LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là sản phẩm độc lập của của bản thân, số liệu
và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa hề được sử
dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi cũng xin cam đoan rằng các thông tin
trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả
Nguyễn Thị Thắng
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn, tôi luôn nhận được sự
động viên khuyến khích, sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân Hà Nội, gia đình, các đồng chí, đồng nghiệp.
Với tình cảm chân thành, tôi xin trân trọng cảm ơn Khoa sau Đại học, Khoa
Khoa học Quản lý - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội; Các thầy, cô giáo
trực tiếp giảng dạy lớp Cao học Quản lý Kinh tế K19 Vinh (2010-2012); Tổng cục
DS-KHHGĐ, Sở Y tế, Chi cục DS-KHHGĐ, Cục Thống kê, Trung tâm Giáo dục -
Truyền thông, Trung tâm CSSKSS-KHHGĐ tỉnh Nghệ An; Trung tâm DS-KHHGĐ
20 huyện, thành phố, thị xã, Trung tâm Tư vấn & dịch vụ DS-KHHGĐ tỉnh đã giúp
đỡ tôi rất nhiều trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà,
người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn
thành luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng chí Lãnh đạo Chi cục DS-KHHGĐ Nghệ
An đã quan tâm, tạo điều kiện để tôi theo học lớp Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý
kinh tế và chính sách của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu, song luận văn
không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
của các nhà khoa học, các thầy, cô giáo và các bạn để luận văn hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Nguyễn Thị Thắng
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
VIẾT TẮT VIẾT ĐẦY ĐỦ
BPTT Biện pháp tránh thai
CSSKSS Chăm sóc sức khỏe sinh sản
DS-KHHGĐ Dân số - Kế hoạch hóa gia đình
DS-SKSS Dân số - Sức khỏe sinh sản
THỨ 3
+
Thứ 3 trở lên
KHHGĐ Kế hoạch hóa gia đình
PLDS Pháp lệnh dân số
SKSS/ KHHGĐ Sức khỏe sinh sản/ Kế hoạch hóa gia đình
VTN Vị thành niên
SKTD Sức khỏe tình dục
DCTC Dụng cụ tử cung
BCS Bao cao su
DS-GĐ-TE Dân số - Gia đình - Trẻ em
CTMTQG Chương trình Mục tiêu Quốc gia
TT-GD Truyền thông – Giáo dục
PTTH Phổ thông trung học
DANH MỤC CÁC BẢNG
TÓM TẮT LUẬN VĂN
1. Lý do lựa chọn đề tài:
Gia tăng dân số ngày càng nhanh đã đưa nước ta trở thành nước đông dân
thứ 3 ở Đông Nam Á (sau Indonexia và Philipin) và đứng thứ 13 thế giới. Theo các
nhà khoa học của Liên Hiệp Quốc, để cuộc sống thuận lợi, bình quân trên 1km
2
chỉ
nên có từ 35 đến 40 người. Ở Việt Nam mật độ dân số gần 260 người/km
2
, gấp 6-7
lần so với mật độ chuẩn và gấp 5 lần so với mật độ thế giới, so với các nước đã phát
triển thì gấp trên 10 lần. Hiện nay, mỗi năm dân số nước ta tăng thêm xấp xỉ 1 triệu
người, nghĩa là bằng dân số một tỉnh loại trung bình (nước ta có 39 tỉnh có dân số từ
1,1 triệu người trở xuống). Đến nay, diện tích đất canh tác bình quân đầu người ở
nước ta chỉ còn dưới 0,1 ha/người, xếp vào những quốc gia có diện tích đất canh tác
bình quân đầu người rất thấp, dưới mức đảm bảo an ninh lương thực rất nhiều. Đây
là thách thức lớn khi nước ta có dân số nông thôn chiếm tỷ lệ lớn và chưa có việc
làm còn nhiều. Quy mô dân số lớn cùng với việc gia tăng dân số quá nhanh kèm
theo hàng loạt vấn đề cần giải quyết như nạn phá rừng ngày càng tăng, ô nhiễm môi
trường trầm trọng, giao thông ách tắc, dịch bệnh tăng nhanh
Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng và hết sức quan tâm đến công
tác DS-KHHGĐ. Nghị quyết số 04-NQ/HNTW của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa VII) ngày 14 tháng 01 năm 1993 về chính sách DS-
KHHGĐ đã chỉ rõ: !"#$!%
&'"()*&+",-.*)/0%12)3 $!
