Tải bản đầy đủ (.doc) (132 trang)

việc nghiên cứu về cổ phần hóa đối với công ty vận tải hàng hóa đường sắt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (601.92 KB, 132 trang )

MỤC LỤC
M C L CỤ Ụ 1
L I M UỜ ỞĐẦ 1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong những năm qua, công cuộc đổi mới của đất nước ta đã đạt được
những thành tựu, những bước đi đáng kể, tuy vậy chúng ta vẫn còn nhiều khó
khăn thử thách trong công cuộc gia nhập các khối kinh tế lớn. Vì vậy, trong
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước với xu thế hội
nhập với nền kinh tế của khu vực và thế giới thì chúng ta càng cần phải tập
trung lực lượng, tranh thủ thời cơ, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn
diện và đồng bộ, tiếp tục phát huy và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Dưới sự tác động của chính sách đổi mới, việc chuyển đổi, sắp xếp lại
các doanh nghiệp Nhà nước là một tất yếu cho phù hợp với quá trình hội nhập
và cạnh tranh. Chính vì vậy Nhà nước đề ra chủ trương cổ phần hóa các
doanh nghiệp Nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn là một nội
dung quan trọng trong tiến trình đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
nhà nước.
Mục tiêu cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là nhằm tạo ra loại hình
doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu trong đó có đông đảo người lao động để sử
dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và huy động thêm vốn xá hội vào
phát triển sản xuất kinh doanh; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng
động, có hiệu quả cho doanh nghiệp nhà nước, phát huy vai trò làm chủ thực
sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối
với doanh nghiệp; đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp
và của người lao động.
Trong xu thế phát triển của ngành đường sắt Việt Nam, nhà nước đã và
đang quan tâm đầu tư, phát triển giao thông vận tải đường sắt (Thủ tướng
chính phủ đã có quyết định 1686/QĐ-ĐS ngày 20/11/2008 phê duyệt chiến
lược phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến năm 2020 và tầm


nhìn đến năm 2050 vv ), Chính phủ đã duyệt đề án chuyển đổi của ĐSVN
(quyết định 474/QĐ-TTG ngày 31/3/2011 phê duyệt điều lệ tổ chức và hoạt
1
động của ĐSVN) trong đó lộ trình chuyển đổi của Công ty vận tải hàng hóa
đường sắt là chuyển đổi thành Công ty TNHH 1 thành viên từ 01/7/2011, tiến
tới cổ phần hóa vào năm 2012, đây là xu hướng tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu
phát triển và đổi mới của ngành.
Từ năm 2003 ngành đường sắt đã thành lập 3 Công ty vận tải đường
sắt, trong đó có Công ty Vận tải hàng hóa Đường sắt với hướng kinh doanh
theo sản phẩm, bóc tách dần các sản phẩm tác nghiệp nhằm chuẩn bị tiền đề
cho việc cổ phần hóa Công ty hàng hóa ĐS.
Quá trình cổ phần hóa Công ty Vận tải hàng hóa Đường sắt rất đặc thù
và sẽ gặp không ít khó khăn vì: sản phẩm tấn – km hàng hóa do nhiều sản
phẩm tác nghiệp tạo thành, việc cân đối thu chi của ngành đang khó khăn, cơ
cấu quản lý, cơ cấu tổ chức, quản lý vốn, tài sản đang theo phân cấp của
ngành, chồng chéo, khó xác định đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ các quy định của
nhà nước về công tác cổ phần hóa doanh nghiệp ứng dụng phù hợp với cổ
phần hóa Công ty Vận tải hàng hóa Đường sắt.
Vì vậy việc nghiên cứu về cổ phần hóa đối với công ty Vận tải hàng
hóa Đường sắt là rất quan trọng và cần thiết.
2. Mục đích nghiên cứu :
Hiểu được chủ trương, đường lối, những quy định của Nhà nước, của
ngành để nghiên cứu đề ra các bước tiến hành lộ trình cổ phần hóa và các
giải pháp thực hiện hợp lý cho việc cổ phần hóa Công ty Vận tải hàng hóa
Đường sắt.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài :
Đề tài tập trung nghiên cứu lý luận về quá trình cổ phần hóa doanh
nghiệp và khả năng ứng dụng vào thực tiễn đối với Công ty Vận tải hàng hóa
Đường sắt.
4. Phương pháp nghiên cứu :

Sử dụng phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
ngoài ra còn sử dụng các phương pháp tính của thống kê học,các môn quản trị
2
doanh nghiệp và các môn khoa học chuyên ngành khác để nghiên cứu, thực
hiện nhiệm vụ của luận văn.
5. Kết cấu của luận văn:
Chương 1: Tổng quan về cổ phần hóa Doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng về công ty Vận tải Hàng hóa Đường sắt và chủ
trương của chính phủ, của ngành về cổ phần hóa đối với các công ty vận tải.
Chương 3: Nghiên cứu về cổ phần hóa đối với công ty Vận tải Hàng
hóa Đường sắt.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP
1.1. Các loại hình doanh nghiệp:
1.1.1. Doanh nghiệp và bản chất pháp lý của doanh nghiệp:
1.1.1.1. Doanh nghiệp:
Doanh nghiệp là một nhân tố quan trọng trong nền kinh tế quốc dân mà
ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng cần phải có để hoạt động phục vụ nền
kinh tế của nước đó. Đó là nơi cung cấp, sản xuất ra của cải vật chất, các loại
hình dịch vụ chính cho con người.
Có thể mô tả khái quát doanh nghiệp như sau:
Theo định nghĩa của Viện Thống kê và nghiên cứu kinh tế của Pháp
(INSEE) thì: Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế mà chức năng chính của nó
là sản xuất ra các của cải vật chất hoặc các dịch vụ dùng để bán.
Theo luật doanh nghiệp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2005 quy định tại điều 4: “ Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng,
có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.”
DOANH NGHIỆP

