Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

một số giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính nhằm nâng cao quyền tự chủ của các trường đại học, cao đẳng thuộc bộ nông nghiệp và ptnt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.07 KB, 93 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
2.2.6. VỀ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN 69
PHỤ LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
2.2.6. VỀ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN 69
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và coi trọng công tác giáo dục và đào
tạo. Ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, phát triển giáo dục và đào tạo
cùng với khoa học công nghệ được xác định là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho
giáo dục là đầu tư cho phát triển. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng
định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo là
một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là điều
kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Trong những năm qua, mặc dù điều kiện đất nước và ngân sách nhà
nước còn nhiều khó khăn, Nhà nước vẫn quan tâm dành một tỷ lệ ngân sách
đáng kể để đầu tư cho giáo dục. Với nguồn ngân sách đó, lĩnh vực giáo dục và
đào tạo đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, trong khi nền
kinh tế đất nước đã chuyển sang cơ chế thị trường được 20 năm, đã hình
thành các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày một tăng, thì cơ chế tài chính
giáo dục thực tế vẫn chưa có thay đổi về chất đáng kể so với thời kỳ kinh tế
kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày
25/6/2006 của Chính phủ giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ,
tổ chức bộ máy và tài chính trong các cơ sở giáo dục công lập đã đem lại kết
quả đáng khích lệ, tạo điều kiện cho các đơn vị trong việc quản lý và sử dụng
nguồn tài chính, đặc biệt là mở rộng quyền được liên doanh liên kết và sự hỗ
trợ của các tổ chức cá nhân để đầu tư mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt
động sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cơ chế tài chính theo Nghị định này,


các cơ sở đào tạo trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ
Nông nghiệp và PTNT) vẫn còn một số tồn tại và khó khăn, đặc biệt là việc
1
tìm kiếm nguồn tài chính. Hơn nữa, phần lớn học sinh, sinh viên của các
trường này là ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, trong đó có
nhiều đối tượng ưu tiên được miễn, giảm học phí theo chính sách ưu đãi của
nhà nước. Vì thế cùng với mức học phí thấp, việc miễn, giảm học phí cho một
bộ phận không nhỏ học sinh, sinh viên làm các trường đã khó khăn lại càng
khó khăn hơn.
Xuất phát từ thực tiễn trên đây, tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Một
số giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính nhằm nâng cao quyền tự
chủ của các trường đại học, cao đẳng thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống một số cơ sở lý luận về cơ chế quản lý tài chính đối với các
trường đại học, cao đẳng công lập.
- Đánh giá thực trạng cơ chế quản lý tài chính đối với các trường đại
học, cao đẳng thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT.
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính nhằm
nâng cao quyền tự chủ tài chính của các trường đại học, cao đẳng thuộc Bộ
Nông nghiệp và PTNT.
3. Đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cơ chế quản lý tài chính với đối các
trường đại học, cao đẳng thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT.
- Giới hạn nội dung: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về cơ chế tự chủ tài
chính trong các trường đại học, cao đẳng thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT.
- Giới hạn về thời gian: trong 3 năm 2007, 2008 và 2009.
4. Nội dung nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu một số cơ sở lý luận về cơ chế quản lý tài chính đối với
các trường đại học, cao đẳng công lập
- Giáo dục đại học trong hệ thống giáo dục Việt Nam

2
- Nội dung của cơ chế tài chính giáo dục
- Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với các trường đại
học, cao đẳng công lập.
- Các nhân tố ảnh hưởng tới quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài
chính của các trường đại học, cao đẳng công lập.
4.2. Nghiên cứu thực trạng cơ chế quản lý tài chính đối với các trường
đại học, cao đẳng thuộc Bộ NN&PTNT.
- Tình hình thực hiện cơ chế quản lý tài chính đối với các trường đại học,
cao đẳng thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT.
- Ưu điểm và những bất hợp lý của cơ chế quản lý tài chính đối với các
trường đại học, cao đẳng thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT.
4.3. Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính nhằm
nâng cao quyền tự chủ tài chính của các trường đại học, cao đẳng thuộc
Bộ Nông nghiệp và PTNT.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra, thu thập số liệu
+ Kế thừa tài liệu: đề tài kế thừa các số liệu, tài liệu, báo cáo có liên
quan tới công tác quản lý và sử dụng nguồn tài chính của Bộ Nông nghiệp và
PTNT, Bộ Giáo dục và đào tạo, và một số trường đại học, cao đẳng.
+ Điều tra phỏng vấn: sử dụng các bảng câu hỏi và tiếp xúc với cán bộ,
lãnh đạo các trường, các Bộ, ban ngành liên quan để thu thập thông tin về đối
tượng nghiên cứu.
- Phương pháp xử lý, tổng hợp, đánh giá số liệu
+ Các số liệu nghiên cứu được xử lý trên máy vi tính với sự trợ giúp của
phần mềm Microsoft Office Excel; Sau đó được đánh giá, tổng hợp, sắp xếp
theo thứ tự ưu tiên, mức độ quan trọng của vấn đề, phân tích các ý kiến, quan
điểm để lựa chọn và tìm giải pháp thích hợp.
+ Phương pháp chuyên gia: tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong
lĩnh vực nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng luận văn.

