Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Phát triển kinh tế huyện bình xuyên, tỉnh vĩnh phúc đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 110 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH



TRẦN BÁ KIÊN



PHÁT TRIỂN KINH TẾ HUYỆN BÌNH XUYÊN,
TỈNH VĨNH PHÚC ĐẾN NĂM 2020

Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60.34.04.10


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Phí Vĩnh Tƣờng




THÁI NGUYÊN - 2014

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều đã
được chỉ rõ nguồn gốc.

Vĩnh Phúc, ngày 03 tháng 8 năm 2014
Tác giả luận văn


Trần Bá Kiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, tôi đã dược sự giúp đỡ của các tập thể và cá
nhân. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến sự giúp đỡ quý báu đó.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng đào tạo của
trường Đại học Kinh tế và quản trị kinh doanh, Khoa sau Đại học Đại học
Thái Nguyên.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến sự giúp đỡ của các thầy cô giáo
trong quá trình giảng dạy, đã trang bị cho tôi những kiến thức khoa học. Đặc
biệt là TS. Phí Vĩnh Tƣờng - người trực tiếp hướng dẫn giúp đỡ tôi trong
suốt thời gian nghiên cứu và học tập.
Tôi xin chân thành cám ơn các ban ngành nơi tôi công tác và nghiên
cứu luận văn, cùng toàn thể các đồng nghiệp học viên lớp cao học quản lý
kinh tế khóa 9, gia đình bạn bè đã tạo điều kiện, cung cấp tài liệu cho tôi hoàn
thành chương trình học của mình và góp phần thực hiện tốt hơn cho công tác
thực tế sau này.

Tôi xin chân thành cảm ơn ! .

Vĩnh Phúc, ngày 03 tháng 8 năm 2014
Tác giả luận văn


Trần Bá Kiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC BẢNG vii
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
4. Phương pháp nghiên cứu 4
5. Đóng góp của luận văn 4
6. ủa luận văn 5
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TĂNG
TRƢỞNG KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN 6
1.1. Lý luận về tăng trưởng kinh tế và phát triển 6
1.1.1. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế 6
1.1.2. Đo lường tăng trưởng kinh tế 7
1.1.3. Khái niệm phát triển 10

1.1.4. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế 12
1.1.5. Đo lường phát triển 12
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế 14
1.2.1. Các hình thái tăng trưởng kinh tế 14
1.2.2. Vai trò của các yếu tố sản xuất đối với tăng trưởng kinh tế 15
1.3. Nhà nước với mục tiêu tăng trưởng kinh tế và phát triển 19
1.4. Vai trò của một số chủ thể trong phát triển kinh tế cấp huyện 21
1.4.1. Vai trò lãnh đạo của Đảng 21

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

iv
1.4.2. Chính quyền địa phương với phát triến kinh tế 22
Chƣơng 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨ
24
2.1. C âu hỏi nghiên cứu 24
2.2. Phương pháp nghiên cứu 24
2.2.1. Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp 25
2.2.2. Phương pháp thống kê 25
2.2.3. Ma trận SWOT 29
2.3. Các tiêu chí phân tích 30
Chƣơng 3. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
2005-2013 31
3.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên của huyện Bình Xuyên 31
3.1.1. Vị trí địa lý 31
3.1.2. Địa hình 31
3.1.3. Khí hậu, thủy văn 32
3.1.4. Tài nguyên đất 32
3.1.5. Tài nguyên nước 34
3.1.6. Tài nguyên rừng 35

3.1.7. Tài nguyên khoáng sản 35
3.1.8. Tài nguyên du lịch và nhân văn 35
3.2. Dân số và nguồn lao động 36
3.2.1. Dân số 36
3.2.2. Lao động 37
3.3. Thực trạng phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên 38
3.3.1. Tổng quan về phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên 38
3.3.2. Thực trạng phát triển của các ngành kinh tế 45
3.4. Đánh giá chung 63
3.4.1. Những kết quả đã đạt được 63

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

v
3.4.2. Những mặt hạn chế 65
3.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế 67
Chƣơng 4. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂ
2020 68
4.1. Bối cảnh và dự báo 68
4.1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực đến năm 2020 68
4.1.2. Tầm nhìn phát triển kinh tế Vĩnh Phúc đến năm 2020 70
4.2. Quan điểm, Mục tiêu và định hướng phát triển của huyện Bình Xuyên 73
4.2.1. Quan điểm 73
4.2.2. Mục tiêu 74
4.3. Các giải pháp phát triển kinh tế huyện 75
4.3.1. Định hướng giải pháp 75
4.3.2. Mô hình ma trận SWOT của huyện Bình Xuyên 75
4.3.3. Giải pháp cụ thể 77
4.4. Một số kiến nghị 97
4.4.1. Đối với cấp Trung ương và cấp tỉnh 97

4.4.2. Đối với huyện và các cấp cơ sở địa phương 97
KẾT LUẬN 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO 101


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

vi
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

CNH-HĐH : Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
(GDP) :Tổng sản phẩm quốc nội
(GNI) : Tổng thu nhập quốc dân
(GNP) :Tổng sản phẩm quốc dân
GTSX : Giá trị sản xuất
(GO) : Giá trị tổng sản lượng
(HDI) : Các chỉ số phát triển con người
HĐND : Hội đồng nhân dân
KHKT : Khoa học kỹ thuật
KTTĐ : Kinh tế trọng điểm
KTXH : Kinh tế xã hội
(MDGs) : Các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
NGTK : Niên giám thống kê
(NEW) : Phúc lợi kinh tế ròng
ODA : Viện trợ phát triển chính thức
SWOT : (Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, )
TCTK : Tổng cục thống kê
(TFP) : Năng suất nhân tố tổng hợp
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn

