LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng, luận văn thạc sĩ kinh tế “ Nâng cao hiệu quả huy
động vốn tai ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam chi
nhánh Nghệ An” là công trình nghiên cứu của tôi.
Những số liệu được sử dụng được chỉ rõ nguồn trích dẫn trong danh
mục tài liệu tham khảo. Kết quả nghiên cứu này chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nghiên cứu nào từ trước đến nay.
MỤC LỤC
1.2.3.1. NHÂN TỐ CHỦ QUAN 26
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHTMCP : Ngân hàng thương mại Cổ phần
NHTW : Ngân hàng Trung Ương
TCKT - XH : Tổ chức kinh tế - xã hội
TCKT : Tổ chức kinh tế
TCTD : Tổ chức tín dụng
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
1.2.3.1. NHÂN TỐ CHỦ QUAN 26
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vốn luôn là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình hoạt
động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Chúng ta cần khẳng định rằng không
thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế xã hội nói chung của Nhà nước, cũng
như các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng nếu như không có
vốn. Nhưng nếu có vốn trong tay mà sử dụng vốn lãng phí không có hiệu quả
không mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp thì hậu quả doanh nghiệp phải
gánh chịu rất nặng nề. Đối với các NHTM với tư cách là một doanh nghiệp,
một chế tài trung gian hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ thì sử dụng vốn làm
sao cho có hiệu quả mang lại lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng. Vì vậy, các
NHTM rất chú trọng đến vấn đề huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả.
Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam là một trong những
ngân hàng mạnh trong khối các ngân hàng cổ phần, với thương hiệu
Techcombank cả hệ thống đang phấn đấu để trở thành ngân hàng tốt nhất và
doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam. Hiện nay Techcombank đang hoạt động rất
có hiệu quả, lợi nhuận năm sau luôn cao hơn năm trước. Techcombank chi
nhánh Nghệ An là một chi nhánh mạnh của khu vực Bắc trung bộ. Mặc dù
mới thành lập được gần 4 năm nhưng doanh số huy động vốn của
Techcombank chi nhánh Nghệ An luôn ở tốp dẫn đầu trong khối các ngân
hàng cổ phần tại Nghệ An, lợi nhuận năm sau luôn cao hơn năm trước. Hiện
nay trên địa bàn Tỉnh Nghệ An mà cụ thể là tại Thành phố Vinh rất nhiều các
ngân hàng thương mại cổ phần thành lập thêm chi nhánh và phòng giao dịch
do đó vấn đề huy động vốn đang thực sự là một cuộc cạnh tranh rất khốc liệt.
1
Trong định hướng phát triển Techcombank Nghệ An luôn đặt mục tiêu huy
động vốn ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước và đề cao hiệu quả sử
dụng vốn. Chính vì vậy, đây cũng là đề tài luận văn tốt nghiệp đã được lựa
chọn: “Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Kỹ Thương Việt Nam Chi nhánh Nghệ An”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về hiệu quả huy động vốn của ngân
hàng thương mại.
- Phân tích và đánh giá thực trạng hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng
thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Nghệ An.
- Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn
của Techcombank chi nhánh Nghệ An.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề cơ bản
về hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng thương mại.
- Phạm vi nghiên cứu: Hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng thương
mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Nghệ An, trên cơ sở thực trạng
và các tư liệu, số liệu của ngân hàng tập trung trong giai đoạn 2008- quý 1
năm 2011.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các các phương pháp khoa học kinh tế, từ
Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp
chỉ số, phân tích, so sánh và tổng hợp, đến phương pháp khái quát hoá và trừu
tượng hoá. Sử dụng số liêu thống kê để luận chứng.
2
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả huy động vốn của
NHTM
Chương 2: Thực trạng hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng thương
mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam chi nhánh Nghệ An
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHTMCP
Kỹ Thương Việt Nam chi nhánh Nghệ An
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ
HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt đông huy động vốn tại ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm
Vốn đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của các tổ chức kinh tế
nói chung và NHTM nói riêng. Đó là khoản hình thành nên tài sản của ngân
hàng, giúp cho ngân hàng hoạt động một cách có hiệu quả. Nguồn vốn của
ngân hàng có được là do tự có, đóng góp hoặc huy động được dùng để cho
vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Trên bảng tổng kết
tài sản nguồn vốn của NHTM, nguồn vốn được chia thành: vốn chủ sở hữu,
nguồn tiền gửi, vốn vay và các nguồn vốn khác. Có rất nhiều định nghĩa về
vốn của NHTM, nhưng định nghĩa sau đây là đầy đủ và ngắn gọn nhất về vốn
của NHTM: “Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do ngân
hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được dùng để đầu tư, cho vay hoặc
thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của ngân
hàng thương mại. Nó quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng”.
Hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại là hoạt động mà
trong đó các ngân hàng này tìm kiếm nguồn vốn khả dụng từ các chủ thể khác
nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường, hiệu quả của bản thân nó theo đúng
các quy định pháp luật.
1.1.2. Các hình thức huy động vốn
1.1.2.1. Huy động vốn tiền gửi, vay
a, Huy động vốn tiền gửi
Là nguồn vốn mà ngân hàng huy động được từ các doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế, cá nhân trong xã hội thông qua quá trình nhận tiền gửi, thanh
4
toán hộ, các khoản cho vay tạo tiền gửi và các nghiệp vụ kinh doanh khác.