3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
ĐỐI VỚI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG CÔNG LẬP
1.1. Giáo dục đại học trong hệ thống giáo dục Việt Nam
Theo quy định của Luật Giáo dục 2005, hệ thống giáo dục quốc dân bao
gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Các cấp học và trình độ
đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:
(1) Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo.
(2) Giáo dục phổ thông bao gồm: tiểu học, trung học cơ sở và trung học
phổ thông.
(3) Giáo dục nghề nghiệp bao gồm:
- Trung cấp chuyên nghiệp được thực hiện từ 3 đến 4 năm học đối với
người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, từ 1 đến 2 năm học đối với người
có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông;
- Dạy nghề được thực hiện dưới 1 năm đối với đào tạo nghề trình độ sơ cấp,
từ 1 đến 3 năm đối với đào tạo nghề trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng.
(4) Giáo dục đại học bao gồm:
- Đào tạo trình độ cao đẳng thực hiện từ 2 đến 3 năm học tuỳ theo ngành
nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng
tốt nghiệp trung cấp; từ 1,5 đến 2 năm học đối với người có bằng tốt nghiệp
trung cấp cùng chuyên ngành;
- Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ 4 đến 6 năm học tuỳ theo
ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông
hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp; từ 2,5 đến 4 năm học đối với người có bằng
tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành; từ 1,5 đến 2 năm học đối với người
có bằng tốt nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành;
- Đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện từ 1 đến 2 năm học đối với
4
người có bằng tốt nghiệp đại học;

- Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong 4 năm học đối với người
có bằng tốt nghiệp đại học; từ 2 đến 3 năm học đối với người có bằng thạc sĩ.
Trong trường hợp đặc biệt, thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ có thể được kéo
dài theo quy định của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT.
Cơ sở giáo dục đại học bao gồm:
- Trường cao đẳng đào tạo trình độ cao đẳng;
- Trường đại học đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học; đào tạo
trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ khi được Thủ tướng Chính phủ giao;
- Viện nghiên cứu khoa học đào tạo trình độ tiến sĩ, phối hợp với trường
đại học đào tạo trình độ thạc sĩ khi được Thủ tướng Chính phủ giao.
(5) Giáo dục thường xuyên: Gồm các chương trình sau đây:
- Chương trình xoá mù chữ và giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ;
- Chương trình giáo dục đáp ứng yêu cầu của người học, cập nhật kiến
thức, kỹ năng, chuyển giao công nghệ;
- Chương trình đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ về chuyên
môn, nghiệp vụ;
- Chương trình giáo dục để lấy văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân
(bao gồm các hình thức: Vừa làm vừa học; Học từ xa; Tự học có hướng dẫn).
Cơ cấu các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân,
được mô tả theo sơ đồ 1 dưới đây:
5
Sơ đồ 1: Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam
(Theo Luật Giáo dục 2005)
Tuổi
3 tháng
* Phân cấp quản lý các cơ sở giáo dục
Quản lý hệ thống giáo dục đào tạo quốc dân không phải chỉ có Bộ Giáo
dục đào tạo, mà còn có các bộ, ngành trung ương, các ủy ban nhân dân
tỉnh/thành phố cùng tham gia quản lý các cơ sở giáo dục đào tạo trực thuộc.
Hầu hết các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông và phần lớn các trường cao

đẳng sư phạm là thuộc quản lý của chính quyền địa phương.
6
21
18
18
15
11
6
6
3
Tiến sỹ
(2-4 năm)
Thạc sỹ
(2 năm)
Đại học
(4-6 năm)
Sơ cấp
Ngắn hạn (< 1 năm)
Trung học cơ sở (4 năm)
Tiểu học (5 năm)
Nhà trẻ
Giáo
dục
thường
xuyên
Trung cấp dạy nghề
Mẫu giáo
Trung cấp chuyên
nghiệp (3-4 năm)
Trung học

phổ thông (3 năm)
Cao đẳng nghề
Cao đẳng
(3 năm)
Tính đến tháng 7 năm 2008, tổng số các trường đại học, cao đẳng trong
toàn quốc là 369 trường (đại học: 163 trường, cao đẳng: 206 trường), trong đó
các trường đại học, cao đẳng công lập do các bộ, ngành trung ương quản lý là
180 trường (đại học: 108 trường, cao đẳng:72 trường), chiếm 48,8%; các
trường đại học, cao đẳng công lập do các tỉnh, thành phố trực tiếp quản lý là
125 trường (đại học: 15 trường, cao đẳng: 110 trường), chiếm 33,9%; các
trường đại học, cao đẳng ngoài công lập là 64 trường (đại học: 40 trường, cao
đẳng: 24 trường), chiếm 17,3%. Trong tổng số trường đại học, cao đẳng của
cả nước, thì Bộ GD&ĐT trực tiếp quản lý 54 trường (đại học: 48 trường, cao
đẳng: 6 trường), chiếm 14,6%.
Từ năm 2000 đến năm 2008, quy mô sinh viên cao đẳng, đại học tăng (0,918
triệu năm 2000 và 1,675 triệu năm 2008), đạt tỷ lệ 194 sinh viên/1 vạn dân.
Chất lượng giáo dục thực tế đã được nâng lên. Từ năm 2007, các
trường đại học, cao đẳng đã bắt đầu triển khai mạnh mẽ chủ trương đào tạo
theo nhu cầu xã hội, coi đó là một yêu cầu quan trọng để đánh giá chất lượng
đào tạo đồng thời là cơ chế để huy động nguồn lực xã hội tổng hợp để hiện
đại hoá, mở rộng đào tạo trong điều kiện ngân sách cho đào tạo còn hạn chế.
Việc đánh giá chất lượng đào tạo các đại học, cao đẳng theo chỉ đạo của Bộ
đã được các trường tích cực triển khai. Đến nay đã có 340 trường đại học, cao
đẳng (chiếm hơn 90% tổng số trường) đã và đang thực hiện tự đánh giá chất
lượng, 20 trường đã hoàn thành đánh giá ngoài về chất lượng giáo dục.
Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng có việc làm tương đối cao (ở
nhóm ngành nông-lâm-thuỷ sản là 94,77%, nhóm kỹ thuật công nghệ là
93,46%, nhóm ngành kinh tế, luật 92,21% ).
Hiện nay, các trường đại học, cao đẳng trong cả nước đang triển khai
thực hiện chủ trương gắn đào tạo với sử dụng, đào tạo theo nhu cầu xã hội và

