Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuấ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.53 KB, 31 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, vấn đề thị trường chứng khoán đã ,đang và sẽ trở
thành một vấn đề “thời sự nhất” đối với nền kinh tế của tất cả các quốc gia trên
toàn thế giới hiện nay.Khi nền kinh tế thị trường phát triển tới một mức độ nhất
định và nó đòi hỏi phải hình thành thêm một hình thức thị trường kinh tế phát triển
hiện đại hơn, chính xác hơn và thu hút được nhiều thành phần kinh tế cùng các cá
nhân tham gia- đó chính là thị trường chứng khoán.Thực tế đã chứng minh rằng
thị trường chứng khoán cung cấp một nguồn vốn rất quan trọng cho nền kinh tế thị
trường ,nó thúc đẩy nền kinh tế của các quốc gia tham gia phát triển mạnh hơn
,nhanh chóng hơn.
Thị trường chứng khoán Việt Nam mới ra đời và bắt đầu hoạt động từ 10
năm trước.Tuy còn non trẻ và có nhiều hạn chế nhưng trong quá trình phát triển
cũng đã đạt được một số thành tựu nhất định.Trong nền kinh tế thế giới nói chung
và nền kinh tế Đông Nam Á nói riêng, Việt Nam là một nước kinh tế đang phát
triển, một điểm đầu từ hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài.Trong đó không thể
không kể đến vai trò, tiềm năng, sự phát triển của thị trường chứng khoán. Các
nhà kinh tế tin tưởng rằng “thị trường chứng khoán Việt Nam” sẽ phát triển và đạt
nhiều triển vọng trong những năm tới
Đối với Việt Nam thị trường chứng khoán đã được hình thành và đang tiếp
tục phát triển.Thị trường chứng khoán ra đời ở nước ta đã phù hợp với chiến lược
phát triển kinh tế “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực
lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng
XHCN ”.
Cũng như các quốc gia khác trên thế giới, để có thể phát triển kinh tế với
đường lối chiến lược như vậy đòi hỏi nước ta phải có nguồn lực lớn, nguồn vốn
lớn để phát triển kinh tế
Vì vậy em xin nêu một vài điểm khái quát về thị trường chứng khoán Việt
Nam
Trong khuôn khổ đề tài tiểu luận, do trong quá trình gặp nhiều khó khăn nên
không tránh khỏi những sai sót.Em mong nhận được sự góp ý của cô để bài tiểu


luận được hoàn chỉnh hơn
Em xin chân thành cảm ơn!

CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1. Thời kỳ phôi thai (từ giữa thế kỷ 15 đến năm 1929).
Trong thời kỳ này, thị trường chứng khoán hưng thịnh nhất vào thế kỷ 19.
Nhưng đến giữa thế kỷ 19, nó đã bắt đầu thể hiện các mặt tiêu cực, như những
cuộc khủng hoảng có tính chu kỳ, đỉnh cao là đầu thế kỷ 20-được kết thúc bằng
cuộc khủng hoảng nền kinh tế toàn cầu (1929-1933).
Các đặc điểm nổi bật thời kỳ này:
 Việc hình thành thị trường chứng khoán và sở giao dịch chứng
khoán là mang tính chất tự phát, Nhà nước không can thiệp vào mà thừa nhận
vai trò tất yếu của nó trong nền kinh tế.
 Thị trường chứng khoán ở thời kỳ này là thuộc về tầng lớp thương
gia, mang nhiều tính chất đầu cơ.
 Hoạt động của thị trường chứng khoán dựa trên cơ sở tính chất hiệp
hội ngành nghề với các quy định tự đặt ra.
2. Thời kỳ phục hưng (1930-1970).
Thời kỳ này nhà nước bắt đầu can thiệp vào thị trường chứng khoán và thị
trường chứng khoán là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trong cuộc khủng hoảng
tài chính.Vì thế mà thị trường chứng khoán trở thành công cụ trong việc quản lý
thúc đẩy nền kinh tế. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán được chuyển về
tay Nhà nước bằng sự ra đời của Uỷ ban Chứng khoán quốc gia.
Vào những năm 50-60 của thế kỷ này, nền kinh tế thế giới bắt đầu phục hồi
với sự hoạt động rất sôi động trở lại của thị trường chứng khoán .
3. Thời kỳ quốc tế hoá và công chúng hoá thị trường chứng khoán (1971 đến
nay).
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ đã tạo ra việc ứng dụng
công nghệ tin học vào thị trường chứng khoán .

Những đặc điểm nổi bật là:
+ Hoạt động của sở giao dịch chứng khoán sôi động hơn và chất lượng cao
hơn.
+ Thị trường luôn đáp ứng thông tin đầy đủ và công khai tới công chúng đầu
tư qua các phương tiện hiện đại, được cập nhật thường xuyên và được công chúng
tham gia rộng rãi.
+ Các sàn giao dịch trên thế giới được kết nối cho phép hoạt động liên tục
24/24.
+ Với những đặc điểm như vậy cho phép mọi công dân đầu tư chứng khoán
bất cứ ở đâu và bất cứ khi nào mà họ muốn.
II. KHÁI NIỆM,PHÂN LOẠI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN.
1. Khái niệm về thị trường chứng khoán.
1.1 Khái niệm về chứng khoán.
Chứng khoán là những giấy tờ có giá trị, được xác nhận quyền sở hữu hợp
pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát
hành chứng khoán.Chứng khoán bao gồm các loại như: Cổ phiếu, Trái phiếu và
các loại giấy tờ khác có giá trị.
Cổ phiếu là loại chứng chỉ xác nhận việc góp vốn của một người vào công ty
cổ phần.Cổ phiếu xác nhận quyền sở hữu của người này đối với công ty cổ phần,
người sở hữu được gọi là cổ đông, cổ đông có các quyền hạn và trách nhiệm đối
với công ty cổ phần, được chia lời (cổ tức) theo kết quả kinh doanh của công ty cổ
phần: được quyền bầu cử, ứng cử vào ban quản lý, ban kiểm soát.Cổ phiếu có thể
được phát hành vào lúc thành lập công ty, hoặc lúc công ty cần them vốn để mở
rộng, hiện đại hóa sản xuất kinh doanh.
Một đặc điểm của cổ phiếu là cổ đông được chia cổ tức theo kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của công ty. Cổ đông có thể được hưởng lợi nhuận
nhiều hơn giá trị của cổ phiếu và cũng có thể bị mất trắng khi công ty làm ăn thua
lỗ. Cổ đông không được quyền đòi lại số vốn mà người đó đã góp vào công ty cổ
phần, họ chỉ có thể thu lại tiền bằng cách bán cổ phiếu đó ra trên thị trường chứng

