Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

vai trò của yếu tố linh cảm trong bi kịch shakespeare

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.53 KB, 85 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM



NGUYỄN THỊ THẮM





VAI TRÒ CỦA YẾU TỐ LINH CẢM TRONG BI KỊCH
SHAKESPEARE




ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP BỘ







Thái Nguyên, năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

DANH MỤC NHỮNG NGƢỜI THAM GIA VÀ ĐƠN VỊ PHỐI HỢP CHÍNH



NHỮNG NGƯỜI THAM GIA THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
Họ và tên
Đơn vị công tác và lĩnh vực
chuyên môn
Nội dung nghiên cứu
cụ thể đƣợc giao
1. Ths. Nguyễn Thị Thắm
Khoa Ngữ Văn, ĐHSP -
ĐHTN
Chủ nhiệm đề tài
2. CN. Lê Xuân Khai
Khoa Văn - Xã hội, Đại học
Khoa học - ĐHTN
Tham gia thực hiện
3. Ths. Lê Thanh Huyền
Khoa Ngữ Văn, ĐHSP -
ĐHTN
Tham gia thực hiện
4. Ths. Ôn Thị Mỹ Linh
Khoa Ngữ Văn, ĐHSP -
ĐHTN
Tham gia thực hiện
5. PGS.TS Đỗ Ngoạn
Khoa Ngữ Văn, ĐHSP –
ĐHTN
Tƣ vấn chuyên môn
6. CN Ngô Giang Nam
Phòng QLKH&QHQT,
ĐHSP - ĐHTN

Thƣ ký hành chính


ĐƠN VỊ PHỐI HỢP CHÍNH
Tên đơn vị trong và
ngoài nƣớc
Nội dung phối hợp
nghiên cứu
Họ và tên ngƣời đại diện đơn vị
Khoa Ngữ Văn, ĐHSP -
ĐHTN
Tƣ vấn chuyên môn
TS Nguyễn Thị Vƣợng
Tạp chí Khoa học Xã hội
Tƣ vấn chuyên môn
PGS.TS Lê Đình Cúc
Viện Văn học Việt Nam
Tƣ vấn chuyên môn
GS.TS Lộc Phƣơng Thủy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………… 1
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………… 1
2. Lịch sử vấn đề……………………………………………………………… 2
2.1 Tư liệu tiếng Việt…………………………………………………… 2
2.2 Tư liệu tiếng Anh…………………………………………………… 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………………10
3.1 Đối tượng nghiên cứu………………………………………… 10

3.2 Phạm vi nghiên cứu…………………………………………… 11
4. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………………11
5. Các phương pháp nghiên cứu………………………………………… 12
6. Những đóng góp mới của đề tài……………………………………… 12
7. Cấu trúc của đề tài…………………………………………… …………… 13
Chương 1 LINH CẢM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT 14
1.1 Sự tồn tại của yếu tố linh cảm…………………………………………… 15
1.1.1 Linh cảm trong đời sống………… ………………………………15
1.1.2 Về khả năng biết trước của nhân vật trong văn học thế giới trước
Shakespeare……….…… 19
1.2 Đặc điểm của bi kịch Shakespeare khi có sự xuất hiện yếu tố linh cảm …… 21
1.2.1 Điều kiện xuất hiện yếu tố linh cảm………………………………….21
1.2.2 Đặc điểm của yếu tố linh cảm…………………….………………….24
1.3 Vai trò của yếu tố linh cảm đối với ngôn ngữ nhân vật…………………… 30
1.3.1 Với ngôn ngữ đối thoại……………………………….……….………30
1.3.2 Với ngôn ngữ độc thoại……………………………………….………36
Chương 2 MỐI QUAN HỆ GIỮA LINH CẢM VÀ XUNG ĐỘT….………… 44
2.1 Linh cảm và xung đột trong tình yêu………………………………………… 45
2.1.1 Linh cảm và những lực cản từ bên ngoài…………… ……………….45
2.1.2 Linh cảm và sự cản trở từ chính bản thân nhân vật………… ……….49
2.2 Linh cảm và xung đột do tranh giành quyền lực………………….…….… … 57
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2.2.1 Linh cảm và xung đột giữa những người cùng huyết thống ….…57
2.2.2 Linh cảm và xung đột giữa những người không cùng huyết thống 61
2.3 Linh cảm và xung đột giữa con người và số mệnh……………….…………….64
2.3.1 Linh cảm và xung đột khi con người thất bại trước số mệnh………….64
2.3.2 Linh cảm và xung đột khi con người chiến thắng số mệnh……………67
KẾT LUẬN…………………………………………………………… ……… 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………… … ………………….73

PHỤ LỤC ……………………………………………………………… ….… 79

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Shakespeare là một trong những nhà viết kịch có nhiều đóng góp quan
trọng cho sự phát triển của nền văn hoá nhân loại, trong đó đặc biệt là nền sân
khấu thế giới. Dù được viết cách đây 500 năm nhưng đến nay, tác phẩm của ông
vẫn luôn được người đọc yêu thích và được công diễn ở nhiều quốc gia. Những
vấn đề lớn lao của con người mà ông đặt ra trong tác phẩm không chỉ phản ánh
hiện thực nước Anh thế kỷ XVI, XVII mà là vấn đề của mọi thời đại. Những
sáng tạo của ông về phương diện nghệ thuật được thừa nhận là kết tinh kì diệu
của một tài năng lớn. Nhiều nhà viết kịch xuất sắc như Schiller, Ibsen, Strinberg,
Samuel Beckett, Ionesco, A.Miller, Ó Neill đánh giá cao nghệ thuật kịch của
Shakespeare. Goethe từng khẳng định: “Sân khấu Shakespeare, đó là cái hộp kỳ
lạ đầy những vật hiếm, của lạ, trong đó lịch sử thế giới cho dù được xuyên suốt
bằng sợi chỉ vô hình của thời gian đã hiện lên trước mắt chúng ta” [52.186].
Engel cũng từng khuyên Latxan nên học tập Shakespeare.
Ở Việt Nam, từ thế kỷ XX, Shakespeare được biết đến như một kịch gia
xuất sắc. Qua quá trình nghiên cứu bi kịch của ông, chúng tôi thấy có sự xuất
hiện của yếu tố linh cảm. Và yếu tố này có vai trò quan trọng đối với nghệ thuật
kịch của ông. Do nhiều hoàn cảnh xã hội và lịch sử, trong một thời gian khá dài,
chúng ta chưa thật sự quan tâm đến vấn đề này. Trong chương trình giáo dục
Việt Nam, tác phẩm của Shakespeare được giảng dạy ở bậc Trung học, Đại học
và Cao đẳng. Tuy nhiên, ngoài những tiểu dẫn cho mỗi vở kịch trong các tuyển
tập kịch Shakespeare và những bài nghiên cứu ngắn trên các tạp chí, cho đến
nay, ở nước ta chưa có một chuyên luận nào nghiên cứu về kịch của ông.
Ngoài ra, chúng tôi cũng nhận thấy kịch trường Việt Nam còn nhiều