nhu cầu của doanh nghiệp, thì cơ hội tìm việc làm có thu nhập cao là rất lớn
đối với sinh viên sau khi tốt nghiệp.
7
* Những hạn chế, yếu kém của giáo dục đại học
- Quản lý Nhà nước về giáo dục đào tạo bị phân tán, không đảm bảo liên
thông, đầu tư phân tán, hiệu quả còn hạn chế.
- Chất lượng giáo dục nói chung còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu
phát triển của đất nước hiện nay. Đào tạo đại học chưa đáp ứng tốt nhu cầu
của các doanh nghiệp, các cơ quan nghiên cứu, dịch vụ và quản lý nhà nước.
- Đội ngũ nhà giáo các cấp học còn thiếu và hạn chế về trình độ.
- Cơ chế tài chính giáo dục còn nhiều bất hợp lý, chưa góp phần tạo động
lực cho giáo dục và đào tạo tự phát triển nhanh với chất lượng ngày càng cao,
đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
1.2. Cơ chế tài chính giáo dục
1.2.1. Khái niệm về cơ chế quản lý tài chính
Cơ chế quản lý tài chính được hiểu là tổng thể các nguyên tắc, phương
pháp và biện pháp tác động lên các hoạt động tài chính phát sinh của đơn vị
trong những điều kiện cụ thể nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Như
vậy, về thực chất cơ chế tự chủ tài chính là một trong những phương thức của
cơ chế quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp nói chung.
1.2.2. Nội dung của cơ chế tài chính giáo dục
Cơ chế tài chính của giáo dục được hiểu bao gồm 8 nội dung sau đây:
1. Xác định nhu cầu tài chính cho các mục tiêu phát triển giáo dục. Xác
định các nguồn lực từ ngân sách và xã hội và các giải pháp huy động và sử
dụng tài chính khả thi và hiệu quả, từ đó đảm bảo cân đối nhu cầu và nguồn
lực tài chính bền vững cho phát triển hệ thống giáo dục quốc dân.
2. Quy định về trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà
nước trung ương và địa phương trong việc lập và thực hiện kế hoạch ngân
sách giáo dục.
8

3. Quy định về nguyên tắc xác định mức học phí mầm non, phổ thông,
giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Quy định về thẩm quyền quyết
định mức học phí và xác định mức học phí của các cơ quan trung ương, địa
phương và các cơ sở giáo dục.
4. Xây dựng các chính sách của nhà nước hỗ trợ việc học tập của nhân
dân: quy định đối tượng không phải đóng học phí, miễn giảm học phí, đối
tượng được hỗ trợ chi phí học tập; đối tượng được hưởng học bổng chính sách
và trợ cấp xã hội; đối tượng được vay vốn ưu đãi để đi học. Quy định cơ chế
thực hiện miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập.
5. Xây dựng cơ chế và chính sách khuyến khích xã hội đầu tư cho giáo dục.
6. Quy định về lương và các chính sách khuyến khích đối với nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục.
7. Quy định các nghĩa vụ và quyền hạn về tài chính của các cơ sở giáo dục.
8. Quy định về trách nhiệm và quyền giám sát, kiểm tra của các Bộ và cơ
quan quản lý nhà nước, người học, gia đình người học và xã hội đối với việc
sử dụng ngân sách giáo dục.
1.2.3. Đánh giá chung về cơ chế tài chính giáo dục của nước ta
Đầu tư cho giáo dục đào tạo của nước ta hiện nay bao gồm các nguồn
kinh phí sau: Ngân sách nhà nước (bao gồm cả: công trái giáo dục, vay nợ,
viện trợ); Các nguồn ngoài ngân sách nhà nước (học phí, các nguồn thu dịch
vụ khoa học công nghệ, đóng góp hảo tâm của các cá nhân, tổ chức ); trong
đó nguồn ngân sách nhà nước là chủ yếu và có ý nghĩa quyết định.
Từ năm 2001 đến 2008, chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đều tăng
hàng năm, năm sau cao hơn năm trước. Tỷ trọng chi của ngân sách Nhà nước
cho giáo dục trong GDP năm 2001 là 4,1% (bằng 15,5% tổng chi ngân sách
nhà nước), năm 2006 là 5,6% (bằng 18,4% tổng chi ngân sách nhà nước). Từ
năm 2008, Chính phủ đã dành 20% chi ngân sách cho giáo dục. Điều này thể
9
hiện rõ sự quan tâm của nhà nước đối với giáo dục, tuy nhiên GDP của nước
ta còn rất thấp trong khi cơ sở vật chất của ngành còn hết sức thiếu thốn, lạc