NƠI SẢN XUẤT
Doanh nghiệp kết hợp các phương
tiện về nhân lực, kỹ thuật và tổ chức
để sản xuất ra của cải và dịch vụ.
NƠI PHÂN CHIA
Doanh nghiệp phân phối thu nhập
cho người lao động, các chủ sở hữu
và các nhà cung cấp
NƠI HỢP TÁC
Đây đồng thời cũng là nơi xung đột
giữa các thành viên của doanh nghiệp
(những người ăn lương và các
nhà lãnh đạo)
NƠI THỰC HIỆN QUYỀN LỰC
Chủ doanh nghiệp ra các quyết định,
các cán bộ truyền đạt, các nhân viên
và công nhân thực hiện chúng.
4
Như vậy doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế có chức năng
chung là sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo nhu cầu của thị trường
nhằm đạt được lợi nhuận hoặc mang lại lợi ích xã hội cao nhất.
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập để thực hiện các
hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện các chức năng sản xuất, mua bán
hàng hóa hoặc làm dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người và xã hội
đồng thời thông qua các hoạt động đó để kiếm lời.
1.1.1.2. Bản chất pháp lý của Doanh nghiệp:
Bản chất pháp lý của các loại hình doanh nghiệp ở nước ta hiện nay
không giống nhau hoàn toàn vì nó còn phụ thuộc một số yếu tố như hình thức
sở hữu Nhưng bản chất pháp lý của doanh nghiệp nói chung được thể hiện
qua các vấn đền chủ yếu sau:

- Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế được thành lập theo quy định của
pháp luật là phải làm thủ tục đăng ký kinh doanh, xin phép kinh doanh tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
- Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có trụ sở giao dịch, có
tài sản, có sử dụng lao động làm thuê. Doanh nghiệp là nơi diễn ra hoạt động
sản xuất vật chất thì phải dựa trên các yếu tố về tư liệu sản xuất và lao động.
Muốn hoạt động kinh doanh thì doanh nghiệp nào cũng phải có vốn kinh
doanh, có tài sản, trong một số trường hợp nhất định số vốn đầu tư ban đầu
(vốn điều lệ) không được thấp hơn mức vốn theo qui định của pháp luật (vốn
pháp định). Doanh nghiệp là chủ thể kinh doanh có qui mô kinh doanh ở mức
độ nhất định.
- Mục đích hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp nói chung là nhằm
mục đích kinh doanh. Kinh doanh được hiểu “ là việc thực hiện một, một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” (Điều 3,
Luật doanh nghiệp). Theo nghĩa thông thường, doanh nghiệp phải được quan
niệm là chủ thể hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Nhưng trong luật thực định
của Việt Nam hiện nay, có nhiều tổ chức kinh tế hoạt động không phải với
5
mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận nhưng vẫn được coi là doanh nghiệp, đó là các
doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích (Điều 3, Luật DNNN và Điều 1,
Nghị định 56/CP ngày 02/10/1996).
- Doanh nghiệp phải là chủ thể hạch toán kinh doanh độc lập, có nghĩa nó
là chủ thể tự quyết định việc thu, chi tài chính, tự mình hưởng thành quả cũng
như chịu trách nhiệm cuối cùng về kết quả hoạt động kinh doanh của mình.
- Doanh nghiệp phải là tổ chức kinh tế được thành lập và hoạt động
dưới một hình thức pháp lý nhất định do pháp luật quy định. Hình thức pháp
lý của doanh nghiệp được quy định cụ thể trong các luật về doanh nghiệp
như: Công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp
liên doanh, hợp tác xã

1.1.2. Các loại hình doanh nghiệp:
Việc lựa chọn hình thức doanh nghiệp trước khi bắt đầu công việc kinh
doanh là rất quan trọng, nó có ảnh hưởng không nhỏ tới sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp. Về cơ bản, những sự khác biệt tạo ra bởi loại hình
doanh nghiệp là:
- Uy tín doanh nghiệp do thói quen tiêu dùng;
- Khả năng huy động vốn;
- Rủi ro đầu tư;
- Tính phức tạp của thủ tục và các chi phí thành lập doanh nghiệp;
- Tổ chức quản lý doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được thành lập hoặc đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp
luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Luật về tổ chức và thành lập doanh nghiệp ở Việt nam hiện có Luật
Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp nhà nước, luật Hợp tác xã, luật Các tổ
chức tín dụng Theo đó, Doanh nghiệp được tổ chức theo nhiều loại hình
khác nhau. Mỗi loại hình doanh nghiệp có đặc trưng và từ đó tạo nên những
hạn chế hay lợi thế của doanh nghiệp.
6
1.1.2.1. Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp tư nhân là một cá nhân.
Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân.
Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp; có toàn quyền quyết định việc sử dụng lợi
nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy
định của pháp luật. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê
người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp thuê người

