Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

thực trạng công ty tài chính và công ty bảo hiểm tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.13 KB, 22 trang )

A A
ĐẠi Hật Q(ựt|s m m »16HÌMMH

TRƯŨNG ĐẠI HỌC KINH TỀ - LUẬT
L I N ] V E R s 1 T Y o r E C O N O M 1 C 5 A M D
L A W
Môn học:
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
Đề tài:

CÔNG TY TÀI CHÍNH
CỒNG TY BẢO HIỂM
Giáo viên hướng dẫn: Hoàng Thọ Phú Lớp:
K09402A Nhóm: Bảng Anh
l
I
1 .Đinh Thị Bích Diễm K094020129
2. Mai Thụy Trà Giang
K094020139
3. Nguyễn Hoàng Hạnh
K094020142
ì
TP Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 3 năm 2011
v$
u
H
___
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
Họ và tên MSSV Công việc
Đinh Thị Bích Diễm K094020129
Tìm tài liệu, tông hợp file word và thuyết


trình phàn công ty tài chính.
Mai Thụy Trà Giang K094020139
Tìm tài liệu, tông hợp powerpoint và
thuyết trinh phần công ty tài chính.
Nguyễn Hoàng Hạnh K094020142
Tìm tài liệu, tông hợp powerpoint và
thuyết trình phàn công ty bảo hiểm.
Tràn Thị Quý K094020213
Tìm tài liệu, tông hợp file word và thuyết
trình phần công ty bảo hiểm.
MỤC LỤC
Lời mở đàu 3
I. Công ty tài chính 4

1. Định nghĩa 4
2. Đặc điểm 4
3. Phân loại 5
3.1. Công ty tài chính bán hàng 5
3.2. Công ty tài chính tiêu dùng 5
3.3. Công ty tài chính doanh nghiệp 6
4. Thực trạng công ty tài chính tại Việt Nam 11
Il.Công ty bảo hiểm . 12
1. Khái quát về công ty bảo hiểm 12
1.1. Sự càn thiết khách quan của công ty bảo hiểm 12
1.2. Định nghĩa 13
1 3 Phân loại 13
1.4. Đặc trưng doanh nghiệp bảo hiểm 16
1.5. Yêu cầu càn thiết của công ty bảo hiểm 16
2. Yêu càu càn thiết của công ty bảo hiểm 17
2.1. Phí bảo hiểm và hợp đồng 17

2.2. Nội dung ' 18
2.3. Đặc điểm 18
2.4. Nguyên tắc hoạt động 19
3. Thực trạng công ty bảo hiểm tại Việt Nam 21
Lời mở đầu
Ngày nay, ngân hàng không còn là tổ chức tài chính duy nhất mà chứng ta tiếp xúc hàng
ngày nữa. Bên canh các ngân hàng là sự xuất hiện của các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Giả
sử như bạn đi mua bảo hiểm ở các công ty bảo hiểm, vay tiền mua xe tại một công ty tài chính,
hay mua một loại chứng khoán với sự giúp đỡ của các công ty môi giới. Trong các giao dịch
trên, chứng ta đang làm việc với các tổ chức tài chính phi ngân hàng.
Trong nền kinh tế, các tổ chức tài chính phi ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng trong
việc tạo dòng luân chuyển vốn từ người tiết kiệm ( người cho vay) đến người chi tiêu ( người đi
vay). Thông qua những sáng tạo công cụ tài chính và dịch vụ mới, các tổ chức phi ngân hàng
đang cạnh tranh trực tiếp với các tổ chức tín dụng ngân hàng bằng cách cung cấp các dịch vụ
ngân hàng cho khách hàng của mình.
Căn cứ vào đặc điểm hoạt động trong nền kinh tế thị trường xuất hiện những loại định
chế trung gian tài chính chủ yếu:
4- Ngân hàng thương mại
J- Các loại quỹ tiết kiệm
J- Các quỹ tín dụng
4- Các công ty tài chính
4- Các công ty bảo hiểm
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập, khái niệm về công ty tài chính
và công ty bảo hiểm không còn là một khái niệm xa lạ.
Công ty tài chính
1. Định nghĩa.
Công ty tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức năng là sử dụng vốn tự
có, vón huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đàu tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài
chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác như dịch vụ cầm, giữ hộ và quản lý các chứng
khoán, kim loại quý theo quy định của pháp luật.

