Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính tại ngân hàng tmcp bắc á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.3 KB, 114 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình
nghiên cứu khoa học, độc lập của tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
DƯƠNG NGỌC TUẤN
MỤC LỤC
2.3.1. u i mƯ để 67
2.3.2. T n t i v nguyên nhân c a nh ng t n t iồ ạ à ủ ữ ồ ạ 67
2.3.2.2. Nguyên nhân c a nh ng t n t iủ ữ ồ ạ 70
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHNN Ngân hàng nhà nước
DN Doanh nghiệp
NHTM Ngân hàng thương mại
TMCP Thương mại cổ phần
BacABank Ngân hàng TMCP Bắc Á
DTBB Dự trữ bình quân
TSCĐ Tài sản cố định
BCTC Báo cáo tài chính
TT Tỷ trọng
QĐ Quyết định
ROA Tỷ suất sinh lời của tài sản
ROE Tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu
VCSH Vốn chủ sở hữu
DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ VÀ BIỂU ĐỒ
BẢNG
Bảng 2.1: Phân tích cấu trúc tài chính của BacABank Error: Reference
source not found
Bảng 2.2: Phân tích cấu trúc nguồn vốn của BacABank Error: Reference
source not found
Bảng 2.3: Cơ cấu nguồn vốn huy động của BacABank Error: Reference


source not found
Bảng 2.4: Phân tích quy mô, cơ cấu tín dụng của BacABank Error:
Reference source not found
Bảng 2.5: Đánh giá chất lượng tín dụng BacABank Error: Reference source
not found
Bảng 2.6: Phân tích cơ cấu đầu tư của BacABank Error: Reference source
not found
Bảng 3.1: Phân loại tài sản, nguồn vốn Error: Reference source not found
Bảng 3.2: Các chỉ tiêu tổng hợp phân tích khái quát tình hình tài sản, nguồn vốn
Error: Reference source not found
Bảng 3.3: Tình hình huy động tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng của ngân hàng A
quý 1 và quý 2 năm 200X Error: Reference source not found
Bảng 3.4: Cách tính chỉ tiêu lãi suất huy động bình quân của nguồn tiền gửi
không kỳ hạn của ngân hàng A Error: Reference source not found
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức quản lý của BacABank Error: Reference source
not found
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Tăng trưởng vốn chủ sở hữu qua các năm của BacABank Error:
Reference source not found
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Ngân hàng thương mại (NHTM) là DN kinh doanh tiền tệ, có những
đặc thù riêng trong hoạt động kinh tế - tài chính. Cũng giống như các DN phi
tài chính, các NHTM luôn phải đối đầu với những thách thức của thị trường
cạnh tranh và đầy biến động. Hơn nữa, kinh doanh tiền tệ là loại hình kinh
doanh đặc biệt, có liên quan đến hầu hết các lĩnh vực khác trong nền kinh tế.
Vì vậy, ngân hàng luôn nhận được sự quan tâm sát sao của từ nhiều phía: Nhà
nước, nhà đầu tư, người gửi tiền…
Phân tích tài chính đóng một vai trò đặc biệt quan trọng và trở thành 1

việc làm không thể thiếu đối với bất kì ngân hàng nào, bởi đối với nhà quản
trị ngân hàng, các nhà quản lý, nhà đầu tư…Với một hệ thống chỉ tiêu phân
tích tài chính phù hợp, phân tích tài chính sẽ giúp cho DN và các đối tượng
liên quan ra các quyết định đúng đắn trong hoạt động của mình nhằm đạt hiệu
quả cao nhất trong kinh doanh.
Bước qua 17 năm phát triển và trưởng thành, Ngân hàng TMCP Bắc Á
(BacABank) đã phần nào khẳng định được vị thế của mình trong hoạt động
kinh doanh tiền tệ, cung cấp các dịch vụ ngân hàng tài chính đa dạng và hiện
đại đến mọi tổ chức kinh tế, cá nhân và các tổ chức tín dụng. Tuy vậy, công
tác phân tích tài chính tại Ngân hàng TMCP Bắc Á còn chưa thực sự đáp ứng
được yêu cầu quản lý, nguyên nhân chủ yếu là hệ thống chỉ tiêu phân tài
chính chưa được xây dựng một cách phù hợp. Chính điều này đã ảnh hưởng
không tốt tới công tác quản trị trong ngân hàng. Vì lí do này, tôi đã quyết định
lựa chọn đề tài: “
” cho luận văn của mình với hy vọng sẽ tổng hợp được hệ
thống chỉ tiêu phân tích tài chính phục vụ cho ngân hàng TMCP Bắc Á nói
riêng và hệ thống các NHTM nói chung.
1
2. Mục đích nghiên cứu luận văn
Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận chung về việc phân tích tài chính của
một ngân hàng, phương pháp phân tích tài chính của ngân hàng từ đó xây
dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính phục vụ cho hoạt động phân tích tài
chính NH TMCP Bắc Á nói riêng và hệ thống các NHTM nói chung.
Chỉ rõ sự cần thiết phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích tài
chính và lợi ích đem lại cho nhà quản trị nói riêng và hoạt động của ngân
hàng nói chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản và
thực tiễn về hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính tại Ngân hàng TMCP Bắc Á.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính

và các điều kiện áp dụng tại Ngân hàng TMCP Bắc Á qua các giai đoạn phát
triển từ năm 2008 – 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin; phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích,
so sánh kết hợp nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tế.
5. Những đóng góp của Luận văn:
Về mặt lý luận, luận văn hệ thống hoá các lý thuyết về phân tích tài
chính và hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính.
Về mặt nghiên cứu thực tiễn, luận văn khái quát hệ thống chỉ tiêu phân
tích tài chính được áp dụng tại hệ thống các NHTM Việt Nam và phân tích
thực trạng hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính tại Ngân hàng TMCP Bắc Á.
Về tính ứng dụng và thực tiễn, luận văn đã xây dựng một hệ thống chỉ
tiêu phân tích tài chính phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh và yêu
cầu của phân tích cho Ngân hàng TMCP Bắc Á
2
6. Kết cấu luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn
được chia làm 3 chương:
  !"#"$%&
'(
)*'
(
+