&+!4% 567)(8!,*&' 95$!:&;
:!)<.,12=>Pháp lệnh Dân số cũng đã xác định: 895
",-4% 5 4%)?9@"(/ $!)*&+=>
Trải qua hơn 50 năm phấn đấu, công tác DS-KHHGĐ cả nước nói chung,
tỉnh Nghệ An nói riêng đã đạt được những thành tựu quan trọng, đặc biệt trong việc
giảm mức sinh và nâng cao tuổi thọ, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế xã
hội của đất nước, của địa phương. Bên cạnh những thành tựu đó, công tác DS-
i
KHHGĐ cả nước nói chung và Nghệ An nói riêng đang đối mặt với nhiều thách
thức cả về quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số và phân bố dân cư, tác động trực tiếp
đến sự phát triển bền vững của đất nước, địa phương. Nghệ an là tỉnh có quy mô
dân số rất lớn, dân số Nghệ An hiện nay hơn 3,1 triệu người, đứng thứ 4 so với cả
nước (sau Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Thanh Hóa) và nằm ở tốp 10 tỉnh có
mức sinh cao nhất cả nước (Kon tum, Hà Giang, Lai Châu, Gia Lai, Quảng Trị, Lào
Cai, Đắc Nông, Sơn La, Điện Biên), ngày càng có xu hướng gia tăng trong khi cả
nước đã đạt mức sinh thay thế, trong 10 tỉnh trên thì Nghệ an là tỉnh có quy mô dân
số đông nhất và cũng là một tỉnh nghèo;
Ở Nghệ An tỷ lệ sinh con thứ 3
+
đang cao và có xu hướng tăng nhanh, trong
khi đó số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ chiếm tỷ lệ lớn (cứ một phụ nữ bước ra khỏi
độ tuổi sinh đẻ thì có 2,5 người bước vào độ tuổi sinh đẻ). Số trẻ sinh hàng năm vẫn
nhiều (trên 40.000 cháu/năm), trong đó tỷ lệ sinh con thứ 3
+
cao. Chính vì vậy, mục
tiêu của Nghệ an trong thời gian tới là giảm quy mô dân số, giảm mức sinh và sinh
con thứ 3
+
.
Công tác Dân số của Nghệ an trong thời gian qua đã đạt được những kết quả
đáng khích lệ, xử lý vi phạm chính sách DS-KHHGĐ đã có tiến bộ như mức sinh
con thứ 3
+
đã giảm nhưng vẫn còn cao. Bên cạnh đó, ngày 24 tháng 03 năm 2011,
vừa ban hành Quyết định 09-QĐ/TW của Bộ Chính trị về sửa đổi, bổ sung điều 7,
Quy định số 94 -QĐ/TW ngày 15/10/2007 của Bộ Chính trị (khóa XI) về xử lý kỷ
luật đảng viên vi phạm chính sách Dân số kế hoạch hóa gia đình tức nới lỏng xử lý
vi phạm sinh con thứ 3
+
. Trong thực tế lâu nay sinh con thứ 3
+
trong cả nước chủ
yếu xuất phát từ việc mong muốn sinh con trai với mục đích nối dõi tông đường, là
lao động chính, là trụ cột gia đình thì giờ đây, sau khi Quyết định 09 - QĐ/TW ban
hành, hàng loạt phụ nữ đang mang thai và đang có ý định mang thai là con thứ 3
+
.
Nếu chúng ta không có giải pháp kịp thời thì khó tránh khỏi nguy cơ từ vấn đề bùng
nổ dân số. Việc gia tăng dân số nhanh có thể tạo ra thị trường lớn với nguồn lao
động dồi dào, giá rẻ, có sức hấp dẫn đầu tư, song cũng góp phần không nhỏ làm
trầm trọng thêm những khó khăn trong giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải
ii
thiện tình trạng y tế, giáo dục, nhà ở, xóa bỏ tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông, đất
rừng, đất ở ngày càng cạn kiệt, môi trường sống ngày càng ô nhiễm đang là những
thách thức đối với sự phát triển của Việt Nam nói chung và Nghệ An nói riêng. Một
số vấn đề mới xuất hiện như mất cân bằng giới tính khi sinh đã ở mức báo động,
nếu không có giải pháp tích cực, sự mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ đem lại
những hệ lụy nặng nề, tác động xấu đến trật tự, an ninh xã hội. Cơ cấu dân số đang
có những biến đổi quan trọng, chuyển từ “ cơ cấu dân số trẻ” sang “cơ cấu dân số
vàng” và xuất hiện “già hóa dân số”. Chất lượng dân số mặc dù đã được cải thiện
nhưng vẫn còn hạn chế, đang là những vấn đề hết sức được quan tâm…
Do vậy, hoàn thiện các công cụ chính sách DS-KHHGĐ của Nghệ An nhằm
giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
là rất cần thiết. Giải quyết tốt đề tài trên có ý
nghĩa thiết thực nhằm giảm quy mô dân số, giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
,
từ đó giúp cho chất lượng dân số Nghệ An ngày càng được nâng cao về mọi mặt.