khoán.
Trái phiếu là chứng chỉ xác nhận quyền làm chủ một món nợ của chủ sở hữu
trái phiếu đối với đơn vị phát hành. Trái phiếu lại loại chứng khoán mà lãi suất vay
nợ đã được xác định rõ ngay khi phát hành do đó nó có lợi tức cố định và chỉ được
hoàn trả khi đến hạn thanh toán ghi trên trái phiếu mà người phát hành phải thực
hiện. Trái phiếu do các doanh nghiệp có thể là quốc doanh, tư doanh hay cổ phần
phát hành.Ở Việt Nam hình thức vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu đã xuất
hiện ở một vài nơi.
Kỳ phiếu là chứng chỉ của nhà nước phát hành với mục đích vay vốn của các
tổ chức kinh tế xã hội, các tầng lớp dân cư để bù đắp vào thâm hụt của ngân sách
Nhà nước.Trong vài năm trở lại đây, kho bạc nhà nước đã phát hành kỳ phiếu kho
bạc rộng rãi trong cả nước.
1.2 Khái niệm về thị trường tài chính.
Thị trường tài chính (TTTC) là nơi cung và cầu về vốn gặp nhau, nơi diễn ra
các hoạt động trao đổi, mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính thông qua
những phương thức giao dịch và công cụ tài chính nhất định.
Cấu trúc của thị trường tài chính:

1.3 Thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua,bán ,chuyển
nhượng các loại cổ phiếu ,trái phiếu và một số loại giấy tờ có giá trị khác nhằm
mục đích kiếm lợi.
Thị trường chứng khoán theo tiếng Latinh là Bursa, nghĩa là các ví đựng tiền,
còn gọi là sở giao dịch chứng khoán, là một thị trường có tổ chức và hoạt động có
điều khiển.
Cụ thể hơn thị trường chứng khoán có thể được định nghĩa như là nơi tập
trung các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho người muốn sử dụng những nguồn
tiết kiệm đó theo giá mà người sử dụng sẵn sang trả.Nói cách khác thị trường
chứng khoán là nơi tập trung và phân phối các nguồn đầu tư này, có thêm nhiều
vốn hơn để đưa vào sản xuất trong nền kinh tế vì vậy có thể làm cho nền kinh tế

tăng trưởng và tạo nên sự thịnh vượng.
Theo định nghĩa nêu trên thị trường chứng khoán không phải là cơ quan mua
vào hoặc bán ra các loại chứng khoán.Thị trường chứng khoán chỉ là nơi giao
dịch, ở đó việc mua bán chứng khoán được thực hiện bởi những người môi giới
Thị trường
chứng khoán
Thị trường vay
nợ dài hạn
TTCK d i hà ạn
(trên một năm)
TTCK ngắn hạn
(dưới một năm)
Thị trường
tiền tệ
TTCK
chứng khoán.Như vậy thị trường chứng khoán không phải là nơi giao dịch chứng
khoán của những người muốn mua hay muốn bán các loại chứng khoán mà là của
những nhà môi giới. Nếu một người muốn mua hay muốn bán chứng khoán, người
này sẽ thông qua người môi giới chứng khoán của anh ta trên thị trường chứng
khoán để tiến hành việc mua bán chứ không trực tiếp tham gia mua bán. Giá cả
chứng khoán được hình thành một cách khách quan theo hệ thống bán đấu giá hai
chiều.Người môi giới mua khác được với giá thấp nhất, người môi giới bán cạnh
tranh với những người môi giới bán khác để bán được giá cao nhất. Vì thế mà thị
trường chứng khoán là thị trường có tính tự do cao nhất trong các loại thi trường.
2. Phân loại thị trường chứng khoán.
Về phương diện pháp lý, thị trường chứng khoán gồm có:
_ Thị trường chứng khoán chính thức (TTCK tập trung) là thị trường hoạt
động theo đúng các quy luật pháp định, là nơi mua bán các loại chứng khoán đã
được đăng biểu hay được biệt lệ.
+ Chứng khoán đăng biểu là loại chứng khoán đã được cơ quan có thẩm

quyền cho phép bảo đảm, phân phối và mua bán qua trung gian các kinh kỷ và các
công ty kinh kỷ, tức là đã hội đủ các tiêu chuẩn đã định.
+ Chứng khoán biệt lệ là loại chứng khoán được miễn giấy phép của cơ quan
có thẩm quyền, do chính phủ trong các cơ quan công quyền, thành phố, tỉnh, quận,
huyện, thị phát hành và bảo đảm.
Thị trường chứng khoán chính thức có địa điểm và thời biểu mua bán
rõ rệt và giá cả được tính theo thể thức đấu giá công khai, có sự kiểm soát của hội
đồng chứng khoán.Thị trường chứng khoán chính thức chủ yếu được thể hiện bằng
các sở giao dịch chứng khoán.
_ Thị trường chứng khoán phi chính thức( TTCK phi tập trung) là thị trường
mua bán chứng khoán bên ngoài sở giao dịch chứng khoán, không có địa điểm tập
trung những người môi giới, những người kinh doanh chứng khoán như ở sở giao
dịch chứng khoán. Ở đây không có sự kiểm soát từ bên ngoài, không có ngày giờ
hay thủ tục nhất định mà do sự thỏa thuận giữa người mua và người bán.
III. VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN.
1.Vai trò của thị trường chứng khoán.
Các vai trò của thị trường chứng khoán rất đa dạng:
1.1. Tạo vốn cho nền kinh tế quốc dân.
Do có thị trường chứng khoán nên việc đầu tư các nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi dễ dàng hơn.Từ việc nguồn vốn bị ứng đọng từ nhiều nơi, không có khả năng
sinh lời, cho đến khi có thị trường chứng khoán việc đầu tư, tích luỹ vốn sôi động
và dồi dào hẳn lên. Thông qua đó nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, công ăn việc
làm được giải quyết, thất nghiệp giảm. Bên cạnh, thị trường chứng khoán như một
trung tâm thu gom mọi nguồn vốn từ dân chúng, như một nam châm cực mạnh hút
các nguồn vốn từ nước ngoài.Ngoài ra còn giúp Nhà nước giải quyết vấn đề thiếu
hụt ngân sách, có thêm vốn xây dựng hạ tầng cơ sở.
1.2. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt và có hiệu
quả hơn.
Khi DN cần vốn để mở rộng quy mô sản xuất họ có thể phát hành chứng

