Sử dụng phương pháp so sánh khi dạy học phần văn bản môn Ngữ văn
THCS
PHỤ LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài.
1.1 Cơ sở lí luận.
1.2 Cơ sở thực tiễn.
2.Mục tiêu nghiên cứu.
3. Đối tượng nghiên cứu.
4. Phạm vi đề tài.
5. Phương pháp nghiên
II.NỘI DUNG
1. Một số giải pháp.
1.1. Phương pháp so sánh với thực trạng dạy
phần văn bản hiện nay.
1.2. So sánh là gì?
1.3. Một số hình thức so sánh
a.So sánh làm rõ chi tiết
a.1. So sánh để làm rõ hoàn cảnh sáng tác văn
bản
a.2. So sánh về thể loại
Sử dụng phương pháp so sánh khi dạy học phần văn bản môn Ngữ văn
THCS
a.3. So sánh khi tiến hành phân tích văn bản.
Được áp dụng để làm rõ chi tiết về nội dung hay nghệ
thuật của văn bản.
b. So sánh nhằm khái quát kiến thức.
1.4 Một số chú ý khi sử dụng phương pháp so
sánh.
2. Kết quả khảo sát thực tế.
III. KẾT LUẬN
Sử dụng phương pháp so sánh khi dạy học phần văn bản môn Ngữ văn
THCS
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài.
1.1.Cơ sở lí luận.
Năm học 2010-2011 là năm thứ chín thực hiện chương trình sách giáo
khoa đổi mới với các khối.Về nội dung chương trình, qua hơn chín năm thực
hiện, hầu hết giáo viên, những người trực tiếp giảng dạy đều khẳng định tính
ưu Việt của nó so với sách giáo khoa cũ.Vì vậy đổi mới là định hướng đúng
đắn, phù hợp. Tuy nhiên vì kết cấu nội dung chương trình thay đổi nên nó
đòi hỏi cả vấn đề đổi mới phương pháp dạy -học,một vấn đề quan tâm đối
với nghành GD-ĐT nước ta.
Giáo dục và đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống
chính trị của mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát triển của mỗi nước. Do đó
xác định giáo dục và đào tạo là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng
Việt Nam.Trong những năm qua Đảng ta luôn coi “ Giáo dục là quốc sách
hàng đầu”.
Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, từ năm 1997. Bộ
giáo dục đã tiến hành đổi mới toàn bộ về giáo dục THCS theo tư tưởng cực
hoá hoạt động của học sinh.
Nghị quyết trung Ương IV khoá VII đã xác định phải áp dụng những
phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy
sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề.
Nghị quyết trung Ương II tiếp tục khẳng định phải đổi mới phương
pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều.
Đối với môn ngữ văn, vấn đề phương pháp càng có ý nghĩa quan
trọng, đặc biệt khi dạy phần văn bản (phần văn học theo tên gọi cũ). Một
Sử dụng phương pháp so sánh khi dạy học phần văn bản môn Ngữ văn
THCS
thực tế mà hầu hết các giáo viên dạy văn đều nhận thấy là: Dạy phần văn
bản rất khó. Dạy đúng, đủ, chính xác đã là vấn đề không phải luôn dễ dàng:
dạy để cho hay, học sinh học hào hứng càng khó hơn.Tuy nhiên không phải
vì thế mà việc dạy phần văn bản trở nên bế tắc . Cùng một văn bản vẫn có
giáo viên dạy tốt và ngược lại. Ngay trong một giáo viên bình thường vẫn có
giờ dạy khá tốt. Rõ ràng vấn đề mấu chốt chính là ở phương pháp. Trước
mỗi văn bản cụ thể giáo viên cần phải chọn và kết hợp một cách linh hoạt
các phương pháp khác nhau. Trong ý nghĩ đó “so sánh” trở thành một
phương pháp cần thiết, hữu ích khi dạy-học phần văn bản môn Ngữ văn.
Định hướng trên đây đã được pháp chế hoá trong luật giáo dục.