3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG CHỈ TIÊU PHÂN TÍCH
TÀI CHÍNH TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1.1.
Khái niệm Ngân hàng thương mại
Theo Peter S.Rose, tác giả cuốn Quản trị Ngân hàng thương mại, Ngân
hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh
toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế.
Theo Luật các Tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính thực hiện kinh doanh
tiền tệ với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để
cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán.
Như vậy, dù theo định nghĩa nào thì NHTM là một doanh nghiệp đặc
biệt, có đối tượng kinh doanh là tiền tệ, sản phẩm của NHTM có tính đặc thù
cao, cả đầu ra và đầu vào đều là tài sản tài chính.
Ngân hàng thương mại có những đặc trưng sau:
- Trung gian tài chính: Ngân hàng làm trung gian tài chính với hoạt
động chủ yếu là chuyển các khoản tiết kiệm, chủ yếu từ hộ gia đình thành các
khoản tín dụng cho các tổ chức kinh tế và các thành phần kinh tế khác.
- Trung gian thanh toán: Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện
thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Việc thanh toán được thực hiện
an toàn, nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm thông qua nhiều hình thức dịch
vụ và màng lưới rộng khắp của ngân hàng: Phát hành và bù trừ séc, uỷ nhiệm
4
chi, nhờ thu,
- Tạo phương tiện thanh toán và thực hiện chính sách kinh tế của Chính
phủ góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi mục tiêu xã hội.
1.1.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của ngân hàng ảnh hưởng đến việc
xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính
(()((,-./0102
Hoạt động của NHTM bao gồm: Hoạt động kinh doanh và hoạt động

khác. Trong đó, hoạt động kinh doanh của NHTM được hiểu là các hoạt động
chủ yếu đem lại lãi và phí cho NHTM (tạo ra doanh thu cho NHTM); hoạt
động khác là các hoạt động xảy ra không thường xuyên, không dự tính trước
và ngoài các hoạt động kinh doanh.
Hoạt động kinh doanh của NHTM bao gồm các hoạt động chủ yếu sau:
• ,-3,-%
Huy động vốn là một trong những nghiệp vụ quan trọng của NHTM
nhằm giải quyết đầu vào tức là giải quyết vấn đề chi phí hoạt động của ngân
hàng. Công tác huy động vốn bao gồm: huy động vốn tiền gửi và huy động
vốn phi tiền gửi. Ngân hàng có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau
như huy động dân cư, huy động của tổ chức kinh tế thông qua các công cụ nợ
(trái phiếu, kỳ phiếu, thương phiếu, tín phiếu), thông qua hoạt động liên ngân
hàng, giữa NHTM với NHNN, giữa NHTM với các định chế tài chính… Mục
đích gửi tiền có thể là khác nhau nhưng tựu trung lại là để an toàn tránh trách
nhiệm phải bảo quản tài sản, hưởng lãi cho các khoản tiền gửi và sử dụng các
dịch vụ thanh toán của ngân hàng.
• ,-/4
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận cho
NHTM. Nhờ thế mạnh huy động được một lượng vốn nhàn rỗi khổng lồ từ
các cá nhân, các tổ chức kinh tế qua việc nhận tiền gửi hay đi vay, các ngân
5
hàng sử dụng số tiền ấy để cho vay các cá nhân, các tổ chức kinh tế cần vốn
để đầu tư các nhu cầu như: mở rộng sản xuất kinh doanh, mua sắm tài sản cố
định, đầu tư nhu cầu vốn lưu động, nhu cầu tiêu dùng … và đa dạng các nhu
cầu khác. Nghiệp vụ này luôn chiếm từ 60% đến 80% tổng tài sản có của
NHTM và được coi là một hoạt động quan trọng bậc nhất đối với sự tồn tại và
phát triển của mỗi ngân hàng, cũng như đem lại hiệu quả to lớn cho xã hội.
• ,-05
Nghiệp vụ này xuất phát từ chính chức năng đầu tiên của ngân hàng là
nhận tiền gửi. Các cá nhân, tổ chức kinh tế trên cơ sở mở các tài khoản tiền

