Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty cổ phần điện tử tin học hồ sen

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.24 KB, 63 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài, ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Cạnh tranh là cơ chế vận hành chủ yếu c ủa kinh tế thị trường, là động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế. Đối với mỗi chủ thể kinh doanh, cạnh tranh tạo sức ép hoặc kích thích ứng dụng
khoa học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất, cải tiến công nghệ, thiết bị sản xuất và phương
thức quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành và giá bán hàng hóa. Cạnh
tranh với các tín hiệu giá cả và lợi nhuận sẽ hướng người kinh doanh chuyển nguồn lực từ nơi
sử dụng có hiệu quả thấp hơn sang nơi sử dụng có hiệu quả cao hơn. Đối với xã hội, cạnh
tranh là động lực quan trọng nhất để huy động nguồn lực của xã hội vào sản xuất kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ còn thiếu. Qua đó nâng cao năng lực sản xuất của toàn xã hội. Do đó, việc
nâng cao năng lực cạnh tranh cho mỗi doanh nghiệp là rất cần thiết, nó giúp cho doanh
nghiệp chủ động hơn trong quá trình hoạt động của sản xuất kinh doanh.
Từ cuối năm 2006, Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới
(WTO). Điều này đã mở ra cho nước ta những cơ hội lớn để phát triển song cũng đặt nước ta
trước nhưng thách thức và khó khăn không nhỏ. Trong những cam kết đa phương và song
phương với các nước trên thế giới để gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết mở cửa thị trường.
Điều đó đặt các doanh nghiệp trong nước vào quá trình cạnh tranh gay gắt không chỉ giữa các
doanh nghiệp trong nước với nhau mà còn với các doanh nghiệp nước ngoài. Là một trong
những Công ty được xếp vào loại vừa và nhỏ trên thị trường kinh doanh thiết bị tin học, có ít lợi
thế cạnh tranh so với với các Công ty khác cùng ngành. Vậy phải có những biện pháp nào để
Công ty Cổ Phần điện tử tin học Hồ Sen có thể nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường?
Nhận thức được tầm quan trọng và tính thiết thực của việc nghiên cứu vấn đề nâng cao
năng lực cạnh tranh, em đã chọn đề tài: “ Biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho Công
ty Cổ Phần điện tử tin học Hồ Sen”, kết hợp với quá trình thực tập tại Công ty Cổ Phần điện
tử tin học Hồ Sen, em đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình.
2.
Đối tượng và mục đích nghiên cứu của đề tài
2.1
Đối tượng nghiên cứu
Năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ Phần điện tử tin học Hồ Sen trên thị trường
điện tử, tin học.


2.2
Mục đích nghiên cứu
Luận văn tốt nghiệp này muốn làm rõ cơ sở lý luận và tầm quan trọng của đề tài,
bên cạnh đó nghiên cứu, phân tích rõ môi trường kinh doanh của Công ty Cổ Phần
điện tử tin học Hồ Sen, biết được điểm mạnh, yếu của doanh nghiệp cũng như những
cơ hội, thách thức từ môi trường mang lại. Từ đó phân tích, đánh giá thực trạng cạnh
tranh của Công ty, chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân của nó, đồng thời đưa ra một số
biện pháp cụ thể nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường thiết bị tin học.
3.
Phạm vi nghiên cứu
-
Phạm vi không gian: Công ty Cổ Phần điện tử tin học Hồ Sen
-
Phạm vi thời gian: Từ năm 2013 - 2013.
4.
Phương pháp nghiên cứu
-
Thu thập số liệu: các báo cáo và tài liệu của Công ty Cổ Phần điện tử tin học
Hồ Sen, các tài liệu liên quan trên sách, báo, mạng.
-
Luận văn sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp tổng
hợp và phân tích số liệu thống kê.
5.
Kết cấu của luận văn
Ngoài lời cảm ơn, phần mở đầu và kết luận thì nội dung của bài luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về công ty cổ phần điện tử tin học Hồ Sen.
Chương 2: Thực trạng khả năng cạnh tranh của Công ty Cổ Phần điện tử tin học Hồ Sen.
Chương 3: Biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho Công ty Cổ Phần
điện tử tin học Hồ Sen.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN ĐIỆN TỬ

TIN HỌC HỒ SEN.
1.1. Quá trình ra đời và phát triển của công ty cổ phần điện tử tin học Hồ Sen.
1.1.1 Giới thiệu chung
Công ty Cổ phần Điện Tử Tin Học Hồ Sen là một trong những công ty cổ phần
chuyên tin học nhỏ và vừa của miền Bắc.Từ ngày hình thành, công ty đã và đang ngày
càng khẳng định vị thế của mình trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh vi tính. Dưới đây
là một số thông tin về công ty:
 Tên công ty : CÔNG TY CỔ PHẦN ĐIỆN TỬ TIN HỌC HỒ SEN
 Tên tiếng Anh : HOSEN ELECTRONICS COMPUTER JOINT
STOCK COMPANY

Tên viết tắt : HOSEN ELE COM JS CO

Loại hình : Công ty cổ phần

Cơ quan quản lý : Bộ công nghiệp

Mã số thuế : 0201387258

Trụ sở chính : Số 10, Hồ Sen, phường Trại Cau, Quận Lê Chân,
Thành phố Hải Phòng.

Điện thoại : (031)3610627

Fax : (031)3845434

Website : www. hosen .com.vn

Email : h osen
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: Số 0100303614, do Sở Kế hoạch và Đầu

tư thành phố Hải Phòng cấp ngày 06/05/2013, thay đổi lần thứ 9 ngày 03/06/2014.
1.1.2. Đặc điểm sản xuất kinh doanh.