Ngân hàng được nhận tiền gửi của các TCKT, cá nhân và các TCTD khác
dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi khác.
Tiền gửi phân loại theo kỳ hạn bao gồm :
- Tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi giao dịch): Đây là các khoản tiền gửi
không có kỳ hạn xác định, người gửi tiền có thể rút ra bất kỳ lúc nào tùy theo
nhu cầu của mình do đó lãi suất của loại tiền này thường thấp hơn so với các loại
tiền gửi có kỳ hạn xác định, đây là hình thức chủ yếu được các doanh nghiệp lựa
chọn nhằm mục đích giao dịch trong kinh doanh, bao gồm 2 loại sau:
Tiền gửi thanh toán: Đó là khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết được
sử dụng để tiến hành thanh toán, chi trả cho các hoạt động thanh toán hàng
hoá, dịch vụ và các khoản chi khác phát sinh trong quá trình kinh doanh một
cách thường xuyên, an toàn và thuận tiện. Đối với tiền gửi thanh toán, việc rút
tiền hoặc chi trả cho bên thứ ba thường được thực hiện bằng séc hay chuyển
khoản. Tài khoản vãng lai là tài khoản có lúc dư nợ, có lúc dư có.Với tài
khoản này, khách hàng còn có thể được ngân hàng đáp ứng nhu cầu tín dụng
trong một khoảng thời gian nhất định. Đứng trên góc độ ngân hàng, tiền gửi
không kỳ hạn là một khoản nợ mà ngân hàng luôn phải chủ động trả cho
khách hàng vào bất cứ lúc nào.
Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý : Là các khoản tiền được ký gửi với
mục đích an toàn tài sản, không mang tính chất phục vụ thanh toán. Khi cần
thanh toán khách hàng có thể đến ngân hàng để chi tiêu. Ngân hàng phải thoả
mãn yêu cầu của khách hàng khi họ có nhu cầu rút tiền và chỉ được phép sử
dụng tồn khoản chi khi đã đảm bảo khả năng thanh toán chi trả.
- Tiền gửi có kỳ hạn:
Đây là loại tiền gửi có sự thỏa thuận giữa người gửi tiền và ngân hàng về số
lượng, kỳ hạn và lãi suất của khoản tiền gửi đó. Do có sự xác định rõ ràng về kỳ
5
hạn nên ngân hàng có thể sử dụng dể cho vay với thời hạn tương ứng hoặc có
thể chuyển đổi một phần tiền gửi ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn.
b, Huy động vốn vay
Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa NHTM và NHTW hoặc giữa các
NHTM với nhau hay với các TCTD khác. Các NHTM sẽ đi vay vốn để bổ
sung vào vốn huy động của mình khi ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng
mà vẫn không đủ vốn hoạt động, hay nói cách khác tạm thiếu vốn khả dụng.
Trong trường hợp vốn vay trên tiếp tục không đáp ứng được cho đủ nhu cầu
sử dụng của NHTM thì NHTM sẽ đi vay của NHTW.
- Phát hành giấy tờ có giá
Bản chất của nghiệp vụ này là ngân hàng chủ động phát hành phiếu nợ
như: kỳ phiếu và trái phiếu để huy động vốn thường nhằm mục đích đã định.
Trong huy động vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu ngân hàng, các
NHTM phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi huy động. Vì vậy khi
thực hiện huy động vốn dưới các hình thức này, các ngân hàng phải căn cứ
vào đầu ra để quyết định về khối lượng huy động, mức lãi suất, thời hạn và
phương pháp huy động. Vốn này chỉ được huy động trong thời gian nhất định,
khi đã huy động đủ khối lượng vốn theo dự kiến các ngân hàng sẽ ngừng việc
huy động (bán) kỳ phiếu, trái phiếu.
- Vay NHTW (vay ngân hàng trung ương)
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của
NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (dự trữ thanh toán,v.v ), NHTM
thường vay NHTW. Hình thức cho vay chủ yếu của NHTW là tái chiết khấu
(hoặc tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được các NHTM chiết khấu (hoặc tái
chiết khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng mang những
thương phiếu này đến tái chiết khấu tại NHTW. NHTW điều hành vay mượn
này một cách chặt chẽ, tuỳ thuộc chính sách tiền tệ từng thời kỳ mà NHTM
6
phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Tùy vào yêu cầu
điều tiết của nền kinh tế mà NHTW có thể hạ hoặc nâng lãi suất chiết khấu.
Song dù sao đây cũng là nguồn cuối cùng đối với hoạt động huy động vốn của
các NHTM.
- Huy động vốn qua hình thức vay các TCTD khác
Đó là nguồn các NHTM vay lẫn nhau và vay của các TCTD khác trên thị
trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Đây là hình thức cho vay, nhưng
thực chất nó là hình thức tương trợ giữa các ngân hàng để có được sự hợp tác
đôi bên cùng có lợi.
1.1.2.2. Huy động vốn nội tệ và ngoại tệ
Đây là hình thức xem xét vốn huy động theo loại tiền. Trong vốn huy
động của các NHTM gồm có vốn huy động bằng đồng VNĐ và ngoại tệ (chủ
yếu là đồng USD, EUR).
a, Huy động vốn nội tệ:
Đây là khoản tiền gửi cơ bản mà các ngân hàng thương mại nhận được,
nguồn vốn nội tệ là nguồn vốn chủ yếu đối với các ngân hàng, nó phụ thuộc
vào mức thu nhập trong nước và lãi suất huy động trong từng thời kỳ, loại tiền
này thường chiếm tỷ trọng cao trong tổng lượng tiết kiệm.