gửi thanh toán hay các tài khoản tiền gửi phục vụ giao dịch khi có nhu cầu
thanh toán có thể ủy quyền cho ngân hàng thực hiện thay mình: thu hộ, chi
hộ… Theo các quan điểm luật pháp ở hầu hết các nước, thì chỉ có các ngân
hàng mới được phép mở tài khoản thanh toán hay các tài khoản giao dịch cho
khách hàng mà không một định chế nào được phép làm điều này.
• ,-,6
Ngoài nghiệp vụ tín dụng là chủ yếu, ngân hàng còn thực hiện đầu tư
vào các loại cổ phiếu, trái phiếu…nhằm mục tiêu thanh khoản, phân tán rủi ro
và đa dạng hóa tài sản có sinh lời. Ngân hàng thường giữ nhiều loại chứng
khoán nhưng chủ yếu chia thành 2 loại cơ bản là chứng khoán thanh khoản và
chứng khoán đầu tư. Hiện nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đang phát
triển rất mạnh, các DN trong nền kinh tế tham gia vào thị trường chứng khoán
dưới nhiều hình thức khác nhau tạo nên một thị trường khá sôi động.
• ,-7/8%4.5
Các hình thức dịch vụ do NHTM cung cấp ngày càng đa dạng và được
phát triển, hoàn thiện do yêu cầu của đời sống kinh tế xã hội. Các dịch vụ này
bao gồm các loại như: dịch vụ thanh toán, kinh doanh ngoại hối, dịch vụ môi
6
giới, bảo lãnh, tư vấn tài chính …
(()()(9:,;2,-./010<!,=
%>3/*
NHTM có đặc điểm giống như các DN khác trong nền kinh tế, cũng sử
dụng các yếu tố sản xuất như lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động
(tiền vốn) làm yếu tố đầu vào, để sản xuất ra những yếu tố đầu ra dưới hình
thức dịch vụ tài chính mà khách hàng yêu cầu. Tuy nhiên, khác với các DN
khác, NHTM là loại hình DN đặc biệt, trong hoạt động kinh doanh thể hiện
qua các đặc điểm sau:
Tiền vừa là phương tiện đồng thời cũng là đối tựơng kinh doanh của
NHTM. Và chính đặc điểm này sẽ bao trùm hơn và rộng hơn so với các loại
hình DN khác.

NHTM kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác. Vốn chủ sở hữu
của NHTM chiếm một tỷ lệ rất thấp trong tổng nguồn vốn hoạt động, nên việc
kinh doanh của NHTM luôn gắn liền với một rủi ro mà ngân hàng buộc phải
chấp nhận với một mức độ mạo hiểm nhất định. Bởi vì trong hoạt động kinh
doanh hằng ngày của mình, NHTM không những phải bảo đảm nhu cầu thanh
toán, chi trả như mọi loại hình DN khác, mà còn phải đảm bảo tốt nhu cầu chi
trả tiền gửi của khách hàng. Từ đó cho thấy, việc phân tích khả năng thanh
khoản của NHTM có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Hoạt động kinh doanh của NHTM có liên quan đến nhiều mặt, nhiều
lĩnh vực hoạt động và nhiều đối tượng khách hàng khác nhau. Do đó, tình
hình tài chính của NHTM có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh
của các DN, tâm lý của người dân, cũng như của cả nền kinh tế. Chính vì vậy,
việc phân tích, đánh giá thực trạng tài chính của các NHTM không chỉ là nhu
cầu cấp thiết phục vụ cho hoạt động quản lý của chính nhà quản trị ngân hàng
7
mà còn là đòi hỏi mang tính bắt buộc của ngân hàng trung ương…
Hoạt động kinh doanh của NHTM là hoạt động chứa nhiều rủi ro, bởi
lẽ nó tổng hợp tất cả các rủi ro của khách hàng, đồng thời rủi ro trong hoạt
động kinh doanh ngân hàng có thể gây ảnh hưởng lớn cho nền kinh tế hơn bất
kỳ rủi ro của loại hình DN nào vì tính chất lây lan có thể làm rung chuyển
toàn bộ hệ thống kinh tế. Do đó, trong quá trình hoạt động các NHTM phải
thường xuyên cảnh giác, nghiên cứu, phân tích, đánh giá, dự báo và có những
biện pháp phòng ngừa từ xa có hiệu quả. Ngoài ra, điều này cũng đòi hỏi ngân
hàng tự đánh giá được khả năng chịu đựng rủi ro của mình.
Hoạt động kinh doanh của NHTM có những đặc thù riêng mà các DN
trong các ngành khác không có. Đồng thời, hoạt động kinh doanh của NHTM
diễn tiến liên tục trong mỗi loại hình nghiệp vụ và các sản phẩm của NHTM
có mối liên hệ với nhau rất chặt chẽ. Điều này sẽ gây khó khăn trong việc tách
riêng từng mặt hoạt động của ngân hàng để phân tích kết quả tài chính.
Tóm lại, từ đặc điểm của hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đặc điểm

