Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Hướng dẫn học sinh lớp 9 làm bài văn Nghị luận về một tác phẩm truyện, một đoạn trích có hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.87 KB, 19 trang )

PHẦN I- ĐẶT VẤN ĐỀ :
i- LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “ giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp
tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia và bảo vệ Tổ quốc ”. Đứng
trước mục tiêu giáo dục đó mỗi giáo viên trong thời đại mới phải biết làm gì? Làm
như thế nào để đưa kiến thức đến cho học sinh một cách hiệu quả nhất.
Từ xưa đến nay, công việc dạy văn là một công việc hết sức khó khăn của cả thầy
và trò, bởi dạy văn , học văn trước hết phải cảm được văn. Và muốn “cảm ” được thì
người dạy và người học phải thật yêu và hiểu nó. Lí luận văn học đã chỉ rõ rằng:
Văn học chính là bộ môn nghệ thuật, nếu như người nhạc sĩ nhờ vào âm thanh, ng-
ười hoạ sĩ nhờ vào sắc màu, đường nét, hình khối để thể hiện tác phẩm của mình thì
văn học lại lấy ngôn từ làm chất liệu. Song ngôn từ văn học lại có thể chất chứa đ-
ược cả âm thanh, đường nét, hình khối mà không phải bộ môn nghệ thuật nào cũng
làm được.
Một tác phẩm văn học ra đời chính là thành quả của việc “mang nặng, đẻ
đau” của nhà văn. Đứa con tinh thần ấy ra đời mang dấu ấn của lịch sử, của thời
đại và nó phản ánh một cách sâu sắc tâm tư, tình cảm, thái độ của nhà văn. Chính
vì thế, việc tiếp cận văn bản không phải là một việc làm bình thường mà nó phải
phụ thuộc nhiều yếu tố. Những tác phẩm văn học đã được nhà văn tổ chức một
cách khéo léo và tinh vi nhằm tạo nên những cách nói hay và có hiệu quả. Vậy mà
trong thời đại hiện nay, văn học dường như dần bị lãng quên bởi có rất nhiều lí do,
mà xét cho cùng thì lí do nào cũng có sự biện minh chính đáng của nó. Chính vì
thế, chúng tôi- những người trực tiếp chuyển tải thông điệp của tác giả- nhà văn
đến tầng lớp trẻ để họ hiểu hơn qua công việc đọc- hiểu và quan trọng hơn nữa là
giúp các em viết ra được những suy nghĩ của mình khi học tác phẩm ấy.
Hướng dẫn học sinh làm bài văn Nghị luận về một tác phẩm truyện,
một đoạn trích có hiệu quả
1



Dạng bài “Nghị luận về một tác phẩm truyện hoặc đoạn trích’’ là một dạng mà
tôi rất tâm đắc, bởi chính nhờ dạng bài này học sinh mới có thể tự do trình bày hết
những cảm xúc của mình. Đồng thời đây chính là kiểu bài giúp người đọc, người
nghe đánh giá, thể hiện một quan điểm nào đó, có thể là yêu, ghét, đúng, sai…
nhưng cái chính là làm sao để họ bảo vệ được ý kiến của mình.
Trong cụm bài nghị luận của chương trình Ngữ văn THCS hiện nay có các kiểu
bài: + Nghị luận về tư tưởng, đạo lý
+ Nghị luận về sự việc đời sống
+ Nghị luận văn học ( trong dạng bài nghị luận về văn học gồm : nghị luận về
tác phẩm truyện hoặc đoạn trích và nghị luận về một bài thơ, một đoạn thơ).
Đã mười năm làm công tác giảng dạy bộ môn ngữ văn , tiếp xúc nhiều đối
tượng học sinh tôi tự nhận thấy một điều rằng học sinh chưa có được những hiểu biết
cụ thể về một tác phẩm văn học , chưa thấy được ý tứ mà nhà văn gửi gắm đằng sau
nó . Một điều nữa là đối tượng học sinh của tôi thuộc vùng khó khăn , không có tài
liệu học tập đầy đủ không có những tác phẩm văn học ngoài sách giáo khoa để tham
khảo , học hỏi và vận dụng . Do vậy số lượng học sinh làm được một bài văn đúng
yêu cầu của người giáo viên là rất ít , mà hầu hết các em chưa tự làm chủ được kiến
thức và vận dụng được kiến thức mình đã chắt lọc được vào bài viết của mình .
Trong lúc đó học sinh lại chưa hiểu đúng bản chất của bộ môn , môn học này vốn
gần gũi với cuộc sống , mà cuộc sống bao giờ cũng phức tạp , bề bộn nhưng lại vô
cùng phong phú , hấp dẫn con người buộc chúng ta phải tìm hiểu , phải khám phá .
Như vậy , để khám phá được văn học thì người học sinh phải có sự tìm hiểu về cuộc
sống xung quanh mình . Nhưng đó lại là một điều vô cùng khó khăn bởi chúng ta cứ
quan niệm rằng : học văn phải có năng khiếu . Vậy người không có năng khiếu thì
không học được văn ? Đó là câu hỏi khó khăn nhất đặt ra cho môĩ người giáo viên
trong thời kì mới . Vậy thì làm thế nào để học sinh cảm thụ được một tác phẩm văn
Hướng dẫn học sinh làm bài văn Nghị luận về một tác phẩm truyện,
một đoạn trích có hiệu quả
2