UBND : ủy ban nhân dân
(UNDP) : Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc
WHO : Tổ chức y tế thế giới
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
XHCN : Xã hội chủ nghĩa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

vii
DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1. Diện tích và cơ cấu sử dụng đất huyện Bình Xuyên, năm 2013 33
Bảng 3.2. Dân số huyện Bình Xuyên giai đoạn 2005 - 2013 36
Bảng 3.3. Lao động làm việc trong các ngành kinh tế giai đ 2005-2013 . 37
Bảng 3.4. Một số chỉ tiêu phát triển KT-XH giai đoạn 2005-2013 43
Bảng 3.5. Kết quả phát triển ngành nông nghiệp giai đoạn 2005-2013 46
Bảng 3.6. So sánh năng suất và sản lượng một số loại cây trồng của Bình
Xuyên với các huyện khác trong tỉnh năm 2013 50
Bảng 3.7. Kết quả phát triển ngành công nghiệp-xây dựng 2005-2013 55
Bảng 4.1. Dự báo các chỉ tiêu phát triển kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc 2015-2020 . 72
Bảng 4.2. Ma trận SWOT của huyện Bình Xuyên 76


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập ngày 01 tháng 9 năm
1998. Sau khi tách ra từ huyện Tam Đảo, huyện Bình Xuyên có 14 đơn vị

hành chính cấp xã và thị trấn. Quá trình phát triển từ lúc tái lập đến năm 2001,
dựa trên định hướng phát triển theo quy hoạch của huyện Tam Đảo (cũ), cơ
cấu kinh tế huyện Bình Xuyên vẫn mang tính chất thuần nông, với đặc điểm
tăng trưởng kinh tế thấp, kết cấu hạ tầng lạc hậu, ảnh hưởng đến cơ hội phát
triển kinh tế và do đó đến phục lợi của người dân trong huyện.
Là một huyện thuộc tỉnh Vĩnh Phúc, một trong những địa phương phát
triển năng động, huyện Bình Xuyên có những lợi thế để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và phát triển, đóng góp vào quá trình tăng trưởng nhanh của tỉnh Vĩnh
Phúc. Huyện Bình Xuyên có vị trí địa lý kinh tế thuận lợi, nằm gần tam giác
phát triển của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà Nội - Bắc Ninh - Hải
Phòng) và gần sân bay Quốc tế Nội Bài. Huyện Bình Xuyên còn nằm trên trục
đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai, trục quốc lộ số 2, tuyến đường sắt Hà Nội -
Lào Cai, là những huyết mạch giao thông kết nối vùng kinh tế trọng điểm
phía Bắc với thị trường tiêu thụ hàng hóa to lớn của Trung Quốc.
Trong bối cảnh tỉnh Vĩnh Phúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, những cải cách chính sách của tỉnh đã tạo ra môi trường kinh
doanh hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đứng trước
các cơ hội phát triển to lớn, do cải cách thể chế của Tỉnh mang lại cũng như
do những lợi thế địa lý, kinh tế của Huyện, chính quyền huyện Bình Xuyên đã
nhận thức được sự cần thiết phải chuẩn bị, nâng cao năng lực để nắm bắt
được các cơ hội phát triển.
Đảng bộ, chính quyền huyện Bình Xuyên đã thông qua định hướng
phát triển với mục tiêu đến năm 2020 trở thành một huyện có tốc độ tăng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

2
trưởng kinh tế cao của tỉnh Vĩnh Phúc. Đây là thách thức phát triển đối với
huyện Bình Xuyên, với xuất phát điểm còn thấp. Trong bối cảnh đó, bên cạnh
những thuận lợi về môi trường đầu tư do tỉnh Vĩnh Phúc tạo ra, huyện Bình

Xuyên cũng đang phải đối mặt với thách thức cải thiện môi trường chính sách,
góp phần không những thu hút đầu tư vì mục tiêu tăng trưởng mà còn tạo điều
kiện để những người dân trong huyện có đủ năng lực để hưởng thụ các cơ hội
đầu tư do Tỉnh và Huyện mang lại.
Để đạt được mục tiêu nói trên, huyện Bình Xuyên cần chủ động ban
hành những chính sách nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển.
Những chính sách đó cần có những luận chứng khoa học, đánh giá đúng tiềm
năng, thế mạnh của Huyện cũng như những hạn chế và nguyên nhân của
những hạn chế này. Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về tình hình phát triển của
tỉnh Vĩnh Phúc, nhưng những vấn đề riêng có của huyện Bình Xuyên chưa
được quan tâm nghiên cứu. Chưa có nhiều nghiên cứu đề xuất chính sách cho
huyện Bình Xuyên, đặc biệt nghiên cứu những vấn đề phát triển trong giai
đoạn vừa qua với những hàm ý chính sách để đạt được mục tiêu đến năm
2020 trở thành huyện tăng trưởng kinh tế cao và có năng lực duy trì được tốc
độ tăng trưởng cao.
Là một người trực tiếp ở huyện Bình Xuyên, tôi có những
điều kiện thuận lợi trong việc nh chính sách phát triển của
Huyện. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên,
tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020” làm luận văn tốt nghiệp. Đề tài này sẽ góp
phần luận giải những vấn đề phát triển của huyện Bình Xuyên hiện nay và
những yêu cầu chính sách cần có để đạt được mục tiêu phát triển đã được đề
ra trên cơ sở khai thác tốt các thế mạnh, tiềm năng vốn có của Huyện.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
Trên cơ sở hệ thống lý luận tăng trưởng kinh tế, đánh giá đúng thực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