Với những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “hoàn thiện các công cụ chính sách DS
-KHHGĐ nhằm giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
tại Nghệ An
”
làm luận văn
tốt nghiệp.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Những nội dung liên quan đến chính sách đối với DS-KHHGĐ nói chung đã
được một số tác giả nghiên cứu dưới những góc độ, đối tượng, phạm vi và thời
điểm khác nhau. Các công trình nghiên cứu của các tác giả đã được công bố dưới
dạng đề tài, chuyên đề, khảo sát và các bài đăng tải trên các tạp chí, sách, báo
Nhìn chung, trên những bình diện khác nhau, các tác giả đã nghiên cứu một cách cơ
bản, đi sâu, làm rõ và đưa ra những luận cứ khoa học cùng với những kinh nghiệm
thực tiễn nhằm giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
. Đây là nguồn tư liệu quí giá
giúp tác giả kế thừa trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về vấn đề hoàn thiện các công cụ chính sách DS-
KHHGĐ của Nghệ An nhằm giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
vẫn chưa có tác
giả nào thực hiện. Vì vậy, tác giả mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này với mong muốn
góp phần vào luận giải những vấn đề mà lý luận và thực tiễn đã và đang đặt ra.
iii
3. Mục tiêu
- Làm rõ cơ sở lý luận của các công cụ chính sách DS-KHHGĐ.
- Phân tích thực trạng các công cụ chính sách DS-KHHGĐ của tỉnh Nghệ An
nhằm giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
.
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các công cụ chính sách DS-KHHGĐ
của Nghệ An nhằm giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các công cụ Chính sách DS-KHHGĐ của địa
phương
-
Phạm vi nghiên cứu:
+ AB CCông cụ của chính sách DS-KHHGĐ nhằm giảm mức
sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
tại Nghệ An
DE;!CDữ liệu được thu thập trong giai đoạn 2006 - 2011
D!C Địa bàn tỉnh Nghệ An.
5. Câu hỏi nghiên cứu
- Chính sách DS-KHHGĐ gồm các công cụ gì?
- Nghệ An đã sử dụng các công cụ chính sách DS- KHHGĐ như thế nào
nhằm giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
?
- Nghệ An cần hoàn thiện các công cụ chính sách DS-KHHGĐ như thế nào
để giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
?
iv
6. Phương pháp nghiên cứu
- Khung lý thuyết:
v
Thực hiện mục
tiêu:
- Giảm mức
sinh
- Giảm tỷ lệ
sinh con thứ 3
+
Các yếu tố ảnh
hưởng tới chính
sách dân số -
KHHGĐ của
Nghệ An:
1. Chủ quan
Các công cụ
của chính sách
dân số -
KHHGĐ tỉnh
Nghệ An:
Truyền thông -
Giáo dục
&Tâm lý
Kinh tế
Hành chính -
Tổ chức
Nghiệp vụ
(Kỹ thuật)
Chính quyền
Trung ương
Chính quyền
địa phương
Tổ chức khác
Người dân
2. Khách quan
- Nghiên cứu định tính: Phương pháp quan sát thực tiễn, phương pháp thu
thập, đọc tài liệu, phân tích, tổng hợp và thống kê.
- Nghiên cứu định lượng:
+ Phỏng vấn trực tiếp để thu thập thông tin từ người dân, các tổ chức chính
quyền, tổ chức y tế địa phương, tổ chức chính trị xã hội, tổng hợp báo cáo thống kê
chuyên ngành về mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
tại Nghệ An? Nguyên nhân?
Ảnh hưởng của việc tăng mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
tại Nghệ An?
+ Phỏng vấn trực tiếp để thu thập thông tin từ người dân, các tổ chức chính
quyền, tổ chức y tế địa phương, tổ chức chính trị xã hội về chính sách DS- KHHGĐ
và tác động của chính sách đó đối với mức sinh và tỉ lệ sinh con thứ 3 tại Nghệ An.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục bảng biểu, danh mục viết
tắt, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục thì nội dung của luận văn được
kết cấu thành 3 chương và có những đóng góp sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về các công cụ chính sách DS-KHHGĐ nhằm
giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
.