khoảng trống. Có ý kiến cho rằng: “Duy thoại kịch (kịch nói), thứ được giảng
dạy ở Đại học, trao bằng cấp xênh xang, được nhà nước trợ cấp mà lại cứ bị kẹt
hoài. Quần chúng có gì đố kỵ với thoại kịch? Có một sự đố kỵ như vậy chăng?
Có một sự thiên lệch như thế trong năng khiếu của dân tộc chăng?” [54.6] Tuy đã
xuất hiện cách đây khá lâu nhưng niềm băn khoăn và cách giải thích trên vẫn dễ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
dàng nhận được sự đồng tình của các nhà nghiên cứu về những hạn chế của kịch
nói ở Việt Nam.
Với tất cả những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Vai trò của yếu tố
linh cảm trong bi kịch Shakespeare.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1. Tƣ liệu tiếng Việt
Cũng như ở rất nhiều quốc gia khác trên thế giới, nhiều khán giả và độc
giả Việt Nam yêu thích và đón đọc tác phẩm của Shakespeare. Cho đến nay đã
có 8/10 vở bi kịch và 4/17 vở hài kịch của Shakespeare đã được dịch và giới
thiệu ở Việt Nam. Từ những năm 1964, trên Tạp chí Văn học, đã xuất hiện hai
bài nghiên cứu về kịch của ông: Lời khai mạc lễ kỷ niệm 400 năm ngày sinh của
Shakespeare của Đặng Thai Mai, Shakespeare và chúng ta của Nguyễn Đức
Nam. Từ đó đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục quan tâm, tìm hiểu kịch
Shakespeare: Nguyễn Hoàng Tuyên với Cơn bão - Nỗi buồn tiên tri của
Shakespeare (1991), Đặng Thế Bính với Shakespeare, con người của mọi thời
đại (1993), Lã Nguyên với Nhân vật của Shakespeare trong bối cảnh văn hóa
lịch sử (1999), Lê Huy Bắc với Hamlet của Shakespeare (2001), Phùng Văn Tửu
với Nhân dịp 400 năm Hamlet (2001), Jack Lynch với Vua Lear - Kiệt tác hay
thất bại của Shakespeare, Dương Kim Thoa dịch (2007)… Ngoài ra, các công
trình nghiên cứu về những tiền đề lịch sử, văn hóa, xã hội thời Phục Hưng, về
kịch của Shakespeare, về đặc điểm bi kịch của Shakespeare còn xuất hiện trong
các cuốn sách và giáo trình như Văn học phương Tây, (Bản đánh máy) (1961),

Lịch sử văn học Anh quốc từ khởi thủy đến thế kỷ thứ XVIII (1969), Lịch sử văn
học phương Tây, tập 1 (1979), Lịch sử sân khấu thế giới , tập 2 (1977), Giáo
trình văn học phương Tây (1997), Văn học phương Tây (2001). Những bài viết
và công trình nghiên cứu dưới đây có liên quan hoặc đề cập trực tiếp đến vấn đề
Vai trò của yếu tố linh cảm trong bi kịch Shakespeare.
Năm 1977, trong cuốn Lịch sử sân khấu thế giới (tập 2), A.A.A.Nhikxt
cho rằng: “Sống ngay trong bình minh của xã hội tư bản chủ nghĩa, trong những
tác phẩm của mình, Shakespeare đã phản ánh những mâu thuẫn của xã hội này,
lúc bấy giờ mới nảy sinh và chỉ lộ ra một cách trọn vẹn trong thời kỳ sau. Ông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
không những nhìn thấy quá khứ và hiện tại, mà còn nhìn thấu vào tương lai bằng
một con mắt tiên tri” [39.76]. Ý kiến trên thừa nhận khả năng tiên tri của
Shakespeare về tương lai của thời đại mình. Vậy theo Shakespeare, sau thời kỳ
bình minh, xã hội tư sản Anh sẽ vận động như thế nào, có những khối mâu thuẫn
nào tồn tại trong xã hội này, thế lực nào sẽ có sức mạnh vạn năng quy chiếu mọi
mối quan hệ trong xã hội? Và Shakespeare đã gửi bức thông điệp về vận mệnh
của thời đại trong tương lai bằng cách nào? Đó là những vấn đề mà chúng tôi
quan tâm và sẽ đề cập tới trong đề tài này.
Năm 1991, trong Cơn bão – Nỗi buồn tiên tri của Shakespeare, Nguyễn
Hoàng Tuyên đã chỉ ra những tư tưởng mang tính dự báo của Shakespeare và
cách thức diễn đạt những tư tưởng ấy của ông. Ở công trình này, từ việc phát
hiện ra sự mới mẻ của Shakespeare trong xử lý đề tài, tạo dựng không gian, thời
gian và nghệ thuật kết thúc tác phẩm, tác giả Nguyễn Hoàng Tuyên đi đến kết
luận: “Thế nhưng, nhìn lại cả cuộc đời sáng tác của Shakespeare, có thể nói ông
vĩ đại không chỉ trong niềm vui sôi nổi của những hài kịch tuyệt tác hay trong
niềm đau quằn quại sâu sắc vô biên của những bi kịch của ông, mà Shakespeare
vĩ đại còn ở cả nỗi buồn hiền minh và tiên tri của bi – hài kịch Cơn bão – nỗi
buồn không phải xuất phát từ những cảm xúc cá nhân đơn chiếc mà là từ một

tâm hồn vĩ đại dự báo cho toàn nhân loại cái tai hoạ mà loài người không thể nào
tránh được khi nó còn đang trong trạng thái manh nha: giai cấp tư sản và chủ
nghĩa tư bản phương Tây với những nanh vuốt đầu tiên của nó ở thế kỷ XVII”
[55.42]. Như vậy, Nguyễn Hoàng Tuyên không những chỉ ra cách thể hiện nỗi
buồn tiên tri của Shakespeare trong Cơn bão mà còn khẳng định chính nỗi buồn
hiền minh và tiên tri đó cho chúng ta thấy sự vĩ đại của một thiên tài. Những
nhận định mới và lý thú của tác giả đã gợi ý cho chúng tôi trong quá trình lựa
chọn, thực hiện đề tài. Từ hướng tiếp cận này, chúng tôi có thể nhận ra một tầm
cao khác của Shakespeare.
Năm 1995, trong cuốn Tuyển tập kịch Shakespeare, các dịch giả Bùi Anh
Kha, Bùi Phụng, Bùi Ý viết lời giới thiệu cho vở Hamlet. Các dịch giả cho rằng:
“Về mặt nghệ thuật, Shakespeare đã xây dựng một nhân vật điển hình rất sinh
động, có chiều rộng và chiều sâu, một nhân vật dường như đang sống trong thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
tế với toàn bộ cân não và trái tim, ngay cả với tiềm thức nữa”[48.157]. Đây là
nhận định thừa nhận sự tồn tại của tiềm thức trong đời sống tinh thần của nhân
vật Hamlet. Đồng thời các dịch giả cũng khẳng định sự xuất hiện yếu tố tiềm
thức của Hamlet tạo nên thành công trong việc xây dựng một nhân vật điển hình
kiểu Shakespeare. Nhận định này là một trong những gợi ý quan trọng cho sự
hình thành ý tưởng của chúng tôi về vai trò của yếu tố linh cảm đối với kiểu nhân
vật bi kịch của Shakespeare.
Cũng trong Tuyển tập kịch Shakespeare, có bài giới thiệu về tác phẩm
Othello của dịch giả Nguyễn Văn Sỹ. Ông nhận xét: “…việc Shakespeare đưa
một người da đen châu Phi lên sân khấu trong vai chính, mà lại là một nhân vật
tài ba lỗi lạc, tâm hồn cao thượng, “tuy đen mà đẹp”, theo cái nghĩa đầy đủ của
nó, riêng việc đó cũng cho ta thấy tầm tư tưởng lớn lao của Shakespeare đã vượt
quá thời đại của ông” [48.320-321]. Đây là một ý kiến quan trọng giúp chúng tôi
triển khai đề tài này trên cơ sở tiếp tục tìm hiểu “tầm tư tưởng lớn lao vượt quá

thời đại của Shakespeare” qua yếu tố linh cảm trong Othello và trong các vở bi
kịch khác của ông.
2.2 Tƣ liệu tiếng Anh
Về mảng tư liệu tiếng Anh, chúng tôi đã thu thập được một lượng tài liệu
đáng kể từ các thư viện trong và ngoài nước, thư viện điện tử và các trang web:

.
Nguồn tài liệu này giúp chúng tôi xem xét vấn đề nghiên cứu trên những phương
diện: nghiên cứu tiểu sử của Shakespeare, đi sâu tìm hiểu các tác phẩm tiêu biểu
của ông, tìm hiểu kịch của Shakespeare trên cơ sở so sánh đối chiếu với các kịch
gia khác, nắm được những kiến thức công cụ cần thiết khi nghiên cứu những
thành công của Shakespeare ở từng lĩnh vực cụ thể: ngôn ngữ, hình thức văn bản,
nghệ thuật diễn xuất. Trong đó, chúng tôi thấy: có những tài liệu trực tiếp đề cập
đến vấn đề Linh cảm trong bi kịch của Shakespeare. Chúng tôi phân chia mảng
tư liệu này thành hai nhóm chính: 1) đề cập đến sự xuất hiện của yếu tố linh cảm
trong các vở bi kịch của Shakespeare; 2) nghiên cứu, lý giải vai trò, ảnh hưởng
của yếu tố này đối với nghệ thuật kịch của Shakespeare.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Năm 1908, trong công trình Những năng lực siêu nhiên trong kịch
Shakespeare Helen H.Stewart đã trình bày quan niệm của mình về khái niệm linh
cảm. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số dẫn chứng về sự xuất hiện của yếu tố
linh cảm trong bi kịch, hài kịch và kịch lịch sử của Shakespeare. Tuy nhiên,
Helen H.Stewart chỉ dừng lại ở việc liệt kê các ví dụ, không đi sâu phân tích để
chỉ ra vai trò của yếu tố linh cảm với tư cách là một phương tiện nghệ thuật. Đây
là những gợi ý quan trọng, giúp chúng tôi lựa chọn được cơ sở lý luận và xác
định được thời điểm xuất hiện của yếu tố linh cảm trong một số vở bi kịch của
Shakespeare như Hamlet, Romeo và Juliet, Julius Caesar.
Năm 1916, trong Một số kiểu nhân vật trong công trình nghiên cứu Phân

tâm học, từ quan điểm của một nhà phân tâm học, Freud nhận thấy mối quan hệ
giữa những lời tiên tri, nỗi mong chờ có con nối ngôi từ người vợ hiếm muộn,
độc ác đến mức mất đi thiên tính nữ và những hành động khát máu của Macbeth.
Càng khao khát có con, Macbeth càng khát máu: cướp đi người cha của những
đứa con và những đứa con của người cha. Và vì khát máu nên Macbeth và vợ bị
trừng phạt dẫn đến không thể có con. Cách giải thích này cung cấp cho chúng tôi
một cách nhìn khác về ảnh hưởng của những lời tiên tri đến sự phát triển của tính
cách nhân vật, tính cách của một người khao khát làm cha. Tuy nhiên chúng tôi
cũng nhận thấy cách lý giải này có chỗ gượng ép.
Năm 1921 có công trình Hamlet và sự kế thừa văn học Scotland của Lilian
Winstanley. Trong chương Hamlet và Essex, Lilian Winstanley so sánh để chỉ ra
những điểm tương đồng trong cuộc đời và tính cách giữa Hamlet và Essex. Lilian
khẳng định rằng: “Hamlet cảm thấy những kẻ thù của chàng đang âm mưu giết
chàng và chắc chắn chúng sẽ thành công: chúng ta thấy chàng có linh cảm,
“Nhưng bạn ạ, bạn có biết không, lòng tôi sao mà bồn chồn làm vậy. Nhưng tôi
biết cũng chẳng hề chi” (Hồi V cảnh II)” [89.2]. Quan điểm này tuy chỉ nhắc tới
như một sự thừa nhận khả năng linh cảm của Hamlet nhưng là gợi ý cần thiết cho
đề tài của chúng tôi. Theo Lilian, linh cảm là yếu tố góp phần chi phối hoạt động
của nhân vật.
Đến năm 1950, Thomas Marc Parrott viết về Hạn chế mang tính bi kịch
của Shakespeare. Đây là một bài báo bình luận về công trình nghiên cứu Hạn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
chế mang tính bi kịch của Shakespeare: Thế giới trong những vở bi kịch cuối
cùng của ông của Willard Farnham, trong đó bốn vở Timon ở Athens, Macbeth,
Antony và Cleopatra, Coriolanus được nghiên cứu. Bài báo của Thomas Marc
Parrott nhận xét, đánh giá về từng chương của cuốn sách, trong đó có trích dẫn
những nhận định của Farnham về khả năng linh cảm của Macbeth: “Mở rộng và
phát triển gợi ý trong nghiên cứu của Bradley về vở kịch, Farnham chỉ ra rằng trí

tưởng tượng của Macbeth đã khiến ông ta trở thành “một nhà thơ và một nhà tiên
tri” [81.282]. Về vấn đề này chúng tôi nhận thấy cần phải trao đổi thêm. Liệu có
phải Macbeth là một nhà tiên tri như nhận định của Farnham không?
Năm 2008, tập hợp các Cliff Notes (chúng tôi tạm dịch là những ghi chép,
chú giải nhiều tập của các nhà nghiên cứu) về các vở kịch của Shakespeare xuất
hiện. Trong Cliffs Notes Về Romeo và Juliet của Shakespeare của Annaliese F.
Connolly và Về Othello của Shakespeare của Helen McCulloch, bên cạnh việc
tóm tắt, chú giải về tác phẩm, các tác giả đã chỉ ra những thời điểm mà các nhân
vật chính như Romeo, Juliet, Othello, Desdemona linh cảm về những sự việc sẽ
xảy ra với mình. Qua đó, chúng tôi xác định được đầy đủ và chính xác hơn tần số
xuất hiện của yếu tố linh cảm trong hai vở kịch.
Cliffs Notes Về Macbeth của Shakespeare của Alex Went bàn nhiều về
độc thoại nội tâm của Macbeth, trong đó có nhận xét rằng cách Macbeth giết
Macdonald “báo trước cái chết của Macbeth ở cuối vở kịch” [88.17]. Đồng thời
Alex Went cũng đề cập đến mối quan hệ giữa Vận may, định mệnh và ý chí tự do
trong Macbeth. Macbeth là nhân vật được báo trước về số mệnh. Nhận định của
Alex Went khiến chúng tôi chú ý đến sự kết nối những đường dẫn vô hình trong
thế giới tâm linh với hành động của Macbeth. Bên cạnh đó, chúng tôi hướng tới
việc lý giải sự chi phối của yếu tố linh cảm đối với tính cách, số phận nhân vật.
Trong Cliffs Notes Về Hamlet của Shakespeare, Carla Lynn Stockton có
bài viết về mối quan hệ giữa Ý chí tự do và định mệnh trong Hamlet và Oedipus
làm vua. Trên cơ sở so sánh, đối chiếu, Carla Lynn Stockton chỉ ra sự khác biệt
trong cách ứng xử của Hamlet và Oedipus đối với định mệnh. Bài viết này cung
cấp thêm cho chúng tôi một cách hiểu về nguyên nhân dẫn đến sự do dự của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
Hamlet, nhân vật không được báo trước về số mệnh nhưng lại nhận thức được sứ
mệnh cao cả của mình bằng con mắt của một tâm hồn nhạy cảm.
Cliffs Notes Về Julius Caesare của Shakespeare của Martha Perry, có