3
trạng phát triển của Huyện, luận giải những vấn đề phát triển để đề xuất

những chính sách góp phần giúp huyện Bình Xuyên đạt được mục tiêu tăng
trưởng kinh tế nhanh và có năng lực duy trì mục tiêu này.
2.2.
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về tăng trưởng kinh tế và phát triển ở
cấp huyện. Xác định đúng vai trò, vị thế của chính quyền cấp huyện đối với
quá trình hoạch định chính sách phát triển trong tình hình mới.
- Phân tích đánh giá thực trạng phát triển của huyện Bình Xuyên từ
2005 đến nay, trên cơ sở đó chỉ ra những điểm mạnh điểm yếu và những
chính sách cần có để khắc phục các điểm yếu này cũng như khai thác các thế
mạnh của địa phương.
- Đề xuất các giải pháp chính sách, trên cơ sở đánh giá đúng cơ hội và
thách thức phát triển đối với Huyện, hướng tới các giải pháp chính sách góp
phần chuyển dịch cơ cấu từ một huyện thuần nông sang huyện công nghiệp.
Những giải pháp chính sách này sẽ là một trong những căn cứ cho việc đề
xuất giải pháp chính sách của các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm và
hàng năm của địa phương trong giai đoạn 2016-2020
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Kết quả tăng trưởng kinh tế của huyện Bình Xuyên và các yếu tố khách
quan và chủ quan ảnh hưởng đến kết quả tăng trưởng kinh tế của huyện.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Phạm vi không gian
Đề tài sẽ tập trung đánh giá kết quả tăng trưởng kinh tế và phát triển
trong phạm vi địa giới hành chính của huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc
3.2.2. Phạm vi về thời gian
Đề tài tập trung đánh giá thực trạng tăng trưởng kinh tế và phát triển
huyện Bình Xuyên trong giai đoạn 2005-2013 và đưa ra những định hướng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


4
chính sách từ nay đến 2015 cũng như cho giai đoạn 2016-2020.
3.2.3. Phạm vi ngành, lĩnh vực: Đề tài đánh giá tổng quan vấn đề ở cấp ngành
vốn có trong cơ cấu kinh tế huyện Bình Xuyên.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của kinh tế học phát triển, cũng như
dựa trên các định hướng phát triển của Đảng, Chính phủ và của chính quyền
tỉnh Vĩnh Phúc. Những định hướng phát triển đó được thể hiện trong các văn
bản như các chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Vĩnh Phúc, của
Huyện ủy- UBND huyện Bình Xuyên.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sẽ sử dụng phương pháp phân tích định tính làm cơ sở.
Những phân tích định tính được hỗ trợ bởi các phương pháp phân tích
thống kê phù hợp. Bên cạnh đó, đề tài sẽ sử dụng phương pháp SWOT để
đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu cũng như những cơ hội và thách
thức phát triển của địa phương.
Các số liệu để phục vụ cho phương pháp phân tích định tính sẽ là các
số liệu sơ cấp và thứ cấp, được lấy từ cơ quan thống kê của Huyện, cũng như
từ các báo cáo phát triển kinh tế xã hội, các qui hoạch phát triển kinh tế xã hội
của Huyện và của Tỉnh.
5. Đóng góp của luận văn
* Những đóng góp về mặt lý luận
Hệ thống hóa những lý luận về tăng trưởng kinh tế và phát triển đối với
một địa phương cấp huyện,
Luận giải vai trò, vị trí của chính quyền cấp huyện đối với nhiệm vụ
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển, đặt trong mục tiêu chung của Tỉnh.
* Những đóng góp về mặt thực tiễn
Trên cơ sở tổng hợp phân tích, đánh giá kết quả phát triển của huyện


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

5
trong giai đoạn 2005 đến nay, làm rõ những vấn đề phát triển trong mối quan
hệ với việc điều hành chính sách của các cấp Huyện và Tỉnh. Điều này rất cần
thiết cho cấp uỷ, chính quyền Huyện trong việc hoạch định mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội trong những năm tới.
Góp phần cung cấp những luận cứ cho việc xây dựng các giải pháp
chính sách phát triển trong giai đoạn đến năm 2015 và quy hoạch phát triển
kinh tế xã hội của huyện Bình Xuyên giai đoạn 2016-2020.
Góp phần gợi ý các giải pháp thực hiện để đạt được mục tiêu phát triển
của huyện trong thời kỳ CNH - HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
Là tài liệu tham khảo giúp cấp ủy, chính quyền huyện Bình Xuyên nắm
được tình hình chung về phát triển của Huyện trong thời gian qua, để có
những định hướng phát triển phù hợp cho những năm tiếp theo.
6. của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 04 chương.
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về tăng trưởng kinh tế và
phát triển;
Chƣơng 2:
- ;
Chƣơng 3: Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội huyện Bình Xuyên
năm 2005-2013;
Chƣơng 4: Định hướng và giải pháp phát triển
- 2020.







Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

6

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN
1.1. Lý luận về tăng trƣởng kinh tế và phát triển
1.1.1. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế
Hiện nay mọi quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế
và phát triển. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần của sự phát triển. Muốn
phát triển, trước hết phải tạo được thêm của cải, vật chất, tức là phải cải
thiện được năng lực sản xuất của nền kinh tế. Đây là lý do tại sao các nền
kinh tế kém phát triển, đang phát triển lại đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế
là mục tiêu ưu tiên hàng đầu.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập/sản phẩm bình quân
đầu người hoặc thu nhập/sản phẩm quốc dân. Khi sản phẩm hoặc thu nhập
quốc dân của một nền kinh tế tăng lên cùng với quá trình sản xuất hàng hóa
và dịch vụ, nền kinh tế đó đạt được sự tăng trưởng.
Tăng trưởng kinh tế là phạm trù kinh tế diễn tả động thái biến đổi về
mặt số lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ của nền kinh tế. Nền kinh tế có tốc
độ tăng trưởng cao, liên tục sẽ có điều kiện nâng cao thu nhập, nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân, có tích luỹ để tái đầu tư, mở rộng sản xuất, thu
hút lao động, có khả năng đầu tư cho giáo dục, y tế để nâng cao chất lượng
lao động, có điều kiện để phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật và có điều kiện
thực hiện chính sách xã hội. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chưa đề cập đến
mối quan hệ của sự gia tăng khối lượng của cải với các vấn đề xã hội phát
sinh từ quá trình gia tăng của cải đó.

Như vậy, bản chất của tăng trưởng phản ánh sự thay đổi về lượng của
nền kinh tế. Ngày nay, yêu cầu tăng trưởng kinh tế được gắn liền với tính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

7
bền vững hay nói cách khác, người ta quan tâm đến cả chất và lượng của
kết quả tăng trưởng kinh tế. Từ quan điểm này, bên cạnh yếu tố tốc độ mở
rộng qui mô của cải vật chất xã hội, người ta nhấn mạnh hơn đến năng lực
duy trì tốc độ đó.
Tăng trưởng kinh tế hiện đại là thuật ngữ được nhà kinh tế học đoạt
giải Nobel, Simon Kuznets, sử dụng để phân biệt giai đoạn hiện tại với các
giai đoạn trước đây như chủ nghĩa tư bản trọng thương hoặc giai đoạn phong
kiến. Giai đoạn tăng trưởng kinh tế hiện đại vẫn đang trong quá trình định
hình và do đó tất cả các đặc điểm của nó còn chưa được thể hiện rõ nét. Tuy
nhiên các nhân tố chủ chốt bao gồm việc ứng dụng khoa học vào giải quyết
các vấn đề của sản xuất kinh tế, dẫn đến quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa
và cả bùng nổ dân số.
1.1.2. Đo lường tăng trưởng kinh tế
Vấn đề tăng trưởng kinh tế và phát triển, trước hết liên quan đến vấn đề
đo lường thu nhập của người dân. Có hai thước đo cơ bản được sử dụng phổ
biến ở cấp độ nền kinh tế là Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và Tổng sản
phẩm quốc nội (GDP). Tổng sản phẩm quốc nội là tổng giá trị hàng hóa và
dịch vụ cuối cùng được một xã hội tạo ra trong thời gian một năm. GNP loại
trừ hàng hóa trung gian, hàng hóa được sử dụng để sản xuất ra hàng hóa, ví
dụ như thép để xây dựng, hay ví dụ như rau quả để làm nguyên liệu cho nhà
máy đóng hộp. Ngân Hàng Thế Giới và nhiều tổ chức đa phương khác sử
dụng một khái niệm tương tự là Tổng thu nhập quốc dân (GNI).
Tổng sản phẩm quốc nội, là tất cả các sản lượng được tạo ra trong lãnh
thổ của một quốc gia, không phân biệt sản lượng đó được tạo ra bởi người

trong nước hay người ngoại quốc. Tuy nhiên nó không bao gồm giá trị sản
lượng được tạo ra bởi người trong nước nhưng đang hoạt động ở nước ngoài.
Các giá trị GNP và GDP đó chia cho dân số của một quốc gia sẽ được thước
đo bình quân đầu người.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

8
Một trong những hạn chế của hai thước đo trên là việc đo lường phải
dựa trên việc tính toán thông qua thước đo giá trị. Việc tập trung vào các hàng
hóa, dịch vụ được trao đổi trên thị trường trước hết gây ra vấn đề bỏ sót, bởi
có rất nhiều các hoạt động có giá trị đối với xã hội đã bị loại ra khỏi quá trình
tính toán trong tổng sản phẩm quốc nội. Nguyên nhân căn bản là các thước đo
này là sản phẩm của một nền kinh tế thị trường đã phát triển, nơi có sự phân
công lao động xã hội theo hướng chuyên môn hóa cao, nơi các chi phí cơ hội
đều được nhận thức đầy đủ và minh bạch.
Khi công việc nội trợ, trông giữ trẻ được thực hiện thông qua việc sử
dụng các dịch vụ của xã hội, như dịch vụ người giúp việc được Việt Nam sử
dụng với thuật ngữ Ô-sin, các chi phí cho dịch vụ đó sẽ được tính trong GDP
vì những dịch vụ đó đã được “giao dịch trên thị trường”. Tuy nhiên, khi các
dịch vụ tương tự như thế được một hay một số thành viên trong gia đình thực
hiện, nó sẽ không được trả phí dịch vụ dưới dạng tiền lương và do đó không
được tính trong cấp phần của GDP.
Đối với các nền kinh tế kém phát triển và đang phát triển, con người có
xu hướng tận dụng sức lao động của các thành viên trong gia đình hơn là thuê
các dịch vụ xã hội. Có rất nhiều nguyên nhân giải thích cho xu hướng này.
Thứ nhất, do cơ cấu nền kinh tế vẫn còn nặng tính chất của nền kinh tế nông
nghiệp, nơi thiếu sự phân công lao động xã hội, những người lao động vẫn có
xu hướng sản xuất theo kiểu tự cung tự cấp. Thứ hai, do năng suất thấp dẫn
tới thu nhập thấp và ngân sách có khả năng thanh toán cho việc sử dụng một số

dịch vụ của xã hội trở nên đắt đỏ tương đối và vì thế người lao động buộc phải
tự làm một số dịch vụ.
Như vậy, với những nền kinh tế còn nặng tính nông nghiệp, và do đó,
với các vùng kinh tế còn mang tính thuần nông như Huyện Bình Xuyên,
thước đo GDP có những hạn chế nhất định. Nó không thể nói chính xác sự
thay đổi trong đóng góp của sản xuất nông nghiệp trong GDP mà chỉ tính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