khoán,vào thị trường để huy động vốn. Đây là phương thức tài trợ vốn qua phát
hành và lúc đó nguồn vốn của DN tăng lên.Lúc này rủi ro đối với doanh nghiệp là
rất nhỏ vì những cổ đông của họ đã gánh đỡ thay. Một điều thuận lợi nữa, khi DN
chưa có cơ hội sản xuất kinh doanh, các DN có thể dự trữ chứng khoán như là một
tài sản kinh doanh và các chứng khoán đó sẽ được chuyển nhượng thành tiền khi
cần thiết thông qua thị trường chứng khoán.Ngoài ra, khi DN niêm yết trên thị
trường chứng khoán, có nghĩa là đã có chữ tín đối với công chúng đầu tư.Như vậy
các công ty chứng khoán sẽ là tác nhân kích thích giúp DN tạo vốn nhanh chóng
hơn.
1.3. Thị trường chứng khoán là công cụ đánh giá DN, dự đoán tương lai.
Thị trường chứng khoán ngày càng đa dạng và phức tạp,liên quan đến vận
mệnh của nền kinh tế quốc dân.Sự hình thành thị giá chứng khoán của một DN
trên thị trường chứng khoán đã bao hàm sự hoạt động của DN đó trong hiện tại và
dự đoán tương lai.Khi giá cổ phiếu của một DN cao (hay thấp) biểu hiện trạng thái
kinh tế tức là khả năng mang lại cổ tức cao (hay thấp) cho các cổ đông của DN
đó.Triển vọng tương lai của các DN cũng được thể hiện một cách trực tiếp trên thị
giá cổ phiếu và cũng như sự biến động của nó.
Ngoài ra, với phương pháp chỉ số hoá thị giá của các loại chứng khoán chủ
yếu trong nền kinh tế và việc nghiên cứu, phân tích một cách khoa học hệ thống
chỉ số giá chứng khoán trên thị trường chứng khoán ở từng nước trong mối quan
hệ với thị trường thế giới, đã dự đoán được trước sự biến động kinh tế của một
hoặc hàng loạt các nước trên thế giới.
2. Chức năng của thị trường chứng khoán.
2.1. Chức năng thu hút vốn nhàn rỗi vào đầu tư phát triển.
Ta biết muốn đầu tư, phát triển thì phải tự tích luỹ hoặc huy động vốn từ bên
ngoài.Vốn huy động từ bên ngoài bao gồm vốn vay tín dụng của các tổ chức tài
chính và phát hành cổ phiếu, trái phiếu.Ưu điểm của phát hành trái phiếu, cổ phiếu
đối với dân chúng là họ dễ dàng đầu tư vào bất cứ DN nào họ muốn hoặc mua bán
kiếm lợi.Còn đối với các DN là họ không phải trả lãi suất hàng tháng và không
phải trả nợ gốc khi bị thua lỗ.

Do tính chất của chu kỳ kinh doanh nên vốn tạm thời nhàn rỗi trong các DN
là rất lớn, bên cạnh còn có một lượng vốn lớn nằm rải rác trong dân chưa được
huy động. Tất cả những tiềm năng này sẽ được phát huy hiệu quả nếu có thị
trường chứng khoán .Vì thị trường chứng khoán với cơ sở pháp lý hoàn chỉnh và
bộ máy quản lý hữu hiệu, với sự phổ biến và hướng dẫn rộng rãi , người dân sẽ dễ
dàng sử dụng nguồn tiết kiệm của họ hơn.Đây là tác nhân kích thích ý thức tiết
kiệm và tạo thói quen đầu tư trong công chúng.
Ngoài ra, trong xã hội còn có các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi như: quỹ bảo
hiểm, quỹ phúc lợi tập thể…một phần vốn của quỹ này được gửi vào ngân hàng để
thực hiện việc thanh toán, phần còn lại, những người quản lý quỹ luôn tự hỏi làm
thế nào cho vốn của họ có khả năng sinh lãi nhiều nhất và vừa an toàn, vừa có tính
tạm thời…và thị trường chứng khoán có khả năng đáp ứng yêu cầu này.
Tóm lại, thị trường chứng khoán có chức năng thu hút mọi nguồn vốn nhàn
rỗi trong xã hội để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô doanh
nghiệp góp phần giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp.
2.2. Chức năng điều tiết các nguồn vốn.
Phải thừa nhận rằng, một DN không phải lúc nào cũng thiếu hoặc thừa
vốn.Thừa hay thiếu là phụ thuộc vào tính chất của chu kỳ kinh doanh. Khi cần đầu
tư mua nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, các khoản phải thu lớn, thì đây là lúc
mà DN đang thiếu vốn. Khi quá trình sản xuất kết thúc, sản phẩm được bán ra và
thu vốn về, các khoản phải thu được thu về, lúc này DN lại tạm thời thừa vốn.
Trên thị trường vốn, luôn luôn có sự điều tiết vốn từ nơi thừa sang nơi
thiếu.Ở đây thị trường chứng khoán đóng vai trò rất quan trọng.
2.3. Chức năng hoà nhập nền kinh tế thế giới.
Một DN có thể thu hút vốn bất cứ nơi nào và bằng con đường nào mà họ có
thể thu hút một cách dễ dàng thông qua thị trường chứng khoán.Nhờ vào hệ thống
máy tính mà thị trường chứng khoán cho phép bất cứ ai, ở nơi nào trên thế giới và
mua một loại cổ phiếu của bất kỳ một công ty nào mà họ thích. Từ đó hình thành
mối liên hệ tiền tệ quốc tế, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển nguồn vốn giữa các nước,
thực hiện quan hệ vay mượn lâu dài trên thế giới tạo điều kiện cho việc hoà nhập