những bình luận về giấc mộng, điềm báo giúp chúng tôi hiểu rằng có một sự thừa
nhận về niềm tin vào định mệnh của các nhân vật, và giải thích giấc mộng, điềm
báo ra sao tuỳ thuộc vào mỗi nhân vật. Như vậy định mệnh đã bắt đầu được
chuyển từ Thượng Đế sang con người. Vậy điềm báo và những lời tiên tri có ảnh
hưởng như thế nào đến tiến trình của vở kịch?
Trong Cliffs Notes Về Vua Lear của Shakespeare, Sheri Metzger có bài
viết về Sự phán xét của Thượng Đế trong Vua Lear. Kết thúc bài viết là sự phủ
nhận vai trò sắp đặt của Thượng Đế đối với con người. Con người phải tự lựa
chọn, hành động và chịu trách nhiệm về hành động của mình. Phải chăng chính
vì vậy mà trong vở kịch này, Shakespeare để nhân vật chính không linh cảm về
những điều sắp xảy đến với mình? Chúng tôi sẽ trả lời cho câu hỏi này trong quá
trình triển khai đề tài.
Về nhóm nghiên cứu, lí giải vai trò của yếu tố linh cảm, cho đến nay
chúng tôi sưu tầm được hai tài liệu. Năm 1990, trong cuốn Bi kịch của
Shakespeare của D.F. Bratchell có tập hợp những bài giảng của Samuel Taylor
Coleridge về bi kịch của Shakespeare. Về bi kịch Hamlet, Coleridge đi từ tiêu chí
phân biệt con người và con vật: con người có suy nghĩ, phán đoán. Với con
người, suy nghĩ, phán đoán là cơ sở cho hành động. Tuy nhiên, có những người
do suy nghĩ quá kỹ lưỡng dẫn đến mất cân đối giữa suy nghĩ và hành động.
Hamlet là một người như vậy. Và điều đáng chú ý là nhà nghiên cứu đã nhận
thấy sự “hòa trộn” những đặc điểm (tính cách) của Hamlet và khả năng linh cảm
của chàng. Ông cho rằng: “Shakespeare dường như có ý định hoà trộn mọi đặc
điểm của Hamlet trước khi chàng biến mất ở cảnh này: chàng suy tư sâu sắc trên
nấm mồ được khai quật, chàng bộc lộ cơn giận dữ đối với Laertes, chàng thể hiện
rõ tình yêu với Ophelia, chàng bày tỏ những khái quát của chàng về mọi nguyên
do trong cuộc trò chuyện với Horatio, chàng cư xử lịch sự với Osrick, và linh
cảm về chuyện chẳng lành sắp xảy ra của chàng và của cả Shakespeare: “Nhưng
bạn ạ, có biết không, lòng tôi sao mà bồn chồn làm vậy/ Nhưng tôi biết cũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


8
chẳng hề chi” [74.95]. Như một sự thừa nhận Hamlet có khả năng linh cảm,
Coleridge đồng thời khẳng định linh cảm là một đặc điểm tính cách của chàng.
Vậy khả năng linh cảm của Hamlet được thể hiện như thế nào trong toàn bộ tiến
trình vở kịch? Khả năng đó có ảnh hưởng đến sự phát triển của xung đột kịch
không? Chúng tôi nghiên cứu và sẽ đưa ra kiến giải về những vấn đề này khi
thực hiện đề tài.
Cũng trong cuốn Bi kịch của Shakespeare, A.C.Bradley lại chú ý nghiên
cứu về vai trò của yếu tố vô thức trong nhân vật Hamlet. Ông cho rằng nguyên
nhân của sự trì hoãn hành động là do vô thức: “Khi chàng (Hamlet) hành động,
hành động của chàng không diễn ra theo sự cân nhắc và phân tích (của lý trí) mà
bất ngờ, bị thúc đẩy, bị dồn ép bởi một tình trạng khẩn cấp nên chàng không có
thời gian suy nghĩ. Và hầu hết nguyên nhân chàng đưa ra để trì hoãn không có
thật mà do vô thức” [74.97]. Bên cạnh đó, ông cũng đề cập đến mối quan hệ giữa
sự sâu sắc của tâm hồn và những cảm nhận về định mệnh của nhân vật: “cái lớn
nhất mà Hamlet mang lại cho chúng ta là sự cảm nhận về cái vô hạn của tinh
thần và cảm nhận về định mệnh mà định mệnh không chỉ giới hạn cái vô cùng ấy
mà nó còn xuất hiện như một hệ quả tất yếu của cái vô cùng” [74.98]. Như vậy
theo A.C.Bradley, con mắt của tâm hồn đã giúp Hamlet có được những cảm nhận
mơ hồ về số phận của mình. Mặc dù chưa đi sâu phân tích những dẫn chứng cụ
thể để kiến giải nhận định trên nhưng rõ ràng A.C.Bradley đã một lần nữa khẳng
định có yếu tố linh cảm, có cái nhìn bằng tâm hồn ở nhân vật Hamlet của
Shakespeare.
Năm 1997, cuốn Để hiểu đúng một con người của Fumio Yoshoka được
xuất bản. Trong công trình này, Fumio Yoshoka chỉ đề cập đến sự xuất hiện của
yếu tố linh cảm trong một vở bi kịch cụ thể của Shakespeare tại chương I: Sự im
lặng, lời nói và sự diễn xuất. Ông thừa nhận“tâm hồn tiên tri” và khả năng nhìn
nhận sự việc bằng sự nhạy cảm tâm hồn của Hamlet. Fumio Yoshoka cho rằng
nhờ tâm hồn tiên tri mà“Hamlet cảm thấy sự tồn tại của Thượng Đế nên chàng đề
cập tới Thượng Đế ba lần trong cảnh cuối” [90.V]. Những nhận xét này là gợi ý

quan trọng cho chúng tôi. Xưa nay, các nhà nghiên cứu bàn nhiều về thành công
của Shakespeare khi xây dựng những đoạn độc thoại nội tâm của Hamlet. Vậy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
với việc sử dụng yếu tố linh cảm, Shakespeare đã để cho nhân vật chính thể hiện
kết quả của sự tiên tri bằng tâm hồn ấy như thế nào? Vấn đề này, chúng tôi sẽ
nghiên cứu và triển khai trong chương 1 của đề tài. Ở chương III của cuốn sách:
Đổ vỡ do không biết trước số mệnh, sự thất bại và tìm lại chính mình của
Othello, tác giả lý giải nguyên nhân thuộc về chủ quan dẫn đến tình trạng đau
đớn dữ dội và hành động sai lầm đầy xót xa của Othello trong vở kịch cùng tên.
Trong khi lý giải, Yoshoka chú ý tới thời điểm yếu tố linh cảm xuất hiện trong
tâm hồn Othello. “Đứng trên cảng Cyprus và đoàn tụ với Desdemona sau một
chuyến đi dài đầy nguy hiểm, Othello không thể kìm nén nổi sự thôi thúc của
một niềm đam mê, hân hoan đang bừng dậy: “Ôi niềm vui của tâm hồn ta Nếu
bây giờ phải chết thì chết lúc này là hạnh phúc nhất vì lúc này lòng ta cực kỳ vui
sướng, ta e rằng trong tương lai mờ mịt, không còn có được một niềm hân hoan
như thế”. Tấn bi kịch bắt đầu với hình hài rùng rợn và những đặc tính gây đau
đớn của nó vì lời ước và linh cảm của nhân vật chính trở thành hiện thực…”
[90.V]. Đây là một trong những gợi ý quan trọng giúp chúng tôi xác định thời
điểm yếu tố linh cảm lần đầu tiên xuất hiện trong vở kịch. Từ đó chúng tôi sẽ tìm
hiểu ảnh hưởng của nó đối với tiến trình của vở kịch và sự thể hiện của tính cách
nhân vật bi kịch.
Không chỉ dừng lại ở việc đề cập tới sự xuất hiện của yếu tố linh cảm,
trong chương II: Sự thay đổi kỳ diệu của Hamlet trên biển, chúng tôi thấy Fumio
Yoshoka đề cập đến vai trò của yếu tố này một cách cụ thể hơn. Khi bàn về
những biến cố mà Hamlet gặp phải trong cuộc hành trình trên biển và ảnh hưởng
của nó đối với suy nghĩ của Hamlet, nhà nghiên cứu cho rằng: “Thời điểm chàng
thách thức mọi nguy hiểm và thay đổi có thể xảy ra trên con thuyền của bọn cướp
biển, chàng vô tình đi trên con thuyền của số mệnh. Điều đó được ám chỉ bằng thực