2. Đặc điểm
• Các công ty tài chính có nguồn vốn rất dồi dào về cơ cấu, về số lượng, về thời gian, nguồn vốn
này càng lớn thì thị trường càng sôi động, linh hoạt và phát triển vì chứng là nguồn tiếp sức cho
việc mua đi bán lại các công cụ trên thị trường.
• Các công ty tài chính có lợi thế hơn các ngân hàng về tính năng động và tự do trong hoạt động.
Các công ty tài chính có thể huy động vốn thông qua hình thức phát hành trái phiếu, cổ phiếu và
thương phiếu. Chính phủ sẽ điều hành và quy định về số tiền công ty tài chính có thể cho các
khách hàng vay cũng như thời hạn cho vay nhưng không hạn chế các công ty tài chính về việc
lập các chi nhánh, quy định về số tài sản phải giữ hay quy định làm thế nào để huy động vốn.
Điều này tạo điều kiện cho các công ty tài chính điểu chỉnh các khoản cho vay của mình sao cho
phù hợp với nhu càu của khách hàng tót hơn ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.
• Mặc dù các công ty tài chính thường thực hiện các khoản cho vay với mức độ rủi ro phá sản cao
nhưng nhìn chung họ vẫn thu được lợi nhuận vì họ sẽ áp dụng lãi suất cao hơn đối với các khoản
vay rủi ro đó. Ngoài ra các tổ chức này còn đàu tư vào tất cả các loại công cụ trên thị trường tiền
tệ nhằm phân tán rủi ro, vừa thu được nhiều lợi nhuận hơn.
• Một trong những hạn chế của các công ty tài chính so với các tổ chức ngân hàng là không được
làm dịch vụ thanh toán và nhận tiền gửi dưới 1 năm. Các công ty tài chính là trung gian tài chính,
cung ứng tín dụng trung và dài hạn. Tuy vậy, các công ty tài chính hiện
nay đã khắc phục bằng việc phát triển thêm nhiều sản phẩm dịch vụ mới như dịch vụ nhận ủy
thác vốn, nhận ủy thác đàu tư bao thanh toán, thu xếp vốn, cho cả ngắn hạn, trung và dài hạn.
Những dịch vụ này đã giúp công ty tài chính thực hiện được các dịch vụ khác tương tự như một
ngân hàng thương mại.
3. Phân loại
Có 3 loại hình công ty tài chính, đó là: công ty tài chính bán hàng, công ty tài chính tiêu dùng,
công ty tài chính doanh nghiệp.
3.1. Công ty tài chính bán hàng
Công ty tài chính bán hàng do các công ty sản xuất, bán hàng và các nhà bán lẻ làm chủ sở hữu
và thực hiện các khoản cho vay tài trợ cho khách hàng mua các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của
chính công ty mình. Hình thức bán hàng của các công ty tài chính bán hàng là hình thức bán
hàng trả góp nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của công

Ví du: Hệ thống bán lẻ Sears tài trợ khách hàng mua các hàng hóa và dịch vụ tại các cửa hàng
của Sears, GM Acceptance Corporations tài trợ cho khách hàng mua ô tô của GM,
Công ty tài chính canh tranh trực tiếp với ngân hàng về các khoản cho vay mua hàng và thu hút
được khá nhiều khách hàng bởi vì thông thường các khoản vay ở các công ty tài chính bán hàng
được thực hiện nhanh hơn và tiện lợi hơn ngay tại các địa điểm mua hàng.
3.2 Công ty tài chính tiêu dùng
Công ty tài chính tiêu dùng là các doanh nghiệp riêng biệt, các công ty cổ phàn hay do các ngân
hàng làm chủ sở hữu ( Citicorp, Owns Person-to-Person Finance Company hoạt động khắp mọi
nơi trên thế giới).
Mục đích của các công ty tài chính tiêu dùng là thực hiện các khoản cho vay cho khách hàng mua
các loại hàng hóa cụ thể. Ví dụ như mua các vât dụng gia đình, sửa chửa nhà cửa hay giúp đỡ chi
trả các khoản nợ nhỏ.
Hình thức bán hàng của các công ty tài chính tiêu dùng là trả góp định kỳ. Thông thường các
công ty này cho các khách hàng không có khả năng vay từ các nguồn khác và định lãi suất cao
hơn.
3.3. Công ty tài chính doanh nghiệp
Công ty tài chính doanh nghiệp cung cấp các hình thức tín dụng chuyên biệt cho các doanh
nghiệp bằng các hình thức chính sau đây:
3.3.1. Bao thanh toán (factorỉng)
Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản
phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận
tại hợp đồng mua bán.
Ví du: Một xí nghiệp may mặc có hóa đơn chưa thanh toán từ các cửa hàng bán lẻ đã mua từ xí
nghiệp với giá trị 100.000 đôla. Neu xí nghiệp này cần tiền mặt ngay để mua trang thiết bị, họ có
thể bán tài khoản thanh toán này cho công ty tài chính với giá là 90.000 đôla và giao quyền thu
lại số nợ 100.000 đôla cho công ty tài chính.
Tiện ích của bao thanh toán:
Đổi với doanh nghiệp bán hàng Cải thiện dòng tiền, tăng khả năng thanh
khoản.

Tăng doanh số bán hàng nhờ chính sách
bán hàng trả chậm.
Giảm chi phí hành chính, quản lý công nợ.
Có nguồn tài chính mới mà không phụ
thuộc vào các khoản vay Ngân hàng, không
yêu câu phải có tài sản bảo đảm
Giảm thiểu nợ xấu, hạn chế rủi ro tín dụng.
Đổi với doanh nghiệp mua hàng
Có thể mua hàng theo điều khoản thanh toán trả
sau.
Sử dụng tín dụng người bán để tài trợ vốn lưu
động.
Cơ hội đàm phán điều khoản mua hàng tốt hơn.
Đơn giản hóa thủ tục thanh toán
3.3.2. Thuê tài chính:
Bên canh hình thức bao thanh toán, công ty tài chính còn chuyên môn hóa vào cho thuê trang
thiêt bị máy móc ( ví dụ ô tô, xe tải, toa hàng, máy bay, tàu thủy, máy tính ) mà họ mua về
và cho các doanh nghiệp vay trong một khoảng thời gian nào đó.
> Phân biệt thuê tài chính và thuê thông thường: Khi doanh nghiệp cần mua sắm trang thiết bị
sản xuất có thể sử dụng hình thức thuê tài sản
Thuê tài chính Thuê thông thường
Thời hạn cho thuê của tài sản tương đối dài so
với thời gian hữu dụng của tài sản.
Bên thuê gánh chịu phần lớn rủi ro liên quan
đến tài sản.
Thông thường, bên cho thuê có cam kết bán lại
tài sản cho bên thuê khi kết thúc hợp đồng.
Thời hạn cho thuê ngắn so với thời gian hữu
dụng của tài sản.
Bên cho thuê gánh chịu phần lớn rủi ro liên

