Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

thực trạng và các biện pháp phát triển thị trường nội địa của sản phẩm dây và cáp điện tại công ty cổ phần cáp điện và hệ thống ls – vina

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 89 trang )

i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn
đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hải Phòng, tháng 5 năm 2014
Tác giả luận văn
Nguyễn Thành Trung
ii
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến toàn thể Quý thầy cô
Trường Đại học Hải Phòng nói chung, khoa Đào tạo sau đại học nói riêng đã tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành khóa đào tạo Thạc sỹ Quản trị kinh doanh
này. Tôi xin cảm ơn thầy giáo TS.Nguyễn Hữu Lai, người đã trực tiếp hướng dẫn
rất nhiệt tình để tôi có thể hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn trường Đại học Hải Phòng, khoa Kinh tế và Quản
trị kinh doanh, anh chị em đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện trong công việc giúp
tôi có thể hoàn thành khóa học đúng hạn. Cảm ơn anh chị em trong Công ty Cổ
phần Cáp điện và Hệ thống LS-VINA đã cung cấp số liệu cũng như tình hình thực
tế của Công ty và đã hỗ trợ tôi hết mình.
Với vốn kiến thức còn hạn chế và thời gian thực hiện luận văn có hạn nên tôi
không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những đóng góp, phê
bình của quý thầy cô và mọi người để hoàn thiện thêm kiến thức và bài luận văn của
mình sau đây.
iii
MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 82
[1]. Thanh Bình (2005), Gánh nặng đầu vào - nỗi lo của các doanh nghiệp, tạp chí
Thông tin Tài chính, (số 12) 82
[2]. Bộ Tài Chính (2005), Yêu cầu khắt khe của chất lượng tăng trưởng, trang tin


điệntử 82
[3]. Công ty Cổ phần Cáp điện và Hệ thống LS-VINA (2011), Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh 82
[4]. Công ty Cổ phần Cáp điện và Hệ thống LS-VINA (2012), Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh 82
[5]. Công ty Cổ phần Cáp điện và Hệ thống LS-VINA (2013), Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh 82
[6]. Bạch Thụ Cường (2002), Bàn về cạnh tranh toàn cầu, NXB Thông Tấn, Hà Nội 82
[7]. Chu Văn Cấp (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội 82
[8]. Lê Đăng Doanh (2005), bài dịch “Đánh giá của diễn đần kinh tế thế giới về 82
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
Chữ viết tắt Giải thích
APEC Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương
AFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
CADIVI Công ty Cổ phần Dây cáp điện Việt Nam
EVERTOP Công ty TNHH công nghệ cao Ức Thái
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
IEC Ủy ban kỹ thuật điện quốc tế
LS-VINA Công ty Cổ phần Cáp điện và Hệ thống LS – Vina
OPEC Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa
TAYA
Công ty Cổ phần Dây và Cáp điện TAYA
TRẦN PHÚ Công ty Cổ phần Cơ điện Trần Phú
UBND Ủy ban nhân dân
USD Đô la Mỹ
WTO Tổ chức thương mại quốc tế
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang

2.1
Tình hình doanh thu, chi phí và lợi nhuận của LS-VINA
giai đoạn 2011 – 2013
39
2.2 Tình hình lao động của LS-VINA giai đoạn 2011 - 2013 40
2.3
Doanh thu của LS-VINA phân theo sản phẩm giai đoạn
2011 – 2013
44
2.4
Cơ cấu doanh thu của LS-VINA phân theo khu vực thị
46
v
trường
2.5
Doanh thu thị trường nội địa của LS-VINA chia theo khu
vực địa lý
48
2.6
Doanh thu thị trường nội địa của LS-VINA chia theo
nhóm khách hàng
49
2.7
Tình hình tài sản, nguồn vốn của LS-VINA giai đoạn
2011 – 2013
53
3.1
Một số chỉ tiêu đánh giá các đối thủ cạnh tranh với LS-
VINA trong năm 2013
62

3.2
Dự báo nhu cầu tiêu thụ dây và cáp điện trong cả nước và
Miền Bắc giai đoạn 2014 – 2018
64
3.3
Một số công ty sản xuất và cung cấp dây và cáp điện tại
thị trường Miền Bắc
65
3.4
Một số chính sách giá LS-VINA có thể áp dụng thời gian
tới
71
3.5
Một số chỉ tiêu phát triển khu công nghiệp vùng duyên
hải Miền Trung
80
DANH MỤC HÌNH
Số hiệu hình vẽ Tên hình vẽ
Tran
g
1.1 Hệ thống thị trường đơn giản 12
1.2 Hệ thống thị trường trong nền kinh tế thị trường 13
2.1 Cơ cấu tổ chức của LS-VINA 38
2.2
Tình hình doanh thu, chi phí và lợi nhuận của LS-VINA
giai đoạn 2011 – 2013
39
2.3
Thu nhập bình quân của người lao động tại LS-VINA
giai đoạn 2011 – 2013

41
2.4
Giá trị tổng tài sản của LS-VINA qua các năm của giai
đoạn 2011 – 2013
42
2.5 Giá trị nộp ngân sách nhà nước của LS-VINA giai đoạn 43
vi
2011 – 2013
2.6
Cơ cấu doanh thu của LS-VINA phân theo sản phẩm
năm 2013
45
2.7
Doanh thu thị trường xuất khẩu và nội địa của LS-VINA
giai đoạn 2011 – 2013
46
2.8
Tình hình tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn
2011 – 2013
50
2.9
Lưu đồ kiểm soát chất lượng sản phẩm LS-VINA đang
áp dụng
56
2.10 Kênh phân phối trực tiếp của LS-VINA 59
2.11 Kênh phân phối gián tiếp của LS-VINA 59
3.1 Mô hình 4P trong Marketing mix 69
3.2
Mục tiêu định giá giai đoạn 1
79