học và biến dòng suy nghĩ của mình thành một bài tập làm văn tốt lại là việc làm của
mỗi giáo viên văn học.
Đứng trước yêu cầu của việc học văn hiện nay , tôi tự thấy rằng bản thân mình cũng
như các giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn nói chung phải có trách nhiệm giúp
học sinh yêu thích bộ môn và đồng thời viết ra được những cảm xúc của bản thân về
tác phẩm mình vừa học.
Do những vấn đề nêu trên, tôi tự nhận thấy rằng mình nên mạnh dạn trao đổi với bạn
bè đồng nghiệp những gì mình băn khoăn, những gì mình đã làm để được nhận lại
những lời đóng góp để cho bộ môn nói chung và dạng bài nghị luận nói riêng có
hiệu quả hơn nữa.
PHẦN II- NỘI DUNG
II.1- CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Thực ra đây không phải là một phát hiện mới , đồng thời nó cũng không phải là
vấn đề chưa có ai nói đến . Mà đây là vấn đề được rất nhiều giáo viên quan tâm bởi
thực trạng của học sinh hiện nay dường như các em thờ ơ với bộ môn ngữ văn. Các
em cho rằng bộ môn này khó học , khó viết , nhất là cụm bài nghị luận .
Trong chương trình cũ, cụm bài nghị luận không được phân chia nhỏ
thành các dạng như : nghị luận về một hiện tượng , sự việc ; nghị luận về tư tưởng
đạo lí ; nghị luận về một tác phẩm , một đoạn trích Mà lại được bố trí thành các
dạng : Bình luận , phân tích , chứng minh . Bởi vậy học sinh cứ bị ràng buộc trong
một kiểu nhất định . Đề nghị luận trong chương trình mới hiện nay hầu hết là dạng
đề mở phát huy được hết năng lực sáng tạo của học sinh , kích thích được tư duy suy
nghĩ của các em . Không chỉ lên lớp 9 các em mới được làm quen với văn nghị luận
mà ngay từ lớp 7 đã được học . Ở lớp 7 nội dung chủ yếu là giúp học sinh tìm hiểu
chung về văn nghị luận , nhu cầu nghị luận trong đời sống và hướng dẫn học sinh
nắm được bố cục và phương pháp lập luận trong bài nghị luận. Lên lớp 8 kiểu bài
Hướng dẫn học sinh làm bài văn Nghị luận về một tác phẩm truyện,
một đoạn trích có hiệu quả
3
này lại được chú trọng trong việc xây dựng luận điểm , kĩ năng xây dựng và trình

bày
luận điểm . Đồng thời trong bài văn nghị luận ở lớp này các em được tìm hiểu các
yếu tố biểu cảm , miêu tả và tự sự trong văn nghị luận . Còn ở lớp 9 , các em được
nâng cao hơn với các nội dung mới đó là các văn bản nghị luận xã hội và nghị luận
văn học . Điểm đáng chú ý trong chương trình lớp 9 này là các em được cung cấp
đầy đủ tri thức để làm một bài văn nghị luận về tác phẩm văn học . Nhưng để làm
được một bài văn nghị luận hiệu quả thì bắt buộc các em phải có kiến thức sâu rộng
trong cuộc sống. Ngay từ trong các văn bản đưa vào SGK mới này, ngoài những văn
bản cũ như: Hịch tướng sĩ( Trần Quốc Tuấn); Bình Ngô đại cáo( Nguyễn Trãi)…
cho
đến chương trình SGK mới thì hầu hết dạy đến phần nào cũng có dạng bài nghị luận
tương ứng .
II.2- THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY:
Hiện nay, việc học văn không còn là sự hứng thú của học sinh. Theo khảo sát
của bản thân tôi trong khi giảng dạy thì hơn 50% học sinh đều có nhận xét: Chúng
em không thích học văn. Cái lí do các em đưa ra cũng không nằm ngoài những nhận
định của các nhà giáo dục hiện nay là: Không có trường thi nào hấp dẫn, bên cạnh
đó các em còn cho biết học văn khó…
Đối với thực trạng của chúng tôi đó là một khó khăn rất lớn, học sinh chúng tôi
hầu hết là con em nông thôn, sách tham khảo không có, địa bàn bán sơn địa không
có cả thư viện để các em có thể tham khảo thêm. Bên cạnh đó, trào lưu của học sinh
hiện nay lại thích đọc truyện tranh, không để ý đến các câu truyện có tính nhân văn
bởi vậy năng lực cảm thụ không có nên ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả viết bài.
Trong lúc đó giáo viên giảng dạy lý thuyết khi bản thân mình cũng chưa thông
hiểu, còn học sinh thì không thu nhận được bao nhiêu điều thiết thực trong công việc
làm một bài văn trong suốt thời gian học. Thực trạng hiện nay là làm văn theo lối
Hướng dẫn học sinh làm bài văn Nghị luận về một tác phẩm truyện,
một đoạn trích có hiệu quả
4
sao chép bởi thế nên kết quả không cao, không mang được dấu ấn cá nhân trong bài