quan đến tài sản.
Không có cam kết bán lại tài sản.
Hiện giá của các khoản chi trả thuê thông
thường thấp hơn nhiều so với giá trị của
Hiện giá của các khoản tiền chi tó tiền tài sản thuê.
thuê gàn bằng với giá trị của tài sản thuê.
> Yêu cầu của việc thuê tài chính: Một giao dịch được gọi là thuê tài chính phải thỏa mãn một
trong các điều kiện sau:
• Khi kết thúc hợp đồng cho thuê theo hợp đồng, bên thuê phải chuyển quyền sở hữu tài sản
thuê hoặc tiếp tục thuê theo sự thỏa thuận của hai bên.
• Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên mua tài sản thuê
theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại
• Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài
sản thuê.
• Tổng số tiển thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương
đương với giá trị tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
—> Do đó cho thuê tài chính thực ra là một hình thức cấp tín dụng. Khi một họrp đồng thuê tài
chính được kí kết, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp được cấp một khoản vốn. Khoản vốn này
có được là do doanh nghiệp không phải bỏ tiền ra mua tài sản mà cẫn có tài sản sử dụng lâu dài
cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì đáng lẽ ra, có thể doanh nghiệp đã phải đi vay một số vốn
tương đương giá trị tài sản trong hợp đồng thuê trả cho công ty cho thuê tài chính bao gồm cả
vón góc và lãi.
> Các hình thức của thuê tài chính:
• Thuê trực tiếp: Máy móc, trang thiết bị do chinh doanh nghiệp lựa chọn và thỏa thuận với
công ty cho thuê để mua tài sản đúng nhãn hàng mình cần.
• Hình thức bán và thuê lại ( Sale and lease-back): Khá phổ biến trong lĩnh vực bất động
sản, công ty cho thuê tài chính sẽ mua tài sản của doanh nghiệp, trả cho doanh nghiệp một khoản
tiền mặt rồi cho doanh nghiệp thuê lại tài sản đó.
• Thuê tài sản mua bằng vốn vay ( Leverage leases): Trong hình thức này có sự tham gia của 3
bên: bên đi thuê, bên cho thuê và nhà cho vay. Ở đây, nghĩa vụ của doanh nghiệp đi thuê không

thay đổi, chỉ khác là doanh nghiệp cho thuê đã sử dụng hợp đồng cho thuê để thế chấp cho nhà
cho vay nhằm đảm bảo cho một khoản vay nào đó.
> Lợi ích của doanh nghiệp từ hình thức cho thuê tài chính
• Thông thường đối với các tài sản vốn vay trung và dài hạn, các ngân hàng thương mại đều đòi
hỏi tài sản đảm bảo ( thế chấp hoặc cầm cố ) và chỉ cho vay tối đa 80% tổng chi phí thực hiện dự
án, nhưng với công ty cho thuê tài chính, doanh nghiệp chẳng những không càn phải thế chấp tài
sản hay kí quỹ đảm bảo mà còn có thể được cung cấp 100% vốn đàu tư. Lãi suất hoàn toàn dựa
vào thỏa thuận của 2 bên.
• Kênh tín dụng này cũng cho phép doanh nghiệp hoàn toàn chủ động trong việc lựa chọn thiết bị,
máy móc, nhà cung cấp, mẫu mã, chủng loại phù hợp với yêu càu của doanh nghiệp mình.
• Ngoài ra, nếu doanh nghiệp đã lỡ mua đàu tư tài sản mà thiếu vốn lưu động thì vẫn có thể bán lại
cho công ty cho thuê tài chính và đi thuê lại. Như vậy doanh nghiệp vừa có tài sản để sử dụng,
vừa có vốn để phục vụ chohoạt động kinh doanh.
• Ket thúc thời hạn cho thuê, doanh nghiệp được quyền ưu tiên mua lại tài sản với giá trị danh
nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản tại thời điểm mua lại.
• Một lợi ích vô cùng quan trọng của hình thức cho thuê tài chính là đó là lợi ích được hưởng từ
tấm chắn thuế. Tài sản cho thuê vẫn thuộc quyền sở hữu của công ty cho thuê nên công ty vẫn có
quyền khấu hao tài sản đó, làm giảm thuế thu nhập phải nộp. Mặt khác, bên đi thuê phải trả chi
phí thuê, chi phí đó được khấu trừ trước thuế nên cũng được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp
phải nộp. Như vậy, cả 2 doanh nghiệp đều được hưởng lợi ích trong việc nộp thuế doanh nghiệp.
> Danh mục cho thuê tài chính
Danh mục hồ sơ mà các công ty thuê tài chính yêu cầu là khá giống nhau, chỉ khác biệt ở một vài
hồ sơ.
1. Hồ sơ pháp lí doanh nghiệp: 1 bộ
2. Biên bản quyết định của Hội đồng Quản trị, Hội đồng Tư vấn, chủ doanh nghiệp về việc thuê tài
chính (bản chính).
3. Giấy đề nghị thuê tài chính và phương án thuê tài chính: 1 bộ.
• Bản thỏa thuận với nhà cung ứng tài sản kèm các tài liệu về tài sản thuê.
• Biên bản xác nhận về việc lựa chọn nhà cung cấp ( theo mẫu ).
4. Tài liệu liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp (bản chính): 1 bộ.