9
được sự thay đổi trong đóng góp của sản lượng nông nghiệp được giao dịch
trên thị trường vào GDP mà thôi.
Vì cách định nghĩa chặt trẽ của GDP sẽ hạn chế tính hữu ích của việc
so sánh kết quả giữa các quốc gia, các địa phương có nông nghiệp đóng vai
trò chủ đạo. Một thông lệ chung là các nhà thống kê sẽ tính cả sản lượng nông
sản được người sản xuất tự tiêu dùng, ước tính tại mức giá cả thị trường vào
trong giá trị của GDP. Dù vậy, đây cũng không phải là giải pháp triệt để. Khi
nền kinh tế tăng trưởng và do đó có thêm nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn được
trao đổi trên thị trường, thì kết quả ước lượng giá trị của GDP có thể khuyếch
đại sự tăng trưởng trong hoạt động kinh tế, chỉ đơn giản bởi đó là sự chuyển
đổi sản xuất từ khu vực hộ gia đình sang khu vực thị trường.
Bên cạnh đó, GDP là thước đo những hàng hóa và dịch vụ “tốt” được
tạo ra trong nền kinh tế. Những điều “xấu” do những hàng hóa và dịch vụ tạo
ra đến nay mới bắt đầu được cân nhắc và đưa vào trong việc tính toán giá trị
GDP. Ví dụ nhà máy sản xuất giấy và gây ô nhiễm nguồn nước. Giá trị của
giấy, tính theo giá trị thị trường được tính vào GDP. Tuy nhiên, giá trị của sự
ô nhiễm, được tính bằng tổng chi phí xã hội phải bỏ ra để xử lý nguồn nước
thải bị ô nhiễm do nhà máy giấy tạo ra lại không được tính toán (khấu trừ)
vào trong giá trị của GDP. Mặc dù có thể tính toán được giá trị này, nhưng
với những quốc gia và những địa phương còn nặng chủ nghĩa thành tích,

người ta dễ dàng bỏ qua việc khấu trừ giá trị do ô nhiễm và những tổn hại xã
hội khác do quá trình sản xuất hàng hóa và dịch vụ tạo ra.
Bên cạnh đó, nền kinh tế luôn tồn tại hai khu vực. Đó là khu vực kinh
tế chính thức và khu vực kinh tế ngầm. Những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ
được tạo ra bởi khu vực kinh tế ngầm, ở nhiều quốc gia đã phát triển như Mỹ,
hay một số nước tư bản khác, có thể tương đương hoặc lớn hơn giá trị của nền
kinh tế chính thức. Các hàng hóa và dịch vụ đó cũng được giao dịch trên thị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

10
trường nhưng không thể và không được tính toán vào trong giá trị của GDP
của nền kinh tế đó.
Trong nền kinh tế hiện đại, phúc lợi kinh tế ròng (NEW) đã cố gắng
khấu trừ chi phí của sự ô nhiễm, phạm pháp, tắc nghẽn giao thông và những
“điều xấu khác”, được các nhà kinh tế đưa ra như là một đơn vị đo lường thu
nhập quốc dân tốt hơn. Tuy nhiên, nó không được chấp nhận sử dụng rộng rãi.
Mặc dù còn những điểm khiếm khuyết, đối với nền kinh tế quốc dân, GDP
vẫn được sử dụng rộng rãi.
Đối với nền kinh tế của một địa phương, giá trị GDP có những hạn chế
nhất định trong việc ước tính, cả về giá trị tuyệt đối và cả về tốc độ tăng
trưởng. Những vấn đề trong tính toán giá trị tuyệt đối đã được trình bầy ở trên.
Và để khắc phục, một số nhà thống kê đã đề nghị thay thế việc tính kết quả
tăng trưởng kinh tế dựa trên GDP của địa phương bằng việc tính toán dựa trên
giá trị tổng sản lượng (GO). Tuy nhiên, bản thân giá trị tổng sản lượng cũng
vẫn còn nhiều hạn chế mà đề tài sẽ không bàn đến do vượt qua phạm vi đối
tượng nghiên cứu. Bên cạnh đó, với địa phương có qui mô kinh tế nhỏ, một
sự thay đổi nhỏ về giá trị có thể dẫn tới những thay đổi lớn về kết quả tăng
trưởng. Chính vì vậy trong luận văn này sẽ luôn phân tích dựa trên sự kết hợp
của cả giá trị tuyệt đối và tốc độ tăng trưởng.