Tiền gửi bằng nội tệ của các TCTD khác : Nguồn này có qui mô, cơ cấu
nhỏ trong tổng nguồn tiền gửi bằng nội tệ. Nguồn tiền gửi của các TCTD
khác thường có mức độ tăng trưởng khá cao nhưng chủ yếu là nguồn trong
thanh toán, ngân hàng cũng không sử dụng nhiều nguồn này để cho vay và
đầu tư.
b, Huy động vốn bằng ngoại tệ:
Bên cạnh nhận tiền gửi nội tệ, ngân hàng còn nhận tiền gửi dưới dạng
ngoại tệ đặc biệt là các loại ngoại tệ mạnh như USD, EURO. Việc huy động
vốn bằng ngoại tệ luôn bị tác động mạnh bởi lãi suất ngoại tệ trên thị trường
7
quốc tế và tính trạng khan hiếm tiền đồng VND. Cục dự trữ liên bang Mỹ
(FED) liên tục cắt giảm lãi suất cho vay từ đó lãi suất huy động bằng USD
của các ngân hàng luôn giảm mạnh, hệ quả là người dân chuyển sang dùng
đồng tiền có giá (đổi USD sang VND chuyển sang gửi tiết kiệm bằng đồng
VND để hưởng lãi suất cao hơn).
1.1.2.3. Huy động vốn trong nước và ngoài nước
a, Huy động vốn trong nước
Huy động vốn trong nước được coi là nguồn đặc biệt quan trọng nhất là
đối với các tổ chức tín dụng như NHTM. Nguồn vốn có tỷ trọng lớn nhất
trong tổng nguồn vốn trong nước mà NHTM có thể huy động được là tiền gửi
không kỳ hạn. Đây chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn của các doanh nghiệp để
phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình.
Vốn trong nước có quy mô lớn tiếp theo mà NHTM có thể huy động
được là tiền gửi tiết kiệm của dân chúng và các doanh nghiệp với mục đích
hưởng lợi nhuận qua lãi suất.
Ngoài ra phát hành kỳ phiếu và trái phiếu cũng mang lại nguồn vốn
trong nước cho ngân hàng. Tại Việt Nam việc phát hành này giúp phát triển
trung tâm chứng khoán nhưng chủ yếu là kỳ phiếu tạo vốn ngắn hạn còn trái
phiếu tạo vốn dài hạn thì ít được quan tâm. Một nguồn vốn trong nước nữa mà
NHTM có thể huy động đó là vốn đi vay. NHTM có thể đi vay NHTW hoặc các
tổ chức tín dụng khác.
Trên đây là những nguồn vốn trong nước mà NHTM có thể huy động được
từ bên ngoài. Khi huy động vốn trong nước, điều mà các NHTM quan tâm đó là
lãi suất phải đảm bảo nhu cầu của thị trường.
b, Huy động vốn nước ngoài
Xét theo lịch sử, phần lớn các khoản vốn nước ngoài chảy vào các nước
đang phát triển là mang tính chất dài hạn hoặc trung hạn (trái phiếu, viện trợ
8
hoặc các khoản cho vay bằng đồng tiền ngoại tệ). Hầu hết chúng được sử
dụng vào các dự án và do vậy là nhằm mục đích thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đối với những nước có khó khăn về nguồn vốn trong nước hoặc về dự trữ
ngoại hối, thì việc tiếp cận được với vốn nước ngoài sẽ có thể giúp giải quyết
được nhiều trở ngại của nền kinh tế.
Hiện nay, đối với các NHTM ở Việt Nam được phép huy động vốn của
các tổ chức nước ngoài qua các hình thức sau:
+ Vay bằng tiền (vay tài chính)
+ Nhập khẩu hàng hoá dịch vụ trả chậm theo phương thức mở thư tín dụng.
+ Thuê tài chính nước ngoài.
+ Phát hành trái phiếu ra nước ngoài.
+ Các loại hình vay nước ngoài khác.
Để huy động vốn từ nước ngoài thì các NHTM phải có các điều kiện
theo quy định của Ngân hàng nhà nước ban hành theo Thông tư số
03/1999/TT-NHNN ngày 12 tháng 08 năm 1999 chỉ được sử dụng hiệu quả
và đặc biệt nên sử dụng vào việc triển khai các chương trình quốc gia, tham
gia vào các kế hoạch cụ thể do Thủ tướng chính phủ ra quyết định để tranh
thủ sự đồng tình ủng hộ từ phía nhà nước.
1.1.2.4. Huy động vốn ngắn hạn, trung và dài từ thị trường
a, Huy động vốn ngắn hạn từ thị trường
Đây là nguồn huy động cơ bản của NHTM, bao gồm:
- Tiền gửi ngắn hạn từ thị trường: là nguồn cơ bản quan trọng nhất, luôn
chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn. Nó không những đáp ứng được nhu
cầu kinh doanh ngắn hạn của NHTM mà còn có sự chuyển hoán kỳ hạn để
đầu tư, cho vay dài hạn giúp NHTM giảm bớt gánh nặng thiếu vốn trung và
dài hạn.