• Báo cáo tài chính liên quan đến tình hình hoạt động 2 năm gàn nhất, quý gàn nhất.
• Các tài liệu chứng minh năng lực tài chính khác.
• Tài liệu liên quan đến tài sản thuê
3.3.3. Thuê vận hành
• Thời hạn ngắn, công ty cho thuê đảm bảo sửa chữa, bảo trì cho máy móc, thiết bị. Đây là hình
thức cho thuê hoạt động, tức là cho thuê có thời hạn tài sản ) và sẽ trả lại bên cho thuê khi kết
thúc thời gian thuê tài sản. Bên cho thuê giữ quyền sở hữu tài sản và nhận tiền cho thuê theo hợp
đồng đã thỏa thuận.
• Các công ty thuê tài chính muốn thực hiện nghiệp vụ này phải đáp ứng những điều kiện như: có
nhu cầu hoạt động cho thuê vận hành, có thời gian hoạt động tối thiểu 2 năm, kinh doanh có lãi,
tỉ lệ nợ quá hạn tại thời điểm cuối quý trước không dưới 5%, không vi phạm các quy định an
toàn khi hoạt động, phải đảm bảo các điều kiện cơ sở vật chất để phục vụ cho thuê ( kho hàng,
bến bãi, bảo dưỡng khi cho thuê, ). Hợp đồng cho thuê vận hành không ràng buộc việc mua
bán tài sản cho thuê giữa bên thuê và bên cho thuê.
3.3.4. Khác biệt giữa thuê tài chính và thuê vận hành
Trong trường hợp cho thuê tài chính thông thường bên thuê có quyên yêu câu bên cho thuê
chuyển quyền sở hữu cho mình khi thời hạn hợp đồng kết thúc, nhưng thuê vận hành thì không.
Mặc dù cả 2 trường hợp quyền sở hữu tài sản đều thuộc về bên cho thuê trong thời hạn hợp đồng
cho thuê nhưng bên thuê vẫn có quyền khấu hao tài sản trong trường hợp thuê tài chính, đối với
thuê vận hành thì bên cho thuê khấu hao.
Trách nhiệm bảo dưỡng, bảo trì tài sản trong 2 trường hợp khác nhau: thuê tài chính thì thuộc về
bên thuê, thuê vận hành lại thuộc về bên cho thuê
4. Tình hình các công ty tài chính tạỉ Việt Nam
Hiện nay ở Việt Nam có một số công ty tài chính như: PVFC - tổng công ty tài chính cổ phần
dầu khí Việt Nam, Hafĩc_ công ty tài chính cổ phần Handico .hai công ty tài chính 100% vốn
nước ngoài đàu tiên: công ty tài chính Prudential của tập đoàn Prudential và công ty tài chính SG
của tập đoàn Société Générale
Việc thành lập thêm các công ty tài chính sẽ góp phàn tạo thêm 1 kênh dẫn vốn cho nền kinh tế,
đáp ứng được nhu càu vay vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp nhỏ và vừa, phục vụ kịp thời nhu càu sinh hoạt tiêu dùng cá nhân- một lĩnh vực mà các tổ

chức tín dụng vừa qua chưa đáp ứng được.
Tại Việt Nam hiện nay, thị trường chung của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng vẫn đang trong
giai đoạn “tự phát” là chính, số lượng ít, quy mô nhỏ, cùng với những rắc rối trong thủ tục hành
chính, đã ngăn cản các công ty tài chính nhỏ lẻ vượt qua được các ngân hàng trong các dịch vụ
bán lẻ. Một nguyên nhân khác nữa cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của các công ty tài chính là
phần lớn đều trực thuộc các tập đoàn kinh tế của nhà nước, hay các tổng công ty dưới Bộ. Nhắc
tới các công ty tài chính, giới đàu tư vẫn chỉ quen 2 cái tên Prudential Việt Nam và công ty Việt
Sài Gòn. Những công ty này khác với các công ty tài chính còn lại, hầu hết đều thuộc Nhà nước
quản lý.
Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển nhanh và ổn định. Việc hội nhập với nền kinh tế thế giới
và khu vực của Việt Nam đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, điều này sẽ khuyến khích các
nhà đàu tư trong và ngoài nước tìm kiếm các lĩnh vực đàu tư hiệu quả, trong đó có mô hình hoạt
động của công ty tài chính
Công ty bảo hiểm
1. Khái quát về công ty bẳo hiểm
1.1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm
Trong cuộc sống cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày dù luôn chú ý ngăn
ngừa và đề phòng nhưng chúng ta luôn phải đối mặt với những rủi ro bất ngờ. Các rủi ro đó có
thể do nhiều nguyên nhân như: thiên tai, biến động của khoa học công nghệ, môi trường xã
hội, nhưng chúng đều mang lại cho chúng ta những tổn thất lớn cả về tinh thần và vật chất.
Khi rủi ro xảy ra, để bảo vệ bản thân, chúng ta càn có một tổ chức đứng ra ổn định tài chính, hạn
chế tổn thất, đó chính là các công ty bảo hiểm.
1.2. Định nghĩa công ty bảo hiểm
Các công ty bảo hiểm là các trung gian tài chính thực hiện chi tà cho các sự kiện không
mong đợi xảy ra (với khoản phí hay với giá cả nhất định), được thành lập, tổ chức và hoạt động
theo quy định của luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật có liên quan đến
kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm.
1.3. Phân loại công ty bảo hiểm Có
2 cách phân chia:
❖ Bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm tài sản