hoạt động tài chính của ngân hàng, dẫn đến các NHTM có đặc điểm phân tích
tài chính riêng, có hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính riêng, khác biệt với các
DN phi tài chính khác. Do đó, cần nghiên cứu đặc điểm phân tích tài chính của
NHTM để phân tích và đánh giá tình hình tài chính của các DN này.
1.2. VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH NHTM
1.2.1. Vai trò của phân tích tài chính ngân hàng thương mại
Phân tích tài chính trong hoạt động của NHTM là sử dụng các chỉ tiêu
kinh tế kỹ thuật để đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của NHTM đó
trong một kỳ kinh doanh nhất định mà thông thường là một tháng, quý hoặc
năm. Phân tích tài chính cũng được quan tâm khi có sự biến động lớn của
ngành tài chính – ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Phân tích
tài chính cho phép tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến hoạt động của NHTM
8
có được hiệu quả hay không, nhằm giúp các ngân hàng tìm ra giải pháp hoàn
thiện hoạt động của mình. Như vậy, phân tích tài chính trong hoạt động của
NHTM có những mục tiêu và vai trò sau đây:
Phân tích tài chính là một công cụ để đánh giá hoạt động của NHTM.
Thông qua quá trình phân tích tài chính, các NHTM có thể đánh giá được sự
hoạt động của NHTM trong khoảng thời gian trước. Bằng các chỉ tiêu kinh tế
kỹ thuật như: lợi nhuận, doanh thu, năng suất lao động của thời kỳ phân tích,
các nhà quản trị có thể thấy được quy mô hoạt đông cũng như chất lượng hoạt
động, tốc độ phát triển và tính bền vững, ổn định trong các lĩnh vực hoạt động
mà ngân hàng đang tham gia. Mục tiêu chính của Ngân hàng là lợi nhuận do
vậy sự gia tăng lợi nhuận ngày càng cao và bền vững cũng đồng nghĩa với
hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên hiệu quả hoạt động của ngân
hàng cũng có thể đánh giá tùy theo từng thời kỳ chiến lược. Thông qua phân
tích tài chính, chúng ta có thể thấy ngân hàng có đang thực hiện đúng với
chiến lược đề ra hay không.
Phân tích tài chính là công cụ để ngân hàng xem xét lại chiến lược kinh
doanh cũ, đề ra chiến lược mới. Một chiến lược kinh doanh được đề ra có thể

là đúng đắn hoặc cũng có thể còn thiếu sót. Bằng phân tích tài chính, các
NHTM sẽ xem xét chiến lược kinh doanh của mình có được thực hiện đúng
đắn, phù hợp với thực tiễn nền kinh tế không, đồng thời phát hiện ra những
sai sót, thiếu sót để điều chỉnh hoặc thay thế bằng chiến lược mới. Bất cứ một
NHTM nào, để định hướng cho hoạt động kinh doanh của mình, cũng phải
chủ động đề ra các lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của mình, các mục tiêu dài
hạn, ngắn hạn mà mình cần phải đạt trong từng thời kỳ nhất định, và sau một
quá trình hoạt động, các ngân hàng phải xem xét các mục tiêu đó đã đạt được
hay chưa, đạt được đến đâu, lý do của nó…
Qua phân tích tài chính NHTM, chúng ta sẽ có cái nhìn rõ ràng hơn
9
về các lĩnh vực đầu tư của ngân hàng, những mục tiêu đó có phù hợp với
xu thế phát triển chung của nền kinh tế hay không và ngân hàng có cần
thay đổi định hướng đâu tư không, hay sẽ tiếp tục phát triển theo định
hướng đã chọn…
Phân tích tài chính là một công cụ để NHTM đánh giá được những mặt
mạnh cần phát huy và những mặt yếu cần củng cố. Kết quả của các phân tích
tài chính cho ta bức tranh tổng quan về tình hình tài chính của ngân hàng,
thông qua đó có thể đánh giá trình độ quản lý, chất lượng nhân sự, trình độ
công nghệ của ngân hàng có thích hợp cho sự phát triển hay không, những
thuận lợi, khó khăn hay thách thức mà ngân hàng gặp phải.
Phân tích tài chính giúp các nhà quản trị NHTM nhận biết và dự đoán
trước những rủi ro cũng như các tiềm năng trong tương lai. Bởi rủi ro là nguy
cơ lúc nào cũng có thể gặp phải và gây ra các hậu quả to lớn cho ngân hàng,
do vậy việc nhận biết các rủi ro giúp nhà quản trị ngân hàng có được các biện
pháp phòng ngừa thích hợp. Đối lập với các rủi ro, những tiềm năng và cơ hội
sẽ mang đến cho NHTM những điều kiện làm ăn vô cùng thuận lợi. Nhận biết
điều đó đã là một bước đầu thắng lợi của ngân hàng trên con đường đi đến
mục tiêu và phát triển.
Phân tích tài chính góp phần đưa ra định hướng cho các quyết định của

Ban giám đốc về các quyết định tài chính và các dự thảo tài chính trong tương
lai như kế hoạch đầu tư, kế hoạch ngân quỹ.
1.2.2. Nội dung phân tích tài chính ngân hàng thương mại
NHTM cũng là một DN, cho nên nội dung phân tích tài chính cũng
dựa trên những nội dung phân tích tài chính của DN nói chung. Xuất phát từ
mục tiêu phân tích tài chính cũng như đặc điểm và nội dung các quan hệ tài
chính trong ngân hàng, nội dung phân tích tài chính ngân hàng bao gồm các
10
nhóm sau:
()()((7
Cơ cấu tài chính của ngân hàng phản ảnh cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn
vốn và cả mối quan hệ giữa tài sản (tài sản có hay tiêu sản) và nguồn vốn (tài
sản nợ hay tích sản) của ngân hàng. Một cơ cấu tài sản, nguồn vốn thường gắn
với mức độ rủi ro tài chính nhất định, đồng thời có thể tác động đến hiệu quả
kinh doanh của Ngân hàng. Phân tích cơ cấu tài chính của ngân hàng chính là
phân tích khái quát cơ cấu tài sản có, tài sản nợ của ngân hàng; tình hình huy
động vốn, cho vay vốn; tình hình cân đối giữa nguồn vốn huy động và dư nợ
cho vay. Phân tích cơ cấu tài chính nhằm đánh giá những đặc trưng trong cơ
cấu tài sản có của ngân hàng, tính hợp lí khi đầu tư vốn cho hoạt động kinh
doanh; cấu trúc nguồn vốn của ngân hàng không những thể hiện chính sách tài
trợ của ngân hàng như các DN phi tài chính khác mà còn thể hiện những lợi thế
khác nhau trong kinh doanh vốn như lãi suất, tính ổn định, khả năng chủ động.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, khi chênh lệch lãi suất đang ngày càng thu
hẹp các ngân hàng còn phân tích mối tương quan giữa tài sản và nguồn vốn để
thấy sự phù hợp, hiệu quả của việc sử dụng vốn, trên cơ sở đó cơ cấu, xây dựng
danh mục tài sản vừa cho hiệu quả cao, vừa đảm bảo khả năng thanh khoản,
hạn chế rủi ro.
()()()(?<,-
Các NHTM hoạt động đều nhằm mục tiêu lợi nhuận; dưới áp lực phải hạ
thấp chi phí trong điều kiện cạnh tranh với những định chế tài chính khác. Hiệu