9
- Vay NHTW và các TCTD khác: các khoản mà NHTW và các TCTD
khác cho vay hầu hết đều ngắn hạn chỉ để khắc phục hiện tượng thiếu hụt dự trữ
bắt buộc hay để đáp ứng nhu cầu chi trả cấp bách trong thời gian ngắn. Việc vay
vốn này lãi suất thường cao nên các NHTM chỉ khi thực sự cần thiết cấp bách
mới huy động thông qua hình thức này.
- Các khoản huy động USD ngoài nước: Các NHTM cũng có thể tìm kiếm
nguồn vốn hoạt động từ việc phát hành phiếu nợ để huy động tiền ở nước ngoài.
Vì loại tiền thông dụng nhất trong thanh toán quốc tế hiện nay là USD cho nên
vay tiền ở nước ngoài thường là vay bằng USD. Khoản vay này dùng để phục vụ
các thương vụ bảo đảm tín dụng cho kinh doanh xuất nhập khẩu
- Huy động ngắn hạn bằng phát hành RPs (Repurchase agreements): RPs
là một từ kỹ thuật, viết tắt của khái niệm thoả thuận mua lại hay hợp đồng
mua lại. Trong hoạt động mỗi ngày, việc thiếu tiền mặt bất ngờ cho những
thương vụ đầu tư đã ký kết hoặc hụt dự trữ tại NHTW là chuyện không lạ đối
với các NHTM. Ngoài những biện pháp nêu trên, NHTM có thể huy động
của thị trường trong vài ngày đến vài tuần bằng cách phát hành RPs. Đây là
một hợp đồng bán chứng khoán giữa ngân hàng và các đối tượng kinh doanh
chứng khoán tương đối thừa tiền mặt trong thị trường như các công ty tài
chính, tổ chức tín dụng, các quỹ tín dụng, các quỹ tiết kiệm, hưu trí, các công
ty kinh doanh và môi giới chứng khoán hoặc các cá nhân giàu có.
- Huy động ngắn hạn bằng giấy nợ phụ: Đây là khoản cuối cùng trong
các khoản huy động từ thị trường và cũng là loại tài sản ít thông dụng nhất.
Ngân hàng có thể vay nóng với lãi suất cao và thời gian ngắn mỗi khi quá kẹt
tiền mặt bằng những thoả thuận với các công ty và các tổ chức tài chính,v.v
có quan hệ thường xuyên với nó.
10
b, Huy động vốn trung và dài hạn
Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng
cách phát hành các giấy nợ (trái phiếu) trên thị trường vốn. Rất nhiều NHTM
thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng nhu cầu cho vay
và đầu tư trung, dài hạn.
Như vậy, hình thức tiền gửi trung và dài hạn tại các NHTM hầu như rất
ít, việc huy động trung và dài hạn chỉ chủ yếu là vay trên thị trường vốn.
Thông thường đây là khoản huy động không có đảm bảo. Những ngân hàng
có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ huy động được nhiều hơn. Các ngân hàng
nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này, họ thường phải huy động
thông qua các ngân hàng đại lý hoặc được ngân hàng Đầu tư. Khả năng huy
động còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả
năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệp vụ vay
mượn này rất phức tạp. Hơn nữa tại Việt Nam, thị trường vốn đặc biệt là thị
trường chứng khoán được ví như một đứa trẻ mới lớn nên việc vay mượn này
hầu như chưa phát triển.
1.1.2.5. Huy động vốn từ các cá nhân, hộ gia đình và tổ chức kinh tế
Các NHTM với tư cách là một bộ phận chủ yếu của hệ thống tài chính
trung gian, nhận tiền gửi từ khách hàng có tiền nhàn rỗi hoặc đi vay bằng
cách phát hành các công cụ tài chính như chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu,v.v
để thu hút vốn.
Đối với đối tượng khách hàng là các tổ chức kinh tế: hình thức mà ngân
hàng có thể huy động được nhiều nhất là tiền gửi giao dịch, thông qua việc
làm trung gian thanh toán và chuyển hoá các phương tiện thanh toán, các
ngân hàng thu hút được số lượng lớn các tổ chức mở tài khoản tạo ra tiền gửi
giao dịch. Đây là nguồn có chi phí thấp nên các NHTM thường xuyên cải tiến
các phương tiện, nâng cao công nghệ thanh toán để thắng thế trong việc hấp
11
dẫn khách hàng gửi tiền và bán thêm các dịch vụ. Các doanh nghiệp, TCKT
thường mở tài khoản tiền gửi giao dịch tại một hoặc một số NHTM nhất định,
khi cần thiết yêu cầu rút ra hoặc chuyển trả tiền cho bên thụ hưởng một cách
nhanh chóng và tính chất của tài khoản này là thanh toán theo yêu cầu. Qua
đó ngân hàng vừa là thủ quỹ, vừa cung cấp dịch vụ thanh toán theo yêu cầu
của khách hàng.
Trong khi thực hiện là trung gian thanh toán các NHTM còn nhận được
tiền gửi của các TCTD, đây cũng là một loại tiền gửi giao dịch.
Ngoài ra các NHTM còn cung cấp các tài khoản tiền gửi có kỳ hạn đối
với các TCKT khi việc sử dụng vốn được kế hoạch trong tương lai các tổ
chức này gửi tiền theo kỳ hạn phù hợp một mặt nhờ ngân hàng bảo quản, mặt
khác họ thu thêm một khoản tiền lời do ngân hàng trả.