3.3 Mục tiêu định giá giai đoạn 2 79
3.4
Cơ cấu tổ chức Ban quản lý chiến lược
83
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong bối cảnh nền kinh tế của Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền
kinh tế của khu vực cũng như nền kinh tế thế giới, có thể kể đến đầu tiên là khi Việt
Nam trở thành viên của khu vực mậu dịch tự do AFTA, sau đó chúng ta khẳng định
vị thế của mình trong OPEC và APEC, đặc biệt là sự kiện Việt Nam đã chính thức
trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Điều này cho thấy
nền kinh tế Việt Nam không thể tách rời khỏi hoạt động thương mại quốc tế và nó
cũng mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp của chúng ta có thể thâm nhập thị trường
quốc tế để mở rộng thị trường cũng như nhằm thu hút nguồn ngoại tệ để phục vụ
cho chính sự phát triển các doanh nghiệp nói riêng trong bối cảnh cạnh tranh ngày
càng gay gắt, cũng như góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá của
đất nước nói chung. Tuy nhiên bên cạnh thị trường quốc tế thì thị trường nội địa
cũng chứa đựng nhiều tiềm năng phát triển, đặc biệt là đối với Việt Nam, vấn đề giữ
vững và phát triển thị trường trong nước luôn là đòi hỏi bức thiết đặt ra.
Cùng với tốc phát triển của ngành điện lực (bình quân 15%-20%/năm), ngành
sản xuất dây và cáp điện Việt Nam những năm gần đây cũng có bước phát triển
mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu truyền tải, thông tin liên lạc, điện khí hóa nông thôn
cũng như phục vụ cho các ngành khác trong quá trình công nghiệp hóa đất nước.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất dây và cáp
điện trong nước có thể đáp ứng được khoảng 70% nhu cầu trong nước, còn lại là
30% nhập khẩu từ nước ngoài. Tuy vậy, dây và cáp điện Việt Nam cũng đang được
xuất khẩu với mức tăng trưởng bình quân từ 30% - 45%/năm (tức từ 300 đến 385
triệu USD/năm).
Được thành lập từ năm 1996, Công ty Cổ phần Cáp điện và Hệ thống LS –

VINA là một trong những doanh nghiệp lớn tại khu vực miền Bắc cũng như ở Việt
Nam, chuyên sản xuất các sản phẩm dây và cáp điện. Với ưu thế về tiềm lực tài
chính công ty đã mạnh đầu tư dây chuyền thiết bị công nghệ hiện đại để phục vụ
cho hoạt động sản xuất, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm. Công ty Cổ phần
Cáp điện và Hệ thống LS – VINA là công ty con lớn nhất của công ty LS Cable &
2
System - Hàn Quốc đặt tại Việt Nam, những năm vừa qua, đơn vị chủ yếu tập trung
hướng vào xuất khẩu, mở rộng thị trường tại một số nước Châu Á, Châu Mỹ như
Singapore, Nhật Bản, Úc, Cuba… doanh thu hay số lượng khách hàng tại Việt Nam
– thị trường đầy tiềm năng thì còn khá khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng
của công ty. Xuất phát từ thực tế này, bài luận văn hướng vào đề tài: “Thực trạng
và các biện pháp phát triển thị trường nội địa của sản phẩm dây và cáp điện tại
Công ty Cổ phần Cáp điện và Hệ thống LS – Vina”.
2. Lịch sử nghiên cứu:
Tính đến nay, đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu khoa học liên quan
đến nội dung thị trường và phát triển thị trường của doanh nghiệp, cụ thể như:
- Luận văn thạc sĩ: “Một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm của Công ty Que Hàn Điện Việt - Đức” Cao học Quản trị Kinh doanh Phạm
Mạnh Hùng, tháng 7 năm 2011. Trong nội dung luận văn tác giả đã làm rõ cơ sở lý
luận về thị trường và mở rộng thị trường, các tiêu chí phản ánh hiệu quả của công
tác mở rộng thị trường trong doanh nghiệp. Trên cơ sở lý luận này, tác giả áp dụng
vào thực tế tại Công ty Que hàn điện Việt – Đức thông qua các nội dung về kết quả
tiêu thụ tại các khu vực thị trường, các giải pháp mở rộng thị trường công ty đã áp
dụng… qua đó tìm ra những hạn chế, nguyên nhân dẫn đến các hạn chế cần khắc
phục trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty. Đề xuất các giải
pháp nhằm mở rộng thị trường cho Công ty Que hàn điện Việt – Đức trong thời
gian tới.
- Luận văn thạc sĩ: “Một số giải pháp mở rộng thị trường tiêu thụ tại Công
ty Cổ phần Điện nước lắp máy Hải Phòng đến năm 2015” cao học Quản trị Kinh
doanh Trần Ngọc Trung, tháng 9 năm 2012. Tác giả áp dụng phương pháp nghiên

cứu dựa trên dữ liệu sẵn có, thống kê và thu thập thêm thông tin thực tế tại công ty
từ đó hệ thống hóa và phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về thị trường, về mở
rộng thị trường. Phân tích những nguyên nhân và thực tế những vấn đề phát sinh
trong quá trình tiêu thụ sản phẩm tại Công ty Cổ phần Điện nước lắp máy Hải
Phòng. Phân tích, lựa chọn các giải pháp mở rộng thị trường tiêu thụ phù hợp với
bối cảnh của công ty và môi trường trong tương lai.
3
- Luận văn thạc sĩ: “Các giải pháp phát triển thị trường tiêu thụ của Công ty
Thép Việt Nhật” Cao học quản trị kinh doanh trường Đại học Đà Nẵng, của tác giả
Nguyễn Tôn Đại, tháng 12 năm 2007. Đề tài này cũng đi sâu tìm hiểu về lý thuyết
về thị trường và phát triển thị trường nhưng không ở phạm vi chung mà gắn với thị
trường sản phẩm thép xây dựng. Trên cơ sở lý thuyết đó, tác giả đi áp dụng thực tế
vào trường hợp của Công ty Thép Việt Nhật, để tìm hiểu và có những đánh giá về
ưu điểm, nhược điểm và xây dựng giải pháp hoàn thiện những nhược điểm này.
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết và các công trình nghiên cứu khoa học khác
cũng có nội dung về vấn đề thị trường tiêu thụ trong doanh nghiệp, mỗi bài viết hay
công trình nghiên cứu đều tập trung vào các lĩnh vực kinh doanh cụ thể và có tính
đặc thù.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các tác giả đề cập ở trên chủ yếu
tập trung vào nghiên cứu về lý luận về thị trường và phát triển thị trường, chưa công
trình nào đề cập một cách hệ thống về vấn đề phát triển thị trường nói chung và thị
trường nội địa nói riêng trong lĩnh vực dây và cáp điện. Đặc biệt, tại Công ty Cổ
phần Cáp điện và Hệ thống LS – VINA từ khi thành lập đến nay chưa có công trình
nghiên cứu nào đề cập đến nội dung này. Do đó, đề tài “Thực trạng và các biện
pháp phát triển thị trường nội địa của sản phẩm dây và cáp điện tại Công ty Cổ
phần Cáp điện và Hệ thống LS – Vina” sẽ nghiên cứu cả lý luận và thực tiễn về
hoạt động phát triển thị trường nội địa tại công ty trong giai đoạn 2011 – 2013.
3. Mục đích – Đối tượng – Phạm vi nghiên cứu:
* Mục đích nghiên cứu:
Đề tài được thực hiện với các mục đích cơ bản sau:

- Hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về thị trường và phát
triển thị trường của doanh nghiệp nói chung và của Công ty Cổ phần Cáp điện và
Hệ thống LS-VINA nói riêng.
- Nghiên cứu và phân tích thực trạng vấn đề thị trường và phát triển thị trường
nội địa tại Công ty Cổ phần Cáp điện và Hệ thống LS – VINA trong giai đoạn 2011
– 2013. Chỉ ra được ưu điểm, nhược điểm, những thành quả đạt được, tồn tại và
nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến vấn đề phát triển thị trường nội địa công ty.
4
- Đề xuất một số biện pháp cơ bản nhằm phát triển thị trường nội địa của Công
ty Cổ phần Cáp điện và Hệ thống LS – VINA trong thời gian tới để không ngừng
gia tăng doanh thu cũng như lợi nhuận cho công ty.
** Đối tượng nghiên cứu: lý thuyết về thị trường và phát triển thị trường tiêu
thụ sản phẩm của doanh nghiệp và thực trạng phát triển thị trường của Công ty Cổ
phần Cáp điện và Hệ thống LS-VINA nói riêng.
*** Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: hoạt động của Công ty Cổ phần Cáp điện và Hệ thống LS –
VINA ở thị trường Việt Nam.
+ Về thời gian: luận văn nghiên cứu thực trạng thị trường và phát triển
thị trường của Công ty Cổ phần Cáp điện và Hệ thống LS – VINA trong giai
đoạn 2011 – 2013.
4. Các luận điểm cơ bản và đóng góp của bài luận văn:
- Về lý luận: đã hệ thống hóa một số lý thuyết liên quan đến thị trường và phát
triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
- Về thực tiễn:
+ Đề xuất những biện pháp có căn cứ lý thuyết và có giá trị thực tiễn để Công
ty Cổ phần Cáp điện và Hệ thống LS-VINA phát triển thị trường nói chung và thị
trường nội địa nói riêng, góp phần gia tăng doanh thu và lợi nhuận cho công ty.
+ Bài luận văn là nguồn tư liệu tham khảo cho những người quan tâm
hoặc làm công tác nghiên cứu về thị trường nói chung và thị trường dây và
cáp điện Việt Nam nói riêng.

5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp:
Thu thập số liệu từ các báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, các tài
liệu thống kê lưu trữ tại Công ty Cổ phần Cáp điện và Hệ thống LS – VINA trong
giai đoạn 2011 – 2013.
Thu thập số liệu và thông tin qua các giáo trình kinh tế, thông tin trên mạng
internet liên quan đến tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam nói chung và tình hình
phát triển trong lĩnh vực dây và cáp điện nói riêng.
- Phương pháp thống kê:
5
Thu thập các số liệu liên quan đến đối tượng nghiên cứu của đề tài, tổng hợp
lại và hệ thống hóa tài liệu thu thập được theo trình tự để thuận tiện cho quá trình
phân tích các chỉ tiêu nghiên cứu, từ đó thấy được bản chất của vấn đề, rút ra kết
luận và đề xuất giải pháp.
- Phương pháp so sánh:
Phân tích, đối chiếu các chỉ tiêu nghiên cứu có cùng nội dung, tính chất để xác
định xu hướng biến động của các vấn đề cần nghiên cứu. Thông qua đó có thể đánh
giá một cách khách quan về tình hình phát triển thị trường nội địa của công ty, thấy
được những mặt phát triển hay kém phát triển, hiệu quả hay kém hiệu quả của
công ty trong hoạt động phát triển thị trường nội địa.
- Phương pháp phân tích kinh tế:
Từ các số liệu thu thập được, dùng các chỉ tiêu kinh tế như khối lượng tiêu
thụ, doanh thu, lợi nhuận để đánh giá thực trạng phát triển thị trường nội địa của
công ty giai đoạn 2011 – 2013.
6. Bố cục luận văn:
Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn gồm có 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về thị trường và phát triển thị trường tiêu thụ
sản phẩm.
- Chương 2: Thực trạng phát triển thị trường nội địa của Công ty Cổ phần Cáp
điện và Hệ thống LS – VINA.

- Chương 3: Hoàn thiện các biện pháp nhằm phát triển thị trường nội địa của
Công ty Cổ phần Cáp điện và Hệ thống LS - VINA.
6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM
1.1. Khái quát về thị trường :
1.1.1. Khái niệm về thị trường:
Thị trường là phạm trù kinh tế tổng hợp gắn liền với quá trình sản xuất
và lưu thông hàng hoá. Thừa nhận sản xuất hàng hoá không thể phủ định sự
tồn tại khách quan của thị trường. Hiện nay có khá nhiều các cách tiếp cận
khác nhau về thị trường.
Hiểu một cách đơn giản thì thị trường là nơi giao dịch mua bán hàng hoá giữa
các chủ thể kinh tế, ở đó người có nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ sẽ được nhận thứ
mà mình cần và ngược lại người có hàng hoá, dịch vụ sẽ được nhận lại một số tiền
tướng ứng. Trong khái niệm này thị trường được hiểu theo nghĩa “cái chợ” -
“Market”. Lịch sử đã chứng minh rằng sự nhận thức phiếm diện về thị trường cũng
như sự điều tiết thị trường theo ý muốn chủ quan, duy ý chí trong quản lý và chỉ đạo
kinh tế đều đồng nghĩa với việc đi ngược lại các hệ thống quy luật kinh tế vốn có
của thị trường và hậu quả sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế .
Hình 1. 1: Hệ thống thị trường đơn giản.
[21, tr.94]
Quan điểm này chỉ thích ứng với nền sản xuất hàng hoá nhỏ, lượng hàng ít,
nhu cầu hầu như không biến đổi. Với sự phát triển ngày càng cao về nhu cầu đã tạo
nên sự đa dạng hoá về sản phẩm như hiện nay, hệ thống thị trường đơn giản không
còn phù hợp nữa. Theo Mác: “ Sự phân công là cơ sở chung của mọi nền sản xuất
hàng hoá ở đó có thị trường. Thị trường chẳng qua là sự biểu hiện của sự phân công
Sản xuất
Người bán – cung
Thị trường
Người mua – cầu

