Tải bản đầy đủ (.pdf) (220 trang)

đề tài cơ sở lý luận và phương pháp luận của việc phát triển văn hóa và con người việt nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.74 MB, 220 trang )

GS. TS. Dương Phú Hiệp (chủ nhiệm)







CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA
VIỆC PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ VÀ CON NGƯỜI VIỆT
NAM TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP
QUỐC TẾ
Mã số KX.03.05/06-10


8841


Năm 2010



1





Những người tham gia chính:



1. GS. TS. Dương Phú Hi
ệp (Chủ nhiệm)
2. GS. TS.H
ồ Sĩ Quý
3. GS.TS. Trần Văn Bính
4. PGS.TS. Lê Thanh Bình
5. PGS.TS. Đỗ Minh Cương
6. GS.TS. Đỗ Quang Hưng
7. GS.TS. Đặng Cảnh Khanh
8. TSKH. Lương Văn Kế
9. PGS. TS. Hoàng Khắc Nam
10. PGS. TS. Hồ Bá Thâm
11. PGS. TS. Nguyễn Thanh Hiền (Thư ký)
12. GS. TSKH Vũ Đình C

13. GS. TS. Nguy
ễn Tài Thư



























2
MỤC LỤC



Mở đầu 5
1. Sự cần thiết và tính cấp bách của vấn đề
5
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 7
Chương I
Khái niệm văn hóa và con người và các khái niệm liên quan
18
1. Khái niệm Văn hóa 18
2. Phát triển văn hóa 22
3. Khái niệm Bản sắc văn hóa 23
4. Khái niệm Khuôn mẫu văn hóa 24
5. Khái niệm Văn minh 24

6. Khái niệm Giá trị 31
7. Khái niệm Truyền thống 32
8. Khái niệm Con người 33
9. Khái niệm Phát triển con người 48
10. Bộ công cụ các chỉ số phát triển con người (HDI) 51
Chương II
Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu và phát triển văn hoá và
con người
54
1. Đặt vấn đề về cơ sở lý luận và phương pháp luận 54
2. Mối quan hệ giữa lý luận và phương pháp 60
a) Khái niệm Phương pháp luận 60
b) Phân loại phương pháp luận 64
c) Khái niệm Lý luận 65
d) Khái niệm Phương pháp 66
e) Phân loại phương pháp 71
g) Mối quan hệ giữa lý luận và phương pháp 71



3
h) Mối quan hệ giữa phương pháp và phương pháp luận 76
3.Phương pháp luận nghiên cứu và phát triển văn hóa 77
4. Phương pháp luận nghiên cứu và phát triển con người 80
Chương III
Một số phương pháp tiếp cận cần thiết trong nghiên cứu và phát triển văn
hóa và con người Việt Nam
85
1. Phương pháp tiếp cận lịch sử 85
2. Phương pháp tiếp cận không gian văn hóa 88

a) Không gian văn hóa và chiều cộng cảm của không gian văn hóa
89
b) Chiều nhân bản của không gian văn hóa 93
c) Chiều hoạt động sáng tạo của không gian văn hóa 98
d) Chiều lịch đại của không gian văn hóa 102
e) Thuyết tương tác biểu trưng và ý nghĩa của nó trong nghiên cứu các
chiều kích của không gian văn hóa
104
g) Không gian văn hóa truyền thống và sự phát triển 110
h) Xây dựng một không gian văn hóa vì sự phát triển 118
3. Phương pháp tiếp cận thành tố văn hóa 119
a) Vì sao cần tiếp cận thành tố văn hóa 120
b) Phương pháp tiếp cận thành tố văn hóa 121
4. Phương pháp tiếp cận giao thoa văn hóa 122
a) Những nguyên lý và nội dung của phương pháp tiếp cận giao thoa văn
hóa
122
b) Ý nghĩa của phương pháp tiếp cận giao thoa văn hóa 124
c) Giao thoa văn hóa Việt Nam và các nền văn hóa khác 125
d) Giao thoa văn hóa - đối thoại giữa các nền văn hóa 127
5. Phương pháp nghiên cứu trường hợp 129
6. Phương pháp tiếp cận khu vực 131
7. Phương pháp tiếp cận giải pháp “đánh đổi” 136
8. Phương pháp tiếp cận định lượng văn hóa 141
9. Thuyết tương đối về văn hóa (Cultural relativosm) 146
10. Một số phương pháp tiếp cận đáng chú ý, đặc biệt nghiên cứu con người 151



4

Chương IV
Một số quan niệm về văn hóa và con người Việt Nam hiện nay
156
1. Về mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống
với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại 156
2. Về vấn đề tính tiến tiến và bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam 160
3. Về tính phức hợp của văn hóa Việt Nam đa tộc người, đa thành phần dân
cư, đa tầng xã hội 170
4. Về thực trạng lý luận và phương pháp luận nghiên cứu và phát triển văn
hoá và con người Việt Nam trong những thập niên qua và những vấn đề
của sự phát triển tiếp theo
173
5. Về việc ứng dụng phương pháp luận đã có và xây dựng phương pháp luận
mới trong nghiên cứu và phát triển văn hóa và con người
181
6. Tiếp tục đổi mới nhận thức về vị trí và về vai trò của văn hóa và con người
trong phát triển 187
7. Một số quan điểm về văn hóa và con người đáng chú ý trong quá trình đổi
mới 191
Kết luận và kiến nghị
200
Tài liệu tham khảo
213









5
MỞ ĐẦU
Đi tìm cơ sở lý luận và phương pháp luận của việc nghiên cứu và phát
triển văn hóa và con người Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc
tế là vấn đề rất khó. Lâu nay chúng ta quen với tư duy cũ trong việc đánh giá các
lý thuyết không mácxít về văn hóa và con người, thường là định kiến và phê
phán các lý thuyết đó, nhất là các lý thuyết của phương Tây. Ngày nay, chúng ta
cần phải nhìn nhận lại một cách khách quan các lý thuyế
t về văn hóa và con
người, tìm ra nhưng mặt hay và những mặt dở của từng lý thuyết. Nhưng việc đó
đòi hỏi một lực lượng đông đảo các nhà khoa học xã hội, các nhà nghiên cứu
văn hóa phối hợp cùng nghiên cứu, cùng đánh giá và đòi hỏi phải có nhiều thời
gian. Ở đây, trong phạm vi cuốn sách này, tác giả xin mạnh dạn bước đầu thử
đưa ra một số nhận đị
nh, một số quan niệm của mình về cơ sở lý luận và phương
pháp luận của việc nghiên cứu văn hóa và con người Việt Nam hiện nay.
1. Sự cần thiết và tính cấp bách của vấn đề
+ Có lẽ trong lịch sử loài người chưa có thời gian ngắn ngủi nào lại tập
trung nhiều sự biến đổi to lớn, đa dạng, phức tạp và có ảnh hưởng sâu sắc đến
đời s
ống của các dân tộc và vận mệnh của loài người như hiện nay.
- Trước hết phải kể đến cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát
triển tăng tốc mang lại những biến đổi sâu sắc về mọi mặt của đời sống nhân
loại. Công nghệ thông tin đã tạo ra “văn minh màn hình”, mạng internet, và
hàng tỷ điện thoại di động. Khoa học và công nghệ sinh họ
c đã đem lại kết quả
nghiên cứu về sinh hóa tế bào và gen di truyền và mở ra bí mật của sự sống.
Trong sản xuất có nhiều công nghệ mới về tạo giống cây con. Đối với con người
đã sáng tạo ra rất nhiều dược phẩm, y cụ, liệu pháp hoàn toàn chưa có trước đây:

sinh sản thay thế, thụ thai ống nghiệm, thay đổi giới tính, làm tăng tuổi
thọ…Những thành tự
u trên đây không những tác động đến sản xuất, mà còn làm
thay đổi về cơ bản nhiều hoạt động của con người. Cách mạng khoa học công
nghệ hiện đại đang làm biến đổi xã hội loài người, lao động chân tay ngày càng
giảm, lao động trí thức ngày càng tăng. Từ đó nảy sinh ra những vấn đề quan hệ
giữa văn hóa và kỹ thuật, con người và kỹ thuật…