viết của mình.
Một điều nữa mà tôi nhận thấy rằng học sinh chưa phân biệt được các phương
pháp làm bài, các em còn nhầm lẫn giữa cảm nhận với suy nghĩ hoặc phân tích. Do
vậy
khi gặp bài viết nào có nhan đề về tác phẩm cần tìm thì ngay lập tức các em chép
vào bất kể đó là cảm nhận hay phân tích , cả tác phẩm hay một khía cạnh, một vấn
đề…
Đứng trước thực trạng đó, là một giáo viên Ngữ văn, bản thân tôi luôn lo lắng,
trăn trở làm sao để nâng cao chất lượng và giúp các em có thêm lòng say mê văn
học? Và
tôi biết rằng đó không thể là việc làm của cá nhân mà phải có sự đồng thuận của rất
nhiều các bạn bè, đồng nghiệp khác.
II.3- CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
Để giúp học sinh làm được một bài văn có hiệu quả không phải là ngày một
ngày hai , không phải người giáo viên muốn là được mà đó là cả quá trình áp dụng .
Không phải áp dụng là được ngay mà cũng không có ít thất bại , cũng đã có lần bản
thân tôi chấm bài của các em trong tâm trạng chán nản , rồi lại phê vào với lời nhận
xét là : '' Không hiểu bài '' nhưng rồi lại nghĩ : Không hiểu bài là do đâu ? Phải
chăng điều đó phản ánh rằng mình đã không làm tròn trách nhiệm của một giáo viên
dạy văn ? Qua những lần như thế tôi đã tự tìm ra một phương pháp riêng để có thể
giúp học trò của mình hứng thú hơn trong việc học văn , đồng thời các em có thể
điều chỉnh được suy nghĩ của mình để làm một bài văn có hiệu quả.
a - Hướng dẫn học sinh hiểu đúng về văn nghị luận
Muốn viết được bài văn nghị luận điều đầu tiên học sinh phải hiểu thế nào là
nghị luận ? Và muốn học sinh hiểu được thì đó lại là nhiệm vụ của người giáo viên:
Hướng dẫn học sinh làm bài văn Nghị luận về một tác phẩm truyện,
một đoạn trích có hiệu quả
5
Giáo viên phải giúp học sinh hiểu một cách sơ lược văn nghị luận là loại văn
được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một quan điểm nào đó. Muốn

thế, văn nghị luận phải có luận điểm rõ ràng, có lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục.
Từ cách hiểu ấy giáo viên phải hướng cho được học sinh cách tiếp cận một tác
phẩm văn học để rồi học sinh biết nhận ra cái hay , cái đẹp mà nhà văn đã gửi gắm
trong
đó . Bởi tác phẩm văn học là kết quả của những xúc động cao độ mà nhà văn đã thể
hiện . Ở đó , chúng ta bắt gặp những trạng thái, cảm xúc mà thực ra ta cũng có
nhưng không nói được nên lời :
Một niềm vui , nỗi đau , một tâm trạng chán chường hay thất vọng , một sự uất ức
hay sự căm giận tất cả đã được nhà văn gửi gắm vào tác phẩm của mình . Nói như
thế có nghĩa là văn học là quy luật của tình cảm , suy cho cùng đó là chuyện của con
tim . Có một nhà thơ đã từng nói : Hãy đập vào tim anh , thiên tài là ở đó . Chính vì
thế , dù dưới dạng hình thức nào , trực tiếp hay gián tiếp , qua tác phẩm văn học
chúng ta đều nhận ra được tình cảm , tư tưởng và thái độ của người viết . Nhiệm vụ
của mỗi người học sinh là phải làm sao để thứ tình cảm cuả nhà văn lộ ra qua cách
cảm nhận của mình .
b- Hướng dẫn học sinh làm bài
Một bài văn thông thường có bố cục ba phần , và như vậy bài văn nghị luận
về một tác phẩm , một đoạn trích cũng không nằm ngoài quy luật đó . Nhưng để làm
bài có hiệu quả chất lượng , người giáo viên phải hướng dẫn các em theo các trình tự
sau :
- Đọc kĩ đề bài
- Xác định yêu cầu đề
- Xác định kiểu bài
- Xác định những tri thức mà mình cần cung cấp
Hướng dẫn học sinh làm bài văn Nghị luận về một tác phẩm truyện,
một đoạn trích có hiệu quả
6
- Sử dụng những luận cứ , luận chứng phù hợp
- Tài liệu liên quan
Điều đặc biệt , trong bài văn nghị luận về một tác phẩm , một đoạn trích thì một