khác làm Giám đốc quản lý doanh nghiệp, thì chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn
phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Do là chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp nên doanh nghiệp tư nhân
hoàn toàn chủ động trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động
kinh doanh của Doanh nghiệp. Chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh
nghiệp tư nhân tạo sự tin tưởng cho đối tác, khách hàng và giúp cho doanh
nghiệp ít chịu sự ràng buộc chặt chẽ bởi pháp luật như các loại hình doanh
nghiệp khác. Tuy nhiên, do không có tư cách pháp nhân và tính chịu trách
nhiệm vô hạn về tài sản nên mức độ rủi ro của chủ doanh tư nhân cao, chủ
doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của doanh
nghiệp và của chủ doanh nghiệp chứ không giới hạn số vốn mà chủ doanh
nghiệp đã đầu tư vào doanh nghiệp.
1.1.2.2. Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH)
1.1.2.2.1. Công ty TNHH một thành viên:
Công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp có những đặc điểm sau:
- Chủ sở hữu công ty phải là một tổ chức hoặc cá nhân và có thể là: cơ
quan nhà nước, đơn vị vũ trang, các pháp nhân của tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các loại doanh
nghiệp, các tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
7
- Chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần vốn
điều lệ cho tổ chức hoặc cá nhân khác theo quy định về chuyển đổi doanh nghiệp.
- Công ty không được phát hành cổ phần.
- Công ty có tư cách pháp nhân và chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm
hữu hạn đối với kết quả kinh doanh của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ
của công ty.
1.1.2.2.1. Công ty TNHH hai thành viên trở lên:
Công ty TNHH hai thành viên trở lên là doanh nghiệp có đặc điểm
chung sau:
- Hình thức sở hữu của công ty là thuộc hình thức sở hữu chung của các

thành viên công ty.
- Thành viên của công ty có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng thành
viên mỗi công ty không ít hơn hai và không vượt quá năm mươi.
- Công ty không được phát hành cổ phần.
- Công ty là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân và chịu trách nhiệm
hữu hạn về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp.
1.1.2.3. Công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là doanh nghiệp có những đặc điểm chung sau:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế tối đa.
- Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy
động vốn theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
- Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân và là doanh nghiệp chịu trách
nhiệm hữu hạn, cổ đông của công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào
doanh nghiệp.
8
1.1.2.4. Công ty hợp danh
Công ty hợp danh là doanh nghiệp có những đặc điểm sau đây:
- Phải có ít nhất hai thành viên hợp danh; ngoài các thành viên hợp
danh, có thể có thành viên góp vốn.
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy
tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các
nghĩa vụ của công ty.
- Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
- Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp đăng ký
kinh doanh.
- Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào

để huy động vốn.
Như vậy công ty hợp danh có hai loại: Công ty hợp danh mà tất cả các
thành viên đều là thành viên hợp danh và công ty hợp danh có cả thành viên
hợp danh và thành viên góp vốn.
1.1.3. Ưu điểm và hạn chế của các loại hình doanh nghiệp:
1.1.3.1. Doanh nghiệp tư nhân:
Theo điều 141- Luật Doanh nghiệp: Doanh nghiệp tư nhân là doanh
nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản
của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp; chủ sử hữu duy nhất của doanh
nghiệp tư nhân là một cá nhân; Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một
doanh nghiệp tư nhân; Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ
loại chứng khoán nào.
Theo điều 143- Luật Doanh nghiệp: Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp và có toàn quyền quyết định đối với tất
cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; có toàn quyền quyết định việc sử
dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác
theo quy định của pháp luật. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thẻ trực tiếp hoặc
9
thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp thuê
người làm Giám đốc quản lý doanh nghiệp, thì chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn
phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Ưu điểm của doanh nghiệp tư nhân: Do là chủ sở hữu duy nhất của
doanh nghiệp nên doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn chủ động trong việc quyết
định các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp. Chế
độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân tạo sự tin tưởng cho đối
tác, khách hàng và giúp cho doanh nghiệp ít chịu sự ràng buộc chặt chẽ bởi
pháp luật như các loại hình doanh nghiệp khác.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế đó thì doanh nghiệp tư nhân cũng có
một số nhược điểm: Do không có tư cách pháp nhân và tính chịu trách nhiệm
vô hạn về tài sản nên mức độ rủi ro của chủ doanh nghiệp tư nhân cao, chủ

doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của doanh
nghiệp và của chủ doanh nghiệp chứ không giới hạn số vốn mà chủ doanh
nghiệp đã đầu tư vào doanh nghiệp.
1.1.3.2. Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH)
1.1.3.2.1. Công ty TNHH một thành viên:
Theo điều 63 – Luật Doanh nghiệp 2005: Công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên là một hình thức đặc biệt của công ty trách nhiệm hữu hạn.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên là công ty do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu; chủ
sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ của doanh nghiệp. Công ty TNHH
một thành viên không được giảm vốn điều lệ và chỉ có thể tăng vốn điều lệ
bằng việc chủ sở hữu công ty đầu tư thêm hoặc huy động vốn góp của người
khác (khi đó sẽ chuyển thành công ty TNHH hai thành viên trở lên)
Trong công ty TNHH một thành viên có quy định phân biệt quyền và
nghĩa vụ của chủ sở hữu là cá nhân và chủ sở hữu là tổ chức (Điều 64)
Chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần
vốn điều lệ của công ty cho tổ chức, cá nhân khác. Công ty trách nhiệm hữu
10
hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không
được quyền phát hành cổ phiếu và không được giảm vốn điều lệ.
Theo điều 66 Luật Doanh nghiệp 2005quy định các hạn chế đối với chủ
sở hữu công ty là không được trực tiếp rút một phần hoặc toàn bộ số vốn đã
góp vào công ty. Chủ sở hữu công ty chỉ được quyền rút vốn bằng cách
chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn cho tổ chức hoặc cá nhân khác.
Chủ sở hữu công ty không được rút lợi nhuận của công ty khi công ty không
thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả.
Tùy thuộc quy mô và ngành, nghề kinh doanh, cơ cấu tổ chức quản lý
nội bộ của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên bao gồm: Hội đồng