1.1.3. Khái niệm phát triển
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần nhưng không đủ để cải thiện được
mức sống của phần lớn dân số trong những nền kinh tế đang phát triển hoặc
trong các địa phương có nền kinh tế đang phát triển. Nó cần thiết, vì không có
tăng trưởng kinh tế thì giá trị tài sản không được tạo mới và tăng trưởng giá
trị tài sản chỉ có thể có được nhờ sự chuyển giao tài sản từ cá nhân này sang
cá nhân khác.
Tăng trưởng kinh tế không phải là điều kiện đủ của phát triển. Tăng
trưởng kinh tế không đảm bảo chắc chắn người dân có thu nhập cao hơn, đặc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

11
biệt là đại bộ phận người dân lao động. Cơ bản nguyên nhân như (1) thành quả
tăng trưởng được tái sử dụng vào những dịch vụ, sản phẩm có chi phí tốn kém
nhưng ít có tính thiết thực với đa số nhân dân lao động; (2) tăng trưởng đạt
được với các khoản đầu tư để đảm bảo cho tăng trưởng trong tương lai; (3) tăng
trưởng vì người giàu, theo cách bất bình đẳng tiếp tục doãng ra lớn hơn.
Phát triển có nội hàm rộng hơn. Bên cạnh tăng trưởng kinh tế, phát
triển còn đề cập đến những cải thiện trong vấn đề giáo dục, y tế và chăm sóc
sức khỏe và những vấn đề liên quan đến phúc lợi của người dân. Một vài
n n kinh tế trên thế giới đã trải qua những giai đoạn ở đó thu nhập quốc dân
tăng nhưng không có những cải thiện về phúc lợi của người dân, đặc biệt là
tuổi thọ, sức khỏe và vì thế không đạt được. Theo A. Sen, phát triển kinh tế đòi
hỏi phải thủ tiêu các nguyên nhân dẫn tới “tình trạng túng quẫn về năng lực” để
bảo vệ con người, để họ được tự do sống cuộc sống mà mình mong ước.
Sự phát triển thường đi kèm với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế một
cách đáng kể. Ngày nay, càng có nhiều người chuyển từ lao động trong lĩnh
vực nông nghiệp sang lao động trong những lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ.
Họ di chuyển từ nông thôn ra các khu vực thành thị, nơi có những công việc

được trả lương cao hơn. Nếu tăng trưởng kinh tế mà không tạo ra được sự
chuyển dịch cơ cấu thì nó phản ánh sự tập trung nguồn thu trong một nhóm
dân cư của nền kinh tế. Mặc dù tăng trưởng kinh tế không đi kèm với phát
triển rất hiếm khi gặp phải, và không mang tính qui luật, nhưng nó không phải
là điều không thể xảy ra. Kinh nghiệm của Ghine Xích đạo là một ví dụ minh
chứng cho trường hợp có tăng trưởng kinh tế nhưng không có phát triển.
Các nền kinh tế trên thế giới theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế và
phát triển với các xuất phát điểm hết sức đa dạng, phong phú và những đặc
điểm riêng này ảnh hưởng quan trọng đến sự lựa chọn phát triển của họ. Tuy
nhiên, kinh nghiệm phát triển đa dạng và phong phú cho thấy mỗi quốc gia
ngày nay không nhất thiết phải rập khuôn theo đúng tiến trình phát triển mà
các nước phát triển đã trải qua. Với mỗi cái gọi là điều kiện tiên quyết cho sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

12
phát triển diễn ra thì thường có một số lựa chọn chiến lược thay thế khác nhau
để mỗi nước sử dụng.
1.1.4. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế
Các chỉ tiêu đo lường mức tăng trưởng kinh tế được sử dụng làm thước
đo trình độ phát triển nền kinh tế một cách cụ thể. Ở một góc độ nào đó tăng
trưởng kinh tế không phản ảnh được chính xác phúc lợi của các nhóm dân cư
khác nhau trong xã hội, chênh lệch giàu nghèo có thể tăng lên, chênh lệch giữa
nông thôn và thành thị có thể tăng cao và bất bình đẳng xã hội cũng có thể
tăng. Tăng trưởng có thể cao nhưng chất lượng cuộc sống có thể không
tăng, môi trường có thể bị hủy hoại, tài nguyên bị khai thác quá mức, cạn kiệt,
nguồn lực có thể sử dụng không hiệu quả, lãng phí.
Như vậy giữa tăng trưởng và phát triển có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Tăng trưởng là điều kiện, tiền đề cho sự phát triển và ngược lại sự
phát triển về mọi mặt của nền kinh tế sẽ là động lực để đẩy nhanh tốc độ

tăng trưởng.
1.1.5. Đo lường phát triển
Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) đã giới thiệu thước
đo phát triển trong nhiều ấn phẩm của mình. Trong đó có các báo cáo
thường niên về phát triển con người. Mặc dù khái niệm phát triển con
người và phát triển có những điểm khác nhau nhưng về nội hàm nó giống
nhau. Đó là sự phản ánh mong muốn nhận thức về sự phát triển để bao hàm
không chỉ có sự gia tăng về thu nhập bình quân đầu người mà cả các nhân
tố khác như giáo dục, y tế…
Bên cạnh ba chiều cạnh cơ bản trong chỉ số phát triển con người, là
kinh tế, tuổi thọ bình quân và giáo dục, ngày nay, UNDP còn tính toán thêm
các chỉ số thành phần phản ánh bất bình đẳng và đói nghèo, các vấn đề về giới.
Bên cạnh một thước đo tổng hợp về phát triển con người là thước đo
tổng hợp về phát triển, người ta còn sử dụng một tập hợp các chỉ số được biết
với tên gọi “Các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

13
Thay vì khái niệm rõ ràng, bộ chỉ số trong “các mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ” là những thước đo tốt để các nhà hoạch định chính sách hiểu
được vấn đề, thách thức của sự phát triển. Bộ chỉ số này phản ánh 8 mục tiêu
của phát triển là:
Mục tiêu 1: Xóa bỏ tình trạng nghèo đói cùng cực.
Mục tiêu 2: Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học.
Mục tiêu 3: Tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế cho phụ nữ.
Mục tiêu 4: Giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em.
Mục tiêu 5: Cải thiện sức khỏe bà mẹ.
Mục tiêu 6: Phòng chống HIV/AIDS, sốt rét và các dịch bệnh khác.
Mục tiêu 7: Đảm bảo bền vững môi trường.