6
Chính thế giới đầy biến động ấy đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu có sở lý
luận và phương pháp luận của việc phát triển văn hóa và con người.
- Toàn cầu hóa là quá trình làm biến đổi sâu sắc, toàn diện, nổi lên là toàn
cầu hóa kinh tế và kéo theo toàn cầu hóa văn hóa ở mức độ nhất định. Khái niệm
“Thế giới phẳng” do Friedman đưa ra dùng để chỉ thế giới toàn cầu hóa. Trong
thế giới
ấy, mỗi quốc gia dân tộc phải xử lý ra sao các vấn đề bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống, phải giao lưu, hội nhập văn hóa ra sao. Ở
đây càng đòi hỏi phải nghiên cứu cơ sở lý luận và phương pháp luận của sự phát
triển văn hóa và con ngườiViệt Nam.
- Liên quan đến vấn đề văn hóa và con người là những vấn đề toàn cầu
bao gồm: vấn đề chiế
n tranh hạt nhân, chiến tranh hủy diệt và bảo vệ hòa bình;
vấn đề khắc phục tình trạng đòi nghèo, lạc hậu và kém phát triển; vấn đề việc
làm cho mỗi người; vấn đề phân hóa giàu nghèo và bất cập xã hội; vấn đề xung
đột tộc người, dân tộc và tôn giáo; vấn đề sinh thái và bảo vệ môi trường sống;

vấn đề sức khỏe con người và bệnh tật mang tính thời đại của nhân loại, v.v…

Cả ở đây nữa cũng đòi hỏi phải nghiên cứu cơ sở lý luận và phương pháp luận
của sự phát triển văn hóa và con người trong bối cảnh những vấn đề toàn cầu
đang trở nên nóng bỏng.
+ Chưa bao giờ thế giới sôi động về các vấn đề văn hóa và con người như
những năm tháng chúng ta đang sống. Hàng chục lý thuyết, hàng trăm định
nghĩ
a về khái niệm văn hóa và con người, quan điểm rất khác nhau, phương
pháp tiếp cận cũng rất khác nhau, tranh luận rất quyết liệt xoay quanh vấn đề
này. Chính trong thế giới sôi động ấy chúng ta càng cần phải nghiên cứu cơ sở
lý luận và phương pháp luận của việc phát triển văn hóa và con người Việt Nam.
+ Chúng ta đang sống trong một thế giới mà hòa bình, hợp tácvà phát
triển đang là xu hướng quan trọng. Các nước đề
u phấn đấu cho mục tiêu phát
triển. Điều mới mẻ ở đây là muốn phát triển phải coi văn hóa vừa là mục tiêu,
vừa là động lực, vừa là hệ điều tiết của sự phát triển; con người được đặt vào vị
trí trung tâm của mọi chủ trương, chính sách và kế hoạch phát triển. Chính do
vai trò của yếu tố văn hóa và con người trong sự phát triển ngày càng tăng, nên
việc nghiên cứ
u cơ sở lý luận và phương pháp luận của sự phát triển văn hóa và
con người là càng cần thiết và cấp bách.






7
Đề tài cung cấp những luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước, nhất là

những bộ, ban, ngành có liên quan trong việc hoạch định chủ trương, chính sách
về phát triển văn hóa và con người Việt Nam.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
a/ Tình hình nghiên cứu trong nước
- Trong quá trình đổi mới nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước ta, đặc biệt
là Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), đã nêu lên những tư tưởng chỉ
đạo đối vớ
i việc nghiên cứu, phát triển văn hóa và con người Việt Nam.
- Từ năm 1991 đến nay, trong hệ thống các chương trình đề tài khoa học xã
hội cấp Nhà nước đã có 4 chương trình bao gồm 54 đề tài nghiên cứu vấn
đề văn hóa và con người, đó là chưa kể hàng loạt đề tài độc lập cấp nhà
nước, đề tài cấp bộ và cấp viện và cấp địa phương cũng đề cập đến vấ
n đề
này.
- Hơn 20 năm qua, nhiều công trình khoa học được xuất bản thành sách,
nhiều bài đăng trên các tạp chí viết về vấn đề văn hóa và con người.
+
Thành công (kết quả nghiên cứu) của các chương trình, đề tài và của các
cuốn sách và bài báo nói trên thể hiện như sau:
Thứ nhất, nêu lên những cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, đặc biệt của triết học, đối với việc nghiên cứu văn hóa và con
người.
Thứ hai, làm rõ hơn những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh và các quan
điểm cơ bản củ
a Đảng có ý nghĩa định hướng cho việc nghiên cứu và phát triển
văn hóa và con người Việt Nam.
Thứ ba, giới thiệu một số thành tựu nghiên cứu và cách ứng xử của một số
nước trong việc giải quyết vấn đề văn hóa và con người trong quá trình toàn cầu
hóa.
Thứ tư, một số đề tài, cuốn sách, bài báo trước khi đề cập đến một số vấn

đề nào đó, đã quan tâm đế
n cơ sở khoa học và phương pháp tiếp cận đối với đối
tượng nghiên cứu.






8
+ Trong số bốn thành công nói trên gắn với vấn đề cơ sở lý luận và
phương pháp luận, không thể không đề cập đến một số nhà khoa học sau đây:
(1) GS.VS. Hồ Tôn Trinh chủ nhiệm đề tài KX.06.01 “Hệ quan điểm về
mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển”. Ở đây, tác giả đã nêu lên cơ sở lý luận
và phương pháp luận của việc nghiên cứu vấn đề
văn hóa và phát triển trên cơ
sở nghiên cứu kinh nghiệm của thế giới và dựa vào quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Cần lưu ý đến một số luận điểm trong
đề tài này:
- Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng chủ đạo của
văn hóa. Nếu không có chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
thì văn hóa nước ta không có cái cốt lõi về quan điểm, tư tưởng, do đó
không thể đóng vai trò là động lực của phát triển. Chỉ có chủ nghĩa nhân
văn đích thực khi chủ nghĩa Mác – Lênin chủ trương cải tạo thế giới, trong
đó có cải tạo xã hội, cải tạo con người.
- Khi bàn về yếu tố nội sinh và ngoại sinh của văn hóa, các tác giả đề tài
cho rằng t
ừ trước tới nay ta chỉ có khái niệm bản địa, dân tộc chứ không
có khái niệm nội sinh (endogen). Khái niệm nội sinh là do UNESCO đưa
ra và ngày nay nó đã được tiếp nhận ở hầu khắp các nước và trở thành