Thông tin
HH – dịch vụ
Tiền
Thông tin
7
xã hội ”. Hiểu theo nghĩa rộng, thị trường là một quá trình trong đó người mua và
người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá. Một
quan niệm khác nữa mà Samuel Son hiểu theo thị trường là: “ Một phương thức lưu
thông hàng hoá mà tại đó hàng hoá được trao đổi thông qua tiền tệ làm môi giới ”.
Nói tóm lại, thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu, một loại hàng hoá dịch
vụ. Tại điểm cân bằng, lợi ích của người mua và người bán có thể hòa đồng với
nhau trên cơ sở sự thoả thuận và nhân nhượng lẫn nhau. Ngày nay, khi nền kinh tế
phát triển ngày càng nhanh và phức tạp, do có hệ thống thị trường cùng biến đổi
theo, do tổ chức có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh đòi hỏi mỗi doanh
nghiệp phải hiểu biết rõ những khái niệm về thị trường, hệ thống thị trường và
những vấn đề xung quanh nó.
Hình 1. 2: Hệ thống thị trường trong nền kinh
tế thị trường
[21, tr.97]
1.1.2. Chức năng của thị trường:
a/ Chức năng thừa nhận:
Doanh nghiệp thương mại mua hàng hoá về để bán. Hàng hoá có bán được
hay không phải thông qua chức năng thừa nhận của thị trường, của khách hàng,
Thị trường các nguồn
tài nguyên
Thị trường Chính phủ
Thị trường những
người trung gian
Thị trường các
nhà sản xuất

Thị trường chính phủ
Thị trường những
người tiêu thụ
Các nguồn tài nguyên
Tiền
Dịch vụ tiền
Tiền
Thuế hàng
Nguồn lao động
Tiền
Tiền
Dịch vụ
Tiền
Thuế
hàng
8
của doanh nghiệp. Nếu hàng hoá bán được, tức là được thị trường thừa nhận,
doanh nghiệp thương mại mới thu hồi được vốn, có nguồn thu trang trải chi phí và
có lợi nhuận. Ngược lại, nếu hàng hoá đưa ra bán nhưng không có ai mua, tức là
không được thị trường thừa nhận. Để được thị trường thừa nhận doanh nghiệp
phải nghiên cứu nhu cầu của khách hàng để từ đó tiến hành kinh doanh những sản
phẩm phù hợp. Sự phù hợp ở đây chính là phù hợp về số lượng, chất lượng, sự
đồng bộ, quy cách, cỡ loại, màu sắc, bao bì, giá cả, thời gian, và địa điểm thuận
tiện cho khách hàng.
b/ Chức năng thực hiện:
Chức năng này đòi hỏi hàng hoá và dịch vụ phải được thực hiện giá trị trao
đổi: hoặc bằng tiền hoặc bằng hàng, bằng các chứng từ có giá khác. Người bán
hàng cần tiền còn người mua cần hàng, sự gặp gỡ giữa người bán và người mua
được xác định bằng giá cả mà hai bên đã thoả thuận. Hàng hóa bán được tức là có
sự dịch chuyển từ người bán sang người mua, nghĩa là có sự thực hiện chuyển đổi

giá trị.
c/ Chức năng điều tiết, kích thích:
Qua hành vi trao đổi hàng hóa và dịch vụ trên thị trường, thị trường điều
tiết và kích thích sản xuất và kinh doanh phát triển và ngược lại. Đối với doanh
nghiệp thương mại, hàng hoá và dịch vụ bán hết nhanh sẽ kích thích doanh nghiệp
đẩy mạnh hoạt động tạo nguồn hàng, thu mua hàng hoá để cung ứng ngày càng
nhiều hơn cho thị trường. Ngược lại, nếu hàng hoá và dịch vụ không bán được,
doanh nghiệp sẽ hạn chế mua, phải tìm khách hàng mới, thị trường mới, hoặc
chuyển hướng kinh doanh mặt hàng khác đang hoặc có khả năng tiêu thụ lớn hơn.
Chức năng điều tiết, kích thích này luôn điều tiết sự gia nhập ngành hoặc rút ra
khỏi ngành của một số doanh nghiệp. Nó khuyến khích các nhà kinh doanh giỏi và
9
điều chỉnh theo hướng đầu tư vào kinh doanh có lợi, các mặt hàng mới, chất lượng
cao, có khả năng bán được khối lượng lớn.
d/ Chức năng thông tin:
Chức năng thông tin thể hiện ở chỗ nó chỉ ra cho người sản xuất biết nên
sản xuất hàng hoá nào, khối lượng bao nhiêu, nên tung ra thị trường ở thời điểm
nào, nó chỉ ra cho người tiêu dùng biết nên mua một hàng hoá hay mua một mặt
hàng thay thế nào đó hợp với khả năng thu nhập của họ.
Chức năng này hình thành là do trên thị trường có chứa đựng các thông tin
về tổng số cung với tổng số cầu, cơ cấu của cung cầu, quan hệ cung cầu của từng
loại hàng hoá, chi phí sản xuất, giá cả thị trường, chất lượng sản phẩm, các điều
kiện tìm kiếm và tập hợp các yếu tố sản xuất và phân phối sản phẩm. Đấy là
những thông tin cần thiết để người sản xuất và tiêu dùng ra các quyết định phù
hợp với lợi ích của mình.
Trong công tác quản lý nền kinh tế thị trường, vai trò tiếp cận thông tin từ
thị trường đã quan trọng, song việc chọn lọc thông tin và xử lý thông tin lại là
công việc quan trọng hơn nhiều. Đưa ra những quyết định chính xác nhằm thúc
đẩy sự vận hành của mọi hoạt động kinh tế trong cơ chế thị trường tùy thuộc vào
độ chính xác của việc sàng lọc và xử lý thông tin.