• Công ty bảo hiểm nhân thọ: Công ty bảo hiểm nhân thọ phát hành bảo hiểm chủ yếu
cho cái chết của người chủ sở hữu bảo hiểm, cam kết chi tà một làn hay nhiều làn cho người
hưởng quyền lợi bảo hiểm.
Phần lớn công việc kinh doanh của bảo hiểm nhân thọ là cung cấp các sản phẩm dịch vụ bảo
hiểm liên quan đến quỹ hưu trí và sức khỏe.
• Công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn: Bảo hiểm cho một loạt các sự kiên không định
trước khác nhau liên quan đến tài sản.Ví dụ như:
Mất mát, hư hỏng tài sản
Mất hay thiệt hại khả năng tạo thu nhập của tài sản
Thiệt hại hay thương tật gây ra cho chủ thể thứ ba
Thiệt hại hay thương tật do tai nạn nghề nghiệp
Điểm khác biệt chủ chốt giữa công ty bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm tài sản là mức độ
khó khăn trong việc quyết định chi trả cho người giữ hợp đồng bảo hiểm hay không và nếu có thì
chi trả bao nhiêu và như thế nào: Đối với bảo hiểm nhân thọ thì phương diện xác suất thống kê
rủi ro là tương đối dễ dàng. Việc tính toán xác định qui mô và thời hạn nghĩa vụ của cá công ty
bảo hiểm tài sản là khó hơn do tính ngẫu nhiên thất thường của các sự kiện rủi ro, thiên tai
♦> Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm thương mại
• Bảo hiểm xã hội: Là nhu càu khách quan của người lao động, nó đảm bảo thay thế hoặc
bù đắp một phàn thu nhập của người lao động khi họ gặp phải những sự kiện bảo hiểm làm giảm
hoặc mất khả khả năng lao động nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ.
Theo khuyến nghị của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã nêu trong công ước số 102 tháng 6
năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm:
1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp đau ốm
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế

9. Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng).
Tùy theo điều kiện kinh tế -xã hội mà mỗi nước thực hiện các chế độ khác nhau nhưng
phải tói thiểu 3 chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong 5 chế độ sau: 3, 4, 5, 8,
• Bảo hiểm y tế: được tách ra từ chế độ “chi phí y tế” trong hệ thống các chế độ bảo hiểm
xã hội. Ngày nay, bảo hiểm y tế phát triển mạnh mẽ để đáp ứng nhu càu khám và chữa bênh của
mọi thành viên trong xã hội nên nó không chỉ dừng lại ở lực lượng lao động mà mở rộng đến
mọi đối tượng có nhu càu dưới hình thức tự nguyện.
Căn cứ vào mức độ thanh toán chi phí khám chữa bênh cho người có thẻ BHYT, BHYT
được phân ra:
BHYT trọn gói: là phương thức BHYT trong đó cơ quan BHYT sẽ chịu trách nhiệm về
mọi chi phí y tế thuộc phạm vi BHYT cho người được BHYT.
BHYT trọn gói trừ các đại phẫu thuật: là phương thức BHYT trong đó cơ quan BHYT sẽ
chịu trách nhiệm về mọi chi phí y tế thuộc phạm vi BHYT cho người được BHYT, trừ các chi
phí cho các cuộc đại phẫu thuật.
BHYT thông thường: là phương thức BHYT trong đó trách nhiệm của cơ quan BHYT
được giới hạn tương xứng với trách nhiệm và nghĩa vụ của người được BHYT.
• Bảo hiểm thất nghiệp: cũng được tách ra từ bảo hiểm xã hội do sự phát triển của nền
kinh tế và lực lượng lao động xã hội. Bảo hiểm thất nghiệp phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động,
do đó, giải quyết bảo hiểm thất nghiệp liên quan đến trách nhiệm của xã hội, của người sử dụng
lao động và cả người lao động.
Điều kiện để được hưởng trợ cấp thất nghiệp:
Người tham gia bảo hiểm phải nộp phí bảo hiểm trong một thời gian nhất định.
Thất nghiệp không phải do lỗi của người lao động.
Phải đăng kí thất nghiệp, đãng kí tìm kiếm việc làm tại cơ quan lao động có thẩm quyền
do nhà nước qui định.
Phải sẵn sàng làm việc.
Có sổ BHTN để chứng nhận có tham gia đóng phí BHTN đủ thời hạn qui định.
• Bảo hiểm thương mại: là loại hình bảo hiểm kinh doanh, kết hợp giữa hoạt động kinh
doanh và quản lí các rủi ro. Hoạt động của bảo hiểm thương mại chịu chi phối bởi pháp luật, nhất
là luật kinh doanh bảo hiểm, các điều ước quốc tế và tập quán quốc tế. Phân loại BHTM thường