Buôn bán thiết bị phòng thí nghiệm, dụng cụ, trang bị tin học, điện tử

Buôn bán hóa chất (trừ hóa chất Nhà nước cấm) và các chế phẩm sinh học

Buôn bán các thiết bị, linh kiện điện tử, điện lạnh

Buôn bán văn phòng phẩm, hàng thủ công mỹ nghệ

Dịch vụ lắp đặt, sửa chữa, bảo dưỡng, bảo hành các mặt hàng công ty kinh doanh

Đại lý mua, đại lý bán, ký gửi hàng hóa

Xuất nhập khẩu các mặt hàng công ty kinh doanh.
Cho đến nay, công ty đã phát triển lớn mạnh, đã có được một mạng lưới phân
phối rộng khắp trên các tỉnh phía Bắc, 2 chi nhánh ở miền trung và miền nam. Đặc biệt
là sau nhiều nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên trong việc hoàn thiện và nâng
cao các thủ tục về quản lí chất lượng, với sự giúp đỡ nhiệt tình của các nhà tư vấn
công ty đã tạo ra nhiều phần mềm ứng dụng tin học.
1.1.3 Quá trình phát triển của công ty cổ phần điện tử tin học Hồ Sen.
Công ty Cổ Phần điện tử tin học Hồ Sen từ khi thành lập tới nay đã không ngừng
đầu tư kinh doanh, mở rộng thị trường, xây dựng và dần hoàn thiện bộ máy tổ chức
nói chung hay bộ máy kế toán nói riêng. Luôn đặt chất lượng hàng hoá nên hàng đầu,
uy tín doanh nghiệp là thước đo thành công, do vậy tuy thành lập chưa được lâu nhưng
công ty đã có được 1 khối lượng bạn hàng tin cậy và uy tín. Địa bàn hoạt động của
Công ty rất rộng, rải rác ở các tỉnh từ Hải Phòng, Hải Dương, Hà Nội và cả một số khu
vực phía Trung, Nam…
Trong điều kiện như hiện nay Công ty Cổ Phần điện tử tin học Hồ Sen đã từng

ngày, từng giờ thay đổi và phát triển cơ cấu bộ máy quản lý hầu hết có trình độ chuyên
môn cao cho nên Công ty đã đạt được một số kết quả khích lệ. Tuy nhiên Công ty
cũng có những thuận lợi và khó khăn trong quá trình hoạt động của mình:
-
Thuận lợi:
+
Thành lập trong giai đoạn Việt Nam đã gia nhập WTO nên có nhiều cơ hội và
thách thức cho sự phát triển chung của Công ty.
+
Cơ chế kinh tế mở cửa tạo, nhà nước có nhiều chính sách ưu tiên và hỗ trợ
cho doanh nghiệp.
-
Khó khăn:
+
Hoạt động trong ngành tin học do vậy chất lượng sản phẩm luôn phải đạt tiêu
chuẩn và không ngừng đổi mới phát triển…
+
Một số mặt hàng bị giới hạn qua nhập khẩu điều đó ảnh hưởng mạnh tới chiến
lược kinh doanh và số lượng hàng hóa nhập xuất tồn và dự trữ của Công ty.
+
Mặc dù gặp không ít khó khăn trong kinh doanh nhưng sự quản lý vững vàng
của ban giám đốc, đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ chuyên môn cao đã dựa
trên những thuận lợi để khắc phục khó khăn, đưa Công ty từng ngày từng giờ phát
triển, kết quả kinh doanh năm sau cao hơn năm trước.
1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty cổ phần điện tử tin học Hồ Sen.
Để phù hợp và đảm bảo ổn định cho hoạt động kinh doanh, Công ty tổ chức quản
lý đồng bộ và chặt chẽ, các phòng ban chịu sự chỉ đạo chung của lãnh đạo Công ty.
Xuất phát từ nhiệm vụ và phương hướng kinh doanh của Công ty, dựa trên trình độ chuyên
môn, trình độ nghiệp vụ của cán bộ quản lý, cơ cấu tổ chức Công ty được tổ chức như sau:
- Ban lãnh đạo Công ty gồm: 1 giám đốc và 1 phó giám đốc

- Các phòng ban chuyên môn nghiệp vụ giúp việc cho giám
đốc gồm:
+
Phòng kế hoạch – Kinh doanh
+
Phòng tài chính kế toán
+
Phòng tổ chức hành chính
+
Các đội: đội xe, đội bảo vệ…
Sơ đồ 1.1: BỘ MÁY QUẢN LÝ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN ĐIỆN TỬ TIN HỌC HỒ SEN
(Nguồn: trích từ tài liệu phòng tổ chức hành chính của Công ty)
Giám đốc Công ty: Là người đứng đầu Công ty, chịu trách nhiệm trước pháp luật
về các hoạt động kinh doanh của Công ty, chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số
vốn đã góp cả mình vào Công ty
-
Giám đốc thực hiện các nhiệm vụ của mình trong quá trình kinh
doanh của Công ty: hoạch định chiến lược phát triển chung cho Công ty, đưa ra những chính
sách kinh doanh hợp lý, năng động, nhạy bén trước những phản ứng của thị trường, tuân thủ
mọi quy định và chế tài của Nhà nước về mặt hàng kinh doanh và hình thức kinh doanh.
-
Bảo toàn nguồn vốn của Công ty, sử dụng nguồn vốn đó để kinh
doanh có hiệu quả.
-
Tôn trọng và thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ cho cán bộ
công nhân viên toàn Công ty, duy trì mối quan hệ thân thiện giữa các phòng ban.
-
Không ngừng mở rộng, phát triển và tiếp thu khoa học kỹ thuật
vào trong kinh doanh và quản lý doanh nghiệp.
GIÁM ĐỐC

PHÓ GIÁM ĐỐC
Các tổ độiPhòng tổ chức
hành chính
Phòng tài chính
kế toán
Phòng kế hoạch-
kinh doanh
-
Thực hiện đầy đủ các hợp đồng kinh tế, hợp đồng nguyên tắc đã
ký với bạn hàng, duy trì mối quan hệ kinh doanh tốt đẹp, thâm nhập vào các thị trường
tiềm năng và giữ vững vị thế ở thị trường trọng điểm.
-
Chỉ đạo kinh doanh theo cơ chế nhanh, mạnh, xử lý thông tin
kịp thời
-
Xây dựng điều hành bộ máy quản lý Công ty ngày càng phù hợp
hơn.
-
Đề nghị quyết định bổ nhiệm hoặc bãi miễn cán bộ công nhân viên
của Công ty.
-
Thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước, với Công ty theo quy
định.
-
Chịu sự kiểm tra giám sát của Công ty và cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền.
-
Được quyền áp dụng các biện pháp vượt thẩm quyền trong
trường hợp khẩn cấp và chịu trách nhiệm trước Công ty, trước pháp luật về việc làm
đó.