Ngoại trừ một số khoản tiền gửi giao dịch để đảm bảo khả năng thanh
toán như ký quỹ, bảo lãnh dự thầu hoặc bảo lãnh thực hiện hợp đồng được
quy định mang tính chất bắt buộc, các hình thức gửi tiền khác mang tính tự
nguyện, khách hàng có thể lựa chọn ngân hàng để gửi tiền theo các kỳ hạn
khác nhau do đó cạnh tranh về huy động vốn diễn ra quyết liệt giữa các
NHTM, các TCTD.
Đối với khách hàng là cá nhân, hộ gia đình: hình thức huy động chính là
thu hút được tiền gửi phi giao dịch. Ngân hàng sử dụng các tài khoản tiền gửi
tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn hoặc đi vay các cá nhân, hộ gia đình và cả tổ
chức kinh tế.
Ngân hàng phát hành thẻ tiết kiệm không kỳ hạn để thu hút những món
tiền nhỏ lẻ hoặc những khoản tiền có thời gian nhàn rỗi ngắn, khách hàng
được nhận cuốn sổ tiết kiệm không kỳ hạn. Tài khoản này có thể gửi thêm
hoặc rút ra bất cứ lúc nào nhưng không được phát hành séc (đây là diểm khác
biệt với tiền gửi giao dịch).
12
Do nhu cầu gửi tiền của khách hàng rất đa dạng, tùy theo kế hoạch sử
dùng tiền của họ trong hiện tại cùng như trong tương lai nên ngân hàng quy
định nhiều loại kỳ hạn gửi tiền cho khách hàng lựa chọn, có thể kỳ hạn 3
tháng, 6 tháng, 12 tháng để thu hút tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Hình thức đi vay này chính là phát hành giấy tờ có giá ra thị trường vốn: kỳ
phiếu, trái phiếu, giấy chứng nhận tiền gửi, để phục vụ cho các cá nhân, hộ gia
đình hay các TCKT có vốn nhàn rỗi, có nhu cầu đầu tư vào những nơi an toàn
cao và thu lợi nhuận nhiều. Để huy động thông qua hình thức này với khối lượng
lớn theo nhu cầu lãi suất từng thời kỳ, NHTM phát hành kỳ phiếu, trái phiếu với
lãi suất hấp dẫn hơn vì đối tượng khách hàng này rất quan tâm đến thu nhập từ
tài sản của họ. Tại Việt Nam việc huy động này từ các cá nhân, hộ gia đình và
TCKT hầu như chưa có gì khác hẳn với các nước phát triển đây là hình thức huy
động thu hút được khá đông mọi người và tổ chức tham gia.
1.1.2.6. Huy động vốn từ các nguồn bên ngoài khác
a, Vốn trong thanh toán
Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn
trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả, tiền ký quĩ để mở L/C,v.v ) .
Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có thể kết số dư từ
tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay.
b, Vốn vay từ công ty mẹ
Tại các nước đã phát triển, một công ty hoặc một tập đoàn kinh doanh có
thể là chủ của từ 1 đến rất nhiều NHTM. Thay vì ngân hàng phát hành trái
phiếu hoặc giấy nợ để vay, có thể chịu nhiều sự quản lý và ràng buộc của
NHTW về dự trữ, lãi suất và kể cả thủ tục, các công ty mẹ của ngân hàng có
thể thay thế nó làm việc đó dưới hình thức phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu
công ty hoặc các loại thương phiếu, rồi chuyển vốn đã huy động được về cho
ngân hàng hoạt động.
13
Các NHTM chỉ thuộc sở hữu của các công ty mẹ, chứ không bị công ty
mẹ chi phối sâu vào hoạt động, hơn nữa NHTM vẫn phải trả gốc, lãi lại cho
công ty mẹ vì thế nguồn vay từ công ty mẹ cũng có thể coi là nguồn huy động
từ bên ngoài.
c, Vay trên thị trường liên ngân hàng
Hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn không đồng đều giữa các ngân
hàng, ở những thời điểm có những ngân hàng thiếu vốn nhưng lại có những
ngân hàng tạm thời thừa vốn thì các ngân hàng có thể vay mượn lẫn nhau vì
mục đích của cả đôi bên. Hơn nữa các ngân hàng đều làm trung gian thanh
toán cho nền kinh tế nên các ngân hàng đều mở tài khoản tiền gửi lẫn nhau và
trong những trường hợp ngân hàng nào đó thiếu vốn để thanh toán chi trả cho
khách hàng của mình thì ngân hàng kia có thể cho vay để ngân hàng đó đảm
bảo khả năng thanh toán.
d, Vay ngân hàng thương mại khác
Ngân hàng có thể vay vốn từ các ngân hàng khác và các tổ chức tín dụng
khác thông qua thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
Đặc điểm của nguồn này là không phải dự trữ bắt buộc, hoặc được đảm
bảo bằng các chứng khoán của kho bạc đồng thời ngân hàng cũng chủ động
được thời gian hoàn lại, kỳ hạn của khoản vay có thể rất ngắn (qua đêm). Lãi
suất của nguồn vay này thường cao hơn các nguồn huy động khác và phụ
thuộc vào quy mô khoản vay, thị trường và kỳ hạn.
e, Vốn ủy thác
Một số ngân hàng còn thực hiện nghiệp vụ ngân hàng đại lý. Khi đó
trong nguồn vốn của ngân hàng còn có thêm khoản mục vốn ủy thác đầu tư.