điều không thể bỏ qua đó là học sinh phải thuộc tác phẩm ( đối với thơ ) , nhớ được
một cách chính xác các chi tiết ( đối với truyện ) . Có được như vậy thì bài văn mới
có hiệu quả . Cách đây mấy năm , khi ra đề cho học sinh : cảm nhận của em về nhân
vật anh thanh niên trong đoạn trích '' Lặng lẽ Sa Pa '' , vì không nhớ chi tiết nên khi
chấm bài giáo viên không khỏi sửng sốt vì những sáng tạo '' mới '' không có trong
tác phẩm được học của học sinh . Muốn giúp các em làm bài tốt thì giáo viên phải
truyền thụ như thế nào về các văn bản mà rồi đây những văn bản ấy lại được các em
bộc lộ tình cảm , thái độ , nhận xét của mình ?
Trong chương trình trước đây phân môn tập làm văn luôn coi trọng nghị luận
xã hội thì trong những năm gần đây lại chủ yếu thiên về nghị luận văn chương . Đối
với dạng bài này khi hướng dẫn cho học sinh làm bài , giáo viên cần chú trọng hơn
nhiều trong cách hướng cho học sinh tìm hiểu ngay từ khâu đầu tiên là tìm hiểu đề .
Muốn có bài viết hiệu quả thì phần mở bài chiếm một phần quan trọng trong bài, bởi
qua mở bài giáo viên có thể đánh giá được năng lực của học sinh . Khi hướng dẫn
học sinh làm bài , một nguyên tắc không bao giờ quên đó là giáo viên cần phải lưu ý
cho học sinh đối tượng và vấn đề mình viết là gì ? Ngay Chủ tịch Hồ Chí Minh của
chúng ta , trước lúc viết Người thường đặt ra câu hỏi : Viết cho ai ? Viết để làm gì ?
Viết cái gì ? và Viết như thế nào ? Vì vậy , trước lúc cầm bút để viết học sinh cũng
cần xác định đúng vấn đề mà mình sẽ viết trong bài.
Điều đầu tiên trong một bài văn chính là cách mở bài , nhiều học sinh cho rằng mở
bài là khó nhất điều đó cũng đúng bởi nếu vào bài sai thì cả bài văn sẽ không đi
đúng hướng. Và như vậy vô tình học sinh đã làm cho vốn văn học của mình bị mai
một đi . Có nhiều cách để mở bài có hiệu quả , một trong những cách mà học sinh dễ
dàng để
Hướng dẫn học sinh làm bài văn Nghị luận về một tác phẩm truyện,
một đoạn trích có hiệu quả
7
làm nhất đó là mở bài trực tiếp . Vậy thế nào là mở bài trực tiếp ? Để giúp học sinh
hiểu được mở bài trực tiếp thì giáo viên phải nói rõ cho các em mở bài trực tiếp tức
là cách giới thiệu ngay vấn đề cần nghị luận ( đi thẳng vào vấn đề )

VÍ DỤ : Cho đề bài : Diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo
giặc ( Trích Làng - Kim Lân ) học sinh có thể vào bài trực tiếp như sau :
Nói đến tình yêu quê hương đất nước của người nông dân trong thời kì
chống Pháp người ta lại nhớ ngay đến '' làng '' của nhà văn Kim Lân . Ở đó
nhà văn đã diễn tả một cách sinh động tâm trạng của nhân vật ông Hai khi
nghe tin làng chợ Dầu của ông theo giặc .
Cách vào bài trực tiếp tuy ngắn gọn nhưng người viết đã chuyển tải được
những thông tin cần thiết mà đề bài yêu cầu như : tác giả , tác phẩm và vấn đề cần
nghị luận .
Điểm cần chú ý là với dạng mở bài này học sinh tránh được bệnh dài dòng , một
điểm nữa là cách mở bài trực tiếp được áp dụng cho tất cả đối tượng học sinh . Giáo
viên phải kiên nhẫn tập cho học sinh viết từng câu , từng đoạn , điều này được làm
rõ trong các tiết học về cách làm bài văn nghị luận .
Đối với học sinh khá hơn ( trong lớp có nhiều đối tượng ) giáo viên hướng dẫn cho
học sinh cách viết mở bài gián tiếp . Với cách vào bài gián tiếp đòi hỏi học sinh phải
có vốn văn học phong phú , đọc nhiều và biết vận dụng các tác phẩm có cùng chủ đề
cùng thời gian sáng tác ( sử dụng phương pháp so sánh đồng đại ) .
Cũng với đề bài trên các em có thể vào bài như sau :
Đề tài về quê hương đất nước được rất nhiều nhà văn , nhà thơ thể hiện
trong những tác phẩm của mình . Mỗi tác phẩm đưa đến cho người đọc một
cách cảm nhận khác nhau và cách nhân vật trong mỗi tác phẩm cũng thể hiện
tình yêu khác nhau . Nhà thơ Tế Hanh thể hiện tình cảm của mình đối với con
sông quê hương một cách đặc biệt :
Hướng dẫn học sinh làm bài văn Nghị luận về một tác phẩm truyện,
một đoạn trích có hiệu quả
8
Tôi hôm nay sống trong lòng Miền Bắc
Sờ lên ngực nghe trái tim thầm nhắc
Hai tiếng thiêng liêng hai tiếng Miền Nam
Và tình yêu của ông Hai trong đoạn trích '' Làng '' của nhà văn Kim Lân cũng