Phó giám đốc Công ty: Công ty có 1 phó giám đốc, là cánh tay đắc lực hỗ trợ cho
giám đốc trong việc kinh doanh và quản lý nhân sự. Phó giám đốc được phân công
nhiệm vụ, chịu trách nhiệm chỉ đạo, theo dõi tiến độ bán hàng của bộ phận kinh doanh,
phụ trách công tác đời sống cho cán bộ công nhân viên toàn Công ty.
Phòng kế hoạch - kinh doanh: Căn cứ vào tình hình kinh doanh của Công ty,
phòng kinh doanh tiến hành lập kế hoạch ngắn hạn và dài hạn rồi gửi lên cho giám đốc
phê duyệt. Nếu được chấp nhận thì phòng kinh doanh tiến hành lập đơn đặt hàng cho
khách theo sự chỉ đạo của giám đốc và trưởng phòng kinh doanh. Căn cứ vào đơn đặt
hàng của khách hàng, tiến hàng gửi báo giá và chào hàng đến cho khách hàng.
Phòng kế toán tài chính: Phòng kế toán tài chính chịu sự lãnh đạo trực tiếp của
giám đốc, có trách nhiệm quản lý tài chính, giao dịch với ngân hàng và cơ quan thuế.
Do vậy phòng kế toán có các nhiệm vụ chính sau:
-
Làm kế hoạch tài chính, làm báo cáo tài chính theo tháng, quý,
năm theo yêu cầu của giám đốc.
-
Quản lý tiền mặt, tiền gửi ngân hàng.
-
Quản lý tài sản cố định và tài sản lưu động của Công ty.
-
Thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán nhà nước quy định.
-
Theo dõi công nợ, tạm ứng, tạm vay.
-
Cùng với phòng kế hoạch theo dõi công nợ phải thu - phải trả.
-
Cùng với phòng tổ chức hành chính quản lý lương, chế độ
lương, thanh toán tiền lương hàng tháng với người lao động.
-
Thực hiện công tác quyết toán báo cáo tài chính.

-
Chức năng của từng thành viên do trưởng phòng kế toán phân
công.
Phòng tổ chức hành chính:
-
Nghiên cứu và đề xuất với lãnh đạo về công tác tổ chức bộ máy hành
chính, tổ chức lao động trong Công ty.
-
Đề xuất với lãnh đạo, giải quyết cụ thể các công việc, đề bạt nâng lương
tuyển dụng, chuyển công tác điều động, nghỉ hưu cho thôi việc hoặc sa thải.
-
Theo dõi và giải quyết các chế độ, nghỉ phép nghỉ ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, nghỉ Tết theo đúng chế độ và quy định của đơn vị.
-
Phối hợp với các phòng ban khác thực hiện công tác thi đua khen thưởng, kỷ
luật.
-
Nghiên cứu và đề xuất với lãnh đạo về công tác đào tạo cán bộ công
nhân viên trong Công ty.
-
Tổ chức quản lý và điều hành lực lượng bảo vệ, lái xe, văn thư…
-
Quản lý và chịu trách nhiệm mua sắm phương tiện và dụng cụ hành
chính văn phòng phẩm, các nhu cầu sinh hoạt, làm việc của cơ quan.
-
Thực hiện các công việc về quản lý hành chính trong cơ quan, bố trí nhà
ở, nhà làm việc, quản lý nhân hộ khẩu.
-
Có trách nhiệm thông báo phổ biến, hướng dẫn thực hiện các chủ trương về chế
độ chính sách đối với các đơn vị và cán bộ công nhân viên trong Công ty, xây dựng

định mức về lao động và tiền lương.
1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần điện tử tin học Hồ Sen.
Bảng 1.1: PHÂN TÍCH KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA CÔNG TY TRONG 3 NĂM GẦN NHẤT (2012 – 2013)
Đơn vị tiền: triệu VNĐ
STT Chỉ tiêu 2013
Năm
2013
Năm
2012
Chênh lệch
2013/
2013
Tỉ lệ
(%)
2013/
2012
Tỉ lệ
(%)
1 Doanh thu bán hàng và cung
cấp dịch vụ
49.155 21.324 10.637 27.831 130,5 10.687 100,5
2 Các khoản giảm trừ doanh thu 0 0 0 0 0 0 0
3 Doanh thu thuần về bán hàng và
cung cấp dịch vụ
49.155 21.324 10.637 27.831 130,5 10.687 100,5
4 Giá vốn hàng bán 41.752 18.065 7.999 23.687 131,1 10.066 125,8
5 Lợi nhuận gộp về bán hàng và
cung cấp dịch vụ
7.403 3.259 2.638 4.144 127,2 621 23,5

6 Doanh thu hoạt động tài chính 6,7 3,2 1,2 3,5 109,4 2,0 166,7
7 Chi phí tài chính 389 55 24,5 334 607,3 30,5 124,5
8 - trong đó:
Chi phí lãi vay
334 23 0 311 1352 23 100,0
9 Chi phí quản lý kinh doanh 2.643 1.293 2.055 1.350 104,4 (762) -37,1
10 Lợi nhuần thuần từ hoạt động
kinh doanh
4.377,7 1.914,2 559,7 2.463,5 128,7 1.354,5 242,0
11 Thu nhập khác 0 0,3 0,2 (0,3) -100,0 0,1 50,0
12 Chi phí khác 0 0,7 0 (0,7) -100,0 0,7
13 Lợi nhuận khác 0 (0,4) 0,2 0,4 100,0 (0,6) -300,0
14 Tổng lợi nhuận kế toán trước
thuế
4.377,7 1.913,8 559,9 2.463.9 128,7 1.353,9 241,8
15 Chi phí thuế TNDN 1.094 478,5 140 615,5 128,7 338,5 241,8
16 Lợi nhuận sau thuế 3.283,7 1.435,3 419,9 1.848,4 128,7 1.015,4 241,8
(Nguồn: Số liệu trích từ Bảng Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh trong Báo cáo
tài chính của Công ty Cổ Phần điện tử tin học Hồ Sen)
Qua số liệu tính toán ở bảng 1 ta thấy kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty tăng dần
qua các năm. Doanh thu từ bán hàng và cung cấp dịch vụ năm 2013 tăng 27.831 triệu đồng –
tương ứng 130,5% so với năm 2013, doanh thu của năm 2013 tăng từ 10,637 triệu đồng lên
21.324 triệu đồng. Do Công ty chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực thương mại nên giá vốn hàng
bán chiếm phần lớn doanh thu bán hàng, do đó lợi nhuận gộp của Công ty chiếm tỉ trọng rất
nhỏ so với doanh thu thuần, chỉ khoảng 15,06% (năm 2013). Tốc độ tăng của lợi nhuận gộp là
khá nhanh, từ 23,5% (năm 2013) lên đến 127,2% (năm 2013) cho thấy Công ty đã dần chiếm
lĩnh thị trường, có thêm được nhiều bạn hàng, Công ty còn chủ động nhập khẩu thêm một số y
tin học thế mạnh của Công ty để cung cấp cho thị trường (điển hình như đường dextrose
monohydrate, Thiết bị viễn thông, Băng đĩa…). Doanh thu từ hoạt động tài chính của Công ty
cũng tăng khá đều đặn, năm 2013 tăng 3,5 triệu đồng so với năm 2013 từ 3,2 triệu đồng lên 6,7