tế rằng, dù chàng là một người tù (sự không thay đổi địa vị của chàng trong vở
kịch), dù chàng bị bắt bởi một bọn cướp có lương tâm, nhưng có những lực lượng
siêu nhiên vẫn che chở cho chàng và giúp chàng được giải thoát. Từ “mercy” gợi
lên nghĩa “sự ban phúc của Thượng Đế” khá thích hợp với ngữ cảnh của kịch bản,
kết nối với dòng suy tưởng khó hiểu của Hamlet” [90.65-66]. Tiếp theo cuộc hành
trình trên biển, ông còn nhận thấy sự thay đổi lớn lao của Hamlet khi trở lại nghĩa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
trang. Những cuộc nói chuyện với người đào huyệt và Horatio giúp chàng nhận ra
rằng: “Sau tất cả những gì tưởng không thể vượt qua được là cái chết, tất cả mọi
người đều giống nhau, đều trở thành đất sét kể cả Alexander hay Caesar. Sự nhận
thức của chàng về cái chết còn thức tỉnh chàng về sự xuất hiện của nhiều điều ở
trên trời và dưới đất “những điều mà triết học của chúng ta chưa hề mơ tưởng tới”:
Một con chim sẻ rơi xuống còn có thần linh định đoạt. Nếu việc phải xảy ra bây
giờ, thì về sau không xảy ra nữa…” [90.71-72]. Những nhận định này cho thấy
cùng với cuộc hành trình trên biển, sự bất chấp linh cảm có vai trò quan trọng
trong quyết định của nhân vật tạo nên sự đột biến cho xung đột kịch.
Tìm hiểu các công trình nghiên cứu tiếng Việt và tiếng Anh nói trên,
chúng tôi nhận thấy các nhà Shakespeare học đã khám phá những thành công của
Shakespeare từ rất nhiều quan điểm nghiên cứu khác nhau: Phân tâm học, Phê
bình cổ mẫu, Phê bình thần thoại, Văn học so sánh, Văn hoá lịch sử, Nghiên cứu
giới tính, Phê bình Marxist, Phê bình mới…Chúng tôi đặc biệt quan tâm tới những
tư liệu bộc lộ rõ hướng nghiên cứu liên ngành như Shakespeare: chủ nghĩa duy vật
văn hoá, thuyết nam nữ bình quyền và chủ nghĩa Marxist của Jonathan Dollimore.
Với quan niệm “Không có một học thuyết đơn lập nào có thể đảm bảo tính toàn
năng và thấu suốt tất cả bởi vì mọi học thuyết đều bị giới hạn bởi chính hệ thống
chính trị và văn hoá mà nó điều hành” [90.V], chúng tôi lựa chọn và vận dụng
cách thức nghiên cứu, tiếp cận liên ngành vào thực hiện đề tài. Cũng qua việc tìm
hiểu các công trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên cứu đã đề cập

đến sự xuất hiện của yếu tố linh cảm hoặc nghiên cứu, lí giải vai trò của yếu tố
linh cảm trong một vài vở kịch đơn lẻ. Đây là những gợi ý quan trọng cho chúng
tôi thực hiện đề tài này. Tuy nhiên chưa có chuyên luận nào nghiên cứu về vấn đề
linh cảm trong toàn bộ 10 vở bi kịch của Shakespeare.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu mà chúng tôi hướng tới là có hay không có yếu tố
linh cảm trong bi kịch của Shakespeare? Nếu linh cảm xuất hiện trong bi kịch
của ông thì tần số xuất hiện của nó như thế nào? Nó có vai trò gì đối với nghệ
thuật kịch của ông, đặc biệt là với việc xây dựng nhân vật bi kịch kiểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Shakespeare. Đồng thời chúng tôi cũng mong muốn phân tích, lý giải vấn đề:
Với việc sử dụng linh cảm như một phương tiện nghệ thuật, Shakespeare đã thể
hiện được những cảm quan hiện thực sâu sắc nào?
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong các loại từ điển: từ điển tâm lý, từ điển tiếng Việt, mục từ linh cảm
xuất hiện với nghĩa: khả năng biết trước được những chuyện sẽ xảy ra. Còn các
từ điển tiếng Anh, từ điển tiếng Trung chú ý đến đặc điểm của những chuyện
được linh cảm; đó là những chuyện chẳng lành (Vấn đề này chúng tôi sẽ giới
thuyết rõ hơn ở mục 1.1.1).
Một trong những tiêu chí nhận diện bi kịch là tập hợp, xâu chuỗi những
chuyện chẳng lành, những bất hạnh xảy ra với các nhân vật. Để có thể nghiên
cứu vai trò của yếu tố linh cảm trong bi kịch của Shakespeare một cách hiệu quả,
chúng tôi chỉ tập trung khảo sát linh cảm về những chuyện chẳng lành.
Shakespeare có 37 vở kịch, trong đó có 17 vở hài kịch, 10 vở kịch lịch sử
và 10 vở bi kịch. Chúng tôi lựa chọn nghiên cứu 10 vở bi kịch của Shakespeare:
Antony và Cleopatra, Coriolanus, Hamlet, Julius Caesar, Vua Lear, Macbeth,
Othello, Romeo và Juliet, Timon ở Athens, Titus Andronicus. Trong số 10 vở

kịch này, các vở Antony và Cleopatra, Coriolanus, Hamlet, Julius Caesar, Vua
Lear, Macbeth, Othello, Romeo và Juliet đã được dịch ra tiếng Việt. Đó là cơ sở
thuận lợi để chúng tôi khảo sát trên văn bản tiếng Việt có đối chiếu với nguyên
bản tiếng Anh. Còn lại hai vở Timon ở Athens, Titus Andronicus, chúng tôi
nghiên cứu bằng văn bản tiếng Anh.
4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu yếu tố linh cảm, chúng tôi hướng tới việc làm nổi bật những
giá trị nội dung và nghệ thuật của bi kịch Shakespeare. Kết quả nghiên cứu của
đề tài sẽ phục vụ cho công việc giảng dạy, học tập của những người quan tâm,
nghiên cứu kịch nói chung và bi kịch Shakespeare nói riêng. Bên cạnh đó, đề tài
sẽ là tài liệu tham khảo, là những bài học kinh nghiệm cho các nhà viết kịch và
các nhà văn Việt Nam.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
5. CÁC PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Về mặt phương pháp luận, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu
thi pháp để làm rõ đặc điểm của ngôn ngữ nhân vật, đặc điểm của xung đột
kịch trong mối quan hệ với yếu tố linh cảm trong bi kịch Shakespeare.
- Về mặt thao tác, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê xác suất để
xác định tần số xuất hiện của yếu tố linh cảm trong bi kịch Shakespeare, phương
pháp tiếp cận hệ thống nhằm chỉ ra vai trò của yếu tố linh cảm như là một
phương tiện nghệ thuật trong mối quan hệ với hệ thống và với các yếu tố khác
trong nghệ thuật kịch Shakespeare và phương pháp so sánh để so sánh
Shakespeare với các kịch gia khác nhằm chỉ ra sự độc đáo của Shakespeare trong
việc sử dụng yếu tố linh cảm để tạo ra kiểu nhân vật bi kịch của ông.
- Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành:
lịch sử học, văn hóa học, phân tâm học, tâm lý học…để lý giải vai trò của yếu tố

linh cảm trong bi kịch Shakespeare
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa linh cảm và ngôn ngữ nhân vật trong bi
kịch Shakespeare, chúng tôi chỉ ra vai trò của linh cảm đối với nghệ thuật xây
dựng ngôn ngữ nhân vật của Shakespeare. Linh cảm xuất hiện nhiều và sự xuất
hiện của yếu tố linh cảm làm cho ngôn ngữ nhân vật có chiều sâu, đa tầng ý
nghĩa, tạo hứng thú cho người đọc
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa linh cảm và xung đột trong bi kịch
Shakespeare, chúng tôi làm sáng tỏ vai trò của linh cảm đối với sự phát triển
xung đột kịch của Shakespeare, và với sự thể hiện đầy đủ các đặc điểm của tính
cách nhân vật bi kịch.
- Từ những kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi khẳng định linh cảm có vai
trò quan trọng đối với nghệ thuật kịch của Shakespeare. Với sự xuất hiện của yếu
tố linh cảm, chúng tôi nhận thấy nếu không nghiên cứu vấn đề này, việc nghiên
cứu về bi kịch của Shakespeare sẽ chưa thật đầy đủ. Chúng ta sẽ bỏ qua một khía
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
cạnh quan trọng góp phần nhận diện và khẳng định tầm cao của thiên tài
Shakespeare.
7. CẤU TRÖC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài của chúng tôi gồm có hai chương:
Chương 1: Linh cảm và đặc điểm của ngôn ngữ nhân vật
Chương 2: Mối quan hệ giữa linh cảm và xung đột


























Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
Chƣơng 1
LINH CẢM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÔN NGỮ NHÂN VẬT
Linh cảm là gì? Linh cảm được hình thành như thế nào? “Linh cảm là lời
mách bảo của một sức mạnh siêu nhiên nào đó hay là thuộc tính tự nhiên của loài
người?” [68.1]. Những câu hỏi trên cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời cuối
cùng và trong chương này, chúng tôi cũng không có tham vọng đưa ra câu trả lời
cuối cùng cho những vấn đề này. Từ việc tìm hiểu định nghĩa về linh cảm của
các nhà ngôn ngữ học, các nhà phân tâm học, các nhà tâm lý học, chúng tôi sẽ

phân tích để chỉ ra sự thống nhất trong quan niệm của các nhà khoa học về vấn
đề linh cảm. Trên cơ sở đó, chúng tôi lựa chọn một định nghĩa về linh cảm làm
cơ sở lý luận để tiến hành khảo sát và tìm hiểu về yếu tố linh cảm trong bi kịch
của Shakespeare.
Trong chương này, chúng tôi cũng quan tâm tìm hiểu sự thay đổi trong
quan niệm của con người về chủ thể sở hữu khả năng biết trước, khả năng linh
cảm. Từ đó, chúng tôi đi đến những kết luận về sự kế thừa và sáng tạo của
Shakespeare trong việc sử dụng yếu tố linh cảm như một phương tiện nghệ thuật.
Chúng tôi sẽ chỉ ra những đặc điểm của bi kịch Shakespeare khi có sự xuất hiện
của yếu tố linh cảm. Đồng thời, chúng tôi cũng tìm hiểu và lý giải những điều
kiện cần thiết dẫn đến sự hình thành quan niệm mới của Shakespeare về con
người, về vai trò của số mệnh- cơ sở cho sự xuất hiện của yếu tố linh cảm trong
bi kịch của Shakespeare.
Chúng tôi sẽ trình bày cụ thể kết quả khảo sát về các phương diện: số lời
thoại có sự xuất hiện của yếu tố linh cảm, đặc điểm phân bố và vai trò của yếu tố
linh cảm đối với nghệ thuật kịch của ông. Trong đó, chúng tôi đặc biệt đi sâu làm
rõ hiệu quả việc sử dụng yếu tố linh cảm đối với ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ
độc thoại. Đồng thời, chúng tôi cũng sẽ chỉ ra những căn cứ khoa học để đi đến
khẳng định việc sử dụng yếu tố linh cảm như một phương tiện nghệ thuật, sự
xuất hiện của tiềm thức, vô thức trong bi kịch của Shakespeare chính là tiền đề
quan trọng cho các nhà tiểu thuyết phương Tây hiện đại sau này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
1.1 SỰ TỒN TẠI CỦA YẾU TỐ LINH CẢM
1.1.1 Linh cảm trong đời sống
Đã từ lâu, vấn đề linh cảm tồn tại trong cuộc sống cũng như trong văn học.
Từ điển tiếng Việt định nghĩa linh cảm là: “Cảm thấy bằng linh tính” [61.570].
Cũng ở Từ điển tiếng Việt, linh tính là: “Năng khiếu biết trước hoặc cảm thấy từ
xa một biến cố nào đó xảy ra có liên quan mật thiết đến bản thân mình mà không

dựa vào một phương tiện thông tin bình thường nào” [61.571]. Như vậy theo
cách định nghĩa của Từ điển tiếng Việt thì linh cảm và linh tính có mối quan hệ
với nhau. Linh cảm chính là kết quả của linh tính hay nói cách khác linh tính là
phương thức tạo ra linh cảm. Đối tượng hướng tới của linh cảm là “một biến cố
nào đó xảy ra có liên quan mật thiết đến bản thân mình”. Nói cách khác, linh cảm
giúp con người “biết trước” được “biến cố” khi nó chưa xảy ra. Xét theo trật tự
thời gian thì linh cảm giúp con người “biết trước” những sự việc diễn ra trong
tương lai.
Theo tư duy lôgic, con người thường đi từ cái đã biết đến cái chưa biết.
Trên trục thời gian, chúng ta thường đoán biết những sự việc sẽ xảy ra trong
tương lai trên cơ sở dữ liệu có sẵn về quá trình đã diễn ra hoặc đang diễn ra của
hiện tượng đó. Có một thực tế sinh động là các nhà khoa học nghiên cứu về thời
tiết thường dựa trên những biểu hiện và diễn biến của thời tiết ngày hôm nay để
đưa ra bản tin dự báo thời tiết cho ngày hôm sau. Còn linh cảm báo trước những
biến cố diễn ra trong tương lai “mà không dựa vào một phương tiện thông tin
bình thường nào”. Nói cách khác, linh cảm sẽ không đi từ cái đã biết đến cái sẽ
biết nhưng sau khi được linh cảm báo trước, nhiều khi những biến cố đó lại thật
sự diễn ra.
Theo Từ điển Tâm lý, linh cảm được định nghĩa là “biết trực tiếp không
qua các giác quan thông thường” [60.190]. Đồng thời về mục từ này, các soạn
giả còn giải thích thêm: “Từ ngàn xưa đã có những người nói là có thể biết
người, biết việc trong điều kiện mà người với giác quan thông thường không thể
biết được như nhìn xuyên lòng đất, biết ý nghĩ người khác, đoán trước những
việc sẽ xảy ra hoặc nói việc đã qua” [60.190]. Với phần giải nghĩa chính, chúng
tôi không nhận thấy sự khác biệt giữa Từ điển Tâm lý và Từ điển tiếng Việt trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
cách giải nghĩa từ linh cảm mặc dù có cách diễn đạt khác về phương thức,
phương tiện tạo ra linh cảm. Theo Từ điển tiếng Việt, sự tạo thành linh cảm

“không dựa vào một phương tiện thông tin bình thường nào”, còn theo Từ điển
Tâm lý, linh cảm giúp con người nhận biết nhưng “không thông qua các giác quan
thông thường”. Theo chúng tôi, con người thường nhận biết thông tin qua các giác
quan bình thường như: xúc giác, vị giác, thính giác, thị giác và khứu giác. Như
vậy, Từ điển tiếng Việt và Từ điển Tâm lý thống nhất ở chỗ linh cảm được tạo ra
không dựa trên cơ sở dữ liệu do các giác quan thông thường cung cấp.
Tuy nhiên, ở phần giải thích thêm trong Từ điển Tâm lý, chúng tôi nhận
thấy có sự khác biệt trong quan niệm. Đó là: “Từ ngàn xưa đã có những người
nói là có thể biết người, biết việc trong điều kiện mà người với giác quan thông
thường không thể biết được như nhìn xuyên lòng đất, biết ý nghĩ người khác,
đoán trước những việc sẽ xảy ra hoặc nói việc đã qua”. Như vậy theo các nhà
biên soạn Từ điển Tâm lý, linh cảm giúp con người biết được cả “những việc sẽ
xảy ra” hoặc những “việc đã qua”. Còn theo Từ điển tiếng Việt, linh cảm giúp
con người biết trước những việc sắp xảy ra trong tương lai. Và chúng tôi nhận
thấy định nghĩa về linh cảm trong Từ điển Tâm lý trùng với giải nghĩa từ ngoại
cảm trong Từ điển tiếng Việt: ngoại cảm là “khả năng cảm nhận những điều
người thường không cảm nhận được, nhờ vào một giác quan đặc biệt, ngoài năm
giác quan, gọi là giác quan thứ sáu” [61.682-683].
Theo Từ điển Hán Việt, linh cảm là “cảm thấy trước một điều gì đó sẽ xảy
ra trong tương lai, thường là đối với những sự việc không tốt” [91.811]. Tại Từ
điển Oxford Advanced Learner, linh cảm được giải nghĩa là: “Cảm thấy điều gì
đó sẽ xảy ra, đặc biệt là những chuyện chẳng lành.” (Oxford Advanced Learner’s
dictionary, mục từ Premonition và Presentiment). Cách giải nghĩa này cũng có
những điểm tương đồng với cách giải nghĩa trong Lacviet- MTD2002; trong Từ điển
Anh- Anh- Việt, Việt- Anh (Nxb Từ điển Bách Khoa); Từ điển Anh- Việt (Nxb Hồng
Đức), Từ điển Webster’s New World College (Wiley Publishing of Cleveland, Ohio,
USA). Như vậy, Từ điển Hán Việt và các từ điển tiếng Anh thống nhất với Từ điển
tiếng Việt và Từ điển Tâm lý trong việc giải nghĩa mục từ linh cảm là khả năng biết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