Phương pháp giáo dục phổ thông phát huy tính tích cực, tự giác chủ động
sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp, môn học, bồi
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn tác động đến tình cảm, hứng thú học tập ở các em.
1.2. Cơ sở thực tiễn.
Trong chương trình Ngữ Văn 7,8,9 phần so sánh đặc biệt ở trường
THCS Phan Chu Trinh có đến 90 % là học sinh dân tộc thiểu số nên kĩ năng
đọc viết, cũng như
kiến thức cơ bản về Tiếng Việt còn gặp nhiều hạn chế. Vì vậy để học sinh
nắm được kiến thức người giáo viên phải tổ chức giờ học có hiệu quả.
2.Mục tiêu nghiên cứu.
Nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong giờ học Tiếng
Việt để đêm lại hứng thú học tập cũng như nâng cao chất lượng môn học.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Là học sinh khối 7,8 Trường Trunh Học Cơ Sở Phan Chu Trinh.
4 Giới hạn phạm vi đề tài.
Sử dụng phương pháp so sánh khi dạy học phần văn bản môn Ngữ văn
THCS
- Đề tài thực hiện nghiên cứu để sử dụng phương pháp so sánh khi
dạy-học phần văn bản môn Ngữ văn THCS.
- Người viết tiến hành khảo sát chủ yếu ở các tiết dạy phần văn bản
môn Ngữ văn lớp 7, lớp 8.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp tìm hiểu
Phương pháp quan sát
Phương pháp so sánh
Phương pháp thống kê tổng kết rút kinh nghiệm.
II.NỘI DUNG
1. Một số giải pháp
1.1. Phương pháp so sánh với thực trạng dạy phần văn bản hiện nay:
Thực trạng dạy học phần văn bản môn Ngữ văn ở hầu hết các trường
THCS hiện nay cho thấy rằng: Để luôn dạy tốt phần văn bản là một việc
tương đối khó khăn đối với một giáo viên nhất là những giáo viên mới vào
nghành, vào nghề, chưa có nhiều kinh nghiệm hoặc những giáo viên hạn chế
về năng lực sư phạm văn. Thực chất cái khó không phải là vấn đề khai thác
kiến thức tác phẩm. Điều này các giáo viên có thể thực hiện được .Vấn đề là
làm sao có thể truyền đạt được một cách suôn sẻ những đơn vị kiến thức của
bài học theo yêu cầu đặt ra, đồng thời khơi dậy được sự hào hứng, tích cực
sự đồng cảm của học sinh.Cũng từ thực trạng trên cho thấy rằng: Ở những
giờ dạy văn bản chưa được tốt chủ yếu là do người dạy chưa sử dụng linh
hoạt các phương pháp dạy học. Đặc biệt ít có sự liên hệ so sánh, nếu có thì
mới chỉ có ở mức độ sơ sài, vì chưa thấy được tác dụng của việc sử dụng
phương pháp so sánh khi dạy học phần văn bản.Việc giáo viên ít sử dụng
phương pháp so sánh cùng với việc nhuần nhuyễn với các phương pháp khác
Sử dụng phương pháp so sánh khi dạy học phần văn bản môn Ngữ văn
THCS
làm cho giờ học trở nên buồn tẻ, khô khan, kém linh hoạt đặc biệt không
phát huy được tốt năng lực tư duy, sự hào hứng , tích cực của học sinh, ảnh
hưởng đến hiệu quả của giờ dạy-học phần văn bản.
1. 2. So sánh là gì?
* Vai trò của phương pháp so sánh khi dạy-học phần văn bản.
- Có thể hiểu một cách đơn giản:
- So sánh là một phương pháp được hình thành trên cơ sở đối chiếu
những điểm giống và khác nhau giữa đối tượng này với đối tượng khác để
tìm ra bản chất của chúng.