Nguồn vốn này được hình thành chủ yếu là do các tổ chức tài chính trong
nước hoặc nước ngoài ủy thác cho ngân hàng một khoản tiền để ngân hàng
thực hiện cho vay đối với các dự án của mình, cũng có thể là các khoản vay
của Chính phủ được ủy thác.
14
f, Vốn khác: Các khoản nợ khách như thuế chưa nộp, lương chưa trả, v.v
Thực hiện chức năng trung gian thanh toán, các NHTM có thể sử dụng
kết dư trên các tài khoản thanh toán vãng lai như chênh lệch thu hộ lớn hơn
chi hộ các ngân hàng khác trong thanh toán liên ngân hàng. Ngoài ra còn có
thể có số dư trên các tài khoản ký quỹ hoặc các khoản quản lý giữ hộ nhưng
số vốn này không nhiều và ngân hàng không chủ động trong việc tập trung
nguồn này.
Trên đây là các nguồn hình thành nên nguồn vốn của các ngân hàng
thương mại, nhìn qua ta thấy trong cơ cấu tổng nguồn vốn thì vốn huy động là
nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất( trên 90%), nó quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng. Vì vậy từng ngân hàng
phải có những chiến lược huy động vốn của riêng mình trên cơ sở phù hợp
với điều kiện thực tế của từng ngân hàng và của môi trường kinh doanh để
không ngừng nâng cao thị phần huy động nhằm phục vụ tốt nhất cho hoạt
động kinh doanh của ngân hàng.
1.2. Hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm
Nói đến hiệu quả huy động vốn là nói đến kết quả của công tác huy động
vốn. Khi nghiên cứu hiệu quả huy động vốn, chúng ta phải đề cập đến các vấn
đề sau:
- Qui mô nguồn vốn huy động có đủ lớn để tài trợ cho hoạt động cho vay
và đầu tư của Ngân hàng hay không?
- Cơ cấu nguồn vốn huy động có phù hợp với cơ cấu sử dụng vốn hay
không?
- Nguồn vốn huy động có tăng trưởng ổn định không?
- Chi phí huy động có hợp lý không?
15
Hiệu quả huy động vốn là yếu tố quyết định tới qui mô đầu tư, cho vay
của NHTM. Các NHTM luôn muốn đạt được hiệu quả huy động vốn tức là
lượng vốn huy động hàng năm lớn, chi phí bỏ ra ít, thu hút được nguồn vốn
nhàn rỗi trong dân cư, các tổ chức tín dụng và các tổ chức kinh tế. Lượng vốn
huy động phải đáp ứng được nhu cầu đầu tư, cho vay của ngân hàng. Lợi
nhuận mang lại từ nguồn vốn huy động phải đạt được chỉ tiêu ngân hàng đề
ra. Nguồn vốn huy động phải phù hợp với hoạt động sử dụng vốn thì hoạt
động kinh doanh mới có hiệu quả. Việc huy động vốn một cách ồ ạt ảnh
hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động kinh doanh. Có thể hiểu: Hiệu quả huy
động vốn là việc thỏa mãn lượng vốn cho hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng cả về số lượng, chi phí thấp nhất, ổn định nhất và hạn chế đến mức tối
đa những rủi ro có thể xảy ra.
Bởi vai trò của vốn đối với hoạt động ngân hàng là rất lớn nên hiệu quả
hoạt động huy động vốn là rất quan trọng, quyết định cả quá trình kinh doanh
của ngân hàng nên các ngân hàng rất chú trọng công tác nâng cao hiệu quả
huy động vốn.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn của ngân hàng
thương mại
Trên đây, chúng ta đã nghiên cứu các bộ phận cơ bản của nguồn vốn từ
bên ngoài, đặc điểm của chúng và vai trò đối với mục tiêu an toàn và lợi
nhuận của ngân hàng cùng các phương thức tạo lập vốn trong đó huy động
một lượng lớn vốn nhàn rỗi từ các tầng lớp dân cư, TCKT trong xã hội là
trọng tâm để khai thác.
Vốn của NHTM khác với nhiều loại hình doanh nghiệp, vốn của chủ
chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp, vốn nợ là nguồn
chủ yếu của ngân hàng. Vốn này rất đa dạng và gồm nhiều thành phần, trong
số đó có những thành phần không ổn định, đổi lại khả năng giao dịch lại cao
16
và tỷ lệ lãi suất thấp, một số khác hạn chế khả năng phát hành séc ổn định
nhưng lãi suất cao hơn.
Rõ ràng phần lớn các nguồn vốn nợ của ngân hàng liên quan tới chi phí
trả lãi. Chi phí trả lãi là bộ phận chi phí lớn nhất đối với các ngân hàng, vì vậy
có ảnh hưởng quyết định đối với thu nhập của ngân hàng. Chi phí trả lãi bị tác
động trực tiếp bởi quy mô, cơ cấu các nguồn trả lãi và lãi suất cá biệt.
Vì vậy, hoạt động huy động vốn của một ngân hàng được đánh giá là có
hiệu quả khi:
- Quy mô, cơ cấu nguồn huy động đủ lớn để tài trợ cho các danh mục tài
sản và không ngừng tăng trưởng ổn định.
- Nguồn vốn có chi phí hợp lý.
- Huy động vốn phù hợp với sử dụng vốn về mặt kỳ hạn.