17
trước được những việc có thể xảy ra. Tuy nhiên các từ điển tiếng Anh đề cập đến
đặc điểm “chẳng lành” của những chuyện được linh cảm.
Ở Việt Nam, do nhiều hoàn cảnh xã hội và lịch sử khác nhau, vai trò của
linh cảm chưa thật sự được quan tâm. Trong một thời gian khá dài, mảng đề tài
này có rất ít nhà nghiên cứu đề cập tới. Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu
của các nhà Phân tâm học đã được dịch ở Việt Nam, chúng tôi nhận thấy Freud
đã chạm đến vấn đề linh cảm, linh tính tuy ông không đặt linh cảm, linh tính
thành một đối tượng nghiên cứu độc lập. Trong công trình Nhập môn Phân tâm
học, khi lý giải “Những hành vi sai lạc”, Freud có đề cập đến linh tính. Sau khi
đưa ra hàng loạt ví dụ để chứng minh những hành vi sai lạc của con người có
chức năng báo trước một biến cố nào đó, Freud đưa ra giả định: “Chắc các bạn
cũng muốn rằng, trong những trường hợp đó, những hành vi sai lạc thay thế cho
linh tính của người xưa” [19.57]. Rồi ông khẳng định: “Mà đúng thế, nhiều khi
những linh tính đó chỉ là những hành vi sai lạc, ví dụ như khi người ta vấp ngã”
[19.57]. Như vậy, rõ ràng Freud đồng nhất linh tính là một trong những hành vi
sai lạc của con người. Hay nói cách khác, chính linh tính góp phần tạo ra những
hành vi sai lạc trong giao tiếp giữa người với người.
Với các nhà Tâm lý học, vấn đề linh cảm cũng đã được đặt ra và nghiên
cứu. Trong các bài báo trên các trang web như: Linh cảm- khả năng kỳ diệu của
con người, http: //www.vnexpress.net/GL/khoahoc/2006/10/3B9EE4B7, Lời giải
cho “linh cảm”, http: //www.vnexpress.net/GL/khoahoc/ Ban-co-
biet/2005/10/3B9E39F5, Trực giác và linh cảm, />song/khoa-hoc/2007 10 15/35A68061/ truc-giac-va-linh-cam, Linh cảm- Giác
quan thứ sáu, />69957.htm/ , nhiều kiến giải của các nhà khoa học đã xuất hiện. Trong các
công trình như: Ngoại cảm sự thật hay huyền thoại (Hằng Nga), Bí ẩn của các
nhà ngoại cảm Việt Nam (Lê Mai Dung), Hiện tượng ngoại cảm, hiện thực và lý
giải (Phạm Ngọc Dương)…các nhà nghiên cứu cũng đề cập đến linh cảm như
một dạng thức của ngoại cảm. Theo dõi các công trình nghiên cứu, chúng tôi
thấy các nhà nghiên cứu thường đi từ những ví dụ cụ thể để chứng minh sự tồn
tại của linh cảm. Sau đó họ đi tìm câu trả lời cho câu hỏi linh cảm được hình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
thành như thế nào? Có nhiều ý kiến cho rằng chính sự hoạt động của tiềm thức
con người đã tạo ra trực giác. Nhờ có trực giác, con người có những giây phút
xuất thần. Họ có thể biết trước những sự việc sẽ xảy ra hoặc tìm ra câu trả lời cho
những câu hỏi mà họ quan tâm, trăn trở từ lâu.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một cách lý giải hoàn toàn thuyết
phục, chưa có một nhà khoa học nào có câu trả lời cuối cùng cho câu hỏi: “Linh
cảm là lời mách bảo của một sức mạnh siêu nhiên nào đó hay là thuộc tính tự
nhiên của loài người?” [68.1]. Khoa học Cận tâm lý vẫn đang trên hành trình tìm
kiếm một cơ sở vật chất để chứng minh sự hình thành của linh cảm một cách
khoa học, có căn cứ. Thật ra, tâm linh con người có thể coi là một loại vật chất.
Chỉ có điều, loại vật chất này là vật chất vô hình.
Bên cạnh định nghĩa của các nhà biên soạn từ điển, các nhà Phân tâm học,
các nhà Tâm lý học, khái niệm linh cảm còn được xác định bởi nhà Shakespeare
học Helen H.Stewart. Trong cuốn Những năng lực siêu nhiên trong kịch
Shakespeare, Helen H.Stewart quan niệm “Linh cảm có thể định nghĩa một cách
khái quát là một sự tin tưởng chắc chắn của trực giác rằng một vài điều tốt hay
xấu tuỳ theo tình hình có thể, chắc chắn sẽ xảy ra. Niềm tin vững chắc này xâm
chiếm tâm trí không cần tới bất kỳ lý do xác đáng nào, nhưng có những sự kiện
trong quá khứ hoặc những yếu tố của tính cách con người có liên quan, gợi ý
rằng một thảm hoạ đang đến” [85.3] (A presentiment may be superficially
defined as an instinctive conviction that something, good or bad as the case may
be, is going to happen. This conviction take prossession of the mind without any
apparent reason, but there may have been events in the past life or elements in
the character of persons concerned that suggest a coming crisis). Nói cách khác,
Helen H.Stewart quan niệm linh cảm là khả năng nhận thức của con người trên
cơ cở cảm giác trực tiếp “không phải bằng suy luận của lý tính” [84.1055]. Nhận
thức này không cần tới một “lý do xác đáng nào” nhưng không phải hoàn toàn vô