- So sánh là một trong những con đường dễ tiếp cận, khai thác, cảm
thụ tác phẩm văn học. Những hiện tượng văn học( theo tên gọi cũ) bao giờ
cũng chịu sự chi phối bởi những quy luật đặc thù.Vì thế, giữa các văn bản
bao giờ cũng có những yếu tố tương đồng ở các cấp độ khác nhau. Tuy
nhiên chúng lại có điểm khác nhau căn bản để quy về bản chất. So sánh
chính là chỉ ra những dấu hiệu đặc trưng giống nhau và khác nhau căn bản
giữa các hiện tượng văn học đó. Do vậy, so sánh có thể được áp dụng
thường xuyên ở mỗi tiết học văn bản.
So sánh chính là một trong những phương pháp dạy học nêu vấn đề:
Giáo viên yêu cầu học sinh so sánh chính là đưa học sinh vào tình
huống có vấn đề: Nó kích thích học sinh phải tư duy để nhận biết các dấu
hiệu thuộc tính giống và khác nhau của đối tượng để rút ra kết luận.
*Ví dụ: Dạy văn bản “ Sau phút chia li”- Trích “ Chinh Phụ Ngâm”
của Đặng Trần Côn, giáo viên có thể đưa ra tình huống so sánh: có thể dùng
“ Sau phút chia tay”được không? Tại sao?
Để giải quyết câu hỏi này học sinh buộc phải tiến hành so sánh để
nhận biết những điểm giống nhau và khác nhau giữa các đối tượng “chia li ”
và “chia tay” cụ thể.
Sử dụng phương pháp so sánh khi dạy học phần văn bản môn Ngữ văn
THCS
+ Giống nhau: Chào để rời xa nhau( Từ điển tiếng Việt phổ thông A
của nhà xuất bản khoa học xã hội, trang 210)
+ Khác nhau: Chia li: rời xa nhau mỗi người một ngả không còn sống
chung với nhau nữa( Từ điển tiếng Việt phổ thông A-C, NXB khoa học xã
hội, trang 209)
Chia tay: chưa có sắc thái biểu cảm.
Học sinh rút ra kết luận: Không thể dùng “ chia tay” mà phải dùng
“chia li” mới diễn tả được tính chất sầu thương, bi kịch của đôi vợ chồng
Chinh phu, Chinh phụ.
Do vậy sử dụng phương pháp so sánh hợp lý sẽ kích thích được tính
tích cực của học sinh hạn chế thụ động, giờ học sinh động hơn.
- Phương pháp so sánh giúp cho cả học sinh và giáo viên có cái nhìn
hệ thống về một phương diện nào đó giữa các văn bản. Điều này khắc phục
được một phần hạn chế của nội dung chương trình sách giáo khoa Ngữ văn,
khi mà tính liên kết dọc ( theo văn học sử) bị phá vỡ.
-Trong phương pháp so sánh, đối tượng được so sánh hầu hết là đơn
vị kiến thức mà học sinh được học qua. Khi so sánh học sinh phải huy động
lại kiến thức đó. Do vậy, so sánh chính là một hình thức giúp học sinh củng
cố lại kiến thức, ghi nhớ và khắc sâu.
1.3. Một số hình thức so sánh
a. So sánh làm rõ chi tiết:
Mỗi một văn bản đều có những đơn vị, những “loại” kiến thức khác
nhau. Tuỳ theo từng bài, giáo viên có thể chọn chi tiết nào đó để thực hiện
việc so sánh. Hình thức này chủ yếu được thực hiện cho việc khai thác kiến
thức văn bản. Chính vì thế nó được áp dụng thường xuyên khi dạy - học
phần văn bản và trong tất cả các giờ dạy văn bản đó.
Sử dụng phương pháp so sánh khi dạy học phần văn bản môn Ngữ văn
THCS
a.1.So sánh để làm rõ hoàn cảnh sáng tác của văn bản.
Văn bản bao giờ cũng đi liền với hoàn cảnh sáng tác. Việc nắm vững
hoàn cảnh sáng tác sẽ giúp học sinh cảm nhận đầy đủ hơn về văn bản. Văn
bản có thể giống nhau hoặc khác nhau về hoàn cảnh sáng tác. So sánh sẽ làm
cho học sinh dễ nhớ hơn là tách biệt từng văn bản.