được thể hiện một cách sinh động qua tình huống ông Hai nghe tin làng chợ
Dầu của ông theo giặc .
Cách mở bài theo cách gián tiếp thường dài dòng nhưng đánh giá được năng lực về
văn học của các em .
Sau khi hướng dẫn học sinh viết phần mở bài giáo viên cần tiếp tục định hướng cho
học sinh những tri thức cần thiết để viết phần thân bài . Điều bắt buộc ở học sinh
trong lúc này là phải nhớ hết những chi tiết trong tác phẩm ( nếu là truyện )
và chú ý đến ngôn ngữ , hình ảnh , các biện pháp nghệ thuật ( nếu là thơ ) . Có được
như thế thì các em mới tự tin làm chủ được bài viết của mình .
Một điều mà giáo viên cần chú ý khi ra đề cho học sinh là tránh ra đề có ở các sách
tham khảo bởi như thế vô tình giáo viên tạo điều kiện cho học sinh chép trong các
sách tham khảo mà không phát huy được tính tích cực , sáng tạo của học sinh như
phương pháp dạy học mới yêu cầu . Trong phần thân bài giáo viên hướng dẫn học
sinh sử dụng các phép lập luận như : phép giải thích , phân tích , chứng minh…
đồng thời sử dụng tốt các phép liên kết câu , liên kết đoạn để bài viết chặt chẽ , hấp
dẫn bạn đọc .
Với đề bài đã cho như trên , giáo viên yêu cầu học sinh nhớ các chi tiết sau để phục
vụ trong phần bài làm : Ông Hai nghe tin làng chợ Dầu của ông theo giặc trong
tình huống nào ? Tâm trạng của ông trong tình huống này là gì ? Khi
nghe tin thái độ của ông như thế nào ? Phản ứng ra sao ? Những chi tiết nào
cho thấy ông rất sững sờ khi đón nhận tin dữ ấy ? Qua đó em thấy được cách
miêu tả của ngòi bút Kim Lân như thế nào ?
Hướng dẫn học sinh làm bài văn Nghị luận về một tác phẩm truyện,
một đoạn trích có hiệu quả
9
Việc học sinh giải quyết được các câu hỏi đó đồng nghĩa với việc các em thực hiện
được yêu cầu nghị luận về diễn biến của tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng chợ
Dầu theo giặc .
Việc khó nhất của học sinh trong lúc này là cách dựng đoạn và làm cho các đoạn
liên kết với nhau nhằm giúp bài văn có tính liên kết . Với phần này giáo viên hướng

dẫn các em viết cụ thể từng đoạn một , sau khi viết từng đoạn giáo viên hướng dẫn
các em sử dụng các từ ngữ có tính liên kết nhằm giúp các đoạn liên kết lại với nhau
có hệ thống .
Như vậy đối với người học sinh khi viết bài phải nhắm đến hai đối tượng cụ thể :
+ Tập trung làm sáng tỏ vấn đề về nội dung theo yêu cầu của đề .
+ Hình thành và rèn luyện cách trình bày , cách thể hiện , cách thuyết phục một
đối tượng nào đó mà đề yêu cầu .
Yêu cầu trong bài văn nghị luận thường khắt khe hơn các kiểu bài khác , bởi văn
nghị luận là loại văn của tư duy , khái niệm , của lôgíc nên ý tứ thường sáng sủa ,
chặt chẽ , lập luận phải chắc chắn , bảo đảm độ chính xác cao , giàu sức thuyết phục
đối với trí tuệ .
Nói như vậy không có nghĩa là văn nghị luận khô khan mà thực ra nó cũng cần có sự
uớt át , mềm mại trong đó . Một bài văn nghị luận hay phải là bài viết có hình ảnh,
có tâm trạng , điều đó người học sinh cần chú ý phải hoá thân vào nhân vật thì mới
chắt lọc hết được điều gửi gắm của tác giả . Một biện pháp cơ bản nhất để tạo nên
bài viết có hình ảnh là người viết dùng phép so sánh , liên hệ , đối chiếu .
Như vậy thì khi hướng dẫn học sinh viết phần thân bài là công đoạn khó
khăn nhất của người giáo viên , bởi từ đây bao nhiêu sự hiểu biết , bao nhiêu sự cảm
nhận của học sinh về văn bản được bộc lộ . Trong văn nghị luận , lập luận là sự tổ
chức các lí lẽ và dẫn chứng nhằm làm sáng tỏ vấn đề , để cho người đọc hiểu , tin và
đồng tình với quan điểm của mình . Muốn lập luận cho chặt chẽ , kín cạnh , khi viết
Hướng dẫn học sinh làm bài văn Nghị luận về một tác phẩm truyện,
một đoạn trích có hiệu quả
10
giáo viên càn chỉ rõ cho học sinh nên đặt mình vào địa vị của người đọcvà giả định
nếu người
đọc không cùng một ý nghĩ với mình thì người viết phải lập luận cho hết nhẽ . Vì thế
trong văn nghị luận thường có cuộc đối thoại ngầm diễn ra giữa người viết và bạn
đọc . Do yêu cầu của lập luận mà bài văn nghị luận ít dùng những loại câu mô tả ,
câu trần thuật kể lể mà chủ yếu sử dụng loại câu khẳng định và câu phủ định với nội