động lực của sự phát triển.
(2) Trong cuốn sách “Phương pháp luận về vai trò của văn hóa trong phát
triển”, có hai tác giả đã đề cập đến vấn đề phương pháp luận:
Trầ
n Văn Giàu có bài “Phương pháp luận về vấn đề văn hóa và phát triển”.
Ở đây, ông hoài nghi tính đúng đắn của cách tiếp cận vấn đề văn hóa và phát
triển theo quan điểm cho rằng lịch trình phát triển của xã hội loài người là sự
phát triển của văn minh. Ông nhấn mạnh rằng phương pháp duy vật lịch sử mới
là phương pháp luận gần nhất với chân lý khách quan. Khi bàn về mối quan hệ

giữa văn hóa và phát triển, tác giả lưu ý rằng dưới chủ nghĩa tư bản quy luật phát
triển là “luật rừng”, vô nhân. Chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn còn là tư bản chủ
nghĩa. Một số quy luật của thời kỳ “chủ nghĩa tư bản dã man” nay có thay hình
đổi dạng mà bản chất của nó thì vẫn là thế. Cái gọi là “
thời kỳ hậu công nghiệp”
hơn lúc nào hết, vẫn lấy việc chạy cuồng theo lợi làm chủ tể; ông thống soái siêu
lợi nhuận chưa hề giao cây gậy chỉ huy cho văn hóa trí tuệ đâu. Khi bàn về hội






9
nhập văn hóa, tác giả đưa ra quan điểm cho rằng chúng ta chấp nhận hội nhập
kinh tế mà không chấp nhận sự sát nhập vào chủ nghĩa tư bản thế giới, còn sự
hội nhập văn hóa không đem lại cho ta sự lo âu nào đáng kể, không lo ngại gì
lắm cái nguy cơ “đồng nhất hóa” hay nguy cơ “độc tôn”. Tương tùy mà không
phụ thuộc, hội nhập mà không bị sát nhập. H
ội nhập văn hóa thế giới thì Việt

Nam vừa có kinh nghiệm, vừa có vốn liếng, sợ gì nạn “đồng nhất hóa”, nạn “bị
sát nhập”.
Cũng trong cuốn sách này, tác giả Trường Lưu có bài “Mấy vấn đề
phương pháp luận về văn hóa và con người trong sự phát triển văn hóa”. Ông
cho rằng khi con người ngày càng khám phá những bí mật của thế giới xung
quanh thì bản thân con người cũng t
ự khám phá mình, đặt cho mình một hướng
đi, một lẽ sống và một cách tiếp cận chân lý. Nhân loại đang bước vào ngưỡng
cửa của văn minh trí tuệ, do đó cần phải có cách nhìn về văn hóa và con người
khả dĩ phù hợp với một thời đại đã khác xưa nhiều lần, phải đẻ ra một quan niệm
mới về văn hóa đi đôi với quan niệm lại về con ng
ười. Tác giả nhấn mạnh rằng
trước đây người ta đề cập đến vấn đề con người thường nặng về nhân sinh quan
hẹp và khu biệt nó với các hệ tư tưởng, nhưng giờ đây nội hàm của nó đã được
mở rộng vào mọi lĩnh vực liên quan đến con người, do hoàn cảnh lịch sử đã thay
đổi và đối tượng văn hóa mà con người sáng tạo đòi hỏi ph
ải khác hơn, phù hợp
với tiến trình văn minh trí tuệ.
(3) Đề tài KX.05.01 do GS.TS. Hồ Sĩ Quý làm chủ nhiệm có tên gọi “Cơ
sở phương pháp luận của việc nghiên cứu và phát triển văn hóa, con người và
nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập kinh
tế”. Trước hết, tác giả nêu lên hàng loạt vấn đề do cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện
đại, do nền kinh tế thị trường, do toàn cầu hóa và hội nhập kinh
tế, giao lưu văn hóa đang đặt ra những vấn đề mới trong việc nghiên cứu và phát
triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực trên thế giới và ở Việt Nam. Từ đó
tác giả đề xuất một số quan điểm có ý nghĩa định hướng đối với việc phát triển
văn hóa, khoa học, giáo dục và con người. Đặ
c biệt, tác giả đã dành nhiều trang
bàn về mối quan hệ giữa văn hóa và con người.

(4) Trong gần 20 năm qua kể từ khi triển khai nghiên cứu các chương
trình, đề tài khoa học – công nghệ cấp nhà nước, GS.VS. Phạm Minh Hạc làm






10
chủ nhiệm ba chương trình: “Con người – mục tiêu và động lực phát triển kinh
tế – xã hội” (1991 - 1995); “Phát triển văn hóa, xây dựng con người toàn diện
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (1996 - 2000); “Phát triển văn hóa,
con người và nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
(2001 - 2005), trong đó ông đặc biệt quan tâm đến vấn đề phương pháp luận
nghiên cứu vă
n hóa và con người. ông đã từng làm chủ nhiệm đề tài KX.07.01
“Phương pháp luận nghiên cứu con người”. Trong các công trình khoa học của
mình, ông thường dành nhiều trang bàn về phương pháp luận và các phương
pháp tiếp cận trong nghiên cứu văn hóa và con người. Đáng chú ý là cuốn sách
mới xuất bản gần đây “Tâm lý học nghiên cứu con người trong thời đổi mới”.
Đây là tập hợp những kết quả nghiên cứu gần 20 nă
m của tác giả. Kết quả
nghiên cứu đáng trân trọng của tác giả thể hiện ở những luận điểm sau đây:
- Quan niệm về con người và hoạt động người quyết định phương pháp tiếp
cận toàn bộ các vấn đề tâm lý.
- Tâm lý học giữ vị trí trung tâm, then chốt trong các khoa học về con người.
- Sự phát triển người là yếu tố quyết đị
nh mọi sự phát triển.
- Vấn đề con người là vấn đề lý luận cốt lõi của các vấn đề lý luận. Con
người là giá trị sản sinh ra mọi giá trị, là thước đo của mọi bậc thang giá

trị.
- Chủ nghĩa Mác – Lênin là phương pháp luận chung về khoa học nghiên
cứu con người. Nghiên cứu con người theo phương pháp tiếp cận hoạt
động - giá trị - nhân cách là chìa khóa để nghiên cứ
u con người và nhân
cách.
- Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là phương pháp luận nghiên cứu con
người. Phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh là luôn luôn gắn lý luận với
thực tiễn, thực hiện sự thống nhất giữa các mặt đối lập trong biến đổi,
“biến hóa” liên tục và thường xuyên nhằm đạt hiệu quả thiết thực và cụ
thể. Phép biện chứng đó nhấn mạ
nh quan điểm phát triển, quan điểm lịch
sử và quan điểm thực tiễn khi phân tích về con người.
- Khoa học về con người phải xuất phát từ hai luận điểm cơ bản: (1) Nghiên
cứu con người cụ thể; (2) Nghiên cứu những cá nhân hiện thực, những