Ví dụ 1: Dạy văn bản “Cảnh khuya” và “Rằm tháng giêng” của Hồ
Chí Minh. Nếu giáo viên hỏi:
- Cho biết hoàn cảnh ra đời của bài thơ? như thế học sinh sẽ chỉ biết
hoàn cảnh của bài một cách riêng lẻ, không tích hợp được kiến thức, không
gợi được tư duy của học sinh và khó nhớ.Thế nên khi làm bài cũng không ý
thức để vận dụng nó vào bài làm.Vì vậy nên đưa vào tình huống so sánh.
Giáo viên hỏi: Hoàn cảnh sáng tác của hai văn bản có gì giống và
khác nhau?
Học sinh: - Giống nhau: Đều ra đời trong những năm đầu cuộc kháng
chiến chống Pháp lần II, những đêm ở chiến khu Việt Bắc.
Khác nhau: + Cảnh khuya :1947
+ Rằm tháng giêng: 1948( đặc biệt ghi nhớ hoàn cảnh
sau chiến thắng Việt Bắc thu đông).
Nhờ có phép so sánh này, hoàn cảnh sáng tác của mỗi văn bản được
đối chiếu nhau đã làm lộ ra đặc điểm cần khai thác: năm 1947( trước chiến
dịch Việt Bắc thu đông) cuộc kháng chiến của ta vẫn còn nhiều khó khăn,
tương quan giữa ta và địch còn rất bấp bênh. Mọi người đều rất lo lắng cho
sự thắng lợi của cuộc kháng chiến, nhất là những người chèo lái con thuyền
cách mạng, đứng đầu là Hồ Chủ Tịch (tác giả). Chính vì thế ở bài “Cảnh
khuya”- “ lo lắng ” vẫn là một nét tâm trạng của nhân vật trữ tình và cũng là
âm hưởng bao trùm toàn bài . Năm 1948 (sau chiến dịch Việt Bắc thu đông),
diễn biến kháng chiến đã có lợi cho ta, bài “Rằm tháng giêng” đã mang một
Sử dụng phương pháp so sánh khi dạy học phần văn bản môn Ngữ văn
THCS
âm hưởng khác: nhân vật trữ tình hiện lên trong tư thế ung dung, chủ động,
lạc quan và tin tưởng. Giọng thơ hào hùng có niềm vui phơi phới. Rõ ràng
nếu không có sự so sánh này học sinh khó có thể nắm bắt được nội dung
trên.
Ví dụ 2: Dạy văn bản “ Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê” của
Hạ Tri Chương.
Giáo viên: Đều viết về tình cảm quê hương nhưng hoàn cảnh ra đời
của văn bản “ Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê” so sánh với hoàn cảnh
ra đời của bài “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” của Lí Bạch có gì đáng chú
ý?
Học sinh: Khác nhau là một bài được viết khi xa quê, trong tâm trạng
nhớ quê khắc khoải, còn bài kia viết khi về thăm quê trong một hoàn cảnh
ngậm ngùi, chua xót. Học sinh chỉ ra được sự khác nhau ở câu hỏi trên là đã
định hướng đúng tình cảm, tâm trạng của nhân vật trữ tình khi đi vào phân
tích.
a.2. So sánh về thể loại:
Đối với học sinh lớp 6-7, thể loại là khái niệm mới bắt đầu làm quen .
Vì thế so sánh để cho học sinh nhận rõ đặc trưng thể loại là rất quan trọng.
-So sánh cùng thể loại:
Ví dụ : Dạy văn bản “Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê” của Hạ
Tri Chương.Giáo viên hỏi : Về thể loại em thấy giống văn bản nào đã học?
Đó là thể loại gì?
Học sinh : “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” của Lí Bạch, “ Buổi
chiều đứng ở Phủ Thiên Trường trông ra” của Trần Nhân Tông, “Phò giá về
kinh” của Trần Quang Khải , “Sông núi nước Nam” của Lí Thường Kiệt.
Đều là thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.