quả được xem xét trên quan điểm biến đổi đầu vào thành đầu ra.
Phân tích hiệu quả là một giai đoạn quan trọng của công tác quản trị
ngân hàng, là cơ sở đánh giá quá trình thực hiện chiến lược kinh doanh, xác
định nguyên nhân ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh và kiến nghị những
11
giải pháp xử lý; là cơ sở cho những quyết định kịp thời và đúng đắn. Các chỉ
tiêu trong nhóm này giúp cho ngân hàng đánh giá được hiệu quả của quá trình
kinh doanh bằng cách so sánh kết quả kinh doanh đạt được với chi phí bỏ ra để
đạt được kết quả đó.
Khác với các DN phi tài chính, đa số tài sản của ngân hàng tồn tại dưới
hình thức quyền về tài chính (các khoản cho vay và chứng khoán) không phải
là tài sản cố định (TSCĐ). Tuy nhiên, các TSCĐ tạo ra chi phí hoạt động cố
định dưới dạng khấu hao, thuê tài sản là những yếu tố làm hình thành đòn bẩy
hoạt động. Đòn bẩy hoạt động này cho phép ngân hàng đẩy mạnh thu nhập từ
hoạt động nếu có thể gia tăng khối lượng dịch vụ lên tới một mức đủ lớn, tạo
được nhiều thu nhập hơn từ việc sử dụng các TSCĐ so với chi phí cho các tài
sản đó. Tuy nhiên, do TSCĐ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản, các
ngân hàng không thể dựa nhiều vào đòn bẩy hoạt động để tăng thu nhập; vì thế
họ phải sử dụng đòn bẩy tài chính - việc sử dụng vốn vay để đẩy mạnh hoạt
động, tạo thu nhập và duy trì cạnh tranh với những ngành khác trong quá trình
huy động vốn và cho vay. Vì vậy, khi phân tích hiệu quả hoạt động ngân hàng
cần chú ý đến đặc điểm này để đánh giá hiệu quả của từng hoạt động cũng như
toàn bộ hoạt động trong ngân hàng.
Các hoạt động chủ yếu của NHTM gồm: hoạt động huy động vốn, hoạt
động cho vay, đầu tư và cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Do vậy, các nhà
quản trị ngân hàng cần phải đo lường hiệu quả cho từng hoạt động. Hiện nay,
các nhà quản trị ngân hàng chú trọng đến các chỉ tiêu hiệu quả từng hoạt động
sau: tổng dư nợ trên vốn huy động, hiệu quả sử dụng vốn huy động, tỷ lệ thu
nhập lãi cận biên, tỷ suất lợi nhuận hoạt động tín dụng, lãi suất bình quân đầu
vào, lãi suất bình quân đầu ra.

Ngoài việc đo lường hiệu quả cho từng hoạt động, các nhà quản trị cần
tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho tất cả các hoạt động. Hiện nay, các
12
NHTM dùng các chỉ tiêu sau: Tổng thu nhập trên tổng tài sản, Tổng chi phí
trên tổng thu nhập, Tỷ lệ lợi nhuận, Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE),
Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) và dùng các mô hình để phân tích khả
năng sinh lời.
()()(+(.<@05
Khả năng thanh toán là khả năng mà ngân hàng có thể hoàn trả các
khoản nợ bằng tiền và các tài sản có thể chuyển hoá nhanh thành tiền. Việc
thiếu khả năng thanh toán có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của
ngân hàng và có thể thể hiện trên 2 mức độ:
Mức độ thứ nhất là thiếu hụt thanh khoản hay ngân hàng không có khả
năng đáp ứng ngay nhu cầu về tiền cho mọi cam kết của ngân hàng, chủ yếu
là cam kết cho vay, rút tiền gửi, các khoản tiền đến hạn khác trong quá trình
kinh doanh bình thường.
Mức độ thứ hai trầm trọng hơn là mất khả năng thanh toán hay vỡ nợ do
ngân hàng bị lỗ làm suy giảm VCSH, hay các trường hợp giá trị tài sản của
ngân hàng giảm xuống, hoặc do rủi ro về thiếu vốn khả dụng, rủi ro tín dụng,
rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá. Bởi vậy, nội dung chủ yếu của việc phân tích khả
năng thanh toán của ngân hàng thường được các nhà phân tích xem xét trên
hai nội dung: phân tích tính thanh khoản và phân tích khả năng thanh toán
cuối cùng.
Đánh giá tính thanh khoản, nhà phân tích thường xem xét liệu ngân hàng
thương mại có thường xuyên duy trì nguồn tiền mặt, tiền gửi không kỳ hạn tại
các tổ chức tín dụng khác và các tài sản có có thể chuyển hoá ngay thành tiền
để đáp ứng mọi nhu cầu về tiền ở mọi thời điểm hay không.
Việc đánh giá khả năng thanh toán cuối cùng chủ yếu là nghiên cứu vốn
tự có của ngân hàng, yếu tố để hứng chịu mọi khoản tổn thất như trong bất cứ
13