căn cứ vào 3 tiêu thức chủ yếu sau:
Theo hình thức tham gia: gồm bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm bắt buộc.
Theo kĩ thuật bảo hiểm: gồm bảo hiểm theo kĩ thuật phân chia cả bảo hiểm theo kĩ thuật
tổn tích.
Theo đối tượng được bảo hiểm: gồm bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự và
bảo hiểm con người.
1.4. Đặc trưng doanh nghiệp bảo hiểm
❖ Thứ nhất: doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tài chính, chủ
yếu thường xuyên và mang tính nghề nghiệp là kinh doanh bảo hiểm. Tính đặc thù của kinh
doanh bảo hiểm được thể hiện:
• Đây là dịch vụ tài chính đặc biệt, hoạt động kinh doanh trên những rủi ro. Sản phẩm của
bảo hiểm là vô hình, đảm bảo về mặt tài chính trước rủi ro cho người được bảo hiểm.
• Chu kỳ kinh doanh bảo hiểm là chu kỳ đảo ngược, tức là sản phẩm được bán ra trước khi
doanh thu được thực hiện, sau đó mới phát sinh chi phí.
❖ Thứ hai: doanh nghiệp bảo hiểm được tổ chức, thành lập và hoạt động theo các quy định
của luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật.
❖ Thứ ba: doanh nghiệp bảo hiểm chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Tài Chính.
Để quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàu hết các quốc gia trên thế giới đều giao cho một
cơ quan quản lý nhà nước nhất định. Đây là đặc điềm giúp phân biệt doanh nghiệp bảo hiểm với
doanh nghiệp khác trong nền kinh tế.
1.5. Yêu cầu cần thiết của công ty bảo hiểm
♦♦♦ về mặt kỹ thuật: Doanh nghiệp bảo hiểm phải tổ chức tốt việc thống kê, lựa chọn rủi ro, tính
phí bảo hiểm, giải quyết các khiếu nại khi có xảy ra sự kiện bảo hiểm
❖ về mặt pháp lý: Doanh nghiệp bảo hiểm phải được thành lập và vận động đúng theo quy
định của luật pháp địa phương hoặc quốc gia mà doanh nghiệp hoạt động kinh doanh.
❖ về mặt kỉnh doanh: Doanh nghiệp bảo hiểm phải được tổ chức thành một bộ máy hoàn
chỉnh để có thể vận hành, gồm các bộ phận chức năng như : quản lý, nghiệp vụ, kinh doanh, tài
chính, kế toán, hành chính nhân sự
♦♦♦ về mặt tài chính: Doanh nghiệp bảo hiểm tập trung huy động vốn từ số đông khách hàng
nên phải có sự đảm bảo về mặt tài chính (ký quỹ, quỹ dự phòng, vốn chủ sở hữu, hiệu quả đàu tư

) để hoạt động và tạo sự tin tưởng đối với khách hàng. Những yêu càu về tài chính phải được
giám sát chặt chẽ bởi các cơ quan quản lý nhà nước.
2. Nội dung, đặc điểm, nguyên tắc hoạt động của công ty bảo hiểm
2.1. Họp đồng và phí bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng có đảm bảo luật pháp trong đó người giữ hợp đồng hay
người được bảo hiểm đóng các khoản phí nhất định (phí bảo hiểm) để các công ty bảo hiểm chi
trả một khoản tiền bảo đảm cho các trường hợp rủi ro cụ thể trong tương lai. Công ty bảo hiểm
đồng ý chi trả cho những rủi ro của người được bảo hiểm. Quá trình chấp nhận bảo hiểm bao
gồm những đánh giá cẩn thận các điều kiện của người xin bảo hiểm.
Khi công ty chấp nhận hợp đồng bảo hiểm, thì hợp đồng bảo hiểm trở thành tài sản cho người
được bảo hiểm và là khoản nghĩa vụ đối với công ty bảo hiểm. Phí bảo hiểm có thể chi trả cho
công ty một lần hay nhiều lần.
2.2. Nội dung hoạt động
❖ Kỉnh doanh bảo hiểm, kỉnh doanh tái bảo hiểm
❖ Trong kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm được quyền chủ động bán bảo hiểm
dưới các hình thức sau: trực tiếp; thông qua các đại lý bảo hiểm, môi giới bảo hiểm; thông qua
đấu thầu; các hình thức khác phù hợp với quy định của pháp luật.
❖ Trong kinh doanh tái bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền nhượng chuyển một
phần trách nhiệm đã nhận bảo hiểm cho một hay nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác
nhưng không được nhượng toàn bộ trách nhiệm bảo hiểm đã nhận trong một hợp đồng bảo hiểm
cho doanh nghiệp bảo hiểm khác để hưởng hoa hồng tái bảo hiểm.
• Quản lý quỹ và đầu tư vốn
• Quản lý quỹ:
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp bảo hiểm phải luôn duy trì mức vón điều lệ đã
đóng góp không thấp hơn mức vốn pháp định đã quy định.
Trích lập quỹ dự phòng nghiệp vụ: là khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trích lập nhằm
mục đích thanh toán cho những trách nhiệm bảo hiểm đã được xác định trước và phát sinh từ các
hợp đồng bảo hiểm đã giao kết.
• Đầu tư vốn:
Nguồn vốn đàu tư của doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm : vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc, quỹ