Sử dụng phương pháp so sánh khi dạy học phần văn bản môn Ngữ văn
THCS
- So sánh khác thể loại :
Ví dụ : Dạy văn bản “ Qua đèo ngang” của Bà Huyện Thanh Quan.
Giáo viên hỏi: So sánh thể thất ngôn bát cú Đường luật với thể thất ngôn tứ
tuyệt Đường luật?
Học sinh: Giống nhau: Đều là Đường luật (vần, số chữ trong mỗi câu
7 chữ)
Khác nhau: Số câu (8 câu và 4 câu)
Sự so sánh này rất cần thiết. Phần nhiều học sinh chỉ nắm bắt được
những thể loại dễ nhận diện về mặt hình thức như; Truyện ,Thơ.
So sánh đặc trưng về mặt thi pháp của thể loại:
Ví dụ: Dạy văn bản “ Một thứ quà của lúa non-cốm” của Thạch Lam.
Giáo viên hỏi: Những đặc trưng giống và khác nhau giữa tuỳ bút với
thơ, truyện ?
Học sinh : Giống thơ ở chỗ chủ yếu biểu hiện cảm xúc của cái tôi trữ
tình.
Khác truyện ở chỗ không có cốt truyện.
a.3. So sánh khi tiến hành phân tích văn bản:
Được áp dụng để làm rõ chi tiết về nội dung hay nghệ thuật của văn
bản.Đây là hình thức so sánh thường được áp dụng nhiều nhất .
Ví dụ 1 : Dạy bài “Cảnh khuya” của Hồ Chí Minh
Giáo viên: Cách so sánh “ tiếng suối ” trong bài “Cảnh khuya” của
Hồ Chí Minh với bài “Côn sơn ca” của Nguyễn Trãi có gì khác nhau?
Học sinh : Bài “Côn sơn ca”: âm thanh được cảm nhận rất gần ,trầm
(rì rầm)
Bài “Cảnh khuya”: âm thanh được cảm nhận từ xa, trong, cao( trong
như tiếng hát xa). So sánh tiếng suối với tiếng hát của con người, vì vậy
tiếng suối trở nên gần gũi, ấm áp, có hồn.
Sử dụng phương pháp so sánh khi dạy học phần văn bản môn Ngữ văn
THCS
Ví dụ 2: Dạy bài “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan
Giáo viên : Cụm từ “ Ta với ta” ở hai bài “Qua đèo Ngang” và “Bạn
đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến có gì khác nhau?
Học sinh: - Bài “Qua đèo Ngang” cụm từ “ta với ta” là một người, thể
hiện nỗi cô đơn giữa cảnh trời đất bao la.
- Bài “Bạn đến chơi nhà” cụm từ “ta với ta” là hai người , khẳng định
một tình bạn gắn bó hoà hợp.
Ví dụ 3: Dạy văn bản “Mẹ tôi” của Ét-môn-đô đơ A-mi-xi.
Giáo viên : Tại sao bố không nói trực tiếp với En-ri-cô mà lại viết
thư? Hai cách nói ấy có gì khác nhau?
Học sinh: Viết thư vừa thể hiện những tình cảm sâu kín, vừa giữ
được sự kín đáo, giảm bớt cảm giác xấu hổ cho người mắc lỗi, đó là cách
ứng xử tế nhị trong giao tiếp.
b. So sánh nhằm khái quát kiến thức.
Khái quát hoá là thao tác tư duy nhằm rút ra bản chất chung trên cơ sở
phân tích những hiện tượng giống nhau. Hình thức so sánh này thường áp
dụng ở những tiết học mang tính chất “ tổng kết ”về một tác giả, một chùm
bài
Ví dụ 1: So sánh hai văn bản “ Qua đèo ngang ” và bài “ Chiều hôm
nhớ nhà” của bà Huyện Thanh Quan để rút ra những phong cách của tác giả.
Học sinh: Những đặc điểm chính về phong cách thơ của bà Huyện
Thanh Quan:
- Ngôn ngữ thơ trau chuốt, trang nhã, chuẩn mực.
- Ngoại cảnh thường vào buổi chiều tà, buồn vắng lặng.