nền kinh tế thế giới.
2.4. Chức năng điều tiết vĩ mô.
Thị trường chứng khoán là công cụ của Nhà nước thông qua Uỷ ban chứng
khoán nhà nước và Ngân hàng trung ương.
Nghiệp vụ chủ yếu là thắt chặt hay nới lỏng sự đầu tư trên thị trường.Khi sản
xuất sa sút, thiếu vốn, Nhà nước tung tiền ra mở rộng cho vay để khuyến khích sản
xuất thông qua việc mua vào những lô chứng khoán có giá trị lớn.Khi hiện tượng
đầu tư quá mức, đầu cơ thịnh hành, thì bán chứng khoán nhằm thắt chặt tín dụng
giảm bớt đầu tư kinh tế.Vậy thị trường chứng khoán là công cụ hữu hiệu để nhà
nước kịp thời điều tiết nguồn vốn trên thị trường.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM QUA CÁC
THỜI KỲ
I. Giai đoạn 2000-2005: Giai đoạn chập chững biết đi của thị trường
chứng khoán.
Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc
đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh ngày
20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000.Ở thời
điểm lúc bấy giờ, chỉ có 2 doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM)
với số vốn 270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch.
Từ đó cho đến 2005, thị trường luôn ở trong trạng thái gà gật, loại trừ cơn
sốt vào năm 2001(chỉ số VN index cao nhất đạt 571.04 điểm sau 6 tháng đầu năm
nhưng chỉ trong vòng chưa đầy 4 tháng [từ tháng 6 đến tháng 10] các cổ phiếu
niêm yết đã mất giá tới 70% giá trị, chỉ số VN Index sụt từ 571,04 điểm vào ngày
25/4/2001 xuống chỉ còn khoảng 200 điểm vào tháng 10/2001). Trong 4 tháng
“hoảng loạn” này, trong khi nhiều nhà đầu tư tháo chạy khỏi thị trường với lời
nguyền không bao giờ quay lại thì một số nhà đầu tư khác vẫn bình tĩnh bám trụ,
âm thầm mua bán và tiếp tục kiếm được lợi nhuận thì trong 5 năm chỉ số VN-
Index lúc cao nhất chỉ có 300 điểm, mức thấp nhất xuống đến130 điểm. Lý do
chính là ít hàng hoá, các doanh nghiệp niêm yết cũng nhỏ, không nổi tiếng, không
hấp dẫn nhà đầu tư trong nước, trong khi "room" cũng hết.

Ngày 8/3/2005: trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (TTGDCK HN)
chính thức đi vào hoạt động. Giai đoạn tỉnh ngủ dần xuất hiện từ năm 2005 khi tỷ
lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài được nâng từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực
ngân hàng).
Trong 5 năm đầu tiên, dường như thị trường không thực sự thu hút được sự
quan tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa
tạo ra tác động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh
tế cũng như tới cuộc sống của mỗi người dân.
Theo thống kê của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, tính đến hết năm 2005,
tổng giá trị thị trường chứng khoán việt Nam đạt gần 40.000 tỷ đồng, chiếm 0,69%
tổng thu nhập quốc nội (GDP). Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện có 4.500
tỷ đồng cổ phiếu, 300 tỷ đồng chứng chỉ quỹ đầu tư và gần 35.000 tỷ đồng trái
phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, thu hút 28.300 tài khoản giao
dịch .Trong năm 2005, tốc độ tăng trưởng của thị trường chứng khoán gấp đôi so
với năm 2004, huy động được 44,600 tỷ đồng, hiện giờ giá trị cổ phiếu so với
GDP của cả nước đạt gần 1%.
Nhiều nhà nghiên cứu, đại diện cơ quan quản lý và giới doanh nghiệp, các
công ty chứng khoán đều có chung nhận định rằng sau 5 năm hoạt động, thị
trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn nghèo về hàng hoá và tính thanh khoản
chưa cao.
Số liệu được đưa ra tại hội thảo "Thị trường chứng khoán - 5 năm hoạt động
và phát triển" tổ chức ngày 18/7 tại Hà Nội cho thấy qua 5 năm (2000-2005) hoạt
động, tổng giá trị niêm yết chứng khoán mới đạt trên 30.000 tỷ đồng.Số lượng cổ
phiếu tăng chậm, các công ty niêm yết chủ yếu vẫn là các công ty có quy mô nhỏ.
Mặt khác, chính sách đối với nhà đầu tư nước ngoài chưa thực sự cởi mở; cơ chế
tài khoản lưu ký, giao dịch còn phức tạp nên chưa thu hút được đông đảo nhà đầu
tư.
II. Giai đoạn năm 2006: Sự phát triển đột phá của TTCK Việt Nam.
Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột
phá”, tạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với

hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3 “sàn”: Sở giao dịch Tp.Hồ Chí Minh, Trung
tâm Giao dịch Hà Nội và thị trường OTC
Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 thị trường chứng
khoán Việt Nam trở thành "điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế giới, chỉ
sau Dim-ba-buê.Và sự bừng dậy của thị trường non trẻ này đang ngày càng "hút
hồn" các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Không thể phủ nhận năm 2006 vừa qua thị trường chứng khoán Việt Nam
non trẻ này đã có “màn trình diễn” tuyệt vời và có thể sẽ không bao giờ có lại
được với khối lượng vốn hoá tăng gấp 15 lần trong vòng 1 năm.
Năm 2006 , TTCK Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, chỉ số Vn-Index tại
sàn giao dịch TP. Hồ Chí Minh (HASTC) tăng 144% năm 2006, tại sàn giao dịch
Hà Nội (Hastc) tăng 152,4%.
Thị trường chứng khoán Việt Nam 2006: VN-Index cuối năm tăng 2,5 lần
so đầu năm.
Tổng giá trị vốn hóa đạt 13,8 tỉ USD cuối năm 2006 (chiếm 22,7% GDP)
giá trị cổ phiếu do các nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4 tỉ USD,
chiếm 16,4% mức vốn hóa của toàn thị trường.
Hàng ngày có khoảng 80-100 công ty có cổ phiếu giao dịch, đây là những
cổ phiếu được phát hành theo Luật Doanh nghiệp là chính.Trên thị trường phi tập
trung, tổng khối lượng giao dịch gấp khoảng 6 lần so với khối lượng giao dịch trên
Hastc.
Số công ty niêm yết tăng gần 5 lần, từ 41 công ty năm 2005 đã lên tới 193
công ty, số tài khoản giao dịch đạt hơn 10 vạn gấp 3 lần năm 2005 và 30 lần so với
6 năm trước. Trong vòng một năm, chỉ số Vn-Index tăng hơn 500 điểm, từ hơn
300 điểm cuối 2005 lên 800 điểm cuối 2006.
Trong khoảng từ giữa đến cuối năm 2006, tình trạng đầu tư vào cổ phiếu ở
nước ta mang tâm lý “đám đông”, cả người có kiến thức và hiểu biết, cả những
người mua, bán theo phong trào, qua đó đẩy TTCK vào tình trạng “nóng”, hiện
tượng “bong bóng” là có thật.
Mức vốn hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam đã tăng đột biến, tháng