- Công tác DS-KHHGĐ là một bộ phận quan trọng của Chiến lược phát
triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu của nước ta; là
một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng cá nhân, gia đình và
toàn xã hội. Nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có những văn bản pháp lý
nhằm đảm bảo cho các hoạt động của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong thực
hiện mục tiêu, nhiệm vụ dân số theo một kỷ cương, trật tự nhất định và đảm bảo
mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con để nuôi dạy cho tốt.
- Để thực hiện thành công mục tiêu trên, giải pháp cơ bản là phải giảm mức
sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
, muốn vậy, cần phải hoàn thiện các công cụ của Chính
sách DS-KHHGĐ. Tuy nhiên, trong thời gian qua các công cụ của Chính sách DS-
KHHGĐ của cả nước nói chung và của Nghệ An nói riêng còn nhiều hạn chế, vì thế
mà mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
đang cao và đang có xu hướng gia tăng.
Nghiên cứu hoàn thiện các công cụ chính sách DS -KHHGĐ hiện nay là rất cần
thiết nhằm giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
.
vi
- Trên cơ sở đi sâu tìm hiểu một số vấn đề lý luận của đề tài nghiên cứu,
những vấn đề về các công cụ chính sách DS –KHHGĐ nhằm giảm mức sinh và tỷ
lệ sinh con thứ 3
+
, nghiên cứu đã cho thấy sự cần thiết phải hoàn thiện các công cụ
này. Đồng thời nghiên cứu cũng nêu rõ hậu quả của việc tăng mức sinh và tỷ lệ sinh
con thứ 3
+
, tìm ra nguyên nhân làm tăng mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
, những
yếu tố ảnh hưởng đến các công cụ của chính sách DS-KHHGĐ nhằm giảm mức
sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
.
Nghiên cứu được thực hiện trên địa bàn các huyện điển
hình đại diện cho các khu vực thành thị, nông thôn- đồng bằng, miền núi của tỉnh
Nghệ An.
Chương 2: Với những phân tích cụ thể về thực trạng và nhận xét về mức
sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2011, thực trạng các
công cụ chính sách DS-KHHGĐ nhằm giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
tại
Nghệ An, có thể thấy được trong thời gian qua, các công cụ chính sách DS-
KHHGĐ của Nghệ An đã tác động không nhỏ tới công tác DS-KHHGĐ, đã làm
giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
. Đã xử lý vi phạm cho một bộ phận không
nhỏ cán bộ, Đảng viên nhằm răn đe, làm gương cho những người dân vi phạm và
đang có ý định vi phạm chính sách DS-KHHGĐ.
- Nghiên cứu đã đánh giá các công cụ chính sách DS-KHHGĐ của Nghệ An
nhằm giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
ở Nghệ An
F(G
- Công cụ kinh tế
Mặc dù Nghệ An đang là một tỉnh nghèo, dân số chủ yếu là giáo dân, vùng
biển, vùng núi nhưng các địa phương trong tỉnh cũng như UBND tỉnh Nghệ An đã
đầu tư kinh phí cho hoạt động chuyên môn, đồng thời hỗ trợ kinh phí khen thưởng
cho những tập thể và cá nhân thực hiện tốt chính sách DS-KHHGĐ
- Công cụ truyền thông – giáo dục và tâm lý
Đã phần nào làm cho người dân hiểu được tầm quan trọng của công tác DS-
KHHGĐ; lợi ích của gia đình có từ 1 đến 2 con; Tác hại của mất cân bằng giới tính
khi sinh; hậu quả của tăng mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
. Tổ chức được nhiều
vii
lớp tập huấn, giáo dục cho các đối tượng, tủy theo từng độ tuổi, từng vùng miền về
DS-KHHGĐ. Đã phối hợp với nhiều ban, ngành, đoàn thể trong tuyên truyền, vận
động thực hiện chính sách DS-KHHGĐ. Tổ chức giáo dục giới tính, sức khỏe sinh
sản cho vị thành niên, thanh niên…Nâng cao nhận thức, hiểu biết của VTN về
SKSS/SKTD/KHHGĐ, từ đó các em chủ động giảm các tác động kích thích quan
hệ tình dục, nếu có quan hệ tình dục sẽ biết cách chủ động sử dụng các BPTT để
phòng tránh có thai, sẽ giảm tình trạng nạo phá thai. VTN chủ động phòng tránh các
bệnh lây qua đường tình dục và HIV/AIDS; đồng thời tăng cường phát triển hài hòa
về thể chất, trí tuệ và tinh thần cho VTN để có lối sống lành mạnh và an toàn.