11
hoạt động và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ. Từ hai luận điểm
cơ bản đó việc nghiên cứu con người cần tiến hành theo phương pháp tiếp
cận hoạt động - giá trị, bao hàm trong đó cả phương pháp tiếp cận lịch sử,
phát triển, hệ thống.
- Phải đặt đối tượng nghiên cứu - vấn
đề con người vào trong phạm trù thời
gian và không gian. Con người hướng về tương lai nhưng con người
không bao giờ đứt đoạn với lịch sử. Mỗi con người Việt Nam tuy chỉ sinh

tồn và hoạt động trung bình trong 7 thập kỷ (ít người được một thế kỷ),
nhưng đều mang trong mình sức mạnh của hàng vạn, hàng vạn năm tiến
hóa và phát triển của cả loài người, của cả dân tộc và nh
ững người trực
tiếp sinh ra từng cá thể. Phương pháp tiếp cận văn hóa - lịch sử yêu cầu
nghiên cứu con người trong sự phát triển các giá trị truyền thống dân tộc,
gắn bó với những giá trị của nhân loại và đặt con người trong các nhóm:
nhà (gia đình), trường học, làng, nước và nhân loại.
- Nghiên cứu con người là phải tập trung vào mặt xã hội, nhưng không bao
giờ quên những thành tựu mớ
i nhất của sinh vật học - nhất là các thành
tựu của vài ba chục năm gần đây, từ khi tìm ra AND và ARN và đến nay
đã trở thành công nghệ di truyền.
- Cùng với các tác giả nói trên, còn nhiều tác giả khác cũng đề cập đến cơ sở
lý luận và phương pháp luận của việc nghiên cứu, phát triển con người như
Phạm Xuân Nam, Huỳnh Khái Vinh, Hoàng Chí Bảo, Phan Ngọc, v.v
+ Bên cạnh những thành công nói trên, các công trình nghiên cứu về văn hóa,
con ngườ
i còn có một số hạn chế sau:
- Khi nói về cơ sở lý luận và phương pháp luận thường nhấn mạnh đến chủ
nghĩa Mác – Lênin, ít đề cập đến những khuynh hướng lý luận khác và
nếu đề cập thì thường là phê phán.
- Các phương pháp tiếp cận được đề cập đến thường lẻ tẻ, không hệ thống,
không có mối liên hệ. Phương pháp nghiên cứu liên ngành và các phương
pháp tỉếp c
ận hiện đại ít được vận dụng nên kết quả nghiên cứu còn hạn
chế.







12
- Các quan điểm được đề xuất cũng rời rạc, chưa tạo thành một hệ quan
điểm có mối liên hệ lôgic chặt chẽ, do đó còn chưa phát huy được tác
dụng định hướng, chỉ đạo đối với việc nghiên cứu và phát triển văn hóa và
con người.
- Hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn của sự phát triển văn hóa và con
người tuy đã được
đề cập, nhưng chưa phải đã trả lời một cách rõ ràng,
nhất là trong hoàn cảnh mới hiện nay, chẳng hạn như thế nào là bản sắc
dân tộc, là văn hóa tiên tiến, là kế thừa và phát triển, truyền thống và cách
tân, truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại, dân tộc và quốc tế, phổ
cập và nâng cao, ? Đồng thời, khi nghiên cứu vấn đề con người cũng còn
hàng loạt vấn đề có th
ể coi là còn để trống như sự thống nhất giữa cái tự
nhiên với cái lịch sử, cái sinh vật với cái xã hội, cái vật lý và cái tâm lý,
thân và tâm Về mặt lý luận và phương pháp luận của việc nghiên cứu,
phát triển văn hóa và con người Việt Nam còn phải giải quyết tiếp các mối
quan hệ sau: quan hệ giữa văn hóa và con người, văn hóa và phát triển,
con người và phát triển, văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế, văn hóa
và xã hộ
i, v.v
b/ Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Kết quả nghiên cứu về văn hóa và con người ở nước ngoài trong những
thập kỷ vừa qua rất phong phú và đa dạng. Ở đây chỉ có thể nêu lên một số nét
đáng quan tâm sau:
- Thứ nhất, hiện nay về lý luận dường như chẳng có một học thuyết nào,
một trường phái nào có dủ sức thu hút hoặc dẫn dắt trí tuệ của toàn thế giớ

i, làm
chỗ dựa tinh thần tin cậy cho con người hướng tới tương lai, hay đủ sức làm
trọng tài tối hậu cho việc đánh giá các giá trị trong đời sống tinh thần nhân loại.
Tuy vậy, những cuốn sách, những bài tạp chí, những báo cáo trong các cuộc hội
thảo về văn hóa và con người đang xuất hiện ngày càng nhiều, trong đó có đủ
loại lý thuyết, trường phái hay và dở.
- Nếu trước đây, nhà sử học n
ổi tiếng người Anh A.J. Toynbee đã nêu lên
hơn ba mươi nền văn minh, trong đó có văn minh Việt Nam, thì gấn đây (năm
1996) nhà nghiên cứu chính trị quốc tế người Mỹ Samuel P. Huntington đã nêu
ra lý thuyết về sự đụng độ của các nền văn minh. Theo Huntington, do thế giới






13
quá phức tạp nên không thể chia thế giới thành Bắc và Nam theo kinh tế hay
Đông và Tây theo văn hóa được, vì sự phân biệt Đông – Tây hàm ý hệ tư tưởng,
chứ không phải hàm ý phân biệt văn hóa. Huntington cho rằng thế giới đương
đại có 8 nền văn minh là văn minh Trung Hoa, văn minh Nhật Bản, văn minh
Ấn Độ, văn minh Hồi giáo, văn minh Chính thống giáo, văn minh Phương Tây,
văn minh Mỹ La tinh, văn minh Châu Phi. Ông chứng minh rằng kể từ sau chiến
tranh lạnh, nguồn gốc cơ bản của các xung đột trên thế giới sẽ không còn là hệ
tư tưởng hay kinh tế nữa. Ranh giới quan trọng nhất chia rẽ loài người và là
nguồn gốc của các cuộc xung đột sẽ là văn hóa. Lý thuyết này của Huntington
nhận được hai sự phản ứng rất khác nhau: sự ngưỡng mộ và sự phê phán quyết
liệt.
- T.L. Friedman trong tác phẩm “Thế giới phẳng: Tóm lược lị

ch sử thế
giới thế kỷ XXI” khi định nghĩa về toàn cầu hóa, đã nêu lên vai trò của nhân tố
văn hóa thể hiện trên ba phương diện: công nghệ thông tin, chất lượng nhân lực
(bao gồm truyền thống văn hóa, chất lượng đào tạo) và giao lưu văn hóa. Chúng
vừa là cơ sở vừa là kết quả của toàn cầu hóa. Ông đã phân tích 10 nhân tố làm
phẳng thế giới và nhấn mạnh r
ằng vai trò tiền đề của văn hóa thúc đẩy quá trình
hội nhập hay toàn cầu hóa của một quốc gia có truyền thống văn hóa Đông Á.
Thế giới phẳng (The Word is flat) là thuật ngữ do Friedman sáng tạo ra được
dùng để chỉ thế giới toàn cầu hóa. Theo ông, trong thế giới này, giảng đường các
trường đại học là mảnh đất sống còn của tất cả các trường phái có uy tín, còn
mạng toàn cầu là nơi trôi nổi của h
ầu hết những dòng tư tưởng thứ cấp. Tuy
nhiên, những tư tưởng thực sự có giá trị cũng đang xuất hiện ngày càng nhiều
trên mạng.
- A. Toffer cho rẳng từ giữa thế kỷ XX, nước Mỹ đi đầu vào xã hội thông
tin và đó là điều kiện cho văn hóa màn hình ra đời hay còn gọi là văn hóa thông
tin mà có người gọi là văn hóa thiên niên kỷ tới. Văn hóa computer ra đời không
có nghĩa sẽ thay thế hoàn toàn các loạ
i hình đã có trong văn hóa truyền thông.
Hiện nay màn hình trở thành một hệ thống cơ bản của giao tiếp giữa con người
và xã hội. Văn hóa màn hình ra đời là kết quả của cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại đang được nhiều người ca ngợi, thán phục, nhưng cũng có người
coi đó là sự sáng tạo dữ dằn của các nhà kỹ trị. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng







14
văn hóa màn hình đã làm lóe ra ở con người một hy vọng là chấm dứt sự tách
biệt giữa văn minh kỹ thuật và văn hóa tinh thần, giữa khoa học và nghệ thuật.
- Dominique Wolton năm 2003 đã xuất bản cuốn “Toàn cầu hóa văn hóa”,
đã đưa ra khái niệm chung sống giữa các nền văn hóa. Tác giả nhận xét rằng
những công trình nghiên cứu liên quan đến chủ đề này vẫn còn rất ít. Vấn đề đ
a
văn hóa trong mỗi quốc gia từ 20 năm nay càng được xử lý một cách phong phú
bao nhiêu thì ngược lại, trên bình diện quốc tế càng kém bấy nhiêu. Ông nhận
xét rằng khắp nơi đều có những bản sắc văn hóa có thể chung sống với nhau.
Trước đây, cường quốc nào thống trị trong lĩnh vực kỹ thuật, kinh tế thì cũng
thống trị trong lĩnh vực văn hóa. Ngày này không một cường quốc nào còn có
thể nh
ắm đến vị trí thống trị về văn hóa. Mỹ là cường quốc kinh tế và quân sự
mạnh nhất thế giới nhưng không phải là cường quốc đứng đầu về văn hóa.
Dominique Wolton cho rằng thế giới có ba trụ cột. Trụ cột thứ nhất là chính trị
với sự thành lập Liên hiệp quốc và Tuyên ngôn nhân quyền sau Chiến tranh thế
giới thứ hai. Trụ cột thứ hai là toàn cầu hóa kinh tế
. Trụ cột thứ ba là sự bùng
phát của văn hóa và truyền thông trên quy mô thế giới. Sự chung sống giữa các
nền văn hóa trở thành trụ cột thứ ba của toàn cầu hóa. Thuật ngữ chung sống
giữa các nền văn hóa bản thân nó đã mang tính chống lại bạo lực của lịch sử
trong đó biết bao lần con người đánh nhau nhân danh bản sắc văn hóa. Trong
cuốn sách của mình, tác giả đã đề
xuất các kiến nghị: chấp nhận đa dạng ngôn
ngữ, khuyến khích tính biệt lập tôn giáo, đảm bảo chủ trương đa truyền thống,
phối hợp đa dạng văn hóa với nhân quyền, thực hiện chung sống giữa các nền
văn hóa, v.v…
Ở đây, Đề tài không có điều kiện nêu ra nhiều khuynh hướng khác nữa,
mà chỉ muốn giới thiệu những khuynh hướng đố

i lập nhau trong quan niệm về
văn hóa và con người, Huntington đưa ra lý thuyết về sự đụng độ của các nền
văn minh, ngược lại, Dominique Wolton lại kêu gọi chung sống giữa các nền
văn hóa.
- Thứ hai, từ những thập niên cuối của thế kỷ trước đến nay Liên hiệp
quốc chủ trương phát động một thập kỷ thế giới phát triển văn hóa và giao cho
tổ chức UNESCO chỉ
đạo, Liên hiệp quốc đã tổ chức “Thập kỷ văn hóa vì phát
triển” (1987-1997), “Thập kỷ giáo dục cho mọi người” (1990-2000), đã công bố






15
tác phẩm “Giáo dục – của cải nội sinh” chuẩn bị giáo dục vào thế kỷ XXI, tổ
chức năm quốc tế bao dung (1995), Đại hội đồng lần thứ 27 của UNESCO đề
xuất ý tưởng xây dựng một nền văn hóa hòa bình và lấy năm 2000 là năm quốc
tế văn hóa hòa bình, thập kỷ 2001-2010 là thập kỷ văn hóa hòa bình và không
dùng vũ lực đối với trẻ em toàn th
ế giới.
Tổng kết thập kỷ văn hóa vì sự phát triển, Uỷ ban thế giới về văn hóa và
phát triển đưa ra báo cáo “Sự đa dạng sáng tạo của chúng ta” (1996) khẳng định
mong muốn có một sự kết hợp hài hòa giữa các giá trị chung của văn hóa nhân
loại, của “địa lý toàn cầu”, như tính người, tình người, lòng bao dung độlượng,
tinh thần hòa bình, hợp tác, hữu nghị
với các giá trị văn hóa của các dân tộc,
phải dùng văn hóa làm phương tiện chống lại sự lộn xộn của hệ thống toàn cầu,
làm vật bảo vệ và nơi ẩn náu của các nền văn hóa dân tộc. Văn hóa trở thành

động lực và điều tiết sự phát triển kinh tế – xã hội, lấy phát triển con người bền
vững làm mục tiêu trung tâm.
Theo đề nghị của UNESCO, cho t
ới nay đã có hàng loạt các cuộc hội thảo
bàn về các vấn đề như mối quan hệ giữa văn hóa, khoa học và kỹ thuật; bảo vệ
di sản văn hóa; con người và phương tiện truyền thông; khuyến khích sáng tạo
nghệ thuật; văn hóa và du lịch; văn hóa và kinh doanh; sự đa dạng văn hóa; văn
hóa và môi trường; văn hóa và đô thị, v.v…
Liên hiệp quốc kêu gọi các quốc gia cần tạo ra nh
ững hình mẫu phát triển
có tính đến tầm quan trọng của con người với những di sản, khát vọng trong
tổng thể các giá trị về vật chất, tinh thần, cá nhân và xã hội của mình. Hiện nay,
các thách thức không chỉ là sự đói nghèo, mà nhiều người dân trên trái đất còn
phải đối mặt với sự ngu dốt và nỗi sợ hãi, sự không khoan dung và không chấp
nhận sự khác biệt, những khuynh hướng bá chủ, tiêu chuẩn hóa lối sống, nh
ững
cuộc khủng hoảng cơ cấu và những yếu kém của những giá trị đạo đức cơ bản.
Tất cả những thách thức đó cần phải được các xã hội trên trái đất này quan tâm.
Những quan điểm của Liên hiệp quốc, trong đó có UNESCO và UNDP
rất đáng tham khảo và đó cũng là những cơ sở lý luận và phương pháp luận của
việc nghiên cứu, phát triển văn hóa và con ng
ười Việt Nam trong quá trình đổi
mới và hội nhập quốc tế.