12/2006 đạt 13,8 tỉ USD (chiếm 22,7% GDP). Đặc biệt, số lượng các nhà đầu tư
mới tham gia thị trường ngày càng đông, tính đến cuối tháng 12/ 2006 có trên
120.000 tài khoản giao dịch chứng khoán được mở, trong đó gần 2.000 tài khoản
của nhà đầu tư nước ngoài.
Năm 2006, kỷ lục mới của VN-Index được xác lập ở mốc 809,86 điểm.Với
HASTC-Index là nỗ lực chạm mốc 260 điểm. Tính chung so với đầu năm, chỉ số
VN-Index đã có mức tăng trưởng tới 146% và HASTC-Index tăng tới 170%. Đây
là những mức tăng mà các thị trường trên thế giới phải thừa nhận là quá ấn tượng.
Tính đến phiên 29/12/2006, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM đã có sự
góp mặt của 106 cổ phiếu, 2 chứng chỉ quỹ và 367 trái phiếu với tổng giá trị niêm
yết theo mệnh giá là trên 72 nghìn tỷ đồng. Còn tại Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán Hà Nội, số lượng chứng khoán tham gia đã lên đến 87 cổ phiếu và 91 trái
phiếu với tổng mức đăng ký giao dịch theo mệnh giá đạt 29 nghìn tỷ đồng. Xét
riêng về mức vốn hoá cổ phiếu, toàn bộ thị trường chứng khoán chính thức Việt
Nam với 193 cổ phiếu vào phiên cuối năm, đã lên tới 220 nghìn tỷ đồng, tương
đương với 13,8 tỷ USD.
III. Giai đoạn 2007: Giai đoạn thị trường chứng khoán bùng nổ.
Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị
trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc
tế.Tính công khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường.
VNIndex đạt đỉnh 1.170,67 điểm
HASTC-Index chạm mốc 459,36 điểm
Nhìn chung diễn biến của thị trường và giá cả chứng khoán trong các phiên
giao dịch có nhiều biến động, Index của cả 2 sàn giao dịch đều có biên độ giao
động mạnh. Kết thúc phiên giao dịch cuối năm, VNIndex đạt 927,02 điểm, Hastc-
Index dừng ở mức 323,55 điểm, như vậy sau 1 năm hoạt động VNIndex đạt được
mức tăng trưởng là 23,3%; Hastc-Index tăng 33,2% so với mức điểm thiết lập vào
cuối năm 2006.
Tính đến ngày 28/12/2007, SGDCK TP.HCM đã thực hiện được 248 phiên
giao dịch với tổng khối lượng giao dịch đạt hơn 2,3 tỷ chứng khoán tương đương

với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 224.000 tỷ đồng, gấp 2 lần khối lượng
và 2,8 lần giá trị giao dịch so với năm 2006. Bình quân mỗi phiên giao dịch có 9,2
triệu chứng khoán được chuyển nhượng tương đương với 980 tỷ đồng.
TTGDCK Hà Nội thực hiện thành công 248 phiên giao dịch, với tổng khối
lượng giao dịch toàn thị trường đạt 616,3 triệu chứng khoán tương đương với tổng
giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 63.859 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần về khối lượng
và 15,8 lần về giá trị giao dịch so với năm 2006. Quy mô giao dịch tăng trưởng
mạnh khi mức giao dịch bình quân năm 2007 đạt 255 tỷ đồng/phiên trong khi năm
2006 chỉ đạt 19 tỷ đồng/phiên.
Nhìn nhận khách quan từ góc độ thị trường, bên cạnh những thành công,
TTCK qua một năm hoạt động cũng ghi lại dấu ấn cho những giai đoạn thăng trầm
nhất định khi thị trường trải qua những biến động trồi sụt thất thường:
1. Giai đoạn thị trường bùng nổ trong 3 tháng đầu năm 2007.
Đây là giai đoạn thị trường có những đợt sóng cao, khiến Index của cả 2 sàn
giao dịch đều lập kỷ lục: chỉ số VNIndex đã đạt mức đỉnh là 1.170,67 điểm sau 7
năm hoạt động và Hastc – Index thiết lập mức đỉnh 459,36 điểm sau 2 năm hoạt
động.Có thể nói, đây là giai đoạn thị trường đạt mức tăng trưởng với tốc độ lớn
nhất khi đạt mức tăng 126% chỉ trong vòng 3 tháng giao dịch.
Nhờ sự tăng trưởng về giá của các cổ phiếu, tổng giá trị vốn hóa của thị
trường trong giai đoạn này lên đến con số 398.000 tỷ đồng. So với tổng giá trị vốn
hóa 492.900 tỷ đồng của cả năm 2007, con số của 3 tháng đầu năm đã chiếm tỷ
trọng 4/5. Nhưng điều quan trọng góp phần gia tăng giá trị vốn hóa của thị trường
không phải do số lượng chứng khoán niêm yết gia tăng mà do yếu tố giá cổ phiếu
tăng mạnh.
Trong giai đoạn này, giá các cổ phiếu tăng trưởng với tốc độ phi mã, đồng
loạt các cổ phiếu từ Blue – chip, Penny stock, các cổ phiếu mới niêm yết trên
sàn… tất cả đều đạt mức tăng trưởng trên 50% giá trị so với mức giá giao dịch đầu
năm, trong đó có những cổ phiếu đạt mức tăng trưởng trên 100% như: STB
(113,57%), REE (122,66%), ACB (197%),…. Rất nhiều mã CP thiết lập mức giá
đỉnh kể từ khi lên sàn trong giai đoạn này như: SJS (728.000 đ/CP), FPT (665.000