Bốn chức năng của thị trường có mối quan hệ mật thiết với nhau. Mỗi hiện
tượng kinh tế diễn ra trên thị trường đều thể hiện bốn chức năng này. Vì là những
tác dụng vốn có bắt nguồn từ bản chất thị trường, do đó không nên đặt vấn đề
chức năng nào quan trọng nhất hoặc chức năng nào quan trọng hơn chức năng
nào. Song cũng cần thấy rằng chỉ khi chức năng thừa nhận được thực hiện thì các
chức năng khác mới phát huy tác dụng.
1.1.3. Vai trò của thị trường:
10
Trong nền kinh tế hàng hoá, các doanh nghiệp kinh doanh dù là loại hình
nào: quốc doanh, tập thể, tư nhân đều là những chủ thể của sản xuất (hàng hoá)
kinh doanh hàng hoá, tồn tại trong một hệ thống nhất như một cơ thể sống vận
động trên thị trường, lấy thị trường làm môi trường như mảnh đất nuôi sống doanh
nghiệp. Doanh nghiệp với tư cách là người sản xuất, kinh doanh hàng hoá tham
gia thị trường sẽ làm thay đổi toàn bộ các quan hệ kinh tế, các quan hệ ngang sẽ
làm xuất hiện nhiều nhân tố mới. Mỗi doanh nghiệp sẽ cần đến nhiều loại vật tư
hàng hoá, cần đến chất xám, do đó thúc đẩy các ngành sản xuất vật tư và các
ngành kỹ thuật phát triển đòi hỏi của thị trường ngày cao và càng nhiều loại hàng
hoá với chủng loại kích cỡ khác như sẽ thúc đẩy sự ra đời của các ngành sản xuất
kinh tế mới. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều gắn bó với thị trường, sản phẩm
của doanh nghiệp có bán được trên thị trường thì mới có thể bù đắp được chi phí
và thu được lợi nhuận. Thị trường là nơi đánh giá mọi hoạt động của doanh nghiệp
một cách khách quan và chính xác. Vì vậy, vai trò của thị trường đối với doanh
nghiệp được thể hiện là:
Một là: thị trường là yếu tố sống còn đối với doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh hàng hoá. Thông qua thị trường, doanh nghiệp bù đắp chi phí kinh doanh,
có lợi nhuận để tái mở rộng kinh doanh.
Doanh nghiệp khi chiếm lĩnh được những thị phần mới là họ đã phát triển cả
về chiều rộng lẫn chiều sâu, mọi hoạt động kinh doanh cũng phát triển theo và khả
năng thu lợi nhuận sẽ tăng lên.
Doanh nghiệp khi mất đi thị phần sẽ gặp nhiều khó khăn, sản xuất kinh

doanh sẽ bị thu hẹp. Nếu không có biện pháp khắc phục kịp thời thì nguy cơ phá
sản là điều không thể tránh khỏi.
11
Hai là: thị trường phá vỡ ranh giới sản xuất tự nhiên tự cấp tự túc để tạo
thành thể thống nhất trong toàn nền kinh tế quốc dân. Tác động của các quy luật
thị trường đó làm cho cho hàng hoá lưu thông tự do từ nơi có hàng đến nơi có nhu
cầu. Dù có sự ngăn sông cấm chợ khi có lợi nhuận nó cũng vượt qua. Và khi nền
kinh tế hàng hoá xuất hiện thì hàng rào nào cũng sẽ tự biến mất. Thị trường là môi
trường đồng thời cũng là sức hút để hàng hoá tự do lưu thông từ vùng nọ sang
vùng kia, làm cho hàng hoá phong phú và nó cũng thống nhất mọi vùng ngăn
cách.
Ba là: thị trường hướng dẫn sản xuất kinh doanh.
Do thị trường là khách quan mỗi cơ hội sản xuất kinh doanh không có khả
năng làm thay đổi thị trường và ngược lại họ phải tiếp cận để thích ứng với thị
trường. Các nhà sản xuất kinh doanh phải căn cứ vào giá cả cung cầu trên thị
trường mà quyết định các vấn đề: sản xuất cái gì? sản xuất bao nhiêu? và sản xuất
cho ai? Trên cơ sở đó xác định phương án kinh doanh cho phù hợp (tuân theo các
quy luật thị trường, phát huy khả năng sẵn có), khi có sự thay đổi trên thị trường
để đứng vững được thì các hoạt động của doanh nghiệp cũng phải uốn theo cho
phù hợp. Tuân theo các quy luật thị trường, phát huy khả năng sẵn có làm phương
châm hoạt động hiệu quả của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Như vậy
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chịu sự chi phối của thị trường.
Bốn là: thị trường là chiếc gương phản chiếu tình hình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
Nhìn vào thị trường của doanh nghiệp người sẽ thấy được quy mô, tốc độ và
trình độ phát triển của doanh nghiệp. Nội dung tính hoạt động của doanh nghiệp
đều được thị trường trả lời đúng hay sai. Những ưu khuyết điểm về sản phẩm, về
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường sẽ được bộ lộ rõ.
12
Do đó doanh nghiệp phải thường xuyên bám sát thị trường để thấy được tình hình