Mục tiêu 8: Tạo lập quan hệ đối tác toàn cầu vì sự phát triển.
Có thể thấy rằng, để đánh giá được các thành tựu của nền kinh tế cần có
những khái niệm và thước đo. Mặc dù còn nhiều hạn chế, GDP bình quân đầu
người và do đó tăng trưởng GDP bình quân đầu người vẫn là chỉ tiêu phổ
dụng ở cấp độ quốc gia. Tuy nhiên, như đã lý luận ở trên, đối với các vùng
kinh tế thuộc một nền kinh tế, đặc biệt theo địa giới hành chính, còn nhiều
hạn chế và GDP không được đo lường một cách chính xác. Thay vào đó, giá
trị tổng sản lượng có thể là một chỉ tiêu tốt. Tuy nhiên trong đề tài này, việc
sử dụng các chỉ tiêu thay thế tốt hơn sẽ không được thực hiện do những hạn
chế về năng lực, về tính sẵn có của số liệu.
Mặc dù tăng trưởng kinh tế là thước đo tương đối khách quan về năng
lực kinh tế. Phát triển, đôi khi còn được dùng là phát triển kinh tế lại là khái
niệm mang tính chuẩn tắc. Các chỉ số phát triển con người (HDI) hay các mục
tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) có thể là những chỉ tiêu tốt nhất đến nay
có được để phản ánh sự phát triển của mỗi nền kinh tế. Tuy nhiên vẫn còn
những thách thức đối với việc áp dụng vào một địa phương. Mặc dù vậy, nó
vẫn có những giá trị trong việc giúp các nhà hoạch định chính sách cấp địa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

14
phương trong quá trình ra quyết định, như xây dựng chiến lược, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của mình.
1.2. Các nhân tố ảnh hƣởng đến tăng trƣởng kinh tế
Mặc dù phần thứ nhất đã bàn về tăng trưởng kinh tế và đo lường tăng
trưởng kinh tế, nên đáng lẽ việc trình bày các nhân tố ảnh hưởng đến tăng
trưởng kinh tế cũng phải trình bày trong phần một. Tuy nhiên do tầm quan
trọng của việc xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng, với ý nghĩa là
cơ sở phân tích thực trạng phát triển và hàm ý chính sách, đề tài quyết định
tách riêng việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế như

là một phần độc lập.
1.2.1. Các hình thái tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế và phát triển không phải là hai khái niệm đồng
nghĩa. Tăng trưởng kinh tế là trung tâm của quá trình phát triển. Những vấn
đề như phát triển bền vững hay giảm nghèo không thể có được nếu không có
tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào hai quá trình cơ bản là quá trình tích
lũy vốn sản xuất và quá trình tăng năng suất. Tích lũy vốn đòi hỏi các chủ thể
của nền kinh tế phải tiết kiệm, theo nghĩa hạn chế tiêu dùng hiện tại để đầu tư
vào sản xuất và hướng tới gia tăng tiêu dùng trong tương lai. Tăng năng suất
gắn liền với quá trình nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh
hàng hóa và dịch vụ hay đổi mới các công nghệ sản xuất.
Lịch sử phát triển cho thấy có bốn hình thái tăng trưởng đã diễn ra. Một
nhóm quốc gia có thu nhập thấp và tăng trưởng âm. Ví dụ nền kinh tế Dăm-
bi-a, châu Phi, có mức thu nhập bình quân thấp và xu hướng giảm thu nhập
bình quân (tăng trưởng âm 0,6%/năm) trong giai đoạn 1960-2003. Cùng trong
nhóm này này các nước Madagasca, Vê-nê-duê-la…
Nhóm thứ hai, tuy không gặp phải tình trạng như nhóm một, nhưng có
mức tăng trưởng thấp. Ví dụ Peru, châu Mỹ La tinh là một nền kinh tế có xuất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

15
phát điểm thấp và có mức tăng trưởng rất thấp, bình quân 1% /năm trong giai
đoạn 1960-2003. Trong giai đoạn này còn có 9 quốc gia khác cũng ở chung
tình trạng với Peru.
Nhóm thứ ba là các nền kinh tế có sự thành công, với mức tăng trưởng
kinh tế vừa phải. Đại hiện cho nhóm này là Ai-cập, với mức tăng trưởng bình
quân 2,6% trong cùng giai đoạn so sánh. Tuy mức tăng trưởng đó thấp, nhưng
nó đủ giúp cho thu nhập bình quân đầu người tăng gần gấp ba lần sau 40 năm.

Tuy nhiên cũng thấy rằng tăng trưởng này không phải là yếu tố quyết định
đến phát triển, đặc biệt những biến động chính trị đối với chính quyền
Mubarak và cách mạng Ai-cập năm 2011. Trong nhóm này có khoảng 8 quốc
gia khác.
Nhóm thứ tư làm được nhiều hơn thế. Trong cùng giai đoạn 1960-2003,
các nước này đã đẩy thu nhập bình quân đầu người tăng trưởng với mức lớn
hơn 3%/năm. Một số nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao hơn mức tăng
trưởng 5% năm như Singapore, Hàn Quốc. Đây là mốc tăng trưởng cao của
thế giới trong 4 thập kỷ phát triển. Ví dụ Singapore đạt mức tăng trưởng
10,7%/năm hay Hàn Quốc đạt mức tăng trưởng 11,36% năm trong giai đoạn
1960-2003. Các mức tăng trưởng này tạo ra sự khác biệt rất lớn. Với mức
tăng trưởng bình quân 1%/năm thì phải sau 70 năm thu nhập bình quân đầu
người mới tăng gấp đôi. Trong khi đó, với mức tăng trưởng bình quân đầu
người 7%/năm, quá trình tăng gấp đôi thu nhập bình quân đầu người rút
xuống chỉ còn 7 năm.
1.2.2. Vai trò của các yếu tố sản xuất đối với tăng trưởng kinh tế
Các nhà kinh tế và các nhà hoạch định chính sách đã nỗ lực tìm hiểu
các yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế. Trong các lý thuyết về tăng trưởng
kinh tế, đó là mối quan hệ giữa các yếu tố vốn và lao động với yếu tố tổng sản
lượng của nền kinh tế.
Một số nền kinh tế được thiên nhiên ưu đãi, ban tặng các nguồn vốn tự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