doanh nghiệp nào. Nội dung này đã được trình bày ở phần phân tích VCSH.
()()(A('1'10
Phân tích hiệu quả chỉ mới là một mặt để xem xét tình hình tài chính của
ngân hàng. Hiệu quả ngân hàng chỉ được xem xét tương ứng với một mức rủi
ro mà ngân hàng có thể chịu đựng được và ngược lại.
Kinh doanh ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt, và những rủi ro
đối với hoạt động ngân hàng cũng vì thế mà mang tính đặc thù. Bản chất của
hoạt động kinh doanh luôn mang tính mạo hiểm nên bất kỳ nhà phân tích nào
cũng quan tâm đến rủi ro. Qua phân tích nhằm phát hiện những nguy cơ tiềm
ẩn trong hoạt động tín dụng, trong thanh khoản. Trong lĩnh vực kinh doanh
ngân hàng, rủi ro chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực sau: khả năng chi trả cho
khách hàng, khả năng thu hồi nợ trong cho vay và đầu tư chứng khoán, sự thay
đổi của lãi suất và tỷ giá hối đoái, sự biến động của thu nhập. Do vậy, trong
phân tích tài chính chú trọng đến các loại rủi ro chủ yếu: rủi ro thanh khoản, rủi
ro tín dụng, rủi ro lãi suất và rủi ro thu nhập.
1.2.3. Phương pháp phân tích tài chính Ngân hàng
Để phân tích các chỉ tiêu, nhà phân tích có thể sử dụng nhiều phương
pháp khác nhau hoặc thực hiện kết hợp nhiều phương pháp trong quá trình
phân tích một chỉ tiêu nào đó. Sau đây là một số phương pháp chủ yếu:
• 5  5
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất trong phân tích tình hình
tài chính của ngân hàng. Thông qua phương pháp này, nhà quản trị có thể đánh
giá kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến động của chỉ tiêu phân tích. Phương
pháp này thường được thực hiện ở bước khởi đầu của công việc phân tích.
Về kĩ thuật so sánh có:
- So sánh bằng số tuyệt đối: Cho biết khối lượng, quy mô của chỉ tiêu
14
phân tích được biểu hiện bằng tiền mà ngân hàng đạt được ở kỳ thực tế so với
kỳ kế hoạch.
- So sánh bằng số tương đối: Số tương đối phản ánh kết cấu, mối quan

hệ, tốc độ phát triển và mức độ phổ biến của các chỉ tiêu kinh tế. So sánh số
tương đối giúp thấy được tỷ trọng và vị trí của bộ phận trong tổng thể, thấy
được tốc độ tăng trưởng của chỉ tiêu.
- So sánh bằng số bình quân: Số bình quân được tình bằng cách san
bằng mọi chênh lệch về trị số của chỉ tiêu phân tích nhằm phản ánh đặc điểm
điển hình của chỉ tiêu phân tích đó. Thông qua việc so sánh này có thể thấy
mức độ ngân hàng đạt được so với bình quân chung của ngành.
• 5B"
Một tỷ lệ là sự biểu hiện một mối quan hệ giữa một chỉ tiêu này với
một chỉ tiêu khác. Bản chất của phương pháp phân tích tỷ lệ là thực hiện so
sánh giữa các tỷ lệ để thấy xu hướng phát triển của hiện tượng. Tuy nhiên do
tỷ lệ này được cấu thành từ hai thành phần: tử số và mẫu số nên khi lên tỷ lệ
số tuyệt đối của hai thành phần này không được thể hiện, do đó tỷ lệ này
không phản ánh được nguyên nhân của hiện tượng mà chỉ phản ánh được chất
lượng của hiện tượng đó mà thôi.
• 5C
Phương pháp Dupont là phương pháp phân tích nhằm đánh giá sự tác
động tương hỗ giữa các chỉ tiêu. Ý tưởng chủ đạo của phương pháp Dupont
là phân tích một tỷ lệ sơ cấp (phản ánh hiện tượng) thành các tỷ lệ thứ cấp
(phản ánh nguyên nhân), rồi tỷ lệ thứ cấp mới tìm được lại trở thành tỷ lệ sơ
cấp cho một sự phân tích tiếp theo. Cứ như vậy, người ta có một chuỗi các tỷ
lệ quan hệ nhân quả với nhau. Sự thay đổi của tỷ lệ sau là nguyên nhân gây ra
sự thay đổi của tỷ lệ trước. Nhờ vậy, phương pháp Dupont đã giúp cho nhà
15
phân tích tiếp cận được với các nguyên nhân gây nên sự biến đổi của của hiện
tượng kinh tế.
• 503="
Là phương pháp xác định ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh
tế bằng cách thay thế lần lợt và liên tiếp các nhân tố từ giá trị kỳ trước hay kỳ
kế hoạch sang kỳ thực tế để xác định trị số vừa được tính với chỉ tiêu khi có

