nắng là được, không cần phơi quá nhiều nắng sẽ làm cỏ khô, cứng, mất nhiều
chất dinh dưỡng, gia súc không thích ăn.
Cuối mùa thu sang đông cỏ cần được phơi khô dưới ánh nắng mặt trời
3 - 4 nắng, mỗi ngày phải lật 3 - 4 lần. Nếu mưa thì không phơi cỏ, mà thu cỏ
thành đống che phủ bằng tấm nhựa nilon rộng chống nước mưa thấm vào cỏ,
làm cỏ lên men, tỏa nhiệt, sẽ dẫn đến giảm chất lượng của cỏ, cỏ dễ bị mục, mất
mùi thơm ngon (Bùi Đức Lũng, 2005) [21], (Nguyễn Văn Trí, 2006) [40].
Cào cỏ khô vào thành đống khi cỏ đã khô rất dễ gẫy cỏ, khi chất đống
và cào cỏ với tốc độ cao có thể làm giảm chất lượng cỏ do rụng mất lá. Vì
vậy, phải phơi cỏ tới độ khô vừa phải sau đó gom lại, làm động tác nhẹ
nhàng vừa phải tránh làm rơi rụng lá cỏ (Skerman, P. J., 1990) [92].
Sấy cỏ hay làm khô nhân tạo
Làm khô nhân tạo có thể làm ở mọi nơi và bất cứ thời gian nào và
dinh dưỡng mất đi là nhỏ nhất. Protein, vitamin A và B được bảo vệ. Tuy
nhiên, phương pháp làm khô cỏ nhân tạo thường chi phí lớn, mặc dù nó có ý
nghĩa trong bảo quản, đặc biệt trong mùa mưa.
Phương pháp sấy cỏ nhân tạo có thể đưa lượng nước giảm xuống 14 -
17% rất nhanh trong khoảng thời gian 5 đến 30 phút, tùy từng loại máy.
Trong một giờ có thể sản xuất được 225 - 1000 kg cỏ khô. Cũng có thể phơi
cỏ cho giảm hàm lượng nước xuống còn 40 - 50 %, sau đó cho vào sấy nhân
tạo, khi đó, sản lượng sản phẩm làm ra sẽ tăng và chi phí sẽ giảm. Một tấn cỏ
khô với 40 % ẩm độ đòi hỏi chi phí sấy để giảm lượng nước trong cỏ gấp hai
lần so với cỏ có 30 % ẩm độ (Skerman, P. R., 1990) [92].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
16
Ngoài ra, còn có các dạng làm khô là dùng trống quay có nhiệt độ cao,
nhiệt độ trung bình và dùng băng tải có nhiệt độ trung bình, để đưa từng mẻ cỏ
vào để sấy.
Làm khô nhân tạo là rất đắt và chỉ nên làm với các loại thức ăn có chất
lượng cao. Các thức ăn được làm khô sau đó được nghiền hay đóng viên.
Cất trữ và bảo quản cỏ
Có rất nhiều hình thức cất trữ khác nhau như: Đánh đống, đóng bánh,
bó thành từng bó nhỏ có thể cất trữ ngay trên cánh đồng để tiết kiệm diện
tích cất trữ, hay mang về gần chuồng cho tiện chăn nuôi. Tuy nhiên, trước
khi dự trữ cỏ phơi khô, cần kiểm tra độ ẩm của cỏ, nếu cỏ đạt độ ẩm dưới 15
% thì cỏ đủ khô, dự trữ được lâu; nếu độ ẩm trên 15 %, thì cần phơi thêm
một đến 2 nắng nữa mới có thể cất trữ được.
Cỏ khô loại tốt là một trong những nguồn cung cấp protein, gluxit,
vitamin và chất khoáng chủ yếu, đặc biệt là vào vụ đông - xuân. Hàm lượng
và thành phần các chất dinh dưỡng trong cỏ khô có sự khác nhau rất rõ rệt và
tùy thuộc vào thành phần thực vật của cây cỏ, điều kiện đất đai và khí hậu,
loại và liều lượng phân bón sử dụng, thời gian thu hoạch cỏ, tình trạng thời
tiết lúc cắt cỏ và kỹ thuật phơi, sấy. Giai đoạn phát triển thực vật lúc thu
hoạch cỏ để phơi khô cũng ảnh hưởng rất nhiều đến thành phần hoá học của
nó. Theo mức độ thành thục và già đi của cây, hàm lượng xenluloza trong cỏ
tăng lên, còn hàm lượng protein, vitamin và chất khoáng lại giảm xuống.
Điều đáng chú ý nữa là hàm lượng vitamin D trong cỏ khô. Chúng ta
đều biết là trong cây xanh không có vitamin D nhưng lại có ergosterin. Khi
phơi nắng, dưới ảnh hưởng của tia cực tím, ergosterin tạo thành vitamin D
2
.
Cỏ sấy khô nhân tạo hầu như không có vitamin D. Rõ ràng là, nếu cỏ khô
giầu vitamin A thì lại rất nghèo vitamin D và ngược lại, vì ánh sáng mặt trời
phá huỷ vitamin A nhưng lại thúc đẩy quá trình tạo thành vitamin D. Nếu cỏ
khô bị mưa thì hàm lượng vitamin A và D trong đó giảm rõ rệt và trong trường
hợp này cho dù gia súc được cung cấp số lượng lớn cỏ khô vẫn không thể thoả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
17
mãn được nhu cầu của chúng.