quản trị và Giám đốc hoặc Chủ tịch công ty và Giám đốc.
Nhìn chung, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có đầy đủ các
đặc thù của công ty trách nhiệm hữu hạn có ít nhất hai thành viên trở lên.
Điểm khác biệt duy nhất giữa công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và
công ty trách nhiệm hữu hạn có ít nhất hai thành viên trở lên là công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên chỉ có một thành viên duy nhất và thành viên
này có thể là tổ chức hoặc cá nhân.
Lợi thế của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là chủ sở hữu
công ty có toàn quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến hoạt động của
công ty.
1.1.3.2.2. Công ty TNHH hai thành viên trở lên:
Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên là doanh nghiệp
trong đó thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh
nghiệp. Thành viên của công ty có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành
viên tối thiểu là hai và tối đa không vượt quá năm mươi. Công ty trách nhiệm
hữu hạn có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh. Tuy nhiên, công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát
hành cổ phiếu để huy động vốn.
11
Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên phải có Hội
đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc. Công ty trách
nhiệm hữu hạn có trên mười một thành viên phải có Ban kiểm soát.
Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình doanh nghiệp phổ biến nhất ở
Việt nam hiện nay. Hoạt động kinh doanh dưới hình thức công ty trách nhiệm
hữu hạn đem lại cho nhà đầu tư nhiều lợi thế như:
- Do có tư cách pháp nhân nên các thành viên công ty chỉ chịu trách
nhiệm về các hoạt động của công ty trong phạm vi số vốn góp vào công ty
nên ít gây rủi ro cho người góp vốn;
- Số lượng thành viên công ty không nhiều và các thành viên thường là

người quen biết, tin cậy nhau, nên việc quản lý, điều hành công ty không quá
phức tạp;
- Chế độ chuyển nhượng vốn được điều chỉnh chặt chẽ nên nhà đầu tư
dễ dàng kiểm soát được việc thay đổi các thành viên, hạn chế sự thâm nhập
của người lạ vào công ty.
Tuy nhiên, hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn cũng có những hạn
chế nhất định như:
- Do chế độ trách nhiệm hữu hạn nên uy tín của công ty trước đối tác,
bạn hàng cũng phần nào bị ảnh hưởng;
- Công ty trách nhiệm hữu hạn chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp
luật hơn là doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh;
- Việc huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn bị hạn chế do
không có quyền phát hành cổ phiếu.
1.1.3.3. Công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: Vốn điều lệ được chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về
nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã
góp vào doanh nghiệp;Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của
mình cho người khác, trừ trường hợp cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu
12
quyết và cổ phần của cổ đông sáng lập; Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số
lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa. (Điều 77-
Luật Doanh nghiệp 2005)
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán
ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
Công ty cổ phần phải có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và
Giám đốc (Tổng giám đốc); đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ
đông phải có Ban kiểm soát. (Điều 95 – Luật Doanh nghiệp 2005)
Lợi thế của công ty cổ phần là:

- Chế độ trách nhiệm của công ty cổ phần là trách nhiệm hữu hạn, các
cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty
trong phạm vi vốn góp nên mức độ rủi do của các cổ đông không cao;
- Khả năng hoạt động của công ty cổ phần rất rộng, trong hầu hết các
lịch vực, ngành nghề; cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết sức linh hoạt tạo
điều kiện nhiều người cùng góp vốn vào công ty;
- Khả năng huy động vốn của công ty cổ phầnrất cao thông qua việc phát
hành cổ phiếu ra công chúng, đây là đặc điểm riêng có của công ty cổ phần;
- Việc chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần là tương đối dễ dàng,
do vậy phạm vi đối tượng được tham gia công ty cổ phần là rất rộng, ngay cả
các cán bộ công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của công ty cổ phần.
Bên cạnh những lợi thế nêu trên, loại hình công ty cổ phần cũng có
những hạn chế nhất định như:
- Việc quản lý và điều hành công ty cổ phần rất phức tạp do số lượng
các cổ đông có thể rất lớn, có nhiều người không hề quen biết nhau và thậm
chí có thể có sự phân hóa thành các nhóm cổ động đối kháng nhau về lợi ích;
- Việc thành lập và quản lý công ty cổ phần cũng phức tạp hơn các loại
hình công ty khác do bị ràng buộc chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật,
đặc biệt về chế độ tài chính, kế toán.
13
- Chủ sở hữu không trực tiếp tham gia vào hoạt động hàng ngày của
công ty đồng thời loại hình công ty cổ phần cũng có nguy cơ dễ bị người
khác, công ty khác thôn tính.
1.1.3.4. Công ty hợp danh:
Theo điều 130 – Luật doanh nghiệp 2005: Công ty hợp danh là doanh
nghiệp phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty (thành
viên hợp danh), có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá
nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty, thành viên góp
vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn

đã góp vào công ty. Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được
cấp đăng ký kinh doanh và không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán
nào để huy động vốn.
Thành viên hợp danh có quyền quản lý công ty; tiến hành các hoạt
động kinh doanh nhân danh công ty; cùng liên đới chịu trách nhiệm về các
nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn có quyền được chia lợi nhuận theo
tỷ lệ được quy định tại Điều lệ công ty; không được tham gia quản lý công ty
và hoạt động kinh doanh nhân danh công ty. Các thành viên hợp danh có
quyền ngang nhau khi quyết định các vấn đề quản lý công ty.
Ưu điểm của công ty hợp danh là kết hợp được uy tín cá nhân của
nhiều người. Do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên
hợp danh mà công ty hợp danh dễ dàng tạo được sự tin cậy của các bạn hàng,
đối tác kinh doanh. Việc điều hành quản lý công ty không quá phức tạp do số
lượng các thành viên ít và là những người có uy tín, tuyệt đối tin tưởng nhau.
Hạn chế của công ty hợp danh là do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô
hạn nên mức độ rủi ro của các thành viên hợp danh là rất cao, mọi thành viên
công ty đều có quyền quản lý công ty như nhau.
14
1.1.4. Doanh nghiệp nhà nước và vấn đề sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước
1.1.4.1. Khái quát về doanh nghiệp nhà nước:
Doanh nghiệp nhà nước tồn tại phổ biến ở các quốc gia trên thế giới với
những quy mô và vị trí khác nhau. Doanh nghiệp nhà nước là chủ thể chính của
nền kinh tế trong các nước xã hội chủ nghĩa, chúng chiếm vai trò rất quan trọng
và gần như tuyệt đối các lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân. Hầu hết các hoạt
động kinh tế chủ yếu đều thông qua các doanh nghiệp nhà nước. Đối với các
nước tư bản chủ nghĩa, doanh nghiệp nhà nước cũng đóng một vai trò nhất định
trong nền kinh tế, ở những nước này thì Nhà nước dùng chính các doanh
nghiệp nhà nước để can thiệp vào các hoạt động kinh tế thị trường, Nhà nước
trực tiếp nắm những tiềm lực về kinh tế quan trọng và các doanh nghiệp công
ích để duy trì sự phát triển cân đối, có định hướng của nền kinh tế quốc dân.

Do đó, vai trò mong muốn của các quốc gia đối với doanh nghiệp nhà
nước lại không đồng nhất: đối với nhiều quốc gia doanh nghiệp nhà nước có
vai trò xây dựng nền kinh tế tự chủ; còn đối với nhiều quốc gia khác thì doanh
nghiệp nhà nước chỉ hỗ trợ vật chất để Nhà nước can thiệp trực tiếp vào đời
sống kinh tế. Nhưng tựu chung lại thì doanh nghiệp nhà nước phải thực hiện
những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế: Các lĩnh vực như giao thông,
điện lực, thông tin, các dịch vụ công cộng, vận tải hành khách, hàng hóa
thường ít được doanh nghiệp quan tâm và đầu tư; ngoài ra các ngành này đòi
hỏi vốn đầu tư lớn quá khả năng tài chính, kỹ thuật và công nghệ đối với các
doanh nghiệp và thường có rủi ro lớn. Vì vậy doanh nghiệp nhà nước được
coi là giải pháp tối ưu để xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế nhất là đối
với các quốc gia đang phát triển, khi doanh nghiệp tư nhân còn nhỏ, yếu kém
về kỹ thuật và tài chính. Ngoài ra doanh nghiệp nhà nước còn phải sản xuất
những hàng hóa đặc biệt mà các thành phần khác không thể hoặc không được
sản xuất như chất nổ, chất phóng xạ, chất độc, dịch vụ viễn thông quốc tế…
- Tạo được nguồn thu cho ngân sách Nhà nước để phát triển kinh tế xã
hội. Đây là điều rất cần thiết đối với các quốc gia đang phát triển khi mà nông
15
nghiệp không đảm bảo nguồn thu cho ngân sách. Doanh nghiệp nhà nước
đóng góp cho ngân sách và góp phần tạo ra tích lũy cho Nhà nước.
- Điều tiết nền kinh tế: Nhà nước có thể tác động tới nền kinh tế bằng
các doanh nghiệp nhà nước nhằm mục đích phù hợp với lợi ích của quốc gia
theo các chính sách của từng nước.
- Thúc đẩy và đảm bảo việc làm: Doanh nghiệp nhà nước thường có
quy mô lớn và thực hiện những dự án như xây dựng hạ tầng, khai thác khoáng
sản, vận chuyển hàng hóa và hành khách… nên cần một lực lượng lao động
rất lớn.
- Tăng cường phát triển nền kinh tế quốc dân và củng cố chủ quyền
quốc gia: Doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong các lĩnh vực quan trọng