sản xuất, kinh doanh của bản thân để có những chính sách cho sản xuất kinh
doanh thích hợp.
Năm là: thị trường là nơi kiểm nghiệm, đánh giá tính chất đúng đắn các chủ
trương, chính sách biện pháp kinh tế của nhà nước, của các nhà quản lý kinh
doanh, thông qua đó một mặt nâng cao trình độ quản lý kinh doanh của các nhà
sản xuất doanh nghiệp. Đồng thời nó cũng đào thải những nhà sản xuất, nhà quản
lý không thích nghi được sự năng động của nó. Tầm quan trọng của thị trường đối
với sự phát triển của doanh nghiệp là không thể phủ nhận. Nó là điều kiện cần và
đủ để doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Tóm lại, thị trường là khâu quan trọng nhất của quá trình tái sản xuất hàng
hoá, là “cầu nối” giữa sản xuất với tiêu dùng. Thị trường là tấm gương để các cơ
sở sản xuất kinh doanh nhận biết được nhu cầu xã hội và để đánh giá được hiệu
quả kinh doanh của chính bản thân mình. Thông qua đó, họ có thể điều kiển mọi
hành vi của bản thân cho thích nghi được với thị trường.
1.2. Thị trường của sản phẩm và thị trường của doanh nghiệp:
1.2.1. Thị trường của sản phẩm (nhóm sản phẩm):
Sản phẩm ở đây được hiểu là một hay một nhóm sản phẩm cùng loại. Nếu
sản phẩm là vật phẩm tiêu dùng thì phải xét từ tổng thể dân cư vùng lãnh thổ đang
xét, còn nếu sản phẩm là tư liệu sản xuất thì phải bắt đầu xét từ tổng thể các doanh
nghiệp trong vùng đó có sử dụng loại tư liệu sản xuất đó. Trước hết cần loại trừ
tập hợp những người hoặc doanh nghiệp không tiêu dùng tuyệt đối. Đây là những
khách hàng mà trong mọi trường hợp đều không quan tâm đến sản phẩm của
doanh nghiệp vì những lý do khác nhau như giới tính, lứa tuổi, nơi cư trú… hoặc
các đặc trưng cá biệt khác. Sự loại trừ này cho ta thị trường lý thuyết về sản phẩm
13
đang xét biểu hiện số lượng khách hàng tối đa và số lượng tiêu dùng tối đa đối với
sản phẩm đó.
Tiếp theo cần xác định thị trường không tiêu dùng tương đối là tập hợp
những người và doanh nghiệp hiện tại không tiêu dùng loại sản phẩm đó vì nhiều
lý do khác nhau, chẳng hạn :

- Vì thiếu thông tin về sản phẩm
- Vì thiếu khả năng tài chính
- Vì chất lượng chưa đạt yêu cầu
- Vì thiếu mạng lưới cung ứng sản phẩm
- Vì thói quen, tập quán tiêu dùng …
Xác định thị trường không tiêu dùng tương đối là khá khó khăn song lại rất
cần thiết đối với doanh nghiệp để tìm nguyên nhân không tiêu dùng của khách
hàng, đưa ra những biện pháp khắc phục (như tăng cường quảng cáo, giảm giá,
mở rộng hệ thống phân phối ) nhằm thu hẹp đoạn thị trường này.
Sau khi loại trừ được thị trường không tiêu dùng tương đối ta được thị trường
hiện tại của sản phẩm đang xét. Như vậy, thị trường của sản phẩm (hay nhóm sản
phẩm) là tập hợp những người mua hiện tại và người mua tiềm năng có mong
muốn mua một loại sản phẩm (hay nhóm sản phẩm) và có khả năng tài chính tham
gia vào trao đổi để đạt được mong muốn của mình.
Tuy nhiên doanh nghiệp cần quan tâm đến các yếu tố ảnh hưởng đặc biệt là
các đối thủ cạnh tranh. Đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp có thể là những nhà
sản xuất và kinh doanh khác hoặc có thể là các sản phẩm có khả năng thay thế cho
sản phẩm đang xét.
14
Đối với các doanh nghiệp việc tìm hiểu thị trường của đối thủ cạnh tranh là
rất khó khăn song lại rất cần thiết nhằm tìm ra biện pháp từng bước chiếm lĩnh thị
trường đó.
1.2.2. Thị trường của doanh nghiệp:
Ở góc độ doanh nghiệp, thị trường được mô tả: “ Là một hay nhiều nhóm
khách hàng với các nhu cầu tương tự nhau và những người bán cụ thể nào đó mà
doanh nghiệp với tiềm năng của mình có thể mua hàng hoá dịch vụ để thoả mãn
nhu cầu của khách hàng.”
Như vậy theo quan niệm này, thị trường của doanh nghiệp trước hết là những
khách hàng có tiềm năng tiêu thụ, có nhu cầu cụ thể về hàng hoá, dịch vụ trong
một thời gian nhất định và chưa được thoả mãn.

Thứ hai, yếu tố quan trọng làm đối trọng với cầu trên thị trường là cung về
hàng hoá, dịch vụ do các cá nhân, doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân tạo
nên, chính sự tác động qua lại với nhau giữa cung và cầu về hàng hoá tạo nên quy
luật cung cầu chi phối hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường.
Thứ ba, thành phần không thể thiếu được tham gia trên thị trường của doanh
nghiệp là các hàng hoá, sản phẩm cụ thể, đối tượng để mua bán trao đổi.
Một khi trên thị trường có nhiều người mua, nhiều người bán và nhiều hàng
hoá tương tự nhau về chất lượng, giá cả tất yếu nảy sinh sự cạnh tranh. Đó là sự
cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, về phương thức giao dịch mua bán hàng hoá,
thanh toán, cạnh tranh giữa người mua với người mua; cạnh tranh giữa người bán
với người mua; cạnh tranh giữa người bán với người bán và giữa những người
mua với nhau. Cạnh tranh là bộ máy điều chỉnh trật tự thị trường, là yếu tố quan
trọng kích thích tính tích cực, tính đa dạng và nâng cao chất lượng hàng hoá cho
phù hợp với nhu cầu thị trường.
1.2.3. Các chỉ tiêu đo lường quy mô của thị trường:
15
Để đo lường quy mô thị trường của doanh nghiệp ta có thể căn cứ vào một số
chỉ tiêu sau:
- Thị phần của doanh nghiệp: đây là tỷ phần tham gia thị trường ngành hàng
của tổng sản lượng hay doanh số bán mà doanh nghiệp xâm nhập được trong kỳ. Số
liệu thị phần được dùng để đo lường mức độ về sự tập trung của người bán trong
một thị trường.
+ Thị phần tuyệt đối là tỷ lệ phần doanh thu của doanh nghiệp so với toàn bộ
sản phẩm cùng loại được tiêu thụ trên thị trường (F1, F2 ):
Doanh số bán ra của doanh nghiệp
F1 =
_____________________________________________________
x 100% (Công thức 1.1)
Tổng doanh số bán ra của toàn ngành
Doanh số bán ra của sản phẩm