- Quản lý tốt các loại rủi ro liên quan đến hoạt động huy động vốn.
a, Quy mô và cơ cấu nguồn vốn
Nguồn vốn từ bên ngoài của ngân hàng bao gồm nhiều bộ phận khác
nhau: nguồn tiền gửi, nguồn tiền vay và các nguồn khác. Mỗi thành phần này
có đặc tính khác nhau về qui mô, cơ cấu, tính ổn định, thời gian tồn tại, chi
phí phải trả, khả năng thanh toán và rủi ro lãi suất. Trong đó:
- Qui mô là chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động của ngân hàng. Qui
mô nguồn huy động gia tăng đáp ứng cho hoạt động tài trợ không ngừng tăng
trưởng sẽ tạo điều kiện để ngân hàng mở rộng hoạt động, nâng cao tính thanh
khoản và tính ổn định của nguồn vốn.
- Cơ cấu nguồn vốn ảnh hưởng tới cơ cấu tài sản và quyết định chi phí
của ngân hàng. Cơ cấu huy động phải phù hợp với cơ cấu sử dụng. Nếu cơ
cấu nguồn huy động không phù hợp, không đáp ứng được yêu cầu sử dụng thì
sẽ không tối đa được dư nợ tín dụng và đầu tư, ngược lại cơ cấu huy động
nhiều mà sử dụng không hết thì hoạt động không hiệu quả, ngân hàng vẫn
phải chịu lãi suất trên phần huy động thừa.
17
Trong điều kiện cụ thể, các nguồn có thể có tốc độ và quy mô thay đổi
khác nhau. Các ngân hàng lớn có quy mô nguồn lớn thì tốc độ tăng trưởng
nguồn có thể không cao như các ngân hàng nhỏ. Những ngân hàng ở trung
tâm tiền tệ có cơ cấu nguồn khác với các ngân hàng ở xa.
Cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng có thể rất khác nhau, tuỳ thuộc vào đặc
điểm khách hàng, chiến lược kinh doanh và hoạt động Marketing của ngân hàng.
Nhìn chung cơ cấu nguồn vốn của một ngân hàng được xem là hợp lý
nếu các thành phần của nó đáp ứng được kế hoạch sử dụng vốn, đồng thời với
chi phí biến động thấp nhất.
Khi huy động với qui mô, cơ cấu như đã trình bày ở trên, ngân hàng sẽ
tạo lập được nguồn vốn tăng trưởng ổn định kết hợp với chi phí vốn hợp lý sẽ
tạo điều kiện cho ngân hàng hoạt động có hiệu quả: ngân hàng có thể cơ cấu
lại được nguồn vốn, mở rộng qui mô hoạt động, chủ động trong việc chuyển
dịch cơ cấu dư nợ, kết quả kinh doanh khả quan hơn, từ đó nâng cao sức cạnh
tranh và uy tín.
b, Chi phí vốn
Thành phần cơ bản của chi phí huy động vốn của các ngân hàng thể hiện
ở khoản chi phí trả lãi (trả lãi cho tiền gửi và tiền vay), cùng với khoản chi phí
không dưới dạng lãi suất (chi phí phi lãi) mà ngân hàng phải bỏ ra để huy
động vốn.
Công tác huy động vốn của ngân hàng được đánh giá có chất lượng và hiệu
quả cao về phương diện chi phí khi nó đạt được những lợi ích cơ bản sau:
- Tìm kiếm được nguồn có chi phí thấp nhất để đáp ứng nhu cầu cho vay
và đầu tư trong khi vẫn thoả mãn các yêu cầu tương xứng giữa huy động và
sử dụng về các phương diện qui mô, thời hạn tính ổn định Theo nguyên lý
chung, những nguồn có chi phí biên thấp nhất sẽ là nguồn có ưu thế nhất về
phương diện chi phí.
18
- Tăng được lợi nhuận cho ngân hàng mà không nhất thiết phải chấp
nhận những rủi ro cao do sức ép tăng chi phí vốn. Lợi nhuận của ngân hàng về
cơ bản sẽ bằng tổng thu nhập trừ đi chi phí và thuế, đo đó việc tăng lợi nhuận
bằng cách tăng thu nhập (thông qua việc đầu tư vào tài sản sinh lời cao tương
ứng với rủi ro cao) sẽ mạo hiểm hơn là cách quản lý hiệu quả chi phí vốn.
Những nguồn có thời hạn ngắn thường có chi phí nguồn thấp và tính ổn
định thấp, ngược lại những nguồn có thời hạn càng dài thì chi phí cao hơn
nhưng ổn định hơn. Nên để hoạch định chiến lược kinh doanh cho mỗi giai
đoạn, căn cứ vào chi phí phải trả cho mỗi nguồn ngân hàng đưa ra các sách
lược huy động vốn phù hợp nhằm mục tiêu mở rộng kinh doanh tăng dư nợ
cho vay, đầu tư đồng thời bảo đảm lãi suất được định giá bù đắp được chi phí
nguồn và đem lại doanh lợi mong muốn mà không ảnh hưởng đến khả năng
thanh toán.
Lãi suất ngân hàng quy định trả cho từng nguồn (nhóm nguồn) chiếm
phần lớn chi phi phí của nó, chi phí thực hiện cho vốn và các chi phí khác như
kiểm ngân, phí dịch vụ, phí bảo hiểm tiền gửi tính trên số được sử dụng để
đầu tư vào tài sản sinh lời.