16

- Thứ ba, khi đề cập đến vấn đề phát triển văn hóa và con người, cần phải
tham khảo kinh nghiệm của một số nước.
- Ở một số nước như Anh, Pháp, Đức, Mỹ, v.v… tuy có các cách xử lý
văn hóa khác nhau, nhưng nhìn chung trong hoạt động văn hóa các nước này
đều coi trọng những vấn đề sau đây: (1) Bảo vệ di sản văn hóa nghệ thuật, di
tích đã có; (2) Sáng t
ạo những giá trị văn hóa mới; (3) Đào tạo những cánbộ văn
hóa để thực hiện chức năng của nó; (4) Phổ cập những di sản văn hóa vốn có và
mới tạo ra. Điều đáng chú ý ở các nước này là ngân sách cho hoạt động văn hóa
rất lớn, đồng thời tinh thần quản lý văn hóa là mở rộng dân chủ, tôn trọng việc
phân cấp phân quyền, khuyế
n khích tinh thần độc lập và tự do sáng tạo, đặc biệt
ở Mỹ không hề có một lập trường văn hóa quan phương, mà chỉ có tự do sáng
tạo cá nhân. Do đó, nó tạo ra một đặc trưng văn hóa Mỹ rất đa dạng phong phú
và nhiều màu nhiều vẻ.
- Câu nói đã trở thành châm ngôn của ứng xử Nhật Bản thời Minh Trị duy
tân là “Tinh thần Nhật Bản, tri thức phương Tây”. Mọi mô hình n
ước ngoài mà
người Nhật tiếp thu đều đã được biến hóa theo “trái tim Nhật bản”. Có thể nói
văn hóa vật thể của Nhật Bản đã bị Tây Phương hóa một cách triệt để và nhanh
chóng, nhưng văn hóa phi vật thể của Nhật Bản lại thay đổi chậm chạp hơn
nhiều và vẫn mang bản sắc Nhật Bản rõ nét. Những đặc điểm của vă
n hóa Nhật
Bản thể hiện ở chỗ: (1) Nhật Bản có một nền văn hóa độc đáo, giàu bản sắc dân
tộc; (2) Nhật Bản có một nền văn hóa phong phú đa dạng và phát triển toàn
diện; (3) Nhật Bản coi văn hóa và con người làm trung tâm và là sự kết hợp hài
hòa với tự nhiên; (4) Người Nhật Bản có tính thích ứng và thực dụng cao.
- Sau sai lầm của “đại cách m
ạng văn hóa” làm cho nền văn hóa Trung
Quốc bị tổn thất nặng nề, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nêu phương châm:

“Thực sự cầu thị, giải phóng tư tưởng, tiến cùng thời đại”. Phương châm đó có ý
nghĩa chỉ đạo quan trọng đối với việc nghiên cứu, phát triển văn hóa và con
người. Trung Quốc coi việc xây dựng văn minh tinh thần xã hội chủ ngh
ĩa là
một nhiệm vụ chiến lược trọng đại và nhấn mạnh sự kết hợp hài hòa giữa văn
minh vật chất và văn minh tinh thần. Điều đáng chú ý trong tư tưởng “ba đại
diện” là nhấn mạnh Đảng phải đại diện cho phương hướng tiến lên của văn hóa
tiên tiến Trung Quốc. Đưa vấn đề tính tiên tiến của xây dựng văn hóa lên độ
cao






17
của tính chất, tôn chỉ và nhiệm vụ của Đảng, đủ thấy rằng Trung Quốc coi trọng
vấn đề văn hóa như thế nào. Các học giả Trung Quốc đang nghiên cứu để xử lý
đúng đắn mối quan hệ giữa văn hóa đương đại và văn hóa truyền thống, văn hóa
nước mình và văn hóa ngoại lai, v.v…
Trên đây là sự tóm lược quan điểm của một số họ
c giả nước ngoài, quan
niệm của Liên hiệp quốc về vấn đề văn hóa và con người, đồng thời cũng đề cập
đến cách xử lý vấn đề văn hóa của một số quốc gia nhằm tham khảo, học hỏi cái
hay của người khác. Đó cũng là con đường phải đi để nghiên cứu, phát triển văn
hóa và con người Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập.






18


Chương I

KHÁI NIỆM VĂN HOÁ VÀ CON NGƯỜI
VÀ CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
1. Khái niệm Văn hóa
- Trong các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Marx, chỉ một vài lần K.
Marx và F. Engels trực tiếp bàn đến thuật ngữ văn hóa. Tuy nhiên trong đó, một
lần culture lại được hiểu là canh tác, trồng trọt, gieo trồng.
Trong thư gửi F. Engels 25/3/1868, K. Marx viết: “Nếu canh tác được tiến
hành một cách tự phát mà không được hướng dẫn một cách có ý thức thì sẽ
để
lại sau đó đất hoang. Ba Tư, Mexopotani…, Hy Lạp”
1
. Các bản tiếng Việt xuất
bản trước đó dịch là: “Văn hóa nếu phát triển tự phát mà không được định
hướng một cách tự giác thì sẽ để lại sau nó hoang mạc”. Cách dịch này đã gây ra
một số hiểu lầm.
Trong tác phẩm “Chống Duhring”, khi bàn về sự tiến triển về tư tưởng tự
do của loài người, F. Engels viết: “Mỗi bước tiến lên trên con đường văn hóa là
một bướ
c tiến tới tự do”
2
. Ở đây, culture được hiểu là văn hóa. Trong văn cảnh,
F. Engels phân tích rằng, con người trong tiến trình lịch sử của mình, khi ngày
càng thoát ra khỏi thế giới động vật, nghĩa là khi ngày càng có văn hóa, thì con
người càng tự do hơn, mặc dù tự do, theo ông, là bản chất của con người.

- Cần lưu ý rằng, ở thời K. Marx và F. Engels, văn hóa học (Culturology)
chưa xuất hiện, còn khái niệm văn hóa thì vẫn chưa hoàn toàn tách khỏi văn
minh.
- E.B. Tylor trong “Primitive Culture” 1871 đị
nh nghĩa: “Văn hóa hay văn
minh (chúng tôi nhấn mạnh), theo nghĩa rộng về dân tộc học, nói chung được
hình thành từ tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán cùng
một số năng lực và thói quen khác mà con người có được với tư cách là thành
viên của xã hội”
3
. Ở đây, “Văn hóa” được sử dụng đồng nghĩa với “Văn minh”.

1
C. Marx và F. Engels (1997), Toàn tập t. 32, NXB. Chính trị quốc gia, H., tr. 80.
2
C. Marx và F. Engels (1994), Toàn tập t. 20, NXB. Chính trị quốc gia, H., tr. 164.
3
Tайлор Э.Б. (1989), Первобытная Культура, Политиздат, М., Cтр. 18.





19


- Năm 1964, hai nhà nhân học Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn
đã thống kê được 257 định nghĩa khác nhau về văn hóa trong các công trình nổi
tiếng về nhân học và dân tộc học (Anthropology, thực ra là chỉ ở phương Tây và
nổi tiếng là theo quan niệm của hai tác giả này). Với 257 định nghĩa thống kê

được, ngay cả cách tiếp cận về văn hóa và việc phân loại các định nghĩa cũng trở
nên phong phú và phải nói là phức tạp. V.E. Davidovich đã phê phán lối nghiên
cứu này và cho rằ
ng, đáng lẽ phải chỉ ra được đặc trưng thuần túy văn hóa của
các hiện tượng văn hóa vật chất và tinh thần, thì người ta lại mải mê thống kê
tính phong phú của văn hóa
4
. Trên thực tế, về sau, càng ngày người ta càng cố
tìm xem văn hóa đã có định nghĩa thứ bao nhiêu. Ở Việt Nam vào những năm
90, PGS. Phan Ngọc đã đưa ra con số hơn 1000. Tuy nhiên, việc nghiên cứu
theo hướng “duy danh định nghĩa” rõ ràng là có vấn đề.
Mặc dù có nhiều định nghĩa song theo bất cứ nghĩa nào thì văn hoá cũng
đều là cái, bằng cách này hay bằng cách khác, thể hiện những đặc trưng về con
người và về đời số
ng con người, đều phản ánh (một cách trực tiếp hoặc kín đáo)
đặc thù của hoạt động người (V.E. Davidovich
5
).
+ Khái niệm Văn hóa đã được một số tác giả định nghĩa như sau (tham
khảo Wikipedia tiếng Việt)
6
:
- Edward Sapir (1884-1939), nhà nhân học, ngôn ngữ học người Mỹ xem
văn hóa chính là bản thân con người, cho dù là những người hoang dã nhất sống
trong một xã hội tiêu biểu cho một hệ thống phức hợp của tập quán, cách ứng xử
và quan điểm được bảo tồn theo truyền thống.
- William Isaac Thomas (1863-1947), nhà xã hội học người Mỹ coi văn
hóa là các giá trị vật chất và xã hội của bất kỳ nhóm người nào (các thiết chế, t
ập
tục, phản ứng cư xử, ).