- Nhân vật trữ tình luôn ở trạng thái cô đơn, hoài niệm hướng nội.
Sử dụng phương pháp so sánh khi dạy học phần văn bản môn Ngữ văn
THCS
Ví dụ 2: So sánh hình thức biểu hiện nghệ thuật của những câu ca dao
than thân để rút ra những đặc điểm và nghệ thuật.
Học sinh: những câu ca dao than thân thường dùng những con vật bé
nhỏ tội nghiệp để thể hiện nội dung than thân.
Ví dụ 3: So sánh tác dụng của những yếu tố thần kì trong các truyện
cổ tích ( ngữ văn 6) để rút ra vai trò của nó trong truyện?
Học sinh : Yếu tố thần kì trong các truyện cổ tích thường chỉ xuất hện
để trợ giúp các nhân vật bất hạnh, nhân vật “ đàn em ” mỗi khi nhân vật này
gặp hoàn cảnh khó khăn .Chính vì thế nó là cơ sở để trí tuệ dân gian thể hiện
khát vọng chiến thắng giữa cái thiện và cái ác, thực hiện tư tưởng “ Ở hiền
gặp lành”.
Trên đây trong phạm vi của đề tài, bài viết chỉ đề cặp đến một số hình
thức so sánh thông thường trong các giờ dạy văn của môn Ngữ văn. Ngoài ra
còn rất nhiều hình thức so sánh khác, giáo viên có thể áp dụng trong các hoạt
động khác nhau của giờ học như:
- Hoạt động kiểm tra bài cũ.
- Hoạt động củng cố.
- Hoạt động luyện tập
…………………
Tất cả phụ thuộc năng lực của giáo viên.
1.4 . Một số chú ý khi sử dụng phương pháp so sánh.
Sử dụng phương pháp so sánh khi dạy học phần văn bản môn Ngữ văn
THCS
Sử dụng phương pháp so sánh khi dạy học phần văn bản môn Ngữ
văn cần chú ý một số điểm sau:
Trước hết giáo viên cần phải nắm chắc kiến thức để có thể vận dụng
phương pháp so sánh một cách chính xác, linh hoạt thực sự hữu dụng tránh
đưa ra tình huống so sánh khập khiễng, không rút ra được bản chất của hiện
tượng, hoặc không nhằm vào những vấn đề cơ bản trọng tâm.
Tình huống so sánh phải kích thích được tư duy của học sinh. Nhưng
cũng cần chú ý đến tính vừa sức, tránh khó quá. Với những câu hỏi khó giáo
viên có thẻ gợi dẫn bằng những câu hỏi nhỏ, chi tiết hơn.
Ví dụ : So sánh những đặc trưng thi pháp của hai bài thơ “Qua đèo
Ngang” và “Chiều hôm nhớ nhà” của Bà Huyện Thanh Quan để rút ra phong
cách của tác giả?
Câu hỏi này thuộc dạng khó giáo viên có thể gợi ý cho học sinh so sánh cụ
thể về các yếu tố: Ngôn ngữ, ngoại cảnh, tâm cảnh để rút ra kết luận.
- Giáo viên cũng cần phải phát huy vai trò của tài liệu tham khảo để tự
liên hệ so sánh được phong phú hơn.
-Có những trường hợp đối tượng so sánh là kiến thức mà học sinh
chưa được tiếp xúc thì giáo viên phải sử dụng bảng phụ cho học sinh trực
quan đối tượng đó.
Ví dụ : Dạy bài “ Sau phút chia li” nếu giáo viên cho học sinh so sánh
với việc chia li của đôi vợ chồng trong thơ “ Cuộc chia li màu đỏ” của
Nguyễn Mĩ thì đương nhiên giáo viên phải sử dụng bảng phụ ghi những câu
thơ cho học sinh so sánh, từ đó rút ra bản chất khác nhau của hai cuộc chia li
trong một hoàn cảnh tương tự.