dự trữ tự nguyện, các khoản lãi những năm trước chưa sử dụng và các quỹ được sử dụng để đàu
tư hình thành từ lợi tức để lại của doanh nghiệp, nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo
hiểm.
♦> Doanh nghiệp bảo hiểm được thực hiện các hoạt động khác như : đề phòng, hạn chế rủi
ro, tổn thất; giám định tổn thất; đại lý giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu càu
người thứ ba bồi hoàn và các hoạt động khác theo quy định của pháp
2.3. Đặc điểm
♦> Đổi tượng kinh doanh đa dạng
• Bảo hiểm tài sản: BH ô tô, xe máy, BH máy bay, BH tàu thủy, BH vận chuyển hàng hóa
nội địa và xuất nhập khẩu, BH đàu máy và toa xe, BH tài sản cá nhân và doanh nghiệp, BH tín
dụng.
• Bảo hiểm con người: BH nhân thọ, BH tai nạn lao động, BH tai nạn hành khách, BH tai
nạn học sinh, sinh viên
• Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: BH trách nhiệm dân sự lái xe cơ giới, BH trách nhiệm dân
sự chủ tàu, BH trách nhiệm dân sự chủ hãng hàng không
• Bảo hiểm là ngành kinh doanh có nguồn vốn lớn
Hiện các công ty bảo hiểm đang quản lý một lượng lớn nguồn vốn. Nguồn vốn này các
Công ty bảo hiểm có nhu càu đàu tư dài hạn, đàu tư vào các dự án có mức độ mạo hiểm nhằm
thu lợi nhuận.
❖ Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải có dự phòng bảo hiểm
Doanh nghiệp phải luôn duy trì khả năng thanh toán trong suốt qua trinh hoạt động kinh


doanh bảo hiểm. Khi có nguy cơ mất khả năng thanh toán, doanh nghiệp phải chủ động thực
hiện ngay các biện pháp tự khôi phục khả năng thanh toán, đồng thời báo cáo Bộ Tài chính về
thực trạng tài chính, nguyên nhân dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán và phương án khôi
phục. Neu không khôi phục được khả năng thanh toán, doanh nghiệp sẽ bị đặt vào tình trạng
kiểm soát đặc biệt.
❖ Hoạt động kinh doanh bảo hiểm vừa họp tác vừa cạnh tranh
Doanh nghiệp bảo hiểm làm quen với hội nhập hợp tác quốc tế và tạo ra sự cạnh tranh để

doanh nghiệp bảo hiểm tự nâng cao năng lực canh tranh của mình nhằm đem lại lợi ích tốt hơn
cho người tham gia bảo hiểm.
Trong quá trình phát triển thì các doanh nghiệp bảo hiểm càn phải hợp tác để đưa đến thống nhất
và đòi hỏi cạnh tranh lành mạnh.
♦> Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải tuân theo các quy định của pháp luật và các điều
ước quốc tế có liên quan
Đe các DN bảo hiểm hoạt động có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường cần thiết phải
điều chỉnh bằng pháp luật và các điều ước quốc tế có liên quan đến hoạt động bảo hiểm.
2.4. Nguyên tắc hoạt động
♦> Nguyên tắc chỉ bảo hiểm sự rủi ro, không bảo hiểm sự chắc chắn: chỉ bảo hiểm một sự rủi
ro xảy ra bất ngờ, ngẫu nhiên ngoài ý muốn con người chứ không bảo hiểm một cái chắc chắn
xảy ra.
❖ Nguyên tắc trung thực tuyệt đối: Tất cả các giao dịch kinh doanh càn được thực hiện trên
cơ sở tin cậy lẫn nhau, trung thực tuyệt đối.
❖ Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm: Quyền lợi có thể được bảo hiểm là lợi ích
hoặc quyền lợi liên quan, gắn liền hay phụ thuộc vào sự an toàn hay không an toàn của đối tượng
bảo hiểm.
❖ Nguyên tắc bồi thường: Theo nguyên tắc bồi thường, khi có tổn thất xảy ra, người bảo
hiểm phải bồi thường như thế nào đó để đảm bảo cho người được bảo hiểm có vi trí tài chính
như trước khi có tổn thất xảy ra, không hơn không kém.
♦♦♦ Nguyên tắc thế quyền: Theo nguyên tắc thế quyền, người bảo hiểm sau khi bồi thường cho
người được bảo hiểm, có quyền thay mặt người được bảo hiểm để đòi người thứ 3 trách nhiệm
bồi thường cho mình.
❖ Nguyên tắc lấy số đông bù số ít: Dựa trên cơ sở nghiên cứu về quy luật số lớn, người ta
có thể xác định được mức độ thiệt hại bình quân cho những khoảng thời gian nhất định, số người
tham gia bảo hiểm càng đông thì khả năng bù đắp rủi ro càng lớn, độ an toàn càng cao và ngược
lại.
3. Thực trạng công ty bảo hiểm tại Việt Nam
• • D o %/ m m
Thị trường bảo hiểm ở nước ta trong những năm gàn đây rất sôi động và đa dạng. Một số