Tuỳ theo tính chất của từng nguồn vốn sẽ có nhiều mức lãi suất danh
nghĩa khác nhau. Để cạnh tranh mở rộng nguồn tiền, các ngân hàng đều cố
gắng tạo ra các ưu thế của riêng mình trong đó có ưu thế về lãi suất cạnh
tranh. Một ngân hàng có thể đưa ra mức lãi suất danh nghĩa cao hơn các ngân
hàng khác hoặc cũng có thể tạo ra lãi suất cạnh tranh bằng các phương pháp
như trả lãi làm nhiều lần trong kỳ hoặc trả lãi trước. Để đánh giá hiệu quả
của các phương pháp này ngân hàng căn cứ vào NEC (Net effective cost:
lãi suất hiệu quả của mỗi nguồn tiền).
Giả sử không có lạm phát, dự trữ bắt buộc thì:
Lãi thực phải trả khách hàng
19
(Lãi thực phải trả khách hàng)
(Gốc thực ngân hàng sử dụng)
NEC =
(Lãi thực phải trả khách hàng)
(Gốc thực ngân hàng sử dụng)
NEC
DTBB
=
Nếu có tính đến dự trữ bắt buộc:
Lãi thực phải trả khách hàng
NEC càng nhỏ thì ngân hàng càng có lợi. NEC phụ thuộc vào cách trả
gốc và lãi. Cách trả lãi khác nhau thì NEC khác nhau.
Nếu trả gốc và lãi luôn một lần thì NEC = i (lãi suất danh nghĩa)
Nếu trả lãi trước NEC = i / 1 – i
Nếu trả lãi n lần trong kỳ, NEC = (1 + i/n)/n –1
Các ngân hàng thường sử dụng phương pháp trên trong điều kiện bị
khống chế về lãi suất tối đa, hoặc để thay đổi tạm thời quy mô của các khoản
mục chi phí trả lãi trong kỳ.
Để đánh giá hiệu quả quản lý chi phí trả lãi và hoạch định các mức lãi
suất cạnh tranh (gồm lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay) cho hoạt động huy
động vốn, các ngân hàng thường tính toán lãi suất bình quân. Lãi suất bình
quân của một nguồn (nhóm nguồn) được xác định bằng tỷ lệ bình quân của
chi phí trả cho nó so với số dư bình quân của nguồn (nhóm nguồn) đó trong
khoảng thời gian.
Lãi suất này cho thấy xu hướng thay đổi lãi suất của nguồn, mức độ thay
đổi mỗi nguồn, sự kết hợp giữa lãi suất cá biệt và tỷ trọng mỗi nguồn, nó cũng
cho thấy những nguồn đắt tương đối (lãi suất cá biệt > lãi suất bình quân) và
các nguồn rẻ tương đối (lãi suất cá biệt < lãi suất bình quân). Ngoài ra, lãi suất
bình quân đóng vai trò quan trọng trong việc xác định chênh lệch lãi suất
(phản ánh khả năng sinh lời của ngân hàng). Điều này rất có ý nghĩa đối với
hoạch định chiến lược nguồn vốn.
20
Với mỗi nguồn khác nhau, tỷ lệ có thể đầu tư vào các tài sản là khác
nhau do đó tỷ lệ dự trữ bắt buộc khác nhau. Để có thể đánh giá chi phí cho
một nguồn hay nhóm nguồn ngân hàng căn cứ vào Tỷ lệ chi phí nguồn và Tỷ
lệ chi phí hoà vốn bình quân cho nguồn tài trợ từ bên ngoài.
Nguồn vốn của ngân hàng không chỉ đa dạng về loại hình, đối tượng gửi
mà các thành phần của nó có thời hạn rất khác nhau vì thế phản ứng với sự
thay đổi lãi suất cũng khác nhau. Đó là Mức độ nhạy cảm của nguồn huy
động với lãi suất. Nguồn tiền gửi trên tài khoản giao dịch nhìn chung ít nhạy
cảm với lãi suất hơn vì mục đích của khách hàng gửi tiền chủ yếu mua các
dịch vụ của ngân hàng, không phải để hưởng lãi, nên họ đánh đổi thu nhập lấy
tính lỏng trong tài sản của họ.
Ngược lại, tiền gửi tiết kiệm của dân cư là nguồn có phản ứng mạnh nhất
với mỗi sự thay đổi của lãi suất. Vì vậy ngân hàng dựa vào phân tích độ nhạy
cảm của từng nguồn (nhóm nguồn) với lãi suất cụ thể để ấn định hệ thống lãi
suất phù hợp với từng giai đoạn. Với hệ thống lãi suất này các ngân hàng có
thể tăng qui mô huy động vốn trong cạnh tranh đồng thời điều chỉnh cơ cấu
nguồn vốn theo kế hoạch kinh doanh của mình.
c, Sự phù hợp giữa huy động vốn và sử dụng vốn về kỳ hạn
Sau khi được huy động, vốn được phân chia vào tài sản của ngân hàng.
Các danh mục tài sản của ngân hàng cũng cần được xem xét dưới giác độ cơ
cấu thời hạn để xác định sự phù hợp với nguồn vốn.
21
Tỷ lệ chi phí nguồn=
Σ(chi phí trả lãi + chi phí phi lãi + Lợi nhuận trước thuế)
Σ Tài sản sinh lời
Tỷ lệ chi phí hoà vốn bình quân
cho nguồn tài trợ từ bên ngoài
Σ(Chi phí trả lãi + chi phí phi lãi)
Σ Tài sản sinh lời
=