đ/CP), DHG (394.000đ/CP), REE (285.000đ/CP), SSI (255.000đ/CP), SAM
(250.000đ/CP),…
Yếu tố quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng nóng trong giai đoạn này
phải kể đến sức cầu trên thị trường tăng một cách đột biến khiến giá trị giao dịch
trung bình mỗi phiên giao dịch lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Tại sàn HCM, bình
quân mỗi phiên giá trị giao dịch đạt trên 1.000 tỷ đồng, sàn HN cũng đạt con số
300 tỷ đồng.
2.Giai đoạn thị trường điều chỉnh từ tháng 4/2007 đến đầu tháng 9/2007.
Với nỗi lo sợ về một “thị trường bong bóng”, các cơ quan quản lý nhà nước
cũng như Chính phủ đã vào cuộc để giảm nhiệt thị trường bằng các biện pháp
kiểm soát thị trường chặt chẽ, ban hành những thiết chế để kiềm chế sự tăng
trưởng quá nóng của thị trường.Phản ứng trước điều này, TTCK đã có những đợt
điều chỉnh rõ rệt Một đợt điều chỉnh giảm của thị trường đã diễn ra trong một
khoảng thời gian rất dài (từ cuối Tháng 3 đến đầu Tháng 9).
Giai đoạn điều chỉnh này ghi nhận sự trầm lắng của cả 2 sàn HOSE và
HASTC,tất cả các yếu tố của thị trường đều giảm sút nghiêm trọng.
VNIndex chỉ trong vòng 1 tháng giao dịch đã rơi xuống mức 905,53 điểm
(24/04/2007), giảm tới 22,6% so với mức đỉnh vào tháng 3. Hastc – Index trở về
mốc 321,44 điểm (24/04/2007), giảm 30% so với mức đỉnh.Thị trường đã mất
điểm quá nhanh trong 1 thời gian ngắn khiến giá giao dịch của các cổ phiếu đã trở
về gần mức giá thiết lập vào đầu năm.
Trong giai đoạn này,thị trường cũng có một đợt hồi phục vào giai đoạn cuối
Tháng 5/2007 khi VNIndex quay trở về mốc 1.107,52 điểm (23/05/2007). Nhưng
do tác động tâm lý quá mạnh của các chính sách kiềm chế thị trường trước đó như
Chỉ thị 03, Luật thuế thu nhập cá nhân,…., thị trường nhanh chóng trở lại trạng
thái mất cân bằng và liên tục sụt giảm mạnh khiến giai đoạn đầu Tháng 8, thị
trường xác lập mức đáy 883,9 điểm của VNIndex (6/8/2007) và 247,37 điểm của
Hastc - Index (23/08/2007).
Vào giai đoạn thị trường xuống sâu nhất (khoảng đầu Tháng 8),sàn HCM có
những phiên giao dịch chỉ có hơn 3 triệu cổ phiếu được khớp lệnh (ngày

30/07/2007 chỉ có 3.296.340CP được giao dịch), sàn HN cũng chỉ có vẻn vẹn
600.000 CP được chuyển nhượng thành công (ngày 8/8/2007 khớp lệnh 603.100
CP).
Giai đoạn này, các NĐTNN cũng tỏ ra khá thờ ơ khi lượng giao dịch của
khối này trên cả 2 sàn giao dịch đều sụt giảm mạnh.Giá trị giao dịch bình quân của
khối NĐTNN trong giai đoạn này đạt khoảng 170 tỷ đồng/phiên, giảm tới 52% so
với giai đoạn đầu năm.
3. Giai đoạn phục hồi của thị trường vào những tháng cuối năm.
Thị trường bước vào giai đoạn phục hồi mạnh mẽ trong khoảng thời gian đầu
tháng 9 đến cuối tháng 10/2007.
Giá các cổ phiếu trên sàn có xu hướng phục hồi nhanh chóng, đặc biệt là các
mã cổ phiếu blue – chip trên cả 2 sàn đều lấy lại được những gì đã mất trong 6
tháng giữa năm, tuy nhiên sức bật của các cổ phiếu không đủ mạnh để đưa các cổ
phiếu trở về mức giá đỉnh thiết lập vào tháng 3. Trong giai đoạn này, VNIndex đã
có những phiên giao dịch vượt lên trên ngưỡng 1.100 điểm (1.106,6 điểm vào
ngày 3/10/2007), Hastc – Index cũng gần chạm trở lại ngưỡng 400 điểm (393,59
điểm ngày 01/10/2007).
Đà tăng giá của các cổ phiếu trong giai đoạn này thể hiện rõ nét nhất ở
nhóm các cổ phiếu blue – chip như DHG, FPT, VIC… tại HOSE và nhóm cổ
phiếu Sông Đà: S99, SDA, S91…. tại HASTC.Lượng giao dịch bình quân phiên
tại HOSE luôn ở trên mức 10 triệu CP (phiên giao dịch kỷ lục đạt 19.047.000 CP
vào ngày 01/10/2008), sàn HASTC cũng đạt lượng giao dịch bằng 1/2 sàn HOSE
với trung bình phiên có 5 triệu CP được chuyển nhượng.
Tuy nhiên,Thị trường sau một đợt phục hồi đã nhanh chóng điều chỉnh giảm
vào 2 tháng cuối năm.Trong giai đoạn này, thị trường thỉnh thoảng cũng có các
đợt phục hồi giả với sự tăng lên mạnh mẽ của tất cả các yếu tố.Tuy nhiên sự phục
hồi này không duy trì được lâu, thậm chí đã có dấu hiệu suy giảm chỉ sau 1 phiên
tăng điểm.Chính điều này đã dẫn tới việc các nhà đầu tư bị đọng vốn.Trong khi
nguồn cầu có xu hướng cạn kiệt, thì nguồn cung vẫn tiếp tục gia tăng. Tương quan
cung cầu mất cân bằng khiến thị trường ngày càng tuột dốc cả về giá lẫn khối

lượng giao dịch và giá trị giao dịch.VNIndex giảm xuống dưỡi ngưỡng điểm 1.000
và chỉ xoay quanh mốc 900 điểm, với lượng chứng khoán chuyển nhượng rất hạn
chế.
IV .Giai đoạn 2008: Cùng trong xu thế chung của nền kinh tế,TTCK
Việt Nam khép lại năm 2008 với sự sụt giảm mạnh.
Nhìn lại thị trường sau 01 năm giao dịch, những điểm nổi bật của thị trường:
Index giảm điểm, thị giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh (nhiều mã CP rơi xuống
dưới mệnh giá), tính thanh khoản kém, sự thoái vốn của khối ngoại, sự can thiệp
của các cơ quan điều hành và sự ảm đạm trong tâm lý các NĐT.Tính từ đầu năm
đến hết ngày 31/12/2008, TTCKVN trải qua 03 giai đoạn chính:
1. Giai đoạn 1: Từ tháng 01 tới tháng 06 - Thị trường giảm mạnh do tác
động từ tác động của kinh tế vĩ mô
Khởi đầu năm tại mức điểm 921,07; VNIndex đã mất đi gần 60% giá trị và
trở thành một trong những thị trường giảm điểm mạnh nhất trên thế giới trong nửa
đầu năm 2008.
Các thông tin tác động xấu tới tâm lý nhà đầu tư trong giai đoạn này chủ
yếu xuất phát từ nội tại nền kinh tế.Trong đó nổi bật là sự gia tăng lạm phát, chính
sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, sự leo dốc của giá xăng dầu và sức ép giải chấp
từ phía ngân hàng đối với các khoản đầu tư vào TTCK.
Nhằm mục đích ngăn chặn đà suy giảm của thị trường, các cơ quan điều
hành bắt đầu đưa ra những chủ trương và biện pháp hỗ trợ:
(1) UBCKNN thu hẹp biên độ giao dịch;
(2) SCIC tham gia mua vào cổ phiếu;
(3) NHTM được vận động ngừng giải chấp;
(4) Tổ chức niêm yết được khuyến khích mua vào cổ phiếu quỹ.
Tuy nhiên, phần lớn các biện pháp này chỉ phát huy hiệu quả trong ngắn
hạn, và thị trường tiếp tục sụt giảm, cơn bão giải chấp cổ phiếu không ngừng tác
động tới tâm lý các nhà đầu tư.Trong 103 phiên giao dịch của giai đoạn này, có tới
71 phiên VNIndex giảm điểm.Đỉnh điểm là chuỗi 34 phiên VN-Index giảm điểm
liên tiếp từ giữa tháng 04 đến đầu tháng 06/2008. Sau 103 phiên giao dịch