F2 =
____________________________________________________________
x 100% (Công thức 1.2)
Doanh số của sản phẩm trên cùng 1 thị trường
+ Thị phần tương đối được xác định trên cơ sở thị phần tuyệt đối của doanh
nghiệp so với thị phần tuyệt đối của đối thủ cạnh tranh (F3):
Thị phần của doanh nghiệp
F3 =
________________________________________________________
x 100% (Công thức 1.3)
Thị phần của các đối thủ cạnh tranh
- Quy mô thị trường phân theo khu vực địa lý: tiêu chí này có thể hiểu là sản
phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp được tiêu thụ tại các khu vực địa lý khác nhau.
Việc mở rộng theo vùng địa lý làm cho số lượng người tiêu thụ tăng lên và dẫn tới
doanh số bán cũng tăng theo. Tuỳ theo quy mô hay khả năng của doanh nghiệp mà
quy mô thị trường phân theo khu vực địa lý có thể vươn tới các vùng lân cận hoặc
xa hơn nữa là vượt khỏi biên giới quốc gia mà khối lượng hàng hoá tiêu thụ sẽ tăng
lên theo. Hiện nay nhiều công ty lớn mạnh thì quy mô thị trường không chỉ bao hàm
vượt ra khỏi biên giới, khu vực mà còn vươn sang cả châu lục khác.
Tuy nhiên để có được quy mô thị trường rộng lớn phân theo khu vực địa lý
thì sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra phải phù hợp và có một khả năng tiêu
chuẩn nhất định đối với những khu vực thị trường đó. Có như vậy sản phẩm mới có
16
khả năng được chấp nhận và từ đó mới tăng được khối lượng hàng hóa bán ra và
công tác phát triển thị trường mới thu được kết quả.
1.2.4. Các chỉ tiêu đo lường sự tăng trưởng của thị trường:
Để đánh giá sự tăng trưởng của thị trường có thể dựa vào một số chỉ tiêu
khác nhau. Nếu xét theo bề rộng: sự tăng trưởng của thị trường phân theo phạm vi
địa lý là tạo được những khách hàng mới, nên sự tăng trưởng thị trường thể hiện
qua số tuyệt đối là số khu vực thị trường mới khai phá, số thị trường mới, số thị

trường thực mới tăng bình quân .
Xét theo bề sâu thì đó là việc tăng được lượng bán hàng vào thị trường hiện
tại. Như vậy sự tăng trưởng thị trường thể hiện qua tốc độ tăng tổng kim ngạch bình
quân trên từng khu vực thị trường và toàn bộ tổng các khu vực thị trường.
- Số thị trường mới thực sự tăng bình quân:
t1 + t2+ …+ tn
T = (Công thức 1.4)
n
Trong đó: n là số năm, t1, t2…tn là số thị trường thực mới mà doanh nghiệp
khai phá được hàng năm. Số thị trường thực mới t được tính bằng số thị trường mới
khai phá được hàng năm trừ đi số thị trường mà doanh nghiệp để mất hàng năm.
T = 0: thể hiện sự tăng trưởng thị trường của doanh nghiệp quá kém, đến nỗi
số thị trường mới mở chỉ bằng số thị trường mà doanh nghiệp để mất hoặc doanh
nghiệp mới chỉ duy trì được hoạt động của mình trên các thị trường đó.
T < 0: chứng tỏ thị trường của doanh nghiệp ngày càng bị thu hẹp theo phạm
vi địa lý. Doanh nghiệp không những không thực hiện được việc tăng trưởng thị
trường mà còn đang mất dần thị trường hiện tại.
T > 0: chứng tỏ số thị trường của doanh nghiệp không ngừng tăng lên
hàng năm.
Chỉ tiêu trên dùng để đo lường sự tăng trưởng thị trường theo chiều rộng, nó
chỉ mới cho thấy mức độ tăng trưởng thị trường theo phạm vi không gian chứ
không thể hiện được những nỗ lực của doanh nghiệp trong việc tăng doanh số, tăng
khối lượng vào các thị trường hiện tại. Vì vậy, để khắc phục nhược điểm này, ta có
17
chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng thị trường mà có thể đo được quy mô mở rộng thị trường
theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
- Tốc độ tăng quy mô thị trường bình quân của doanh nghiệp:
K = (k
1.
k

2…
k
n
)
1/n
(Công thức 1.5)
Trong đó:
K là tốc độ tăng quy mô thị trường bình quân.
k
1.
k
2…
k
n
là tốc độ tăng tổng doanh thu liên hoàn (tốc độ tăng của năm sau so
với năm trước). Chỉ tiêu này có thể tính cho từng khu vực thị trường và cũng có thể
tính cho tổng thể các khu vực thị trường, thể hiện ở tốc độ tăng thị trường của
doanh nghiệp.
n là số năm.
Nếu K = 1 thì có nghĩa sự tăng trưởng thị trường của doanh nghiệp không
đổi. Doanh nghiệp mới chỉ duy trì được thị trường hiện tại chứ chưa thực hiện được
việc phát triển thị trường.
Nếu K < 1 chỉ tiêu này có nghĩa là tăng trưởng thị trường của doanh nghiệp
ngày càng giảm.
Nếu K > 1 có nghĩa là sự tăng trưởng thị trường doanh nghiệp ngày càng
cao.
Ngoài ra, độ tăng trưởng thị trường còn được thể hiện qua việc doanh nghiệp
chiếm lĩnh được thị trường thông qua việc xây dựng cho mình những mặt hàng chủ
lực ngày càng hoàn thiện sản phẩm để tạo lợi thế cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của thị trường nhằm ổn định thị trường. Doanh nghiệp tạo được sự