dung hầu hết là những phán đoán hoặc nhận xét , đánh giá sâu sắc .
Khi hướng dẫn cho học sinh sử dụng luận cứ và cách trình bày các luận cứ thì
giáo viên cần nói rõ cho học sinh hiểu một điều rằng : Lí lẽ giúp người ta hiểu ,
luận cứ
giúp người ta tin , một khi đã hiểu và tin tức là đã làm cho người ta bị thuyết phục .
Trong bài văn nghị luận , luận cứ có hai loại :
+ Luận cứ bắt buộc , tức là những luận cứ nằm trong phạm vi của đề
bài .
+ Luận cứ mở rộng , tức là những luận cứ nằm ngoài phạm vi nhưng
người viết sử dụng để đối chiếu , so sánh nhằm giúp bài viết sâu sắc hơn .
Như vậy công việc của phần thân bài rất nặng nề , học sinh phản ánh sự tiếp nhận
của mình được thể hiện rõ trong phần này .
Cuối cùng , giáo viên hướng dẫn học sinh viết kết luận cho bài viết . Phần này
cũng là phần quan trọng bởi sau quá trình đánh giá , phân tích thì đến đây học
sinh có nhiệm vụ tổng kết lại những điều mình đã viết ở trên . Việc viết tổng kết là
đánh giá năng lực tổng hợp của học sinh , giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng
phép tổng hợp để tổng kết lại vấn đề .
Sau khi hướng dẫn học sinh trình bày các phần như trên , giáo viên cần hướng dẫn
các em cách kiểm tra lại bằng cách sau :
+ Học sinh đổi bài cho nhau - đây là hình thức giúp các em nhận ra được
những lỗi thường gặp của mình như : dấu câu , chính tả , lỗi dùng từ , đặt câu .
Và cuối cùng là một bài soạn mà tôi đã thực hiện:
Hướng dẫn học sinh làm bài văn Nghị luận về một tác phẩm truyện,
một đoạn trích có hiệu quả
11
CÁCH LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VỀ TÁC PHẨM TRUYỆN HOẶC
ĐOẠN TRÍCH
A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
Giúp học sinh:
- Nắm lại kiến thức về văn nghị luận về một tác phẩm truyện, một đoạn trích

- Biết cách viết bài nghị luận về tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích ).
- Rèn luyện kĩ năng các bước khi làm bài nghị luận về tác phẩm truyện
(hoặc đoạn trích ) cách tổ chức, triển khai các luận điểm.
B. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG TIỆN:
- SGK, SGV, sách bài tập, sách tham khảo.
- Giáo án.
C. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
1. ổn định lớp:
2. Bài cũ : Nêu khái niệm về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) ?
3. Bài mới : GV giới thiệu mục tiêu tiết học.
Hoạt động của GV và HS Kiến thức cần đạt
GV treo bảng phụ có ghi các VD ở SGK
GV gọi HS đọc các đề bài
Đề 1: Suy nghĩ về thân phận người phụ
nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ
Nương ở Chuyện người con gái Nam
Xương của Nguyễn Dữ.
Đề 2: Phân tích diễn biến cốt truyện
I. Đề bài nghị luận về tác phẩm truyện
(hoặc đoạn trích ).
Hướng dẫn học sinh làm bài văn Nghị luận về một tác phẩm truyện,
một đoạn trích có hiệu quả
12
trong truyện ngắn Làng của Kim Lân.
Đề 3: Suy nghĩ về thân phận Thuý Kiều
trong đoạn trích Mã Giám sinh mua
Kiều của Nguyễn Du.
Đề 4: Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia
đình trong chiến tranh qua truyện ngắn
Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang

Sáng
? Quan sát các đề, hãy cho biết đề bài
gồm mấy phần?
? Tìm vấn đề cần nghị luận trong các đề
trên?
? Phát hiện những điểm khác nhau của
phần yêu cầu trong 4đề trên?
( Đề1- Yêu cầu nêu suy nghĩ ; Đề 2-
Yêu cầu phân tích ; Đề 3- Yêu cầu nêu
suy nghĩ ; Đề 4- Nêu suy nghĩ.
Đề bài gồm 2phần:
+ Phần yêu cầu
+ Phần nội dung nghị luận
Vấn đề nghị luận:
Đề1: Thân phận người phụ nữ trong xã
hội cũ qua nhân vật Vũ Nương.
Đề2: Diễn biến cốt truyện Làng.
Đề3: Thân phận Kiều trong Mã Giám
Sinh mua Kiều.
Đề4: Đời sống tình cảm gia đình trong
chiến tranh qua Chiếc lược ngà.
Hướng dẫn học sinh làm bài văn Nghị luận về một tác phẩm truyện,
một đoạn trích có hiệu quả
13
? Vậy các từ “ suy nghĩ, phân tích”
trong đề đòi hỏi bài làm phải khác nhau
như thế nào?
( Suy nghĩ: là cách nêu nhận xét của bản
thân về tác phẩm trên một tư tưởng, một
góc nhìn, một khía cạnh.