triệu đồng. Tuy nhiên, vào năm 2013, chi phí tài chính, trong đó chủ yếu là chi phí lãi vay tăng
đột biến 1352% so với năm 2013 từ 23 triệu đồng lên 334 triệu đồng. Nguyên nhân là do Công
ty vay ngân hàng để trang bị thêm cho cán bộ kinh doanh của Công ty thêm máy tính Laptop,
điện thoại đi động để nhân viên làm việc chuyên nghiệp hơn nữa. Ngoài ra Công ty còn đầu tư
thêm 2 xe ô tô để các nhân viên chủ động hơn trong việc đi nghiên cứu và phát triển thị trường
ở các tỉnh ở khu vực miền Trung hoặc miền Nam. Bên cạnh đó Công ty cũng đầu tư nâng cấp
văn phòng, hệ thống kho, và mua ôtô để phục vụ cho việc vận chuyển hàng hóa và đi lại. Chi
phí quản lý doanh nghiệp có sự thay đổi thất thường, giảm từ 2.055 triệu đồng (2012) xuống
1.293 triệu đồng (2013) rồi lại tăng mạnh lên 2.643 triệu đồng (2013), sở dĩ có sự thay đổi như
vậy là do vào năm 2013, Phó giám đốc Công ty tuyển thêm trợ lý để giúp công việc điều hành
trở nên đơn giản hơn. Điều đáng nói là lợi nhuận sau thuế của Công ty luôn tăng trên 1 tỷ đồng
vào các năm, tăng 1.015,4 triệu đồng vào năm 2013 và tăng 1.848,4 triệu đồng vào năm 2013,
điều này cho thấy hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây rất khởi sắc, đó
là thành quả của cả năm nỗ lực không ngừng của cán bộ công nhân viên Công ty. Nguyên nhân
chính là do doanh nghiệp biết đa dạng hóa nhiều ngành nghề kinh doanh và chú trọng vào mặt
hàng chiến lược là ứng dụng phần mềm tin học .
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA
CÔNG TY CỔ PHẦN ĐIỆN TỬ TIN HỌC HỒ SEN
.
2.1. Cơ sở lý luận về cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh trong doanh
nghiệp.
2.1.1Cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
-
Khái niệm cạnh tranh
Trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay, các khái niệm
liên quan đến cạnh tranh còn rất khác nhau. Theo Mác “cạnh tranh là sự phấn đấu ganh
đua gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản
xuất và trong tiêu thụ để đạt được những lợi nhuận siêu ngạch”, có các quan niệm khác
lại cho rằng “cạnh tranh là sự phấn đấu về chất lượng sản phẩm, dịch vụ của doanh
nghiệp mình sao cho tốt hơn các doanh nghiệp khác” (Theo nhóm tác giả cuốn

“nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo hộ sản xuất trong nước”). Theo kinh tế
chính trị học “cạnh tranh là sự thôn tính lẫn nhau giữa các đối thủ nhằm giành lấy thị
trường, khách hàng cho doanh nghiệp mình”. Để hiểu một cách khái quát nhất ta có
khái niệm như sau:
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh
nghiệp trên thị trường nhằm giành được ưu thế hơn về cùng một loại sản phẩm hàng
hoá hoặc dịch vụ, về cùng một loại khách hàng so với các đối thủ cạnh tranh.
Từ khi nước ta thực hiện đường lối mở cửa nền kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa thì vấn đề cạnh tranh bắt đầu xuất hiện và len lỏi vào từng
bước đi của các doanh nghiệp. Môi trường hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lúc
này đầy sự biến động và vấn đề cạnh tranh đã trở nên cấp bách, sôi động trên cả thị
trường trong nước và thị trường quốc tế. Như vậy, trong nền kinh tế thị trường hiện
nay, trong bất cứ một lĩnh vực nào, bất cứ một hoạt động nào của con người cũng nổi
cộm lên vấn đề cạnh tranh. Ví như các Quốc gia cạnh tranh nhau để giành lợi thế trong
đối ngoại, trao đổi; các doanh nghiệp cạnh tranh nhau để lôi cuốn khách hàng về phía
mình, để chiếm lĩnh những thị trường có nhiều lợi thế và con người cạnh tranh nhau để
vươn lên khẳng định vị trí của mình cả về trình độ chuyên môn nghiệp vụ để những
người dưới quyền phục tùng mệnh lệnh, để có uy tín và vị thế trong quan hệ với các
đối tác. Như vậy, có thể nói cạnh tranh đã hình thành và bao trùm lên mọi lĩnh vực của
cuộc sống, từ tầm vi mô đến vĩ mô, từ một cá nhân riêng lẻ đến tổng thể toàn xã hội.
Điều này xuất phát từ một lẽ đương nhiên, nước ta đã và đang bước vào giai đoạn phát
triển cao về mọi lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hoá, mà bên cạnh đó cạnh tranh
vốn là một quy luật tự nhiên và khách quan của nền kinh tế thị trường, nó không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của mỗi người, bởi tự do là nguồn gốc dẫn tới cạnh tranh,
cạnh tranh là động lực để thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá. Bởi vậy để giành
được các điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm buộc các doanh
nghiệp phải thường xuyên động não, tích cực nhạy bén và năng động, phải thường
xuyên cải tiến kỹ thuật, ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ mới, bổ sung xây dựng
các cơ sở hạ tầng, mua sắm thêm trang thiết bị máy móc, loại bỏ những máy móc đã