- William Graham Sumner (1840-1910), giáo sư Đại học Yale và Albert
Galloway Keller, Mỹ cho rằng tổng thể những thích nghi của con người với các

4
Xem: Давидович ВЕ. Жданов Ю.А. (1989), Сущность Культурыа. Изд. Ростовского
Университета. Ростов-на-Дону, cтр. 29.// Davidovich V.E. (2002). Dưới lăng kính triết học.
Nxb Chính trị Quốc gia, H., tr. 446.
5
Xem: Давидович ВЕ. Жданов Ю.А. (1989), Γ∀< 0,. cтр. 30.
6
Xem:





20


điều kiện sinh sống của họ chính là văn hóa, hay văn minh Sự thích nghi này
được bảo đảm bằng con đường kết hợp những thủ thuật như biến đổi, chọn lọc
và truyền đạt bằng kế thừa.
- Ralph Linton (1893-1953), nhà nhân học Mỹ định nghĩa: a/ Văn hóa suy
cho cùng là các phản ứng lặp lại ít nhiều có tổ chức của các thành viên xã hội; b/
Văn hóa là sự kết hợp giữa lố
i ứng xử mà các thành tố của nó được các thành
viên của xã hội đó tán thành và truyền lại nhờ kế thừa.
- Pitirim Alexandrovich Sorokin (1889-1968), nhà xã hội học Mỹ gốc Nga,
người sáng lập khoa Xã hội học, Đại học Harvard lại cho rằng với nghĩa rộng
nhất, văn hóa chỉ tổng thể những gì được tạo ra, hay được cải biến bởi hoạt động

có ý thức hay vô thức của hai hay nhiều cá nhân tương tác v
ới nhau và tác động
đến lối ứng xử của nhau.
- Một định nghĩa khác: “Văn hóa là biểu hiện của phương thức sống của
con người, là tổng hòa mọi giá trị người”
7
. Trong hầu hết các trường hợp, văn
hóa luôn chỉ là thuộc tính trong mối quan hệ Sự vật – Quan hệ – Thuộc tính. Nói
cách khác, văn hóa chỉ có thể là mặt, là khía cạnh, là phương diện hay là thuộc
tính của cái khác. Đặc trưng thuần túy văn hóa mà V.E. Davidovich đã nói đến,
chính là ở đây.
- Có quan niệm cho rằng khi định nghĩa văn hóa chỉ cần nêu giá trị là đủ.
Tuy nhiên, văn hóa trong nhiều trường hợp không mang ý nghĩa giá trị – nghĩa
là nó không tố
t hay xấu, đúng hay sai, tích cực hay tiêu cực mà chỉ là cách
thức, kiểu, dạng, phong cách hoạt động sống của cá nhân hoặc cộng đồng
(cách cầm dao của người phương Tây so với người phương Đông là một thí dụ).
Do vậy, không chỉ là giá trị, văn hóa còn là phương thức sống (cách thức, kiểu,
dạng, phong cách, ) của con người.
- Định nghĩa “Văn hóa” được cộng đồng thế thế giới sử dụ
ng nhiều và
được nhiều người trích dẫn hơn cả là của định nghĩa của UNESCO, nêu trong
“Tuyên bố về chính sách văn hóa” tại Hội nghị quốc tế về chính sách văn hóa
của UNESCO từ ngày 26/7 đến 6/8/1982 ở Mexico:

7
Hồ Sĩ Quý (1999). Về văn hóa và văn minh. NXB. Chính trị quốc gia, H., tr. 32.






21


"Văn hóa là tổng thể những nét đặc thù về tinh thần và vật chất, về trí tuệ
và xúc cảm quy định tính cách của một xã hội hay của một nhóm xã hội.
Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những
quyền cơ bản của (tồn tại-being) người, những hệ thống giá trị, những
truyền thống và tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người kh
ả năng suy
xét (reflect-phản tư) về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở
thành những sinh vật đặc biệt-con người, có lý tính, có óc phê phán và
dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự
ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt
ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm kiếm không mệt mỏi
những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt qua cả
giới
hạn của bản thân"
8
.
Xin lưu ý rằng, UNESCO, các Tổng giám đốc UNESCO và các chuyên
gia của tổ chức này cũng công bố không ít văn bản về văn hóa, mà đôi khi người
sử dụng, kể cả các nhà nghiên cứu có tên tuổi ở các nước, vẫn coi đó chính là
những định nghĩa khái niệm văn hóa. Chẳng hạn:
Văn hoá “là cái tên mà chúng ta đặt cho điều bí ẩn không cùng với
ai ngày nay đang tìm cách suy nghĩ về nó” (J. Derrida); “là nền tảng
và là linh hồn của cuộc phiêu l
ưu của con người; trước kia người ta
coi nó là thứ yếu, ngày nay người ta bắt đầu nhận ra nó là cốt lõi

của vấn đề” (F. Mayor); là “tiêu chuẩn cơ bản của sự tiến bộ” (E. P.
Chelyshev); là phương thức tự điều chỉnh và tự nhận thức của nhân
loại” (M. Epstein); là một trong ba tiêu chuẩn để một quốc gia nào
đó được coi là cường quốc (Z. Bredinski); là “đường phân ranh cơ

8
Nguyên văn: “Conference agrees: that in its widest sense, culture may now be said to be the
whole complex of distinctive spiritual, material, intellectual and emotional features that
characterize a society or social group. It includes not only the arts and letters, but also modes
of life, the fundamental rights of the human being, value systems, traditions and beliefs; that it
is culture that gives man the ability to reflect upon himself. It is culture that makes us
specifically human, rational beings, endowed with a critical judgement and a sense of moral
commitment. It is through culture that we discern values and make choices. It is through
culture that man expresses himself, becomes aware of himself, recognizes his incompleteness,
questions his own achievements, seeks untiringly for new meanings and creates works
through which he transcends his limitations”. UNESCO. Mexico City Declaration on Cultural
Policies. World Conference on Cultural Policies. Mexico City, 26 July - 6 August 1982.