hậu, đời sống của giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục còn rất khó khăn
nhưng phải đảm bảo đáp ứng qui mô giáo dục tăng nhanh hàng năm với yêu
cầu nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Đây là mâu thuẫn rất lớn mà
ngành giáo dục đã và đang phải đối mặt.
Việc thực hiện Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản dưới Luật, hàng
năm Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm xây dựng dự toán ngân sách
giáo dục toàn ngành và dự toán các trường và các đơn vị trực thuộc Bộ gửi Bộ
Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp trình Chính phủ. Sau khi
được Quốc hội thông qua, Bộ trưởng Bộ Tài chính giao dự toán thu chi ngân
sách giáo dục cho từng tỉnh, thành phố và cho các Bộ, các ngành có trường.
Các kết quả đã đạt được:
- Nhà nước đã ưu tiên đầu tư cao cho giáo dục trong suốt 10 năm qua,
đến năm 2008 đã đạt 20% tổng chi ngân sách như Nghị quyết của Quốc hội.
Phần chi của nhà nước giữ vai trò quyết định sự phát triển của hệ thống giáo
dục quốc dân (chiếm 92,7% tổng chi ở các trường công lập và chiếm 78,2%
tổng chi toàn xã hội tại các trường công lập và ngoài công lập).
- Ngân sách nhà nước bước đầu đã tập trung cho các cấp học phổ cập,
vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn và phát triển đội ngũ nhà giáo.
- Nhà nước đã ban hành một số định mức phân bổ ngân sách chi
thường xuyên và chi đầu tư cho giáo dục.
- Đã ban hành một số văn bản về phân cấp quản lý và sử dụng ngân
sách giáo dục nhằm tăng quyền tự chủ tự, chịu trách nhiệm về tài chính của
các cơ sở giáo dục.
- Chính sách xã hội hóa giáo dục gần đây đã khuyến khích đầu tư của
xã hội cho giáo dục, nhất là việc phát triển các trường ngoài công lập ở giáo
dục mầm non, trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề và cao
đẳng, đại học đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.
10
- Bên cạnh các chính sách tiền lương chung, nhà nước đã ban hành phụ
cấp theo lương đối với nhà giáo, tạo điều kiện để đảm bảo thu nhập cho giáo

viên, nhất là đối với giáo viên công tác tại vùng đặc biệt khó khăn.
- Một số chính sách cấp học bổng, miễn giảm học phí và cho vay đi học
đối với học sinh, sinh viên thuộc diện chính sách và người nghèo đã mang lại
hiệu quả thiết thực trong việc thực hiện công bằng xã hội.
- Một số quy định về kiểm tra, giám sát và công khai sử dụng tài chính
ở các cơ sở giáo dục bước đầu đã có tác động tích cực đến nâng cao hiệu quả
sử dụng nguồn lực tài chính đầu tư cho giáo dục.
Những tồn tại:
- Chậm đổi mới, chậm ban hành các văn bản hướng dẫn Nghị định số
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị
sự nghiệp công lập. Các Bộ chủ quản chưa phối hợp với Bộ Tài chính để ban
hành các văn bản hướng dẫn các đơn vị sự nghiệp trực thuộc, chưa có các quy
định cụ thể về việc liên doanh liên kết, về tiêu chí đánh giá mức độ hoàn
thành, chất lượng và kết quả hoạt động của đơn vị được giao quyền tự chủ
nên các đơn vị còn nhiều vướng mắc.
- Mức phân bổ ngân sách chi thường xuyên còn thấp, ở hầu hết các địa
phương không đảm bảo được cơ cấu chi 80% cho chi lương, các khoản có
tính chất lương, bảo hiểm và 20% chi ngoài lương theo Quyết định số
151/2006/QĐ-TTg ngày 29/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ. Mức chi đầu tư
xây dựng cơ bản còn thấp so với nhu cầu rất lớn của ngành.
- Định mức phân bổ ngân sách cho giáo dục chưa gắn chặt với các tiêu
chí đảm bảo chất lượng đào tạo (giáo viên, điều kiện về cơ sở vật chất ),
chưa làm rõ trách nhiệm chia sẻ chi phí đào tạo giữa nhà nước và người học ở
giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học, về cơ bản vẫn mang nặng tính bao
cấp và bình quân.
11
- Chế độ học phí được thực hiện từ năm 1998 (theo Quyết định số
70/1998/QĐ-TTg ngày 31/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ), đến năm 2010
mới được thay đổi theo quyết định số 1310/2009/QĐ-TTg ngày 21/8/2009 và

Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Thủ tướng Chính phủ.
Mức thu học phí quá thấp, dưới mức khả năng chi trả của người dân ở các khu
đô thị, không phù hợp với mặt bằng giá cả cùng với chính sách cải cách tiền
lương trong những năm qua.
- Việc miễn, giảm học phí trong các cơ sở giáo dục do các trường phải tự
thực hiện. Còn thiếu những cơ chế cụ thể trong việc hỗ trợ học sinh thuộc gia
đình có hoàn cảnh khó khăn đi học được.
- Phương thức phân bổ và quản lý tài chính hiện nay giữa các bộ, ngành
trung ương và giữa trung ương với địa phương cho thấy sự bất cập trong quản
lý, giám sát nguồn ngân sách cho giáo dục. Việc kiểm tra, phê duyệt quyết
toán thu chi hàng năm là trách nhiệm của cơ quan chủ quản và cơ quan tài
chính đồng cấp. Như vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo không quản lý ngân sách
toàn ngành, thiếu thông tin để tổng hợp, theo dõi và đánh giá hiệu quả đầu tư
của ngân sách nhà nước cho lĩnh vực giáo dục.
- Việc giao kế hoạch thu chi ngân sách hàng năm chưa gắn với kế hoạch
phát triển trung hạn và dài hạn của ngành, gây khó khăn cho việc chủ động
sắp xếp thứ tự ưu tiên thực hiện các nhiệm vụ, hoạt động, chế độ, chính sách
và dự kiến kinh phí theo trần ngân sách được xác định trước để cân đối giữa
nhu cầu chi với khả năng nguồn lực tài chính công.
- Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và tài
chính trong các cơ sở giáo dục công lập chưa phát huy được hiệu quả. Với nguồn
ngân sách cấp hàng năm còn hạn hẹp và mức thu học phí rất thấp nên các cơ sở
giáo dục không thể có đủ nguồn lực để bổ sung thu nhập cho giáo viên và tăng
cường trang thiết bị, cơ sở vật chất nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
12
- Mặc dù đã có chủ trương và chính sách khuyến khích xã hội hoá giáo
dục, tuy nhiên vẫn chưa có cơ chế hữu hiệu nhằm huy động nhiều hơn nữa
các nguồn lực của xã hội đầu tư cho giáo dục.
Cơ chế tài chính giáo dục còn nhiều bất hợp lý, chưa góp phần tạo động
lực cho giáo dục và đào tạo tự phát triển nhanh với chất lượng ngày càng cao,

đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Theo ý kiến của nhiều hiệu trưởng,
sự lệ thuộc về nguồn tài chính là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn
đến khó khăn trong công tác quản lý. Trong tổng số nguồn lực tài chính của
các trường, ngân sách đào tạo chiếm 68%, học phí chiếm 26%, các khoản thu
khác chiếm 6% mà nguồn ngân sách phụ thuộc vào số lượng sinh viên nên để
gia tăng nguồn thu, các trường đều mở rộng quy mô đào tạo hoặc giảm hệ
chính quy, phát triển hệ đào tạo phi chính quy, trong khi không tăng được các
điều kiện bảo đảm chất lượng, nhất là về giáo viên. Phần lớn ngân sách ít ỏi
dành để chi thường xuyên, nhiều nhất là lương, nên không có tiền để đầu tư
phát triển. Kinh phí hạn chế tác động không nhỏ đến hoạt động nghiên cứu
khoa học, trả tiền dạy vượt giờ cho giáo viên… khiến cho mức thu nhập bình
quân của giảng viên tại các trường công lập thấp.
Không được tự chủ nên các trường khó huy động được những nguồn lực khác,
kể cả từ hợp tác quốc tế hoặc thậm chí có nguồn nhưng không có cơ chế để chi.
Tóm lại: Trong những năm qua các quy định về cơ chế quản lý tài chính
cho quản lý giáo dục vẫn còn chậm đổi mới, còn nhiều bất hợp lý, hạn chế sự
năng động sáng tạo của các nhà trường. Trong khi đó, lẽ ra các trường Đại
học cần được tự quyết định và chủ động về khai thác, tìm kiếm các nguồn tài
chính; cách thức sử dụng các nguồn tài chính và tài sản hiện có, đầu tư cho tài
sản tương lai và cân đối các nguồn tài chính thu và chi nhằm bảo đảm hệ
thống tài chính minh bạch, tuân thủ pháp luật và không vụ lợi.
13
Trước những bất cập nói trên và nhu cầu tăng chất lượng và quy mô
giáo dục, việc đổi mới cơ chế tài chính giáo dục trong thời gian tới là một yêu
cầu rất cấp thiết.
1.3. Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với các trường đại
học, cao đẳng công lập
Xuất phát từ nội dung cải cách tài chính công, phân biệt rõ cơ quan hành
chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 24/5/2006 quy định quyền tự chủ, tự

chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính
đối với đơn vị sự nghiệp công lập (gọi tắt là Nghị định 43). Trong đó các đơn
vị sự nghiệp công lập được trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc
tạo lập và sử dụng nguồn tài chính để thực hiện các nhiệm vụ trong lĩnh vực
hoạt động của mình.
Đơn vị thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm phải là đơn vị dự
toán độc lập, có con dấu và tài khoản riêng, tổ chức bộ máy kế toán theo quy
định của Luật Kế toán.
Các trường đại học, cao đẳng công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân
là những đơn vị sự nghiệp có thu, tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động
thường xuyên, phần còn lại được NSNN cấp.
Theo Nghị định 43, quyền tự chủ về tài chính của các trường đại học,
cao đẳng công lập bao gồm những nội dung cơ bản sau:
1.3.1. Tự chủ về nguồn tài chính
a) Kinh phí do ngân sách nhà nước cấp, gồm:
- Kinh phí bảo đảm hoạt động thường xuyên thực hiện chức năng, nhiệm
vụ được giao đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động (sau khi
14
đã cân đối nguồn thu sự nghiệp); được cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp giao,
trong phạm vi dự toán được cấp có thẩm quyền giao;
- Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đối với đơn
vị không phải là tổ chức khoa học và công nghệ);
- Kinh phí thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức;
- Kinh phí thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia;
- Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đặt hàng (điều tra, quy hoạch, khảo sát, nhiệm vụ khác);
- Kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao;
- Kinh phí thực hiện chính sách tinh giản biên chế theo chế độ do nhà
nước quy định ;
- Vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí mua sắm trang thiết bị, sửa chữa