cũ kỹ và lạc hậu, điều quan trọng phải có phương pháp tổ chức quản lý có hiệu quả,
đào tạo và đãi ngộ trình độ chuyên môn, tay nghề cho người lao động. Thực tế cho
thấy ở đâu thiếu sự cạnh tranh, thường ở đó biểu hiện sự trì trệ và yếu kém, dẫn tới
việc doanh nghiệp sẽ mau chóng bị đào thải ra khỏi quy luật vận động của nền kinh tế
thị trường. Để thúc đẩy tiêu thụ và đẩy nhanh tốc độ chu chuyển hàng hoá các doanh
nghiệp cần phải nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Do
đó, cạnh tranh không chỉ kích thích tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất mà
còn cải tiến mẫu mã, chủng loại hàng hoá, nâng cao chất lượng sản phẩm và chất
lượng dịch vụ làm cho sản xuất ngày càng gắn liền với tiêu dùng, phục vụ nhu cầu xã
hội được tốt hơn. Cạnh tranh là một điều kiện đồng thời là một yếu tố kích thích hoạt
động kinh doanh phát triển. Bên cạnh những mặt tích cực cạnh tranh còn để lại nhiều
hạn chế và tiêu cực đó là sự phân hoá sản xuất, làm phá sản những doanh nghiệp kinh
doanh gặp nhiều khó khăn do thiếu vốn, cơ sở hạ tầng hạn hẹp, trình độ công nghệ
thấp và có thể làm cho doanh nghiệp phá sản khi doanh nghiệp gặp những rủi ro khách
quan mang lại như thiên tai, hoả hoạn… hoặc bị rơi vào những hoàn cảnh, điều kiện
không thuận lợi.
Như vậy, cạnh tranh được hiểu và được khái quát một cách chung nhất đó là cuộc
ganh đua gay gắt giữa các chủ thể đang hoạt động trên thị trường với nhau, kinh doanh
cùng một loại sản phẩm hoặc những sản phẩm tương tự thay thế lẫn nhau nhằm chiếm
lĩnh thị phần, tăng doanh số và lợi nhuận. Các doanh nghiệp thương mại cần nhận thức
đúng đắn về cạnh tranh để một mặt chấp nhận cạnh tranh theo khía cạnh tích cực để từ
đó phát huy yếu tố nội lực, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, mặt khác tránh
tình trạng cạnh tranh bất hợp lý dẫn đến làm tổn hại đến lợi ích cộng đồng cũng như
làm suy yếu chính mình.
Doanh nghiệp thương mại mang tính đặc thù phải chịu sự cạnh tranh quyết liệt
hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác.
-
Khái niệm về khả năng cạnh tranh
Phải nói rằng thuật ngữ “khả năng cạnh tranh” được sử dụng rộng rãi trên các
phương tiện thông tin đại chúng, trong sách báo, trong giao tiếp hàng ngày của các

chuyên gia kinh tế, các chính sách của các nhà kinh doanh. Nhưng cho đến nay vẫn
chưa có sự nhất trí cao giữa các học giả và giới chuyên môn về khả năng cạnh tranh
của Công ty
- Theo cách tiếp cận khả năng cạnh tranh ở tầm Quốc gia:
+
Cách tiếp cận này dựa trên quan điểm Diễn đàn kinh tế Thế giới. Theo định
nghĩa của họ thì khả năng cạnh tranh của một Quốc gia là khả năng đạt được và duy trì
mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững vàng tương đối và các
đặc trưng kinh tế khác.
Như vậy khả năng cạnh tranh của một Quốc gia được xác định trước hết bằng
mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân và sự có mặt (hay thiếu vắng) các yếu tố
quy định khả năng tăng trưởng kinh tế dài hạn trong các chính sách kinh tế đã được
thực hiện. Ví dụ điển hình là Nhật Bản, sau chiến tranh Thế giới thứ hai, nền kinh tế
Nhật Bản trở nên hoang tàn, nhân dân chìm trong cảnh mất mùa, thiếu thốn. Vậy mà
đến năm 1968 Nhật bản đã trở thành một nước có nền kinh tế đứng thứ hai trên Thế
giới (sau Mỹ) và được xếp hàng các cường quốc kinh tế lớn nhất, kỷ lục về sự tăng
trưởng kinh tế này là một trong những đỉnh cao để xác định năng lực cạnh tranh lớn
của nền kinh tế Nhật Bản. Cũng theo họ thì các yếu tố xác định khả năng cạnh tranh
được chia làm 8 nhóm chính bao gồm 200 chỉ số khác nhau, các nhóm yếu tố xác định
khả năng cạnh tranh tổng thể chủ yếu có thể kể ra là:
Nhóm 1: Mức độ mở cửa nền kinh tế Thế giới bao gồm các yếu tố thuế quan,
hàng rào phi thuế quan, hạn chế nhập khẩu, chính sách tỷ giá hối đoái.
Nhóm 2: Nhóm các chỉ số liên quan đến vai trò và hoạt động của Chính phủ
bao gồm mức độ can thiệp của Nhà nước, năng lực của Chính phủ, thuế và mức độ
trốn thuế, chính sách tài khoá.
Nhóm 3: Các yếu tố về tài chính bao gồm các nội dung về khả năng thực hiện
các hoạt động trung gian tài chính, hiệu quả và cạnh tranh, rủi ro tài chính và tiết kiệm.
Nhóm 4: Các yếu tố về công nghệ bao gồm năng lực phát triển công nghệ trong
nước, khai thác công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, phát triển công nghệ
thông qua các kênh chuyển giao công nghệ khác.

Nhóm 5: Các yếu tố và kết cấu hạ tầng như giao thông liên lạc và kết cấu hạ
tầng khác.
Nhóm 6: Quản trị bao gồm các chỉ số, quản trị nguồn nhân lực và các yếu tố
quản trị không liên quan đến nguồn nhân lực.
Nhóm 7: Các yếu tố về lao động bao gồm các chỉ số về trình độ tay nghề và
năng suất lao động, độ linh hoạt của thị trường lao động, hiệu quả của các chương
trình xã hội, quan hệ lao động trong một ngành.
Nhóm 8: Các yếu tố về thể chế gồm các yếu tố về chất lượng, các thể chế về
pháp lý, các luật và văn bản pháp quy khác.
Dựa vào các nhóm chỉ số này có thể đánh giá, xem xét để rút ra kết luận về việc
định liệu các chính sách, biện pháp đã được sử dụng ở một Quốc gia có thực sự nâng
cao sức cạnh tranh của nền kinh tế không. Chẳng hạn những năm qua Chính phủ Việt
Nam đã đưa ra chủ trương khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp hợp tác
liên doanh, liên kết với nước ngoài nhằm học hỏi kinh nghiệm chuyển giao công nghệ
và tăng trưởng kinh tế. Thế nhưng hiệu quả kinh tế đem lại không lấy gì làm chắc
chắn.
+
Cách tiếp cận dựa trên quan điểm của M.Poter về chỉ số năng suất:
Ông cho rằng chỉ có chỉ số năng suất là có ý nghĩa cho khái niệm về năng lực
cạnh tranh Quốc gia bởi vì đây là yếu tố cơ bản cho việc nâng cao sức sống của một
đất nước. Xét về dài hạn chỉ số năng suất này phụ thuộc vào trình độ phát triển và tính
năng động của các doanh nghiệp. Do đó khả năng cạnh tranh của một Quốc gia phụ
thuộc vào việc các yếu tố nào trong nền kinh tế quốc dân giữ vai trò quyết định cơ bản
cho phép các Công ty sáng tạo và duy trì lợi thế cạnh tranh trên mọi lĩnh vực cụ thể.
Với cách nhìn nhận vấn đề như vậy M.Poter đã đưa ra một khuôn khổ các yếu tố tạo
nên lợi thế cạnh tranh của một Quốc gia và Ông gọi đó là “khối lượng kim cương các
lợi thế cạnh tranh” bao gồm các nhóm được phân chia một cách tương đối:

Nhóm các điều kiện về nhân tố sản xuất: thể hiện vị thế của một Quốc gia
về nguồn lao động được đào tạo, có tay nghề, về tài nguyên, kết cấu hạ tầng, tiềm

năng khoa học và công nghệ.

Nhóm các điều kiện về cầu: phản ánh bản chất của nhu cầu thị trường trong
nước đối với sản phẩm và dịch vụ của một ngành.

Nhóm các yếu tố liên quan đến cơ cấu, chiến lược của doanh nghiệp và của
đối thủ cạnh tranh.

Nhóm các yếu tố về các ngành phụ trợ và các ngành có liên quan có khả
năng cạnh trạnh quốc tế.
Theo cách tiếp cận khả năng tranh ở cấp ngành, cấp Công ty:
+
Quan điểm của M.Poter:
Dựa theo quan điểm quản trị chiến lược được phản ánh trong các cuốn sách của
M.Poter, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu là năng lực chiếm lĩnh thị
trường, tiêu thụ các sản phẩm cùng loại (hay sản phẩm thay thế) của Công ty đó. Với
cách tiếp cận này mỗi ngành dù là trong hay ngoài nước năng lực cạnh tranh được quy
định bởi các yếu tố sau:

Số lượng các doanh nghiệp mới tham gia.

Sự có mặt của các sản phẩm thay thế.

Vị thế của khách hàng.

Uy tín của nhà cung ứng.

Tính quyết liệt của đối thủ cạnh tranh.
Nghiên cứu những yếu tố cạnh tranh này sẽ là cơ sở cho doanh nghiệp xây
dựng và lựa chọn chiến lược cạnh tranh phù hợp với giai đoạn, thời kỳ phát triển của

nền kinh tế.
+
Quan điểm tân cổ điển về khả năng cạnh tranh của một sản phẩm:
Quan điểm này dựa trên lý thuyết thương mại truyền thống, xem xét khả năng
cạnh tranh của một sản phẩm thông qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng
suất. Như vậy khả năng cạnh tranh của một ngành, Công ty được đánh giá cao hay
thấp tuỳ thuộc vào chi phí sản xuất có giảm bớt hay không vì chi phí các yếu tố sản
xuất thấp vẫn được coi là điều kiện cơ bản của lợi thế cạnh tranh.
Nói tóm lại có rất nhiều quan điểm, khái niệm khác nhau về khả năng cạnh
tranh. Song bài viết này không nhằm mục đích phân tích ưu nhược điểm của quan
điểm đó mà chỉ mong muốn giới thiệu khái quát một số quan niệm điển hình giúp cho
việc tiếp cận một phạm trù phổ biến nhưng còn nhiều tranh cãi về khái niệm được dễ
dàng hơn.
2.1.2 Các chỉ tiêu đánh giá về năng lực cạnh tranh
- Thị phần
Trên thực tế có rất nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác, trong đó thị phần là một chỉ tiêu
thường hay được sử dụng. Thị phần được hiểu là phần thị trường mà doanh nghiệp
chiếm giữ trong tổng dung lượng thị trường. Chỉ tiêu này càng lớn nói lên sự chiếm
lĩnh thị trường của doanh nghiệp càng rộng. Thông qua sự biến động của chỉ tiêu này
ta có thể đánh giá mức độ hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả hay không bởi nếu
doanh nghiệp có một mảng thị trường lớn thì chỉ số trên đạt mức cao nhất và ấn định
cho doanh nghiệp một vị trí ưu thế trên thị trường. Nếu doanh nghiệp có một phạm vi
thị trường nhỏ hẹp thì chỉ số trên ở mức thấp, phản ánh tình trạng doanh nghiệp đang
bị chèn ép bởi các đối thủ cạnh tranh. Bằng chỉ tiêu thị phần, doanh nghiệp có thể đánh
giá sơ bộ khả năng chiếm lĩnh thị trường so với toàn ngành.
Để đánh giá được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp so với các đối thủ ta
dùng chỉ tiêu thị phần tương đối: đó là tỷ lệ so sánh về doanh thu của Công ty so với
đối thủ cạnh tranh mạnh nhất để từ đó có thể biết được những mặt mạnh hay những
điểm còn hạn chế so với đối thủ. Ưu điểm của chỉ tiêu này là đơn giản, dễ hiểu nhưng

nhược điểm của nó là khó nắm bắt được chính xác số liệu cụ thể và sát thực của đối
thủ.
- Năng suất lao động
Năng suất lao động là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi thông qua năng suất lao động ta
có thể đánh giá được trình độ quản lý, trình độ lao động và trình độ công nghệ của
doanh nghiệp.
- Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
Lợi nhuận là một phần dôi ra của doanh thu sau khi đã trừ đi các chi phí dùng vào
hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận được coi là một chỉ tiêu tổng hợp đánh giá
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận
cao chắc chắn doanh nghiệp có doanh thu cao và chi phí thấp. Căn cứ vào chỉ tiêu lợi
nhuận các doanh nghiệp có thể đánh giá được khả năng cạnh tranh của mình so với đối
thủ. Nếu lợi nhuận cao thì khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cao và được đánh giá
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp rất khả quan. Chỉ tiêu này cho thấy nếu có
100 đồng doanh thu thì sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nếu chỉ tiêu này thấp
tức là tốc độ tăng của lợi nhuận nhỏ hơn tốc độ tăng của doanh thu, chứng tỏ sức cạnh
tranh của doanh nghiệp thấp. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả
cao. Đã có quá nhiều đối thủ thâm nhập vào thị trường của doanh nghiệp. Do đó doanh
nghiệp phải không ngừng mở rộng thị trường để nâng cao khả năng cạnh tranh nhằm
mục đích nâng cao lợi nhuận. Nếu chỉ tiêu này cao tức là tốc độ tăng lợi nhuận lớn hơn
tốc độ tăng của doanh thu. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được đánh giá là
có hiệu quả. Điều này chứng tỏ khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cao. Doanh
nghiệp cần phát huy lợi thế của mình một cách tối đa và không ngừng đề phòng đối
thủ cạnh tranh tiềm ẩn thâm nhập vào thị trường của doanh nghiệp bất cứ lúc nào do
sức hút lợi nhuận cao.
- Uy tín của doanh nghiệp
Uy tín của doanh nghiệp là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có uy tín sẽ có nhiều bạn hàng,
nhiều đối tác làm ăn và nhất là có một lượng khách hàng rất lớn. Mục tiêu của các