Cỏ khô là hình thức dự trữ thức ăn thô xanh rẻ tiền, dễ làm và phổ
biến trong điều kiện chăn nuôi ở nước ta. Tuy nhiên, để có được loại cỏ khô
chất lượng tốt lại không đơn giản. Ở nước ta, mùa có điều kiện cho cây cỏ
phát triển và chất lượng cỏ tốt lại hay có mưa. Ngược lại, trong mùa khô dễ
làm cỏ khô thì chất lượng cỏ lại giảm sút. Vì vậy, trong mùa mưa, muốn làm
cỏ khô chất lượng tốt thì phải chú ý theo dõi diễn biến thời tiết, có kế hoạch
chu đáo về nhân lực, phương tiện thu cắt, vận chuyển, nơi cất giữ
Trong năm, thời gian cắt cỏ phơi khô tốt nhất là từ tháng 7 đến tháng 9
dương lịch, là lúc cỏ mới ra hoa, có sản lượng và thành phần dinh dưỡng
cao. Khi phơi, cần rải cỏ đều thành lớp trên mặt đất, lớp cỏ dầy khoảng 15 -
20 cm. Thỉnh thoảng đảo lớp cỏ cho khô đều, tránh phơi quá nắng, cỏ sẽ mất
nhiều chất dinh dưỡng, nhất là vitamin. Trong thời gian phơi nếu cỏ chưa
khô hoặc lúc gặp mưa, nên gom cỏ thành đống, tìm cách che phủ hoặc
chuyển cỏ tạm thời vào kho, giữ cho cỏ khỏi mất phẩm chất. Cỏ khô phẩm chất
tốt vẫn giữ được màu xanh, thân, cuống và lá đều mềm và có mùi thơm dễ chịu.
Bảo quản cỏ khô bằng cách đánh thành đống như đống rơm, nén chặt
và có mái che mưa. Tốt nhất là xây dựng nhà kho dự trữ cỏ khô, đặc biệt là
những gia đình chăn nuôi quy mô lớn. Muốn tăng sức chứa của nhà kho nên
làm các giá đỡ, bó cỏ thành bó (tốt nhất là dùng máy đóng bánh cỏ khô) để
xếp được nhiều và khi cần lấy ra cho gia súc ăn cũng thuận tiện.
1.3.2. Chế biến thức ăn bằng phương pháp kiềm hóa
Hiện nay, việc dùng chất hóa học để sử lý phụ phẩm nông nghiệp làm
thức ăn cho gia súc đang được áp dụng rộng rãi ở nhiều nơi trên thế giới.
Mục đích của xử lý hóa học là phá vỡ các mối liên kết giữa lignin và
hemicellulose, để cho hemicellulose, cũng như cellulose dẽ dàng được phân
giải bởi VSV dạ cỏ (Preston và Leng, 1991) [85]. Trong tất cả các phương
pháp hóa học thì phương pháp kiềm hóa có nhiều triển vọng trong thực
tiễn. Các chất kiềm (như vôi, kali, xút, amoniac…) có khả năng thủy phân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
18
các mối liên kết hóa học giữa lignin và carbohydrate bền trong môi trường
dạ cỏ nhưng lại kém bền vững trong môi trường kiềm (pH > 8). Lợi dụng
đặc tính này các nhà khoa học đã sử dụng các chất kiềm như NaOH, NH
3
,
urê, Ca(OH)
2
để xử lý phụ phẩm nông nghiệp nhiều xơ với mục đích phá
vỡ mối liên kết giữa lignin với hemicellulose và cellulose trước khi chúng
được sử dụng làm thức ăn cho gia súc nhai lại, tạo điều kiện thuận lợi cho
quá trình lên men của VSV dạ cỏ. Kiềm hóa có thể phá vỡ mối liên kết este
giữa lignin với hemicellulose và cellulose, đồng thời làm cho cấu trúc xơ
phồng lên về mặt vật lý (Van Soest và cộng sự, 1991 [165]). Những ảnh
hưởng đó tạo điều kiện cho VSV dạ cỏ tấn công vào cấu trúc
carbohydrate được dễ dàng, làm tăng tỷ lệ tiêu hóa, tăng tính ngon miệng
của thức ăn đã xử lý.
Xử lý bằng amoniac
Amoniac là một nguồn nitơ phi protein được VSV dạ cỏ sử dụng nên
việc xử lý bằng amoniac còn góp phần làm tăng hàm lượng protein thô. Xử
lý bằng amoniac còn có tác dụng bảo quản chống mốc và thối hỏng thức ăn.
Có các biện pháp xử lý amoniac như sau: Xử lý bằng khí amoniac và xử lý
bằng amoniac lỏng. Hiện nay ở nước ta nguồn amoniac không phổ biến, giá
thành cao và khi xử lý đòi hỏi cần có trang thiết bị, do đó biện pháp này ít
được áp dụng trong thực tiễn sản xuất.
Xử lý bằng urê
Thực chất xử lý bằng urê cũng là xử lý bằng NH
3
một cách gián tiếp vì
khi có nước và ureaza của VSV thì urê sẽ phân giải thành amôniac:
CO(NH
2
)
2
+ H
2
O 2NH
2
+ CO
2
Khi xử lý bằng urê cần đảm bảo điều kiện sau:
Liều lượng urê sử dụng bằng 4 - 5 % so với khối lượng thức ăn ủ.
Thời gian ủ tùy thuộc vào nhiệt độ môi trường. Nếu nhiệt độ không khí
cao thì quá trình amoniac hóa sẽ nhanh, lạnh thì chậm lại. Nếu nhiệt độ trên
30
o
C thì thời gian ủ ít nhất là 7 - 10 ngày, 15 - 30
o
C thì phải ủ từ 10 - 25
Ureaza