trong nền kinh tế quốc dân, đảm bảo cho nền kinh tế của quốc gia có thể trụ
vững trước sức ép của các nước khác cũng như khi cần điều chỉnh cơ cấu,
chính sách kinh tế.
Ngoài ra tùy thuộc vào tình hình từng nước mà doanh nghiệp nhà nước
còn phải có nhiệm vụ như xóa đói giảm nghèo, giải quyết các vấn đề an ninh
xã hội, đóng góp cho ngân sách…
Tùy từng cách tiếp cận mà có nhiều định nghĩa khác nhau về doanh
nghiệp nhà nước.
Trong báo cáo của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc
(UNIDO): Doanh nghiệp nhà nước được định nghĩa là các tổ chức kinh tế
thuộc sở hữu nhà nước do Nhà nước kiểm soát có thu nhập chủ yếu từ việc tiêu
thụ hàng hóa và cung cấp dịch vụ. Theo cách này, doanh nghiệp nhà nước gồm
các doanh nghiệp thuộc sự quản lý của các bộ, ngành, các doanh nghiệp mà
Nhà nước giữ cổ phần chi phối, các doanh nghiệp nhà nước giữ cổ phần lớn.
Tại Việt Nam, khái niệm doanh nghiệp nhà nước thay đổi qua từng thời
kỳ theo cơ chế quản lý kinh tế.
+ Trong giai đoạn 1960 – 1986:
Nước ta theo cơ chế hạch toán tập trung, các tổ chức kinh tế nhà nước
16
tồn tại dưới dạng các xí nghiệp quốc doanh, nông trường quốc doanh, các
công ty quốc doanh. Lúc này chỉ có định nghĩa về các xí nghiệp, nông trường,
công ty quốc doanh; ví dụ theo Điều 1 Điều lệ Xí nghiệp công nghiệp quốc
doanh ban hành theo Nghị định số 93/CP ngày 08/04/1977: “ Xí nghiệp công
nghiệp quốc doanh là đơn vị sản xuất và kinh doanh của nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa thống nhất, là nơi trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội
và tạo nguồn tích lũy xã hội chủ nghĩa. Xí nghiệp sản xuất và kinh doanh theo
kế hoạch nhà nước được quyết định từ Trung ương trên những chỉ tiêu chủ
yếu nằm trong cân đối chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân và được xây
dựng từ cơ sở”.
+ Giai đoạn 1987 – 1990:

Đây là giai đoạn bước ngoặt của nền kinh tế khi chuyển từ cơ chế kế
hoạch hóa tập trung sang hạch toán theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của
nhà nước, việc quản lý và tổ chức các doanh nghiệp nhà nước cũng bước vào
giai đoạn đổi mới. Đại hội VI của Đảng đã ra quyết định: “ Phải đổi mới cơ
chế quản lý, đảm bảo cho các đơn vị kinh tế quốc doanh có quyền tự chủ,
thực sụ chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lập lại kỷ cương
trong hoạt động kinh tế”.
Vì vậy, Bản Điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh năm 1988 đã
hoàn thiện hơn như trong Điều 1: “ Xí nghiệp công nghiệp quốc doanh ( xí
nghiệp độc lập, xí nghiệp liên hợp) là đơn vị kinh tế cơ sở, khâu cơ bản của
nền kinh tế quốc dân xã hội chủ nghĩa, là đơn vị sản xuất hàng hóa có kế
hoạch nhằm đáp ứng nhu cầu càng tăng của xã hội, có tư cách pháp nhân và
hạch toán độc lập”.
Như vậy, địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước (xí nghiệp công
nghiệp quốc doanh) đã thay đổi:
- Có tư cách pháp nhân, được coi như những chủ thể kinh tế độc lập, tự
hạch toán.
- Tài sản của doanh nghiệp nhà nước được giao cho người đứng đầu
doanh nghiệp quản lý.
17
- Tài sản được phân loại theo tiêu chí nguồn hình thành: vốn ngân sách
hay từ các nguồn vốn khác.
- Được chủ động trong việc định đoạt tài sản hình thành từ vốn vay
hoặc vốn tự có.
- Được tham gia xuất khẩu trực tiếp hay gián tiếp.
- Được tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài phạm vi chỉ tiêu kế hoạch
được giao nếu tự thực hiện được.
+ Giai đoạn 1990 – 1998:
Cùng với sự chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa thì cách nhìn nhận các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh cũng

thay đổi; mặt khác để doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả hơn cần có
cơ sở pháp lý vững chắc hơn. Vì vậy năm 1995 luật doanh nghiệp nhà nước
được ban hành đã thể chế hóa nhiều quan điểm mới:
Trong luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995 thì doanh nghiệp nhà
nước được định nghĩa như sau: “ Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế
do Nhà nước đầu tư vốn và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt
động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao.
Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân
sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số
vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên goi, có con dấu
riêng và có trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam”.
Như vậy đã có sự thay đổi lớn trong các chính sách và cơ cấu kinh tế ở
nước ta:
- Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn,
thành lập và tổ chức quản lý. Trước đây doanh nghiệp có 100% vốn thuộc sở
hữu nhà nước mới được gọi là doanh nghiệp nhà nước, nhưng hiện nay những
doanh nghiệp mà sở hữu Nhà nước chiếm đa số vốn vẫn được coi là doanh
nghiệp nhà nước. Như vậy, doanh nghiệp mà sở hữu Nhà nước không chiếm
đa số nhưng vẫn nắm quyền kiểm soát thì vẫn không được coi là doanh
nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp được Nhà nước
18
đầu tư vốn, thành lập và do Nhà nước trực tiếp quản lý, các hoạt động của
doanh nghiệp nhà nước đều căn cứ vào ý chủ quan của chủ sở hữu, những
người quản lý doanh nghiệp không phải là chủ sở hữu mà chỉ là người đại
diện cho doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước cử ra.
- Do yêu cầu của những nhu cầu phúc lợi xã hội, an ninh quốc phòng
và có sự tác động của quy luật cạnh tranh nên doanh nghiệp nhà nước chia
thành doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích và doanh nghiệp nhà nước
hoạt động sản xuất kinh doanh. Với sự phân loại như thế sẽ tạo được sự bình
đẳng giữa các doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh và

doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích, tạo điều kiện cho doanh nghiệp
kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, còn doanh nghiệp công ích được ưu tiên
hướng tới các lợi ích công cộng.
- Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, vì vậy nó có tính độc
lập khi hoạt động và có nhiều quan hệ với nhiều loại chủ thể khác nhau, phải
thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết, trách nhiệm có giới hạn đối với nhà nước.
Nhà nước chỉ có trách nhiệm giới hạn trong phạm vi nhà nước đầu tư vào
doanh nghiệp nhà nước.
Ngày 10/12/2003, Chủ tịch nước đã công bố Luật doanh nghiệp nhà
nước đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI
kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003.
Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 đã sửa đổi bổ sung đầy đủ hơn.
Theo điều 1 Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 quy định “ doanh nghiệp
nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có
cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước,
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”.
Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 đã có những thay đổi cơ bản:
- Doanh nghiệp nhà nước không chỉ là tổ chức do Nhà nước sở hữu vốn
mà có cả các doanh nghiệp trong đó Nhà nước có cổ phần hoặc số vốn góp
của Nhà nước nắm quyền chi phối. Như vậy gn bao gồm các loại sau:
19
Hình 1.2: Các loại hình doanh nghiệp nhà nước hiện nay
+ Công ty nhà nước độc lập, Tổng công ty nhà nước: là doanh nghiệp
do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, thành lập, tổ chức quản lý.
+ Công ty cổ phần nhà nước là công ty mà toàn bộ cổ đông là các công
ty nhà nước hoặc tổ chức được Nhà nước ủy quyền góp vốn.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên là công ty
trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước có hai thành viên trở lên: là
công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó tất cả các thành viên đều là công ty nhà

nước hoặc có thành viên là công ty nhà nước và thành viên khác là tổ chức
được nhà nước ủy quyền góp vốn.
+ Doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước: là doanh
nghiệp mà cổ phần hoặc vốn góp của Nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ,
Nhà nước giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp đó.
+ Doanh nghiệp có một phần vốn của Nhà nước: là doanh nghiệp mà
phần vón góp của Nhà nước trong vốn điều lệ chiếm từ 50% trở xuống.
- Các hình thức tổ chức của doanh nghiệp nhà nước được bình đẳng với
Doanh nghiệp
nhà nước
Công ty
nhà nước
độc lập,
Tổng
công ty
nhà nước
Công ty
cổ phần
nhà nước
Công ty
TNHH
nhà nước
một thành
viên
Công ty
TNHH
NN có hai
thành viên
trở lên
DN có

cổ phần,
vốn góp
chi phối
của Nhà
nước
Doanh
nghiệp
có một
phần
vốn góp
của nhà
nước
20
nhau tức là bất cứ doanh nghiệp nhà nước nào dù có 100% vốn của Nhà nước
hay vốn Nhà nước chỉ chi phối thì cũng bình đẳng với nhau.
- Luật chấp nhận có thể chuyển đổi hình thức từ doanh nghiệp nhà
nước thành doanh nghiệp thông thường bằng hình thức mua bán, chuyển
nhượng cổ phần. Nếu trong quá trình hoạt động, có sự vận động giữa các cổ
đông khác nhau mà Nhà nước không còn đủ số cổ phần để nắm quyền chi
phối thì doanh nghiệp đó sẽ không còn là doanh nghiệp nhà nước nữa.
- Quyền kiểm soát trở thành tiêu chí để đánh giá doanh nghiệp đó có
phải là doanh nghiệp nhà nước hay không? Tuy nhiên đây là tiêu chí mang
tính định lượng. Trong đó, quyền chi phối đối với doanh nghiệp “ là quyền
định đoạt đối với điều lệ hoạt động, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
các chức danh quản lý chủ chốt, việc tổ chức quản lý và các quyết định quản
lý quan trọng khác của doanh nghiệp đó”.
Về phương diện ngành nghề và lĩnh vực hoạt động, doanh nghiệp nhà
nước lại bao gồm nhiều loại khác nhau; ngoài lĩnh vực hoạt động kinh doanh
và hoạt động công ích như đã nêu ở trên, doanh nghiệp nhà nước còn hoạt
động theo nhiều ngành như doanh nghiệp xây dựng, doanh nghiệp tư vấn,

doanh nghiệp cung ứng vật tư thiết bị, doanh nghiệp vận tải…
1.1.4.2. Vấn đề sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước:
Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện các chủ
trương, biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp nhà nước, khi bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp và
nền kinh tế còn nhiều khó khăn, doanh nghiệp nhà nước đã vượt qua nhều thử
thách, đứng vững và không ngừng phát triển, góp phần quan trọng vào thành
tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, đưa đất nước ta ra
khỏi khủng hoảng kinh tế, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Doanh nghiệp nhà nước đã chi phối được các ngành, lĩnh vực then chốt
và phẩm chất thiết yếu của nền kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế Nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng thế và lực của
21
đất nước. Loại hình doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản
phẩm trong nước, trong tổng thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu và các công
trình hợp tác đẩu tư với nước ngoài; đây là lực lượng quan trọng trong việc
thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm nhiều
sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng và an nình.
Doanh nghiệp nhà nước ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường , năng lực
sản xuất tiếp tục tăng, cơ cấu ngày càng hợp lý hơn, trình độ công nghệ và
quản lý ngày càng tiến bộ, hiệu quả và sức cạnh tranh từng bước được nâng
lên, đời sống của người lao động từng bước được cải thiện.
- Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động tư vấn trong ngành giao thông
vận tải cũng góp phần phục vụ công cuộc đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của đất nước: nhiều công trình giao thông được thiết kế, xây dựng đã làm
đổi mới bộ mặt xã hội, mạng lưới giao thông rộng khắp tới các vùng sâu vùng
xa đã góp phần xóa đói giảm nghèo, dần xóa bỏ ranh giới giữa miền núi và
đồng bằng…
Tuy nhiên, cũng như các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp nhà