doanh nghiệp là doanh thu, thị phần và lợi nhuận… Nhưng để đạt được các mục tiêu
đó doanh nghiệp phải tạo được uy tín của mình trên thị trường, phải tạo được vị thế
của mình trong con mắt của khách hàng. Cơ sở, tiền đề để tạo được uy tín của doanh
nghiệp đó là doanh nghiệp phải có một nguồn vốn đảm bảo để duy trì và phát triển
hoạt động kinh doanh, có một hệ thống máy móc, cơ sở hạ tầng đáp ứng đầy đủ yêu
cầu của hoạt động kinh doanh. Yếu tố quan trọng nhất để tạo nên uy tín của doanh
nghiệp đó là “con người trong doanh nghiệp” tức doanh nghiệp đó phải có một đội ngũ
cán bộ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, đội ngũ nhân viên giỏi về tay nghề và
kỹ năng làm việc, họ là những con người có trách nhiệm và nhiệt tình trong công việc,
biết khơi dậy nhu cầu của khách hàng.
Trong nền kinh tế thị trường yếu tố nổi bật nhất để đánh giá khả năng cạnh tranh,
uy tín của doanh nghiệp đó là nhãn hiệu sản phẩm:
+
Thiết kế nhãn hiệu sản phẩm: Khi xây dựng một sản phẩm, các nhà quản trị
sẽ lưu tâm rất nhiều đến nhãn hiệu sản phẩm, một nhãn hiệu sản phẩm hay và ấn tượng
góp phần không nhỏ vào sự thành công của sản phẩm, nó giúp phân biệt sản phẩm của
doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh khác và là công cụ để doanh nghiệp định vị sản
phẩm trên thị trường mục tiêu. Khi thiết kế nhãn hiệu doanh nghiệp phải xem xét đến
các thành phần gồm: đặt tên sản phẩm, xây dựng biểu tượng (logo), khẩu hiệu và hình
ảnh cho nhãn hiệu. Đồng thời phải có chiến lược về nhãn hiệu đối với sản phẩm của
doanh nghiệp.
+
Các giá trị tài sản nhãn hiệu: Tài sản nhãn hiệu là giá trị của một nhãn hiệu
của sản phẩm do uy tín của nhãn hiệu sản phẩm đó đem lại. Quản trị giá trị nhãn hiệu
là một trong các công việc mang tính chiến lược quan trọng nhất, nó được xem là một
trong những dạng tiềm năng có giá trị cao. Trong những năm gần đây, khi các nhãn
hiệu sản phẩm của các doanh nghiệp cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường, hình thức
khuyến mại định hướng vào giá là hình thức phổ biến được nhiều doanh nghiệp áp
dụng, điều này làm tổn thương nhiều doanh nghiệp.
- Năng lực quản trị

Năng lực của nhà quản trị được thể hiện ở việc đưa ra các chiến lược, hoạch định
hướng đi cho doanh nghiệp. Nhà quản trị giỏi phải là người giỏi về trình độ, giỏi về
chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng giao tiếp, biết nhìn nhận và giải quyết các công
việc một cách linh hoạt và nhạy bén, có khả năng thuyết phục để người khác phục tùng
mệnh lệnh của mình một cách tự nguyện và nhiệt tình. Biết quan tâm, động viên,
khuyến khích cấp dưới làm việc có tinh thần trách nhiệm. Điều đó sẽ tạo nên sự đoàn
kết giữa các thành viên trong doanh nghiệp. Ngoài ra nhà quản trị còn phải là người
biết nhìn xa trông rộng, vạch ra những chiến lược kinh doanh trong tương lai với cách
nhìn vĩ mô, hợp với xu hướng phát triển chung trong nền kinh tế thị trường. Nhà quản
trị chính là người cầm lái con tàu doanh nghiệp, họ là những người đứng mũi chịu sào
trong mỗi bước đi của doanh nghiệp, là những người có quyền lực cao nhất và trách
nhiệm thuộc về họ cũng là nặng nề nhất. Họ chính là những người xác định hướng đi
và mục tiêu cho doanh nghiệp. Vì vậy mà nhà quản trị đóng một vai trò chủ chốt trong
sự phát triển của doanh nghiệp.
2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh
- Các nhân tố chủ quan
+ Khả năng về tài chính
Vốn là tiền đề vật chất cần thiết cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Bất cứ
hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân phối nào cũng đều phải xem xét tính toán đến
tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm lực lớn về tài chính sẽ
rất thuận lợi trong việc huy động vốn đầu tư, trong mua sắm đổi mới công nghệ và
máy móc cũng như có điều kiện để đào tạo và đãi ngộ nhân sự. Những thuận lợi đó sẽ
giúp doanh nghiệp nâng cao được trình độ chuyên môn tay nghề cho cán bộ, nhân
viên, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp chi phí để nâng cao sức cạnh tranh cho
doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nào yếu kém về tài chính sẽ không có điều kiện để
mua sắm, trang trải nợ và như vậy sẽ không tạo được uy tín về khả năng thanh toán và
khả năng đáp ứng những sản phẩm có chất lượng cao đối với khách hàng, khiến cho
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không phát triển được và có nguy cơ bị thụt
lùi hoặc phá sản. Như vậy khả năng tài chính là yếu tố quan trọng đầu tiên để doanh
nghiệp hình thành và phát triển.