lớn tài sản cố định phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp có thẩm
quyền phê duyệt trong phạm vi dự toán được giao hàng năm;
- Vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn vốn nước ngoài được cấp có
thẩm quyền phê duyệt;
- Kinh phí khác .
b) Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp, gồm:
- Phần được để lại từ số thu phí, lệ phí thuộc ngân sách nhà nước theo
quy định của pháp luật;
- Thu từ hoạt động dịch vụ phù hợp với lĩnh vực chuyên môn và khả
năng của đơn vị, cụ thể:
Sự nghiệp giáo dục đào tạo: Thu từ hợp đồng đào tạo với các tổ chức
trong và ngoài nước; thu từ các hoạt động sản xuất, tiền thu sản phẩm thực
hành thực tập, sản phẩm thí nghiệm; thu từ các hợp đồng dịch vụ khoa học và
công nghệ và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
15
- Thu từ hoạt động sự nghiệp khác (nếu có);
- Lãi được chia từ các hoạt động liên doanh, liên kết, lãi tiền gửi ngân hàng.
c) Nguồn viện trợ, tài trợ, quà biếu, tặng, cho theo quy định của pháp luật.
d) Nguồn khác, gồm:
- Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng, vốn huy động của cán bộ,
viên chức trong đơn vị;
- Nguồn vốn liên doanh, liên kết của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước theo quy định của pháp luật.
1.3.2. Tự chủ về nội dung chi
Đi đôi với việc quy định nguồn tài chính thì Nghị định 43 cũng quy định
rõ các nội dung chi cụ thể như sau:
a) Chi thường xuyên, gồm:
- Chi hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao;
- Chi phục vụ cho việc thực hiện công việc, dịch vụ thu phí, lệ phí;
- Chi cho các hoạt động dịch vụ (kể cả chi thực hiện nghĩa vụ với ngân

sách nhà nước, trích khấu hao tài sản cố định theo quy định, chi trả vốn, trả lãi
tiền vay theo quy định của pháp luật).
b) Chi không thường xuyên, gồm:
- Chi thực hiện các nhiệm vụ giảng dạy và học tập;
- Chi thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức;
- Chi thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia;
- Chi công tác nghiên cứ khoa học;
- Chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn vốn nước ngoài theo
quy định;
- Chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao;
- Chi thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ do nhà nước quy định;
- Chi đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài
sản cố định thực hiện các dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
16
- Chi thực hiện các dự án từ nguồn vốn viện trợ nước ngoài;
- Chi cho các hoạt động liên doanh, liên kết;
- Các khoản chi khác theo quy định.
1.3.3. Tự chủ trong việc tạo lập các khoản thu và quy định mức thu
- Đơn vị sự nghiệp công lập có hoạt động dịch vụ được vay vốn của các
tổ chức tín dụng, được huy động vốn của cán bộ, viên chức trong đơn vị để
đầu tư mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp, tổ chức hoạt
động dịch vụ phù hợp với chức năng nhiệm vụ và tự chịu trách nhiệm trả nợ
vay theo quy định của pháp luật.
- Các đơn vị sự nghiệp công lập được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
giao thu phí, lệ phí phải thu đúng, thu đủ theo mức thu và đối tượng thu do
Nhà nước quy định.
Đối với những hoạt động liên doanh liên kết, đơn vị được quyết định các
khoản thu, mức thu cụ thể theo nguyên tắc bảo đảm đủ bù đắp chi phí và có
tích lũy.
1.3.4. Tự chủ về sử dụng nguồn tài chính

Căn cứ vào nhiệm vụ được giao và khả năng nguồn tài chính, thủ trưởng
đơn vị được quyết định một số mức chi quản lý, chi hoạt động nghiệp vụ cao
hơn hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
Căn cứ tính chất công việc, thủ trưởng đơn vị được quyết định phương
thức khoán chi phí cho từng bộ phận, đơn vị trực thuộc, quyết định đầu tư xây
dựng, mua sắm mới và sửa chữa lớn tài sản thực hiện theo quy định của pháp
luật và quy định tại Nghị định 43.
Đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động tuỳ theo lĩnh
vực và khả năng của đơn vị, được:
- Quyết định mua sắm tài sản, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất từ quỹ phát
triển hoạt động sự nghiệp, vốn huy động theo quy hoạch được cấp có thẩm
quyền phê duyệt.
17
- Tham dự đấu thầu các hoạt động dịch vụ phù hợp với lĩnh vực chuyên
môn của đơn vị.
- Sử dụng tài sản để liên doanh, liên kết hoặc góp vốn liên doanh với các
tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để đầu tư xây dựng mua sắm trang thiết
bị phục vụ công việc phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị theo quy
định hiện hành của nhà nước.
1.3.5. Quyền tự chủ trong việc huy động vốn và vay vốn tín dụng
Đơn vị sự nghiệp công lập có hoạt động dịch vụ được quyền vay vốn của
các tổ chức tín dụng, được huy động vốn của cán bộ, viên chức trong đơn vị
để đầu tư mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp, tổ chức các
hoạt động dịch vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và tự chịu trách nhiệm
trả nợ vay theo quy định của pháp luật.
1.3.6. Xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ
Với quan điểm trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự
nghiệp, Nhà nước đã cho phép các đơn vị sự nghiệp được chủ động xây dựng
quy chế chi tiêu nội bộ của mình, làm căn cứ để cán bộ, viên chức thực hiện
và cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện kiểm soát chi.