căn cứ. Có điều căn cứ đó không được phân tích bằng lý tính mà nằm sâu trong
tiềm thức, vô thức của con người khiến con người tin tưởng rằng “thảm họa đang
đến”. Như vậy, linh cảm khác với dự cảm, phán đoán, tiên tri. Tuy cùng nhận
thức về những sự việc sẽ xảy ra trong tương lai nhưng các khả năng này chủ yếu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
dựa trên cơ sở sự phân tích lý tính của con người. Chúng tôi nhận thấy định
nghĩa này của Helen H.Stewart đầy đủ, hợp lý hơn cả và đồng tình với quan niệm
của Helen H.Stewart về linh cảm. Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn định nghĩa
của Helen H.Stewart như một khái niệm lý luận để tiến hành khảo sát và tìm hiểu
về yếu tố linh cảm trong bi kịch của Shakespeare.
Có một điều dễ nhận thấy là yếu tố linh cảm đã xuất hiện trong văn học.
Không giống như các nhà khoa học, các nhà văn không đi sâu vào việc tìm hiểu,
lý giải nguồn gốc, cơ sở vật chất của linh cảm. Họ coi yếu tố này như một
phương tiện nghệ thuật. Họ để cho nhân vật có khả năng linh cảm. Có thể coi
Shakespeare là một trong những nhà văn đầu tiên sử dụng linh cảm một cách có
ý thức và coi linh cảm như một phương tiện nghệ thuật quan trọng.
1.1.2 Về “khả năng biết trƣớc” của nhân vật trong văn học thế giới
trƣớc Shakespeare
“Khả năng biết trước một sự việc nào đó sắp xảy ra” từng xuất hiện trong
các tác phẩm văn học Hy Lạp cổ đại. Và theo quan niệm của người Hy Lạp cổ
đại, khả năng tiên tri thuộc về thần linh vì thần linh sắp đặt mọi sự việc, sắp đặt
số phận cho con người: “Vận mệnh của loài người, cuộc sống của họ sung sướng
hay đau khổ tuỳ thuộc vào thần thánh, trước hết là thần Zeus” [59.95]. Con
người, nếu có khả năng tiên tri là do thần linh ban cho, để giao tiếp với thần linh.
Đó là các cô đồng Pythie, các viên tư tế, các thầy phù thuỷ.
Ở phương Đông, trong những tác phẩm viết về cuộc sống của con người
thời kỳ cổ - trung đại, cũng có sự xuất hiện của các thầy mo, thầy cúng, thầy
pháp. Họ được coi là phương tiện giao nối giữa Trời, Giàng và con người. Ví dụ

trong Tây du ký của Ngô Thừa Ân, các pháp sư có khả năng cầu mưa, cầu nắng.
Họ có thể giúp con người đề đạt nguyện vọng của mình với một lực lượng mơ
hồ, xa xôi là Ngọc Hoàng, là Trời và các thần. Chính vì thế các pháp sư rất được
trọng vọng.
Tuy nhiên con người có thể trở thành pháp sư được không? Theo quan
niệm của Ngô Thừa Ân nói riêng và quan niệm của Phật giáo thì con người có
thể trở thành pháp sư khi họ tu hành đắc đạo. Tuy nhiên con đường đến với đạo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
của con người đầy gian nan và con người cần có sự giúp đỡ của thần linh: Bồ
Tát, Phật tổ Như Lai…Như vậy, vai trò của các lực lượng phù trợ rất rõ trong các
hoạt động của con người.
Trong văn học Việt Nam, đọc Sử thi Đam San, chúng ta thấy trước khi sang
nhà Đam San hỏi chồng cho em gái, những người anh trai, em trai của H’Ni và
H’Bi đã “mang xương ra ta bói một quẻ xem sao” [43.477]. Đặc biệt, sau khi nàng
H’Ang sinh con, nàng “được thần báo mộng, bảo hãy lấy tên của Đam San đặt cho
cháu. H’Ang làm theo lời thần, cậu bé thôi khóc” [43.529]. Những chi tiết trên
chứng tỏ ở thời cổ đại, người Việt Nam cũng quan niệm: con người khả năng biết
trước được một sự việc nào đó sắp xảy ra nếu có thể giao tiếp với thần linh, nghe
theo lời mách bảo của thần linh.
Đến giữa thời kỳ trung đại, trong văn học Việt Nam, các thể loại tự sự
chưa thật sự phát triển mạnh trừ thể loại truyện Truyền kỳ với tác giả tiêu biểu là
Nguyễn Dữ. Trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, có những giấc mộng báo
điềm gở, có khi giấc mộng chỉ giúp con người tránh oán, làm ơn cho thần tiên.
Cũng có chuyện chứng tỏ thần tiên có thể biết trước những chuyện mà người trần
không thể biết. Như vậy, trong truyện Truyền kỳ, những giấc mộng, những lời tiên
tri giúp con người biết trước hậu quả hay số phận của mình cũng không phải tự
nhiên mà có, đều do những thế lực siêu nhiên như thần tiên hay yêu quái tạo ra.
Phải đến cuối thời kỳ trung đại, với sự xuất hiện của Truyện Kiều, chúng ta

thấy Nguyễn Du để cho con người biết trước số phận nhờ khả năng linh cảm.
Nhưng không phải ngẫu nhiên mà trong số hàng chục nhân vật chính, Nguyễn
Du chỉ để cho Thuý Kiều có khả năng đặc biệt này. Khi được Đạm Tiên báo
mộng, Kiều đã tin rằng nàng có tên trong sổ đoạn trường. Nàng tự vẫn nhưng
không thể chết. Nàng phải sống để trải qua đủ những kiếp nạn đã được biết
trước. Phải chăng Nguyễn Du muốn nhân vật của mình cam chịu để cho số phận
chà đạp, huỷ hoại mọi phẩm chất tốt đẹp của con người?
Rõ ràng thời cổ đại, con người quan niệm khả năng biết trước những
chuyện sẽ xảy ra là khả năng của thần linh. Đến thời trung đại, có sự khác biệt
trong quan niệm của các nhà văn ở cả phương Đông và phương Tây về khả năng
của con người. Ở phương Tây, Shakespeare là một trong những người thể hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
sự khác biệt ấy trong bi kịch của mình. Ông quan niệm khả năng biết trước, khả
năng linh cảm là khả năng của con người, linh cảm là “thuộc tính tự nhiên của
loài người”. Trong bi kịch của ông, các nhân vật chính hay phụ hầu hết đều là
người bình thường, không có nguồn gốc từ thần linh, không được thần linh bảo
trợ vẫn có khả năng linh cảm. Như vậy, yếu tố linh cảm được Shakespeare sử
dụng chính là biến thân của khả năng biết trước từng xuất hiện trong văn học thế
giới trước khi Shakespeare xuất hiện. Chính nhận thức đầy đủ hơn về con người,
nhiệt tình ca ngợi, đề cao con người đã làm thay đổi quan niệm của Shakespeare
về chủ thể sở hữu khả năng biết trước. Và ý thức sử dụng yếu tố linh cảm như
một phương tiện nghệ thuật là sự sáng tạo mới mẻ mà không tách rời khỏi truyền
thống của kịch gia Shakespeare.
1.2 ĐẶC ĐIỂM CỦA BI KỊCH SHAKESPEARE KHI CÓ SỰ XUẤT HIỆN
YẾU TỐ LINH CẢM
1.2.1 Điều kiện xuất hiện yếu tố linh cảm
Từ những năm cuối của thế kỷ XV, sự đổ vỡ của trật tự phong kiến cũ mà
đỉnh cao là các cuộc nội chiến của các tập đoàn phong kiến đã chấm dứt ở Anh

với sự lên ngôi của Henri VII (1485-1509), vị vua đầu tiên của dòng họ Tiudo.
Tiếp theo Henri VII là Henri VIII. Những ông vua đầu tiên của dòng họ Tiudo đã
tạo ra những cuộc cải cách vĩ đại như: thủ tiêu sức mạnh chính trị của các hầu
tước phong kiến cát cứ, tập trung quyền lực vào tay chính quyền phong kiến
trung ương. Đặc biệt hơn, họ còn tuyên bố quyền làm chủ, không còn phụ thuộc
vào quyền lực và ảnh hưởng của nhà thờ cơ đốc giáo. Họ trở thành người nắm
quyền lực cao nhất ở nước Anh. Ngoài ra, họ còn liên minh với giai cấp tư sản
đang lên để chống lại chế độ phong kiến cơ đốc giáo và khát vọng khôi phục lại
địa vị tinh thần tối cao của các giáo hoàng La Mã.
Việc một ông vua nhân danh một con người tuyên bố rằng bản thân mình
là nơi tập trung quyền lực cao nhất và duy nhất, cao hơn cả các giáo hoàng La
Mã- người đại diện cho Chúa Trời, cho Đấng sáng tạo, người xưa nay có vai trò
giao nối giữa Chúa Trời và con người như niềm tin của các con chiên trong đất
Chúa, có ý nghĩa gì? Việc chấm dứt sự cấu kết giữa người có quyền lực chính trị
cao nhất với người cha tinh thần của con người chứng tỏ đã đến lúc người có

×