+ Nguồn lực và vật chất kĩ thuật
Nguồn lực vật chất kỹ thuật sẽ phản ánh thực lực của doanh nghiệp đối với đối
thủ cạnh tranh về trang thiết bị hiện có được tận dụng và khai thác trong quá trình hoạt
động nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Bởi trình độ máy móc, thiết bị và công nghệ
có ảnh hưởng mạnh mẽ tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp
có hệ thống trang thiết bị máy móc, công nghệ hiện đại thì các sản phẩm của doanh
nghiệp nhất định sẽ được bảo toàn về chất lượng khi đến tay người tiêu dùng. Có hệ
thống máy móc hiện đại sẽ thúc đẩy nhanh quá trình tiêu thụ hàng hoá, tăng nhanh
vòng quay vốn, giảm bớt được khâu kiểm tra về chất lượng hàng hoá có được bảo đảm
hay không. Nếu xét về công nghệ, máy móc có ảnh hưởng đến giá thành của sản phẩm
và như vậy sẽ ảnh hưởng đến giá bán của doanh nghiệp thương mại. Ngày nay do tác
động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, cuộc chiến giữa các doanh nghiệp
đang trở thành cuộc cạnh tranh về trí tuệ, về trình độ công nghệ. Công nghệ tiên tiến
không những đảm bảo năng suất lao động, chất lượng sản phẩm cao, giá thành hạ mà
còn có thể xác lập tiêu chuẩn mới cho từng ngành sản xuất kỹ thuật. Mặt khác khi mà
việc bảo vệ môi trường như hiện nay đang trở thành một vấn đề của toàn cầu thì doanh
nghiệp nào có trình độ công nghệ cao thiết bị máy móc nhất định sẽ dành được ưu thế
trong cạnh tranh.
+ Nguồn nhân lực
Con người là yếu tố quyết định mọi thành bại của hoạt động kinh doanh. Bởi vậy,
doanh nghiệp phải chú ý việc sử dụng con người, phát triển nhân sự, và xây dựng môi
trường văn hoá, tổ chức của doanh nghiệp. Đồng thời doanh nghiệp phải quan tâm đến
các chỉ tiêu rất cơ bản như số lượng lao động, trình độ nghề nghiệp, năng suất lao
động, thu nhập bình quân và năng lực của cán bộ quản lý.
Con người là yếu tố chủ chốt, là tài sản quan trọng và có giá trị cao nhất của
doanh nghiệp. Bởi chỉ có con người mới có đầu óc và sáng kiến để sáng tạo ra sản
phẩm, chỉ có con người mới biết và khơi dậy được nhu cầu con người, chỉ có con
người mới tạo được uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp mà những yếu tố này hình
thành nên khả năng cạnh tranh. Vậy muốn nâng cao khả năng cạnh tranh của mình,
doanh nghiệp phải chú ý quan tâm đến tất cả mọi người trong doanh nghiệp, từ những

người lao động bậc thấp đến nhà quản trị cấp cao nhất, bởi mỗi người đều có một vị trí
quan trọng trong các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong bất cứ một doanh nghiệp nào, chỉ có nhà lãnh đạo giỏi thì vẫn chưa đủ, vẫn
chỉ mới có người ra quyết định mà chưa có người thực hiện những quyết định đó. Bên
cạnh đó phải có một đội ngũ nhân viên giỏi cả về trình độ và tay nghề, có óc sáng tạo,
có trách nhiệm và có ý thức trong công việc. Có như vậy họ mới có thể đưa ra những
sản phẩm có chất lượng tốt và mang tính cạnh tranh cao. Trong nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung trước kia, ban lãnh đạo có thể không có trình độ chuyên môn cao chỉ
cần họ có thâm niên công tác lâu năm trong nghề là họ yên trí đứng ở vị trí lãnh đạo,
và đội ngũ nhân viên không cần giỏi về chuyên môn, tay nghề, vẫn có thể tồn tại lâu
dài trong doanh nghiệp. Ngày nay với quy luật đào thải của nền kinh tế thị trường, nếu
như ban lãnh đạo không có đủ trình độ chuyên môn cao, không có năng lực lãnh đạo
thì trước sau họ cũng sẽ bị đào thải, sẽ phải rời khỏi vị trí mà họ đang nắm giữ.
Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp nào có đội ngũ lãnh đạo giỏi, tài tình
và sáng suốt thì ở đó công nhân viên yên tâm để cống hiến hết mình, họ luôn có cảm
giác là doanh nghiệp mình sẽ luôn đứng vững và phát triển, trách nhiệm và quyền lợi
của họ được bảo đảm, được nâng đỡ và phát huy. Ở đâu có nhân viên nhiệt tình, có
trách nhiệm, có sự sáng tạo thì ở có sự phát triển vững chắc, bởi những quyết định mà
ban lãnh đạo đưa ra đã có người thực hiện. Như vậy để có năng lực cạnh tranh thì
những người trong doanh nghiệp đó phải có ý thức, trách nhiệm và nghĩa vụ về công
việc của mình. Muốn vậy khâu tuyển dụng đào tạo và đãi ngộ nhân sự là vấn đề quan
trọng, nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
- Các nhân tố khách quan
+ Nhà cung cấp
Nhà cung cấp đối với doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng, nó đảm bảo cho
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành ổn định theo kế hoạch đã định
trước. Trên thực tế nhà cung cấp thường được phân thành ba loại chủ yếu: loại cung
cấp thiết bị, nguyên vật liệu; loại cung cấp nhân công; loại cung cấp tiền và các dịch
vụ ngân hàng, bảo hiểm. Như vậy mỗi doanh nghiệp cùng một lúc có quan hệ với
nhiều nguồn cung cấp thuộc cả ba loại trên. Vấn đề đặt ra là yêu cầu của việc cung cấp

phải đầy đủ về số lượng, kịp thời về thời gian, đảm bảo về chất lượng và ổn định về
giá cả. Mỗi sự sai lệch trong quan hệ với nhà cung cấp đều ảnh hưởng tới hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, điều đó sẽ làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để giảm tính độc quyền và sức ép từ phía các nhà cung cấp, các doanh nghiệp
phải biết tìm đến các nguồn lực tin cậy, ổn định và giá cả hợp lý với phương châm là
đa dạng hoá các nguồn cung cấp, thực hiện nguyên tắc “không bỏ tiền vào một ống”.
Mặt khác trong quan hệ này doanh nghiệp nên tìm cho mình một nhà cung cấp chính
có đầy đủ sự tin cậy, nhưng phải luôn tránh sự lệ thuộc, cần phải xây dựng kế hoạch

×