biến đổi. Sau đó, so sánh chỉ tiêu của trị số vừa tính được với chỉ tiêu khi chưa
có biến đổi của nhân tố cần xác định sẽ tính được mức độ ảnh hưởng của nhân
tố đó. Phương pháp này chỉ sử dụng khi các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu có
mối quan hệ tích số, thương số hay kết hợp cả tích số và thương số. Phương
pháp thay thế liên hoàn giúp nhà quản trị xác định được các nhân tố ảnh hưởng
cũng như mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đó đến chỉ tiêu phân tích.
Ngoài các phương pháp trên, phân tích chỉ tiêu phản ánh tình hình tài
chính của các NHTM còn sử dụng nhiều phương pháp khác như: phương
pháp xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh tế,
phương pháp cân đối, phương pháp biểu đồ
1.2.4. Hệ thống thông tin làm cơ sở cho việc tính toán các chỉ tiêu phân
tích tài chính NHTM
Nguồn số liệu sử dụng trong quá trình tính toán và phân tích các chỉ
tiêu phản ánh tình hình tài chính của các ngân hàng chủ yếu được lấy trên các
báo cáo tài chính, đặc biệt là hai báo cáo quan trọng nhất: bảng cân đối kế
toán và Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
Nội dung BCTC NHTM Việt Nam phải tuân thủ Quyết định
16/2007/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN ban hành “Chế độ báo cáo tài
chính đối với các tổ chức tín dụng”; Chuẩn mực số 21 “Trình bày BCTC” ban
hành và công bố theo QĐ số 234/QĐ-BTC ngày 30/12/2003 của Bộ trưởng
Tài chính và Chuẩn mực số 22 “Trình bày bổ sung BCTC của các ngân hàng
16
và Tổ chức tài chính tương tự” ban hành và công bố theo QĐ số 12/2005/QĐ-
BTC ngày 15/2/2005 của Bộ trưởng Bộ tài chính. Trong đó:
• <,.=5
Bảng cân đối kế toán của TCTD là Báo cáo tài chính tổng hợp, phản
ánh tổng quát toàn bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản đó
của TCTD tại một thời điểm nhất định.
Bảng cân đối kế toán (BCĐKT) có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt
động kinh doanh của mỗi ngân hàng. Số liệu trên BCĐKT cho biết toàn bộ

giá trị tài sản hiện có của TCTD theo cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn hình
thành các tài sản đó. Qua đó người sử dụng có thể nhận xét, đánh giá khái
quát tình hình tài chính của TCTD tại thời điểm báo cáo.
Theo Chuẩn mực kế toán số 22, trong BCĐKT ngân hàng phải trình
bày các nhóm tài sản và nợ phải trả theo bản chất và sắp xếp theo thứ tự phản
ánh tính thanh khoản giảm dần của chúng.
Ngoài các yêu cầu của chuẩn mực kế toán khác, BCĐKT của ngân
hàng phải trình bày tối thiểu các khoản mục tài sản và nợ phải trả (Phụ
lục 1.1).
Mức độ chi tiết của việc phân loại chi tiết các khoản mục trong
BCĐKT sẽ tuỳ thuộc vào những quy định của mỗi ngân hàng và cũng tuỳ
thuộc vào quy mô, tính chất và chức năng của giá trị các khoản mục. Cách
phân loại tài sản và nợ phải trả hữu ích nhất của ngân hàng là phân loại chúng
theo bản chất và sắp xếp theo tính thanh khoản tương ứng với kỳ đáo hạn của
chúng. Đặc biệt sự phân biệt giữa số dư tiền gửi ngân hàng tại các ngân hàng
khác và tại các đơn vị khác trên thị trường tiền tệ với tiền gửi của khách hàng
là thông tin thiết thực vì cho biết mối liên hệ, sự độc lập của ngân hàng với
các ngân hàng khác cũng như với thị trường tiền tệ, do vậy các ngân hàng
17
phải trình bày tách biệt các khoản này theo đối tượng nhận và gửi tiền
(NHNN, các ngân hàng khác, nơi khác trên thị trường tiền tệ…)
Ngoài ra BCĐKT còn phản ánh các chỉ tiêu ngoại bảng như cam kết
bảo lãnh khách hàng, các cam kết giao dịch hối đoái, cam kết tài trợ cho
khách hàng….Vì người sử dụng thông tin trên BCTC của ngân hàng cần phải
biết về các nghĩa vụ trả nợ tiềm ẩn và các cam kết không huỷ ngang của ngân
hàng để đánh giá tính thanh khoản, khả năng trả nợ và khả năng cố hữu của
các khoản lỗ tiềm tàng.
• 55.=?<,-./0
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (BCKQHĐKD) là BCTC
phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh trong một kỳ kế toán,