VNIndex giảm mất 550,52 điểm- tương đương 59,77%. Bình quân trong mỗi
phiên, toàn thị trường có 8,02 triệu CP&CCQ được chuyển nhượng, tương đương
khoảng 482 tỷ đồng.
Trong đợt suy giảm này,nhóm cổ phiếu chịu nhiều tác động nhiều nhất là
nhóm cổ phiếu tài chính ngân hàng, công nghệ và công nghiệp (chủ yếu là các
doanh nghiệp BĐS).
Trong lịch sử hoạt động của TTCK, chưa có năm nào UBCKNN phải can
thiệp vào thị trường bằng các biện pháp mạnh tay nhiều như năm 2008.Tổng cộng
trong năm 2008, UBCKNN đã có 4 lần thay đổi biên độ dao động giá trên cả 2 sàn
chứng khoán. Nhằm hỗ trợ thêm cho sức cầu trên thị trường, ngăn đà suy giảm
mạnh của các chỉ số chứng khoán, ngày 04/03/2008, Chính phủ đã đưa ra nhóm 19
giải pháp ứng cứu thị trường: Cho phép SCIC mua vào cổ phiếu trên thị trường,
kêu gọi và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp niêm yết mua vào cổ phiếu quỹ
Sự tăng trưởng nóng trong năm 2007, đặc biệt vào những tháng cuối năm đã
đưa đến những dấu hiệu bất ổn về kinh tế vĩ mô. Chỉ số tiêu dùng bắt đầu gia tăng
với mức trung bình 2,07%/tháng trong cuối năm 2007. Tiếp nối xu thế này, trong
quý I năm 2008, chỉ số CPI tiếp tục gia tăng với tốc độ bình quân 3,06%/tháng và
đạt đỉnh vào tháng 05/2008 với mức tăng 3,91%.
Trong chu kỳ tăng giá nửa đầu năm 2008, tại đa số thời điểm, lương thực
được coi là yếu tố tác động chủ yếu đến chỉ số giá. Tính đến tháng 06, giá lương
thực đã tăng 57, 22% so với tháng 12/2007.
Chịu ảnh hưởng trực tiếp của tỷ lệ lạm phát tăng cao trong nước và sự biến
động mạnh của giá cả hàng hóa trên thế giới, thị trường hàng hóa và thị trường
tiền tệ Việt Nam tiếp tục có những biến động mạnh.
Trên thị trường hàng hóa,xăng dầu - loại hàng hóa cơ bản thuộc sự kiểm soát
của Chính phủ - đã được điều chỉnh mạnh.Trên thị trường tiền tệ, lãi suất từ
NHNN và NHTM liên tiếp xác định các mặt bằng mới. Chịu tác động sức ép từ
lạm phát, lãi suất từ các NHTM tăng mạnh trong cuối quý II, dao động từ 16 -
18% đối với huy động tiền gửi và 20-21% đối với các khoản vay.Đặc biệt các sản
phẩm huy động vốn với kỳ hạn ngắn, lãi suất cao là tiêu điểm của hệ thống NH

trong giai đoạn này.Sự căng thẳng về thanh khoản và sự xáo trộn về dòng chảy của
tiền gửi huy động là nỗi lo của các NHTM trong giai đoạn này. Thâm hụt thương
mại cao nhất vào trong năm tháng đầu năm với mức trung bình là khoảng 2,6 tỷ
USD/tháng.
Trước thực trạng này chính phủ đã đề ra 8 nhóm giải pháp vào tháng 3/2008
với mục tiêu kiềm chế lạm phát và thâm hụt thương mại.Các chính sách chủ yếu
được thực hiện thông qua việc sử dụng công cụ điều hành lãi suất cơ bản và thắt
chặt đầu tư công để hạn chế nguồn cung tiền trên thị trường.
2. Giai đoạn 2: Tháng 06 tới đầu tháng 09 - Phục hồi trong ngắn hạn
Nhờ vai trò dẫn dắt của một số cổ phiếu blue -chip như STB, FPT, DPM…
và đặc biệt là SSI với sức cầu hỗ trợ từ đối tác nước ngoài, cả hai sàn chứng khoán
đã có được những phiên tăng điểm mạnh trong giai đoạn này. VNIndex và Hastc-
Index liên tiếp vượt qua các ngưỡng cản tâm lý quan trọng và thường xuyên có
được những chuỗi tăng điểm kéo dài.Đây cũng là giai đoạn thị trường hoạt động
sôi động nhất. Sức cầu mạnh, kéo theo khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch
thường xuyên ở mức cao. VNIndex tăng được 168, 55 điểm, tương đương 45,
52%.Khối lượng giao dịch bình quân đạt 16, 9 triệu CP&CCQ, tương đương 599,
18 tỷ đồng/phiên.
Trong giai đoạn này, nhóm cổ phiếu được ưa thích nhất là nhóm cổ phiếu
dầu khí (tăng 80,33%), nguyên vật liệu và công nghệ (tăng 89,78%). Các đại diện
tiêu biểu cho nhóm cổ phiếu này bao gồm: PVS, PVD, PTC, HPG, FPT…
3. Giai đoạn 3: Từ tháng 09 tới tháng 12 - Thị trường rơi trở lại chu kỳ
giảm do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Đây là thời kỳ VNIndex rơi trở lại xu hướng giảm, thậm chí đã phá vỡ đáy
thiết lập được trong giai đoạn đầu của năm 2008.Tổng kết cả giai đoạn này,
VNIndex mất 223,48 điểm, tương đương 41,45%. Khối lượng giao dịch trung bình
đạt 15,82 triệu CP&CCQ, tương đương 497,58 tỷ đồng/phiên.
Nguyên nhân tác động lớn nhất tới TTCK trong giai đoạn này chính là sự
lan tỏa mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới.Hòa cùng xu thế
giảm điểm của TTCK các nước, 02 chỉ số chứng khoán tại sàn HOSE và HASTC