Trong quá trình lên lớp, giáo viên cần cho học sinh thấy vai trò của
phương pháp so sánh, làm cho các em ý thức sử dụng, tạo ra được năng lực
10%
Sử dụng phương pháp so sánh khi dạy học phần văn bản môn Ngữ văn
THCS
tư duy so sánh ở các em. Bởi vì so sánh là một phẩm chất tư duy cần thiết để
các em có thể học tốt môn Ngữ văn và cả các môn học khác.
2. Kết quả khảo sát thực tế:
- Người viết đã tiến hành cụ thể, thường xuyên liên tục ở hai lớp học
bằng hai hình thức:
- Hình thức thứ nhất là : Cùng trên số bài dạy tiến hành đồng thời
việc áp dụng và không áp dụng phương pháp so sánh. Qua đó tiến hành đánh
giá tiết học nói chung. Ở hình thức này giáo viên thu được kết quả như sau:
a) Lớp học không áp dụng b) Lớp học áp dụng
60%
40%
90%
Sử dụng phương pháp so sánh khi dạy học phần văn bản môn Ngữ văn
THCS
phương pháp so sánh phương pháp so
sánh
Ghi chú:
Học sinh thụ động
Học sinh tích cực
- Hình thức thứ hai là: Tiến hành điều tra bằng phiếu trắc nghiệm
lấy ý kiến của học sinh. Người viết tiến hành điều tra hai lớp thường xuyên
áp dụng phương pháp so sánh. Tổng số điều tra như sau:
Số phiếu phát ra: 82, số phiếu thu vào: 82
- Số phiếu trả lời đầy đủ: 82
* Kết quả:
1) Phương pháp so sánh khiến em cảm thấy tích cực làm việc:
a) Đúng 82,1 %
b) Sai 17,9 %
2) Phương pháp so sánh làm cho giờ học:
a) Sinh động: 82,1 %
b) Bình thường: 17,9%
3) Phương pháp so sánh là phương pháp:
a) Khó 8,1 %
b) Dễ: 13,2 %
c) Hiệu quả: 78,7 %
Sử dụng phương pháp so sánh khi dạy học phần văn bản môn Ngữ văn
THCS
III. KẾT LUẬN
Rõ ràng phương pháp so sánh là một trong những phương pháp cần
thiết trong khi dạy phần văn bản môn Ngữ văn. Mỗi giáo viên nên phát huy
tác dụng phương pháp này. Thực chất một số giáo viên, nhất là những giáo
viên có kinh nghiệm, có tay nghề cao, họ đã sử dụng phương pháp này từ
lâu. Chỉ có điều việc sử dụng còn mang tính chất “ngẫu nhiên” chưa ý thức
khai thác, phát huy vai trò của nó. Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả giờ
dạy-học văn bản.
Tuy nhiên như trên đã nói, giờ dạy học môn Ngữ văn không có
phương pháp nào là tối ưu. Phương pháp so sánh chỉ phát huy tác dụng khi
nó được kết hợp nhuần nhuyễn với các phương pháp khác và trong mọi
trường hợp, yếu tố cơ bản mang lại sự thành công cho giờ dạy phần văn bản
môn Ngữ văn vẫn là đầu tư công sức, tâm huyết của giáo viên.
Với những tác dụng thiết thực, phương pháp so sánh có thể áp dụng
không chỉ vào phần văn bản mà còn áp dụng tốt cho cả phần tiếng Việt và
Tập làm văn( tên gọi cũ) trong chương trình Ngữ văn.
Trên đây chỉ là một số gợi ý ban đầu, trước hết giúp người viết xác
định đúng tầm quan trọng của việc sử dụng phương pháp so sánh và qua đó
trình bày một cách sơ lược việc sử dụng phương pháp so sánh khi dạy học
phần văn bản môn Ngữ văn. Hy vọng rằng những kinh nghiệm trên đây sẽ
giúp ích được nhiều các đồng nghiệp trong việc cải tiến phương pháp dạy
học Ngữ văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Cư Né, ngày 22 tháng 11năm
2010
Sử dụng phương pháp so sánh khi dạy học phần văn bản môn Ngữ văn
THCS
Người viết
Bùi Thị
Hiền