công ty bảo hiểm điển hình tại Việt Nam hiện nay như: Tập đoàn tài chính bảo hiểm Bảo Việt,
Tổng công ty cổ phàn Bảo Minh, Công ty bảo hiểm AIA, Công ty TNHH bảo hiểm Prudential
Việt Nam, Công ty cổ phàn bảo hiểm Petrolimex
Số lượng công ty hoạt động kinh doanh bảo hiểm ngày càng tăng; các loại hình sở hữu đa dạng ở
cả bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ, thuộc cả ba lĩnh vực bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản
và bảo hiểm trách nhiệm dân sự; tính cạnh tranh của các công ty đã và đang từng bước thoả mãn
tốt hơn nhu càu của các khách hàng.
Trên thị trường bảo hiểm đã xuất hiện nhiều sản phẩm mới và khá độc đáo trcn cơ sở kết hợp
giữa các yếu tố tiết kiệm - đàu tư bảo vệ, được công luận đánh giá cao như sản phẩm bảo hiểm
tai nạn cá nhân cho người sử dụng thẻ ATM, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm của người chăn
nuôi và sản xuất thức ăn gia cầm, bảo hiểm bênh hiểm nghèo Tốc độ tăng doanh thu phí của
bảo hiểm Việt Nam ở mức khá cao so với thế giới và khu vực. Một số công ty bảo hiểm tuy mới
đi vào hoạt động nhưng cũng đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao như Bảo Minh, Prudential,
PJICO vốn đàu tư cho hoạt động kinh doanh
bảo hiểm tăng lên. Theo đánh giá của HHBHVN, hiện nay doanh thu phí bảo hiểm của thị
trường mới đạt mức trên 2% GDP trong khi các nước phát triển trong khu vực thường đạt mức 8-
10% GDP (bình quân thế giới khoảng 8%) do đó, tiềm năng phát triển của các DN bảo hiểm vẫn
còn rất lớn.
Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã có đủ khả năng phục vụ các ngành kinh tế, các tàng lớp
nhân dân với việc tham gia vào nhiều hợp đồng có mức trách nhiệm lớn tới hàng tỷ USD như
bảo hiểm trong các lĩnh vực hàng không; dầu khí; Nhà máy xi măng Chiníòn, Nhà máy điện Phú
Mỹ, các toà nhà, khách sạn lớn cùng với hàng nghìn nhà xưởng, văn phòng Hoạt động đàu tư
của các công ty đang tạo ra một nguồn vốn lớn cho xã hội
Các công ty bảo hiểm Việt Nam đang tích cực hợp tác, giúp đỡ nhau cùng có lợi. Các công ty
bảo hiểm đã có được bản đồng thoả thuận về khai thác bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt. Đặc
biệt, sự ra đời của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đại diện cho các doanh nghiệp cũng thể hiện
những bước tiến tích cực của bảo hiểm Việt Nam.
Tuy nhiên, cũng càn phải nhận thấy rằng, thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn chưa thực sự đáp
ứng được yêu càu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Năng lực hoạt động của các doanh
nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm còn khá nhiều hạn chế. Việc cạnh tranh không lành manh

giữa các DN bảo hiểm đang ở tình trạng báo động. Do cạnh tranh gay gắt, các DN bảo hiểm đã
hạ phí bảo hiểm, tăng phần trợ cấp cho các đại lý, làm giảm hiệu quả kinh doanh. Công tác giải
quyết bồi thường chưa được thực hiện tốt, chưa đảm bảo tối đa quyền lợi của khách hàng khi gặp
thiệt hại. Các sản phẩm bảo hiểm tuy đã đa dạng hơn trước, nhưng vẫn còn hạn chế, chưa phát
triển trong nhiều lĩnh vực quan trọng như thiên tai, nông nghiệp, tín dụng và rủi ro tài chính, hoạt
động hành nghề y dược, luật sư, dịch vụ kế toán, kiểm toán Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc
biệt chưa thực sự được đẩy manh trong khi hàng năm, ở nước ta, tai nạn do cháy nổ vẫn gia tăng
với tốc độ cao một cách đáng báo động. Bên cạnh yếu tố chủ quan từ các công ty, có thể thấy sự
thiếu hoàn thiện của hệ thống vãn bản pháp luật và công tác quản lý Nhà nước cũng đang ảnh
hưởng không nhỏ tới sự phát triển lành manh của ngành bảo hiểm.
Việc mở cửa thị trường sẽ vừa tạo ra cơ hội và thách thức đối với sự phát triển của ngành
bảo hiểm Việt Nam nói chung và bản thân các công ty bảo hiểm trong nước nói riêng. Bắt đàu từ
ngày 1/1/2008, theo cam kết WTO, thị trường bảo hiểm của Việt Nam sẽ thực sự mở cửa hoàn
toàn, với việc cho phép công ty bảo hiểm có vốn đàu tư nước ngoài được cung cấp dịch vụ bảo
hiểm bắt buộc. Lúc đó, các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước sẽ phải chịu áp lực cạnh tranh lớn
hơn, khi sự tham gia của các nhà đàu tư nước ngoài vào thị trường bảo hiểm Việt Nam nhiều
hơn, sâu hơn và rộng hơn.
1. Nguyễn Văn Luân - Cung Tràn Việt - Tràn Viết Hoàng (2008), “ Các nguyên lí tiền tệ ngân hàng
và thị trường tài chính”, nhà xuất bản Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh, tr.227-230, tr.241-244
2. Nguyễn Văn Định, “Giáo trình bảo hiểm”, nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân, tr.7- 10,46-
47, 94, 117-118, 138-140.
3. PGS.TS Nguyễn Văn Tiến, “Giáo trình kinh tế, tiền tệ ngân hàng”
4. www.webbaohiem.com

5. www.tailieu.vn

6.

7.
hanh/20179056/90/


8.

9. thue-
tai-chinh.html

TAI LIỆU THAM KHAO
10.http://thegioiketoanxorn/ke-toan-tai-san-co-dinh/4713-uu-diern-cua-thue-tai-chinh-4.htrnl

×