Phân tích: Đánh giá về nội dung, nghệ
thuật của tác phẩm)
?. Em hãy nêu các bước làm bài văn
nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn
trích) ?
?. Em hãy nêu các nét chính ở mở bài ?
?. Nêu ý chính ở phần thân bài?
? Nêu ý chính ở phần kết bài ?
II. Các bước làm bài nghị luận về tác
phẩm truyện (hoặc đoạn trích).
Đề bài: Suy nghĩ về nhân vật ông Hai
trong truyện ngắn “ Làng “ của Kim
Lân?
1. Tìm hiểu đề và tìm ý:
- HS đọc yêu cầu ở SGK.
- GV hướng dẫn HS trả lời các câu hỏi.
2. Lập dàn bài.
a. Mở bài : Giới thiệu truyện ngắn “
Làng
“ và nhân vật ông Hai - nhân vật chính
của tác phẩm.
b. Thân bài :
- Gọi HS đọc ở SGK.
- GV lưu ý các điểm chính ở phần thân
Hướng dẫn học sinh làm bài văn Nghị luận về một tác phẩm truyện,
một đoạn trích có hiệu quả
14
- GV gọi HS đọc phần tham khảo mở
bài ở SGK.
- GV chia lớp thành 2 nhóm :

+ Nhóm 1: Viết đoạn 1 ở phần thân bài.
+ Nhóm 2 : Viết đoạn 2 phần thân bài.
- HS đọc ở SGK.
?. Yêu cầu HS đọc các lại phần mở bài,
thân bài, kết bài?
- GV khái quát nội dung bài học.
HS đọc ghi nhớ ở SGK
bài.
c. Kết bài : Sức hấp dẫn của hình tượng
nhân vật. Thành công của nhà văn khi
xây dựng nhân vật ông Hai.
3. Viết bài
a. Mở bài :
- HS xem phần mở bài ở SGK.
- GV lưu ý 2 cách mở bài: mở bài trực
tiếp và gián tiếp.
- Đi từ khái quát đến cụ thể
- Nêu trực tiếp suy nghĩ của người viết.
b. Thân bài:
- HS đọc yêu cầu ở SGK.
- Các nhóm làm việc, đại diện các nhóm
trình bày.
c. Kết bài: HS đọc ở SGK.
4. Đọc lại bài viết và sửa chữa
- HS đọc lại.
Sửa các lỗi.
HS đọc ghi nhớ ở SGK
Sau khi cho học sinh tìm hiểu cách làm bài ở đề bài trong SGK. GV tiếp tục đưa ra
một dạng đề khác nhằm giúp học sinh hình thành được cách làm bài.
Hướng dẫn học sinh làm bài văn Nghị luận về một tác phẩm truyện,

một đoạn trích có hiệu quả
15
Cho đề bài: Cảm nhận của em về nhân vật ông Sáu trong truyện “Chiếc lược
ngà ” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.
GV hướng dẫn HS tìm hiểu đề bài:
Đề yêu cầu nêu cảm nhận.
Sau đó hướng dẫn HS hình thành dàn bài:
Mở bài: + Giới thiệu được tác giả, tác phẩm, nhân vật được đề cập.
+Cảm nhận chung về nhân vật: Là một người cha thương con hết mực và
là một người cách mạng chân chính.
Thân bài: Trả lời theo các câu hỏi sau:
+ Ông Sáu về nhà trong hoàn cảnh nào?
+ Tâm trạng của ông khi trở về nhà?


+ Nhìn thấy con gái bé bỏng của mình, thái độ, cử chỉ của ông ra sao?
+ Khi đứa con vụt bỏ chạy, tâm trạng ông như thế nào? Tìm những chi tiết
thể hiện điều đó? ( hai cánh tay ông buông thõng xuống như bị gãy, vết thẹo trên má
ông đỏ ửng lên , giật giật…)
+ Những ngày tiếp theo, thái độ của ông như thế nào?
+ Lúc chia tay gia đình và đứa con gái bé bỏng, thái độ của ông ra sao?
+ Khi đứa con kêu thét lên gọi ba, niềm xúc động của ông được thể hiện qua
chi tiết nào?
+ Vào khu căn cứ, tình cảm của ông dành cho con được thể hiện qua việc làm
nào?
Tuy nhiên, sau khi trả lời được các câu hỏi chính là giúp học sinh hệ thống lại được
các chi tiết quan trọng trong bài. Đây là một việc làm không chỉ giúp các em phục vụ
cho bài viết hiện tại mà còn giúp cho các em nhớ được lâu hơn, phục vụ được nhiều
hơn khi làm các bài văn khác có cùng đề tài. Từ đó học sinh phải khái quát được
Hướng dẫn học sinh làm bài văn Nghị luận về một tác phẩm truyện,