Quy chế chi tiêu nội bộ do thủ trưởng đơn vị sự nghiệp ban hành sau khi
tổ chức thảo luận rộng rãi dân chủ, công khai trong đơn vị và có ý kiến thống
nhất của đơn vị.
Nội dung quy chế chi tiêu nội bộ bao gồm các quy định về chế độ, tiêu
chuẩn, định mức, mức chi thống nhất trong đơn vị, đảm bảo hoàn thành
nhiệm vụ được giao, phù hợp với hoạt động đặc thù của đơn vị, sử dụng kinh
phí tiết kiệm có hiệu quả và tăng cường công tác quản lý.
Ngoài một số tiêu chuẩn, định mức chi các đơn vị sự nghiệp phải thực
hiện theo đúng các quy định của nhà nước, bao gồm: tiêu chuẩn, định mức sử
dụng, chế độ công tác phí, chế độ tiếp khách nước ngoài và hội thảo quốc tế ở
Việt nam; kinh phí thực hiện các chương trình, mục tiêu; kinh phí thực hiện
18
các đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, cấp Bộ, ngành; vốn đầu tư xây
dựng cơ bản, kinh phí mua sắm, sửa chữa lớn tài sản cố định…căn cứ theo
định mức kinh tế kỹ thuật và chế độ chi tiêu tài chính hiện hành của nhà nước,
đơn vị sự nghiệp được chủ động xây dựng tiêu chuẩn, định mức và chế độ chi
tiêu nội bộ.
Đối với đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động, thủ
trưởng đơn vị được quy định mức chi quản lý và chi nghiệp vụ cao hơn hoặc
thấp hơn mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
Đối với một số tiêu chuẩn, định mức và mức chi đơn vị sự nghiệp phải
thực hiện đúng các quy định của Nhà nước:
- Tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô;
- Tiêu chuẩn, định mức về nhà làm việc;
- Chế độ công tác phí nước ngoài;
- Chế độ tiếp khách nước ngoài và hội thảo quốc tế ở Việt Nam;
- Chế độ quản lý, sử dụng kinh phí các chương trình mục tiêu quốc gia;
- Chế độ sử dụng kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm
quyền giao;
- Chế độ chính sách thực hiện tinh giản biên chế;

- Chế độ quản lý, sử dụng vốn đối ứng dự án, vốn viện trợ thuộc nguồn
vốn ngân sách nhà nước;
- Chế độ quản lý, sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí mua
sắm, sửa chữa lớn tài sản cố định;
Thủ trưởng đơn vị căn cứ tính chất công việc, khối lượng sử dụng, tình
hình thực hiện năm trước, quyết định phương thức khoán chi phí cho từng cá
nhân, bộ phận, đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc sử dụng như: sử dụng
văn phòng phẩm, điện thoại, xăng xe, điện nước, công tác phí; kinh phí tiết
kiệm do thực hiện khoán được xác định chênh lệch thu chi và được phân phối,
sử dụng theo chế độ quy định.
19
Thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ, đơn vị phải bảo đảm có chứng từ, hoá
đơn hợp pháp, hợp lệ theo quy định, trừ các khoản thanh toán văn phòng
phẩm, thanh toán công tác phí được đơn vị thực hiện chế độ khoán theo quy
chế chi tiêu nội bộ.
Đơn vị sự nghiệp công lập không được dùng kinh phí của đơn vị để mua
sắm thiết bị, đồ dùng, tài sản trang bị tại nhà riêng hoặc cho cá nhân mượn
dưới bất kỳ hình thức nào (trừ điện thoại công vụ tại nhà riêng theo chế độ
quy định).
1.3.7. Chủ động trích lập, sử dụng các quỹ và chi trả tiền lương, thu nhập
Nhà nước khuyến khích các đơn vị sự nghiệp tăng thu, tiết kiệm chi, tinh
giản biên chế, tăng thêm thu nhập cho người lao động trên cơ sở hoàn thành
nhiệm vụ được giao.
Hàng năm sau khi trang trải các khoản chi phí, nộp thuế và các khoản
nộp khác theo quy định, phần chênh lệch thu lớn hơn chi, đơn vị được sử
dụng theo trình tự như sau:
- Trích tối thiểu 25% số chênh lệch thu lớn hơn chi để lập Quỹ phát triển
hoạt động sự nghiệp;
- Trả thu nhập tăng thêm cho người lao động;
- Trích lập quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ dự phòng ổn định thu nhập.