liên tiếp giảm điểm.Trong 86 phiên giao dịch tại HOSE, 49 phiên VNIndex mất
điểm. Đáy mới thiết lập trong giai đoạn này là 286, 85 điểm vào ngày 10/12/2008.
Cùng với nỗ lực giải cứu nền kinh tế của Chính phủ và động thái từ
NHNN, xen lẫn giữa những phiên giảm điểm ,TTCK Việt Nam vẫn có những
phiên phục hồi mạnh.Tuy nhiên, các “con sóng” trên thị trường thường rất ngắn và
không ổn định. Kết thúc giai đoạn này, VNIndex giảm mất 239, 52 điểm, tương
đương 43,15%.
Tốc độ giảm mạnh nhất trong giai đoạn này thuộc nhóm cổ phiếu các
ngành nguyên vật liệu, công nghiệp, tài chính và công nghệ.Nguyên nhân của sự
suy giảm trong giai đoạn này được nhận định một phần do sự tác động của xu thế
chung thị trường, ngoài ra, cũng là hệ quả của việc tăng khá chóng mặt của các các
cổ phiếu này trong giai đoạn trước đó.Một trong những đề tài nóng hổi và được
báo giới chú ý trong những tháng cuối năm là phong trào trả cổ tức bằng tiền mặt,
với tỷ lệ khá cao của các công ty niêm yết.
Nguồn vốn FII vào Việt Nam chủ yếu thông qua các quỹ đầu tư. Tuy
nhiên, kể từ cuối tháng 08/2008 cùng với sự sụt giảm của TTCK thế giới nói
chung TTCK Việt Nam cũng giảm mạnh. Tính đến tháng 12/2008, những dấu hiệu
về khả năng nhà đầu tư nước ngoài rút vốn ra khỏi thị trường chứng khoán cũng
bắt đầu xuất hiện, thể hiện qua việc bán ròng của khối ngoại trong những tháng
cuối năm.Ngoài ra, mặc dù lạm phát được kiềm chế nhưng lại có sự lo ngại về
giảm phát do chỉ số CPI tăng trưởng âm trong những tháng cuối năm.
Trong quý cuối năm, CPI đã giảm 0,23% trong tháng 10 và tăng lên thành
0,81% trong tháng 12 (so từng tháng).Tính cả năm 2008 , tỷ lệ lạm phát là 19,89%
(so với tháng 12/2007) và xấp xỉ 23% (so với bình quân 2007)
Giải pháp tài chính kịp thời trong những tháng cuối năm 2008 được thực
hiện thông qua việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản nhằm kích cầu sản xuất tiêu
dùng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vay vốn một cách dễ dàng hơn,
đồng thời giảm áp lực tín dụng cho các ngân hàng thương mại.
V. Giai đoạn năm 2009
Mặc dù về những tháng cuối năm TTCK Việt Nam đã có điều chỉnh giảm do

tác động của chính sách thắt chặt tiền tệ của Chính Phủ nhưng nhìn chung với một
chu kỳ tăng điểm kéo dài hơn 8 tháng trong những tháng nằm giữa thì cả năm
2009 TTCK Việt Nam có một năm tăng trưởng rất ấn tượng.
Nếu tính từ ngày 01/01/2009 đến 31/12/2009 thì VN-Index đã tăng them
171,96 điểm từ 312,49 điểm lên đến 494,77 điểm tương đương với mức tăng là
58%.Nếu tính từ đáy thấp nhất trong năm thì VN-Index đã tăng 2, 69 lần. Tương
tự ở sàn HNX mức tăng trưởng trong năm 2009 của HNX-Index là 60,9% và nếu
so từ đáy thấp nhất thì HNX-Index đã tăng 2,79 lần
Diễn biến của VN-Index trong năm 2009 (Nguồn Chứng khoán Âu Việt )
Diến biến của HNX-Index trong năm 2009 (Nguồn Chứng khoán Âu Việt)
Điều đặc biệt của TTCK Việt Nam 2009 là giai đoạn hồi phục từ đấy 234,667
điểm chủ yếu được dẫn dắt nhờ khối nhà đầu tư cá nhân.Sau đó nhà đầu tư tổ chức
mới bắt đầu tham gia thị trường. Thị trường hình thành 2 đợt sóng tăng lớn từ đầu
tháng 3 đến tháng 6 và đầu tháng 8 đến cuối tháng 10.Sóng giảm là từ đầu năm
đến cuối tháng 2, trong tháng 7 và từ cuối tháng 10 đến giữa tháng 12.
Sự bùng nổ của TTCK Việt Nam trong giai đoạn từ tháng 3 đến tháng 10 chủ yếu
đến từ các nguyên nhân sau:
• Nền kinh tế Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung đã thoát khỏi suy
thoái và xác lập đáy trong quý II/2009
• Chính phủ Việt Nam thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ nhằm đối phó
với khủng hoảng kinh tế nên lượng tiền được bơm vào nền kinh tế khá
nhiều. Dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hang tăng trưởng mạnh, đặc biệt
là ở thời điểm tháng 5 và 6. Tổng dư nợ của hệ thống ngân hang trong năm
2009 đã tăng gần 37,77% gấp 7,1 lần so với tăng trưởng GDP 6,18%.
Nhiều chuyên gia cho rằng một phần số tiền từ gói hỗ trợ kích cầu của
chính phủ đã chảy vào thị trường chứng khoán.
• Các công ty chứng khoán tăng cường hộ trợ công cụ đòn bẩy tài chính cho
khách hang, thậm chí có công ty còn cho sử dụng đòn bầy với tỷ lệ 1:3, 1:5.
• Một số công ty chứng khoán cho khách hàng VIP bán chứng khoán khi
chưa đủ ngày T+4 giúp việc quay vòng vốn của nhà đầu tư tăng nhanh đáng

kể ( tuy nhiên hoạt động này bị cấm tháng 12/2009)
• Sự hồi phục của chứng khoán Mỹ nhất là mỗi lần chỉ số Dow Jones vượt
các mốc quan trọng đã có tác động tâm lý tích cực đối với nhà đầu tư trong
nước
Theo Bộ tài chính mức vốn hóa của TTCK Việt Nam đầu tháng 12 vào
khoảng 669 nghìn tỷ đồng, tương đương 55% GDP của năm 2008.So với cuối năm
2008 là 225 nghìn tỷ đồng, mức vốn hóa đã tăng gấp 3 lần. Tính đến đầu tháng 12
toàn bộ thị trường đã cso 730.000 tài khoản chứng khoán được mở, tăng them

×