16
nhiên nhu dầu mỏ, vàng, kim cương, cao su … và có thể khai thác để phục vụ
mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Thông qua việc khai thác, sử dụng các nguồn tài
nguyên, các nền kinh tế đó đẩy nhanh được quá trình tích lũy vốn trong tăng
trưởng kinh tế và thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển.
Theo các mô hình tăng trưởng kinh tế, tổng sản lượng là một hàm số

của sự tổng các nhân tố vốn và lao động mà quốc gia đó có (với các hệ số co
dãn nhất định) và mức độ hiệu quả sử dụng các nguồn lực vốn và lao động
này. Như vậy, tăng trưởng kinh tế có thể được đóng góp bởi: (1) sự mở rộng
một trong những nhân tố sản xuất; hoặc (2) sự mở rộng đồng thời của cả hai
nhân tố sản xuất vốn và lao động; hoặc (3) sự gia tăng hiệu quả của việc sử
dụng của một trong những nhân tố đầu vào hoặc vốn hoặc lao động; hoặc (4)
sự gia tăng hiệu quả kết hợp của tất cả các nhân tố đầu vào.
Từ một chiều cạnh khác, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào các quá
trình sau:
Sự tích lũy của các yếu tố sản xuất: Được xác định bởi sự gia tăng qui
mô của tổng lượng vốn hay sự gia tăng tổng lực lượng lao động trong nền
kinh tế. Nguyên nhân căn bản là trong một số mô hình sản xuất, muốn gia
tăng sản lượng hàng hóa và dịch vụ phải gia tăng thêm máy móc, nhà xưởng
(vốn vật chất) và lao động .
Tăng trưởng năng suất: là quá trình gia tăng sản lượng của người lao
động trong điều kiện các yếu tố khác, như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu
đầu vào, không thay đổi. Năng suất tăng lên nhờ tay nghề của người lao động
tăng lên, và do đó số lượng sản phẩm hỏng giảm đi, số lượng các sản phẩm
đạt tiêu chuẩn tăng lên. Năng suất cũng có thể tăng lên nhờ việc cải tiến công
nghệ sản xuất, giúp cho người lao động tối ưu hóa quá trình tổ chức sản xuất
theo hướng chuyên môn hóa cao hơn.
Như vậy, có thể thấy tăng trưởng kinh tế phụ thuộc căn bản vào quá
trình tích lũy các yếu tố sản xuất. Tích lũy các yếu tố vốn và lao động vừa cho

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

17
phép mở rộng qui mô sản xuất vừa cho phép thực hiện các biện pháp nghiên
cứu và phát triển để tìm ra những phương thức sản xuất mới, góp phần nâng
cao hiệu quả của bản thân các yếu tố vốn và lao động, tức là nâng cao năng

suất sử dụng các yếu tố đầu vào.
Có nhiều mô hình giải thích sự tăng trưởng kinh tế trong mối quan hệ
với sự tích lũy các yếu tố sản xuất cũng như các yếu tố tác động đến quá trình
tích lũy các yếu tố sản xuất này. Một trong những mô hình tăng trưởng căn
bản, được các nhà kinh tế và các nhà hoạch định chính sách sử dụng, nhất là
trong công tác qui hoạch, dự báo phát triển, là mô hình tăng trưởng Solow.
Đương nhiên, như sẽ phân tích ở dưới, mô hình này cũng có những điểm hạn
chế, thể hiện ở tư tưởng trọng vốn. Các mô hình mới đã có những điều chỉnh
bổ sung yếu tố con người, nhưng không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Ý tưởng chính của mô hình Solow và của nhiều mô hình khác có những
điểm chính sau:
Đầu tư mới làm tăng quĩ vốn. Đầu tư vào máy móc, nhà xưởng thiết bị
trực tiếp gia tăng quĩ vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng sản xuất.
Để tăng quĩ vốn, giá trị của các khoản đầu tư mới phải lớn hơn giá trị khấu
hao lượng vốn hiện có. Các nhà máy và máy móc thường hao mòn dần theo
thời gian, và một lượng nhất định trong phần đầu tư mới là cần thiết để duy trì
qui mô vốn như cũ. Đầu tư lớn hơn phần khấu hao trực tiếp sẽ bổ sung quĩ
vốn. Đầu tư phải lớn hơn mức khấu hao và mức tăng trưởng của lực lượng lao
động để có sự gia tăng vốn trên mỗi công nhân.
Đầu tư được hình thành từ tiết kiệm. Một trong những phương trình cơ
bản của tài khoản quốc gia là đầu tư bằng tiết kiệm. Điều này hàm ý nhân tố
tiết kiệm chính là một trong những nhân tố quyết định việc tích lũy vốn cho
nền kinh tế
Nguồn gốc của tiết kiệm: Được hình thành từ những khoản thu nhập
hiện tại. Tiết kiệm được hình thành từ các cấu phần như tiết kiệm của hộ gia

×