Đối với 2 quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi, mức trích tối đa không quá 3 tháng
tiền lương, tiền công và thu nhập tăng thêm bình quân thực hiện trong năm.
Mức trả thu nhập tăng thêm, trích lập các quỹ do thủ trưởng đơn vị sự
nghiệp quyết định theo quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị và đảm bảo nguyên
tắc người nào có hiệu suất công tác cao, đóng góp nhiều cho việc tăng thu, tiết
kiệm chi thì được trả nhiều hơn.
20
Việc sử dụng các quỹ được quy định như sau:
- Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp dùng để đầu tư, phát triển nâng cao
hoạt động sự nghiệp, bổ sung vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm
trang thiết bị, phương tiện làm việc, chi áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
công nghệ, trợ giúp thêm đào tạo, huấn luyện nâng cao tay nghề năng lực
công tác cho cán bộ, viên chức đơn vị; được sử dụng góp vốn liên doanh, liên
kết với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để tổ chức hoạt động dịch vụ
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao và khả năng của đơn vị và theo
quy định của pháp luật. Việc sử dụng quỹ do thủ trưởng đơn vị quyết định
theo quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị.
- Quỹ dự phòng ổn định thu nhập để bảo đảm thu nhập cho người lao động.
- Quỹ khen thưởng dùng để thưởng định kỳ, đột xuất cho tập thể, cá
nhân trong và ngoài đơn vị theo hiệu quả công việc và thành tích đóng góp
vào hoạt động của đơn vị. Mức thưởng do thủ trưởng đơn vị quyết định theo
quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị.
- Quỹ phúc lợi dùng để xây dựng, sửa chữa các công trình phúc lợi, chi
cho các hoạt động phúc lợi tập thể của người lao động trong đơn vị; trợ cấp
khó khăn đột xuất cho người lao động, kể cả trường hợp nghỉ hưu, nghỉ mất
sức; chi thêm cho người lao động trong biên chế thực hiện tinh giản biên chế.
Thủ trưởng đơn vị quyết định việc sử dụng quỹ theo quy chế chi tiêu nội bộ
của đơn vị.
21
CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG THUỘC
BỘ NÔNG NGHIỆP &PTNT
1. Các trường đại học, cao đẳng thuộc Bộ Nông nghiệp &PTNT
1.1. Giới thiệu chung
Bộ Nông nghiệp & PTNT được thành lập từ năm 1995 trên cơ sở hợp
nhất 3 Bộ: Bộ Nông nghiệp và Công nghệ thực phẩm, Bộ Lâm nghiệp và Bộ
Thủy lợi.
Hiện nay, Bộ Nông nghiệp &PTNT quản lý 36 đơn vị sự nghiệp công
lập khối giáo dục đào tạo. Trong đó, trên phạm vi cả nước có 28 trường đại
học, cao đẳng trực thuộc Bộ Nông nghiệp & PTNT, bao gồm 2 trường đại học
và 11 trường cao đẳng và 15 trường cao đẳng nghề với danh sách như sau:
1. Trường Đại học Lâm nghiệp
2. Trường Đại học Thuỷ lợi
3. Trường Cao đẳng Nông lâm
4. Trường Cao đẳng Thuỷ sản
5. Trường Cao đẳng Lương thực thực phẩm
6. Trường Cao đẳng Thuỷ lợi Bắc Bộ
7. Trường Cao đẳng Công nghệ và KT Thuỷ lợi Miền Trung
8. Trường Cao đẳng Nông lâm Đông Bắc
9. Trường Cao đẳng Cơ điện và Nông nghiệp Nam Bộ
10. Trường Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế Bảo lộc
11. Trường Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế Hà nội
12. Trường Cao đẳng Nông nghiệp Nam bộ
22
13. Trường Cao đẳng Nông nghiệp và PTNT Bắc Bộ
14.
Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội
15.
Cao đẳng nghề Cơ điện – Xây dựng Tam Điệp

16.
Cao đẳng nghề Cơ điện Phú Thọ
17.
Cao đẳng nghề Cơ khí Nông nghiệp
18.
Cao đẳng nghề Cơ giới Ninh Bình
19.
Cao đẳng nghề Chế biến gỗ
20.
Cao đẳng nghề Cơ điện – XD và Nông Lâm Trung Bộ
21.
Cao đẳng nghề Thuỷ sản Miền Bắc
22.
Cao đẳng nghề Cơ điện và Thuỷ lợi
23.
Cao đẳng nghề Cơ điện và Xây dựng Bắc Ninh
24.
Cao đẳng nghề Công nghệ và Nông Lâm Đông Bắc
25.
Cao đẳng nghề Công nghệ và Nông Lâm Nam Bộ
26.
Cao đẳng nghề Cơ điện Tây Bắc
27.
Cao đẳng nghề Công nghệ và Nông lâm Phú Thọ
28.
Cao đẳng nghề Cơ giới Quảng Ngãi
Tất các các trường đại học, cao đẳng thuộc Bộ NN&PTNT đều là trường
công lập và đều được phân loại là đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một phần chi phí.
1.2. Chức năng, nhiệm vụ của các trường đại học, cao đẳng
- Về đào tạo:

+ Trường Đại học Thuỷ lợi là trường đại học đào tạo nguồn nhân lực có
trình độ cao về lĩnh vực thuỷ lợi, thuỷ điện và tài nguyên nước phục vụ cho
các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dân sinh kinh tế và phát triển nông thôn
trên phạm vi cả nước.
23

×