một đoạn trích có hiệu quả
16
cảm nhận của bản thân về một người cha yêu thương con hết mực, chiến tranh đã
làm cho cha con họ phải xa cách nhau. Song tình yêu con của ông là bất diệt.
Kết bài: Trình bày suy nghĩ của em về nhân vật. Khẳng định vẻ đẹp của gia đình.
Điều khó cho học sinh là phải phân biệt được: Suy nghĩ, cảm nhận và phân
tích. Thường học sinh sa vào kể chuyện vì vậy giáo viên cần chú ý giúp học sinh
nhận diện đúng cách làm. Nếu là phân tích tác phẩm, cần làm rõ cho học sinh thấy
được cách đánh giá tác phẩm cả về nội dung lẫn nghệ thuật của tác phẩm ấy. Nếu là
suy nghĩ, thì với đề này giáo viên giúp học sinh làm chủ được những điều mà bản
thân học sinh trăn trở có thể bộc lộ được một cách rõ ràng hơn của một khía cạnh,
một phương diện của văn bản.
Từ việc giúp học sinh làm dàn bài chi tiết như thế này, người giáo viên đã tạo được
hứng thú trong việc viết bài cho các em. HS chỉ cần thêm “ phần thịt ” vào để hoàn
thành bài viết của mình. Song cách lắp vào cũng cần có sự tham gia của ngôn ngữ
văn chương, nó đòi hỏi cảm xúc chân thành xuất phát từ người viết, như một nhận
xét nào đó nói rằng: Cái gì xuất phát từ trái tim sẽ đi đến trái tim. Và bài văn được
viết ra từ dòng cảm xúc chân thành của người viết chắc chắn sẽ đi vào lòng người
đọc bằng những tình cảm thiết tha nhất. Làm văn vốn là quá trình sáng tạo của cá
nhân học sinh, là một cơ hội để học sinh bộc lộ được rõ nét nhất, tập trung nhất vốn
hiểu biết nhiều mặt cùng tư duy, năng lực sáng tạo, năng lực hoạt động ngôn ngữ
nên khi đánh giá bài viết của học sinh, giáo viên phải tìm được những tình cảm tự
nhiên của các em, từ đó giúp các em tự tin hơn trong bài viết của mình.
Một vấn đề nữa tôi muốn chia sẻ với bạn bè đồng nghiệp chính là ở khâu ra đề. Đề
văn tốt phải sát với học sinh, gây hứng thú cho học sinh và đảm bảo tính khoa học.
Đề văn tốt tạo sức bật cho quá trình sản sinh văn bản, chính đề văn hay sẽ giúp cho
học sinh đi vào văn bản một cách hứng thú.
PHẦN III- KẾT LUẬN
Hướng dẫn học sinh làm bài văn Nghị luận về một tác phẩm truyện,
một đoạn trích có hiệu quả

17
C . KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Qua quá trình giảng dạy trước và sau khi áp dụng tôi nhận thấy rằng trước đây
khi mới bắt đầu dạy lớp 9, do chưa có kinh nghiệm nên học sinh vẫn chưa biết cách
phân biệt và làm bài văn chưa có hiệu quả. Ba năm tiếp theo tiếp tục giảng dạy lớp 9
tôi đã áp dụng cho học sinh cách học, cách ra đề, cách tiếp cận văn bản tôi nhân thấy
bước đầu học sinh đã nắm được kiến thức về văn nghị luận , đồng thời các em đã
biết làm một bài văn nghị luận một tác phẩm hoặc một đoạn trích . Và chính cách
hướng dẫn học sinh theo cách này tôi đã nhận đượpc một kết quả không ngờ tới là
học sinh nhớ tác phẩm rất lâu, phát hiện tốt những chi tiết cần nhớ của văn bản. Ba
năm liên tục giảng dạy bộ môn ngữ văn 9 tôi thấy các em có tiến bộ nhiều hơn trong
cách diễn đạt. 70% học sinh phân biệt rõ được các dạng đề: Phân tích, suy nghĩ, cảm
nhận và làm đạt yêu cầu.
D. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Sau thời gian giảng dạy dạng bài này và thu được kết quả như trên tôi rút ra được bài
học cho bản thân mình như sau:
- Đối với học sinh :
+ Phải đọc văn bản nhằm tạo hứng thú cho mình , nắm được những chi tiết
chính .
+ Phải có năng lực văn chương . Năng lực ở đây không phải là năng khiếu
mà là sự thích ứng , hứng thú và trí tưởng tượng . Biết cảm nhận , chỉ ra được cái
hay cái đẹp của tác phẩm một cách chính xác .
+ Khả năng trình bày , diễn đạt những suy nghĩ của mình một cách mạch
lạc .
- Đối với giáo viên:
+ Phải là người có giọng đọc truyền cảm. Có như thế mới có thể chuyển tải
được tình cảm của tác giả đến với người học.
Hướng dẫn học sinh làm bài văn Nghị luận về một tác phẩm truyện,
một đoạn trích có hiệu quả
18

+ Phải là người có kiến thức về những tác phẩm cùng chủ đề để khơi dậy
được hứng thú trong học sinh.
+ Phải biết sáng tạo đề bài nhằm giúp các em vừa không bị lệ thuộc vào tài
liệu mà còn phát huy được khả năng cảm thụ văn chương.
Hướng dẫn học sinh làm bài văn Nghị luận về một tác phẩm truyện,
một đoạn trích có hiệu quả
19

×