22


bản giữa con người với nhau” và là “nhân tố chủ đạo của nền chính
trị thế giới” (S. F. Huntington); là cái “được xuyên suốt bởi một
Ethos cộng sinh”, một thứ “soft power” (năng lực mềm) giúp cho
“Đông Á sẽ trở thành khu vực cực kỳ quan trọng vào thế kỷ XXI”

(I. Daisaku bàn về văn hoá Đông Á) v.v…
- Văn hóa được Hồ Chí Minh định nghĩa như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cu
ộc sống, loài người mới sáng tạo và phát sinh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa"
9
.
Trước kia, định nghĩa này ít được nói tới. Ngày nay, nếu so sánh, có thể
thấy định nghĩa này cũng khúc chiết và tường minh không thua kém các định
nghĩa nổi tiếng nào khác.
- Văn hóa, dưới hình thức một quan niệm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã được nêu lần đầu tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII:
“ là nền tảng tinh thần của xã h
ội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội”
10
.
2. Phát triển văn hoá
Phát triển văn hoá là cách diễn đạt phương Tây mới du nhập vào Việt
Nam khoảng hơn hai thập niên. Trước đây ở Việt Nam, chúng ta thường dùng
thuật ngữ xây dựng văn hoá để chỉ nội hàm được chứa đựng trong thuật ngữ
hiện hay dùng là phát triển văn hoá. Thực ra, phát triển văn hoá không phải là
một khái niệm khoa học chặt chẽ, kiểu như
các khái niệm văn hoá, văn minh
hay con người. Các nhà nghiên cứu, các quan điểm lớn về văn hoá đều có nêu
quan niệm của mình về phát triển văn hoá, nhưng không định nghĩa phát triển
văn hoá với tính cách là một khái niệm độc lập. Trong đại đa số các trường hợp,
phát triển văn hoá thường chỉ được nói tới khi người ta xem xét sự vận động, sự

gia tăng tiến bộ c
ủa các lĩnh vực cụ thể trong hoạt động văn hoá. Khác với lĩnh
vực nghiên cứu con người; nếu phát triển con người có các định nghĩa chặt chẽ,

9
Hồ Chí Minh (2000). Toàn tập t.3. NXB. Chính trị quốc gia,H., tr. 431.
10
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB.
Chính trị quốc gia, H., tr. 29.





23


các tiêu chí cụ thể để xem xét, đánh giá, thì phát triển văn hoá hầu hết chỉ được
dùng cho các trường hợp cụ thể. Sự phát triển văn hoá ở một đối tượng nào đó
thường chỉ được so sánh với chính nó (đối tượng) theo trục thời gian.
Về đại thể, phát triển văn hóa là một quá trình có tính tất yếu và khách
quan trong sự vận động của các lĩnh vực văn hóa. Quá trình này dẫn tới s
ự biến
đổi giá trị và hệ giá trị. Tính tất yếu và khách quan của quá trình này, tuy không
đơn giản, không đơn tuyến, và thậm chí có lúc thụt lùi, tha hoá, nhưng xu hướng
chung vẫn là đảm bảo cho cuộc sống của con người hướng tới cái tốt, cái thiện
và cái đẹp ngày một cao hơn, nhân đạo hơn.
Phát triển văn hoá đôi khi được coi là đối lập với bảo tồn văn hóa. Tuy
vậy, nhìn ở phạm vi vĩ
mô, phát triển văn hóa không phải là hoạt động cản trở sự

bảo tồn văn hóa. Bản thân quá trình phát triển văn hóa có sự đào thải yếu tố văn
hóa lỗi thời, lạc hậu, không phù hợp với hiện thực khách quan. Sẽ là sai lầm khi
coi bảo tồn văn hóa là bảo tồn mọi cái có trong truyền thống; bảo tồn không triệt
tiêu sự phát triển văn hóa và ngược lại phát triển vă
n hóa bao giờ cũng có chức
năng là bảo tồn văn hóa. Bảo tồn và phát triển văn hóa có thể được coi là thúc
đẩy nhau; bảo tồn văn hóa giữ vai trò là cơ sở góp phần thúc đẩy phát triển văn
hóa.

3. Khái niệm Bản sắc văn hóa
Bản sắc riêng của mỗi nền/dạng/kiểu văn hoá (Cultural Identity) thường
được biểu hiện là những nét đặc thù và độc đáo thể hiện trong các hiện tượng
văn hoá hoặc các sản phẩm văn hoá, quy định bộ mặt của mỗi nền văn hoá.
Cách hiểu này không có gì sai. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là, bản sắc riêng của
văn hoá không chỉ thể hiệ
n trong các hiện tượng hoặc các sản phẩm đặc thù của
văn hoá, mà phần đáng kể của nó lại được thể hiện ngay trong hoạt động sống
bình thường, hàng ngày của các cộng đồng người. Ở đó, nó là:
Tập hợp của những cái khác biệt không thể xoá nhoà về phương thức
sống của các chủ thể văn hoá, là cái được tạo ra trong những tình huống
khác nhau của lịch sử, từ
thế giới quan, từ nhân sinh quan mà đặc biệt là
từ kinh nghiệm sống của các thế hệ khác nhau trong cộng đồng, làm





24



thành những khuôn mẫu về văn hoá chi phối và quy định hoạt động sống
của các thế hệ tiếp sau
11
.
4. Khái niệm Khuôn mẫu văn hoá
Khuôn mẫu văn hóa (Cultural matrix) là tập hợp của những giải pháp,
những chuẩn mực, những phong cách, những giá trị… được tạo ra từ kinh
nghiệm sống của các cộng đồng người, được định hình qua những tình huống
khác nhau trong lịch sử tồn tại của các cộng đồng đó và được bảo tồn trong sự
chi phối và quy định của nó đối với hoạt
động của các thế hệ kế tiếp nhau. Văn
hoá thực hiện tính quy định của mình, thể hiện sức mạnh của mình trong đời
sống xã hội thông qua các khuôn mẫu văn hoá
12
.
Con người trong hoạt động bao giờ cũng dựa vào những khuôn mẫu văn
hóa đã có để thao tác, xử lý hoặc sáng tạo… kể cả với các đối tượng mới. Khác
với con vật, không bao giờ con người bắt tay vào hoạt động từ trạng thái
“không” hoặc “hư vô” (Phi kinh nghiệm cũng là một thứ kinh nghiệm).
5. Khái niệm Văn minh
Nhiều tài liệu quả quyết rằng, văn hóa và văn minh (Civilization) với tính
cách là các khái niệ
m khoa học mãi đến thế kỷ XVIII mới xuất hiện. Trong khi
đó ở phương Tây, thuật ngữ Cultura được tìm thấy ngay trong các tác phẩm của
Siseron (106 - 43 TCN) và Civilization đã thấy được sử dụng tương đối phổ biến
ở giai đoạn đầu thời đại Phục Hưng.
Ở Trung Quốc, văn minh được nhắc đến từ rất sớm trong Thượng thư
(Ngũ Kinh); còn văn hiến với nghĩa là m
ột xã hội đạt tới một trình độ nhất định

về mặt tinh thần (văn: tư liệu, điển chương, chế độ; hiến: người thông thạo điển
chương, chế độ) thì đã được bàn luận trong Luận ngữ (Khổng Tử, 55-479 tCN).
Vào đời Hán (Thế kỷ I TCN), trong các quan niệm của Lưu Hướng người
ta đã thấy xuất hiện khái niệm văn hóa. Vă
n hóa lúc đó được hiểu là văn trị, giáo
hóa. Nghĩa gốc của văn ở đây là cái đẹp, cái có sức thu hút về mặt hình thức.
Văn hóa, do vậy trở thành yếu tố then chốt trong chính trị: cai trị, giáo hóa bằng
văn.

11
Hồ Sĩ Quý (1999). Sđd. tr. 51.
12
Hồ Sĩ Quý (1999). Sđd. tr. 52.

×