hợp lý giữa các tỷ phần thị trường. Các thị trường cấp thấp có cơ cấu tương đồng
thì tỷ trọng giảm đi để nhường cho các phẩn thị trường cấp cao có dung lượng lớn
và nhu cầu cao.
- Sự gia tăng thị phần của doanh nghiệp:
- Thị phần tuyệt đối là tỷ lệ phần doanh thu của doanh nghiệp so với toàn
bộ sản phẩm cùng loại được tiêu thụ trên thị trường (F).
- Thị phần tương đối được xác định trên cơ sở thị phần tuyệt đối của doanh
nghiệp so với thị phần tuyệt đối của đối thủ cạnh tranh.
18
Doanh số bán ra của doanh nghiệp
F =
____________________________________________________________
x 100% (Công thức 1.6)
Tổng doanh số bán ra của toàn ngành
- Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng, doanh thu, lợi nhuận so với kỳ gốc:
- Chỉ tiêu doanh thu: Đây là một chỉ tiêu tổng quát. Nó là kết quả tổng hợp
của công tác phát triển thị trường cho các loại sản phẩm doanh nghiệp sản xuất trên
các loại thị trường khác nhau. Cũng như chỉ tiêu sản lượng sản phẩm tiêu thụ,
Doanh nghiệp cũng cần so sánh mức độ tăng trưởng doanh thu kỳ trước mức tăng
doanh thu của ngành và của đối thủ cạnh tranh. Do chỉ tiêu doanh thu có liên quan
đến yếu tố tiền tệ nên chỉ tiêu này còn chịu sự tác động của sự thay đổi tỷ giá hối
đoái, lạm phát. Có nhiều trường hợp do lạm phát nên mặc dù doanh thu qua các kỳ
đều tăng trưởng nhưng trên thực tế sản lượng tiêu thụ lại không tăng. Do vậy, chưa
thể nói là doanh nghiệp đã thực hiện thành công chiến lược phát triển thị trường.
- Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Lợi nhuận tuy không phải là chỉ tiêu phản ánh trực tiếp kết quả của công
tác phát triển thị trường nhưng nó lại là một chỉ tiêu có liên quan mật thiết với công
tác này. Vì vậy, thông qua mức tăng trưởng của lợi nhuận cả về tương đối và tuyệt
đối ta có thể nắm được phần nào kết quả của công tác tiêu thụ và phát triển thị
trường tiêu thụ của doanh nghiệp.

1.3. Phân loại và phân đoạn thị trường:
1.3.1. Phân loại thị trường:
Một trong những yếu tố quan trọng nhất để thành công trong kinh doanh là sự
hiểu biết cặn kẽ tính chất của từng hình thái thị trường. Phân loại các hình thái thị
trường là chia thị trường theo góc độ khách quan khác nhau. Phân loại hình thái thị
trường là cần thiết, khách quan để nhận thức cặn kẽ về thị trường.
Hiện nay trong kinh doanh người ta dựa vào nhiều tiêu thức khác nhau để
phân loại hình thái thị trường. Mỗi cách phân loại có một hình thái thị trường riêng
đối với quá trình kinh doanh. Sau đây là một số cách phân loại chủ yếu về nội dung,
tính chất của từng hình thái thị trường tương ứng với các phân loại đó.
1.3.1.1. Phân loại theo phạm vi địa lý:
- Thị trường trong nước:
19
Thị trường trong nước là thị trường mà ở đó diễn ra hoạt động mua bán hàng
hoá của những người trong phạm vi hoạt động một quốc gia và gắn liền với quan hệ
hàng hóa – tiền tệ, quan hệ kinh tế, xã hội, chính trị của mỗi quốc gia.
- Thị trường nước ngoài:
Thị trường nước ngoài là nơi diễn ra hoạt động mua bán hàng hoá giữa các
nước với nhau thông qua tiền tệ quốc tế. Các quan hệ kinh tế diễn ra trên thị trường
thế giới ảnh hưởng trực tiếp tới việc phát triển kinh tế ở mỗi nước.
Phân biệt thị trường trong nước và nước ngoài không ở phạm vi biên giới
mỗi nước mà chủ yếu ở người mua và người bán với phương thức thanh toán và
loại giá áp dụng, các quan hệ kinh tế diễn ra trên thị trường. Với sự phát triển của
kinh tế, của khoa học kỹ thuật và sự phân công lao động thế giới, kinh tế mỗi nước
trở thành một mắt xích của hệ thống kinh tế thế giới, do đó thị trường trong nước có
quan hệ mật thiết với thị trường nước ngoài. Việc dự báo đúng sự tác động của thị
trường nước ngoài đối với thị trường trong nước là sự cần thiết và cũng là những
nhân tố tạo ra sự thành công đối với mỗi nhà kinh doanh, mỗi doanh nghiệp.
1.3.1.2. Phân loại theo tính chất tiêu dùng hàng hóa trong mối quan hệ với thu
nhập và nhu cầu:

- Thị trường hàng cấp 1: chủ yếu là thị trường hàng ngắn ngày phục vụ cho
nhu cầu ăn, mặc và học.
- Thị trường hàng cấp 2: chủ yếu là thị trường phục vụ cho nhu cầu ở và đi lại.
- Thị trường hàng cấp 3: thị trường hàng hóa xa xỉ và đắt tiền.
1.3.1.3. Phân loại theo mục đích sử dụng hàng hóa:
- Thị trường hàng hoá: là thị trường trong đó đối tượng trao đổi là hàng hoá,
vật phẩm tiêu dùng với mục đích thoả mãn nhu cầu vật chất. Thị trường hàng hoá
bao gồm nhiều bộ phận thị trường khác nhau, điển hình là thị trường tư liệu sản
xuất và thị trường tư liệu tiêu dùng. Trên thị trường tư liệu sản xuất thường có các
nhà kinh doanh lớn, cạnh tranh diễn ra mạnh hơn, quy mô thị trường lớn hơn nhưng
nhu cầu thị trường không phong phú, đa dạng như nhu cầu thị trường hàng tiêu
dùng, thị trường tư liệu sản xuất bị phụ thuộc vào thị trường hàng tiêu dùng. Còn
trên thị trường hàng tiêu dùng số lượng người mua và người bán nhiều, mức độ
cạnh tranh của thị trường này không gay gắt như trên thị trường tư liệu sản xuất.

×