là cơ sở để kiểm tra theo dõi việc thực hiện kế hoạch thu chi tài chính của
đơn vị báo cáo.
BCKQHĐKD có vai trò rất quan trọng đối với nhà quản trị ngân hàng,
nhà đầu tư và cơ quan quản lý. Vì hiệu quả hoạt động kinh doanh cuối cùng
của một ngân hàng chính là lợi nhuận mà nó đem lại trên cơ sở chấp nhận một
mức rủi ro hợp lý. Thông qua số liệu trên BCKQHĐKD, nhà phân tích có thể
tính toán các chỉ tiêu về thu nhập, chi phí, lợi nhuận, từ đó đánh giá quy mô,
kết cấu, tính hợp lý của từng khoản thu nhập, chi phí. Mục đích cuối cùng của
người phân tích là đánh giá được kết quả hoạt động của ngân hàng trong quá
khứ, hiện tại và dự đoán khả năng sinh lời trong tương lai của ngân hàng.
1.3. HỆ THỒNG CHỈ TIÊU PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH NHTM
Quá trình hoạt động kinh doanh và kết quả hoạt động kinh doanh của
NHTM được biểu hiện qua các chỉ tiêu kinh tế cụ thể. Bởi vậy, phân tích tài
chính của các NHTM cũng chính là đánh giá tình hình thực hiện các chỉ tiêu
kinh tế. Do đó, việc xác định đúng đắn chỉ tiêu, nội dung và phương pháp tính
18
mỗi chỉ tiêu là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong công tác phân tích tài chính
ngân hàng.
Xuất phát từ mục tiêu phân tích tài chính cũng như đặc điểm và nội
dung các quan hệ tài chính trong ngân hàng, hệ thống chỉ tiêu phân tích tài
chính ngân hàng bao gồm các nhóm sau:
1.3.1. Các chỉ tiêu phân tích khái quát quy mô tài sản, nguồn vốn
Để đánh giá khái quát quy mô tài sản, nguồn vốn các chỉ tiêu tổng hợp
thường được các nhà phân tích sử dụng là:
(1) Tổng tài sản hoặc tổng nguồn vốn
(2) Tốc độ tăng tổng tài sản hoặc nguồn vốn
Chỉ tiêu (1, 2) phản ánh quy mô, sự tăng trưởng của quy mô tài sản,
nguồn vốn của ngân hàng. Sự phát triển của ngân hàng trước hết phụ thuộc
vào sự tăng trưởng quy mô tài sản ngân hàng. Tuy nhiên, sự tăng trưởng quy
mô tài sản chỉ thể hiện xu hướng tốt khi đảm bảo tỷ lệ tăng hợp lý giữa tài sản

dự trữ và tài sản sinh lợi. Quy mô nguồn vốn tăng, trước hết phải đảm bảo
tăng năng lực tài chính, tăng nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu kinh doanh.
(3) Tỷ trọng từng loại tài sản
(4) Tỷ trọng từng loại nguồn vốn
Chỉ tiêu (3) phản ánh cơ cấu tài sản của một ngân hàng. Mỗi khoản
mục tài sản có đều có khả năng sinh lời và độ an toàn trong kinh doanh khác
nhau. Do đó thông qua chỉ tiêu (3) giúp nhà phân tích có thể nhận định được
mặt mạnh, điểm yếu của ngân hàng, làm cơ sở cho việc quyết định chiến lược
"đầu ra" của ngân hàng trong từng thời kỳ nhất định.
Chỉ tiêu (4) thể hiện cơ cấu nguồn vốn của một ngân hàng. Mỗi loại
nguồn vốn đều có những yêu cầu khác nhau về chi phí, thanh khoản, thời hạn
hoàn trả, do đó việc đánh giá đúng cơ cấu nguồn vốn sẽ giúp nhà ngân hàng
có chiến lược huy động vốn tốt nhất trong từng thời kỳ.
19
Các chỉ tiêu chi tiết chỉ rõ từng loại tài sản, nguồn vốn được tính toán tuỳ
thuộc vào cách phân loại tài sản và nguồn vốn của nhà phân tích ngân hàng.
1.3.2. Các chỉ tiêu phân tích tình hình vốn chủ sở hữu
Để hoạt động kinh doanh các ngân hàng phải có số vốn điều lệ ban đầu
phù hợp với quy định của luật pháp. Tuy nhiên, số vốn chủ sở hữu này không
thể là toàn bộ số vốn mà ngân hàng cần để tiến hành các hoạt động kinh
doanh do số lượng vốn này quá nhỏ bé. Trong cơ cấu nguồn vốn của ngân
hàng khoản mục vốn huy động là khoản mục chiếm tỷ trọng lớn nhất và là
nguồn vốn chính để các NHTM tiến hành các hoạt động kinh doanh thực tiễn
của mình. Do vây, khi đánh giá về tình hình huy động vốn 2 nội dung luôn
luôn được đề cập để phân tích là: phân tích vốn chủ sở hữu và phân tích vốn
huy động.
Để đánh giá tình hình vốn chủ sở hữu, một loạt chỉ tiêu đã được các
nhà ngân hàng sử dụng, đó là:
(1) Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tiền gửi
(2) Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản

(3) Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản rủi ro
Các chỉ tiêu trên đều lần lượt được thay thế bởi những hạn chế của nó.
Chỉ tiêu vốn chủ sở hữu trên tổng tiền gửi đã được thay thế bằng chỉ tiêu vốn
chủ sở hữu trên tổng tài sản khi người ta cho rằng vốn chủ sở hữu không liên
hệ trực tiếp với các khoản tiền gửi mà liên hệ với tổng tài sản, bởi vì vốn chủ
sở hữu chỉ mức vốn có thể bù đắp các thua lỗ trong hoạt động kinh doanh
ngân hàng, mà các thua lỗ này lại được phản ánh thông qua việc giảm sút của
các tài sản.
Vì hạn chế của chỉ tiêu vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản là không thấy
được mối liên hệ giữa khối lượng vốn chủ sở hữu và khối lượng rủi ro mà ngân
hàng phải gánh chịu nên nó lại được thay thế bằng chỉ tiêu vốn chủ sở hữu trên
20

×