nước hoạt động trong lĩnh vực vận tải còn có những mặt hạn chế yếu kém
như: quy mô còn nhỏ, cơ cầu còn nhiều bất hợp lý, trình độ công nghệ còn lạc
hậu, quản lý còn yếu kém, chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản
xuất kinh doanh; kết quả sản xuất còn chưa tương xứng với các nguồn lực đã
có và sự hỗ trợ đầu tư của Nhà nước, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, nợ
không có khả năng thanh toán tăng lên, lao động thiếu việc làm và dôi dư còn
lớn nên hiện nay các doanh nghiệp này đang đứng trước thách thức gay gắt
của yêu cầu đổi mới, phát triển và chủ động hội nhập kinh tế.
Có một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, đó là:
+ Các doanh nghiệp nhà nước thường được thành lập từ thời kỳ kế
hoạch hóa tập trung với quy mô doanh nghiệp nhỏ, cơ cấu phân tán, trình độ
kỹ thuật công nghệ lạc hậu không đủ sức cạnh tranh trong cơ chế tị trường có
sự quản lý của Nhà nước.
+ Hệ thống pháp luật, các chính sách về kinh tế chưa hoàn chỉnh và
22
việc sửa đổi cũng chưa được tiến hành một cách nhanh chóng kịp thời, hệ
thống văn bản điều chỉnh chủ yếu là những văn bản dưới luật có nhiều quy
định còn mâu thuẫn nhau.
+ Chưa xác định rõ chức năng quản lý nhà nước với hoạt động quản lý
của doanh nghiệp nhà nước.
+ Việc quản lý tài chính, kế toán, kiểm toán, thanh tra, giám sát chưa
chuyển biến kịp trong môi trường kinh doanh mới, chưa đạt được hiệu quả
cao, còn nhiều chồng chéo.
+ Tổ chức, quản lý doanh nghiệp nhà nước hiện nay còn cồng kềnh
kém hiệu quả.
+ Việc phân bổ các doanh nghiệp theo vùng, ngành dẫn đến tình trạng
nơi có quá nhiều doanh nghiệp cùng ngành nghề nhưng có nơi lại có quá ít
doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động vận tải trong ngành giao
thông vận tải thì khó khăn càng nhiều: quy trình quy phạm thiết kế chưa hoàn

chỉnh, trình độ của cán bộ còn hạn chế trong khi kỹ thuật khoa học công nghệ
trên thế giới ngày càng cao….
Chính vì vậy, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần
thì phải đổi mới và phải sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước nói chung và các
doanh nghiệp nhà nước hoạt động vận tải nói riêng sao cho hoạt động có hiệu
quả, những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ không hiệu quả thì có thể giải thể
hoặc tuyên bố phá sản.
Với mục đích huy động thêm nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước vào
sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ cho tiến kịp trình độ công nghệ tiên
tiến trên thế giới, tạo điều kiện cho người lao động, những người góp vốn được
làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh
nghiệp kinh doanh có hiệu quả thì công ty cổ phần là một mô hình tối ưu.
Xác định mục tiêu: cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhằm tạo ra
loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao
động, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và huy động thêm
23
vốn xã hội vào phát triển sản xuất kinh doanh, tạo động lực mạnh mẽ và cơ
chế quản lý năng động, có hiệu quả cho doanh nghiệp nhà nước, phát huy vai
trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường giám sát
của xã hội đối với doanh nghiệp. Vì vậy Nghị quyết 05/NQ-TW ngày
24/09/2001 Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX đề
ra mục tiêu trong giai đoạn 2001 – 2010: “Sắp xếp, đổi mới, phát triển, nâng
cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước để doanh nghiệp
nhà nước góp phần quan trọng bảo đảm các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết
yếu của xã hội và nhu cầu cần thiết của quốc phòng, an ninh, là lực lượng
nòng cốt đẩy nhanh tưng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công
nghiêp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
1.2. Các khái niệm cơ bản về cổ phần hóa Doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm cổ phần hóa:
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là việc chuyển doanh nghiệp mà

chủ sở hữu là Nhà nước (doanh nghiệp đơn sở hữu) thành công ty cổ phần
(doanh nghiệp đa sở hữu) , chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo Luật
doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động theo các quy định về công ty cổ phần
trong Luật Doanh nghiệp.
Từ nghị quyết của Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khoá
VII (6/1992), tiếp theo đó là quyết định số 202/CT(6/1992) của Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ), rồi tới các nghị định số
28/CP(7/5/1996), 25/CP(23/7/1997) và nghị định 44/CP(29/6/1998), cổ phần
hoá luôn được Đảng và Nhà nước xác định là việc chuyển các doanh nghiệp
Nhà nước thành các Công ty cổ phần nhằm thực hiện các mục tiêu:
- Chuyển một phần sở hữu Nhà nước sang sở hữu hỗn hợp
- Huy động vốn của toàn xã hội
- Tạo điều kiện để người lao động trở thành người chủ thực sự trong
doanh nghiệp
- Thay đổi phương thức quản lý trong doanh nghiệp
24

×