- Công cụ hành chính – tổ chức
Đã xử lý vi phạm cho một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên nhằm răn
đe, làm gương cho những người dân vi phạm và đang có ý định vi phạm chính sách
DS-KHHGĐ;
Sử dụng hệ thống tổ chức bộ máy làm công tác DS-KHHGĐ từ tỉnh đến thôn
bản trong tuyên truyền, vận động thực hiện chính sách DS-KHHGĐ.
- Công cụ kỹ thuật
Các thủ thuật, các PTTT lâm sàng và phi lâm sàng, dịch vụ CSSKSS
-KHHGĐ đã được chú trọng và đầu tư tương đối hiệu quả.
Công tác DS-KHHGĐ ở Nghệ An đã được Tỉnh Ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh
hết sức quan tâm. Đồng thời có sự vào cuộc của các ban, ngành, đoàn thể nên tạo sự
đồng thuận, thống nhất trong thực hiện chính sách DS-KHHGĐ.
F(4%
Mặc dù các công cụ chính sách DS-KHHGĐ trong thời gian qua đã tác động
không nhỏ tới giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
, nhưng do quy mô dân số
Nghệ an đang quá lớn, lại đang có mức sinh cao, tỷ lệ sinh con thứ 3
+
đang cao và
đang có xu hướng gia tăng. Chính vì vậy, các công cụ của chính sách DS-KHHGĐ
hiện nay của Nghệ An không còn phù hợp với thời đại, cụ thể:
H" 4/I,BH.8J
Công tác truyền thông chưa được triển khai toàn diện và chưa đồng bộ trên
viii
các kênh thông tin đại chúng. Vì vậy chưa tạo thành sự đồng bộ trong hoạt động
truyền thông trên mọi địa bàn, dân cư và trong mọi thơi gian.
Các chương trình giáo dục về Dân số - SKSS tuy đã được triển khai nhưng
mới mang tính thí điểm, chưa được phủ kín khắp các trường PTTH và chuyên
nghiệp.
Hình thức truyền thông trực tiếp tuy đã đổi mới, song cần chú trọng đến nội dung,
chất lượng và kỹ năng truyền thông cho đối tượng.
Dư luận xã hội cón có thành kiến với vị thành niên trong việc tìm hiểu về
SKSS/SKTD. Còn có các ý kiến khác nhau trong việc cung cấp thông tin
SKSS/SKTD cho vị thành niên. Nhiều người cho rằng việc cung cấp thông tin và tư
vấn cho VTN về chăm sóc SKSS/SKTD và KHHGĐ là vẽ đường cho hươu chạy;
Các bạc cha mẹ của VTN né tránh, không chú ý cung cấp thông tin cho con cái,
thậm chí không quan tâm đến những thây đổi tâm lý, sinh lý của con…
Truyền thông đại chúng tuy đã đổi mới, xây dựng nhiều mô hình, nhiều cách
thức, nhiều nội dung song chưa kịp thời và chưa cập nhật tính thời sự. Nhiều lúc
làm cho người dân hiểu sai các chính sách về DS-KHHGĐ.
H0%
Trong thời gian qua Nghệ An đã chú trọng đến đầu tư cho công tác dân số,
nhưng nguồn kinh phí còn quá ít, chỉ đủ để tổ chức các mô hình mang tính thí điểm,
chưa đủ để chi cho mô hình nhân rộng và mang tính chiều sâu; khen thưởng và xử
phạt chưa phù hợp với giá cả thị trường nên chưa thu hút được người dân và các tổ
chức thực hiện nghiêm túc. Chế độ, phụ cấp cho đội ngũ làm công tác Dân số cơ sở
quá thấp, trong khi yêu cầu công việc cấp trên là rất cao, vì vậy thường không đạt
được mục tiêu đề ra.
Bên cạnh đó, Việt nam hiên nay đã thoát nghèo, nên các chường trình đầu tư
từ các tổ chức nước ngoài và các tổ chức phi chính phủ đã bị cắt giảm, trong đó có
chương trình đầu tư cho công tác DS-KHHGĐ cũng bị cắt giảm. Chính vì vậy,
nguồn kính phí sử dụng để mua các BPTT phi lâm sàng và lâm sàng dùng để cấp
miễn phí cho đối tượng sử dụng cũng hạn chế hơn.
HKILM
ix
Hiện nay chưa ban hành được Luật dân số, chưa có sự ràng buộc chặt chẽ
giữa những người sử dụng lao động và người lao động, đặc biệt là sự quản lý đội
ngũ cộng tác viên, chuyên trách Dân số xã. Đồng thời, hình thức xử lý vi phạm cán
bộ, đảng viên và ngươi dân chưa thật nghiêm minh, còn để một số bộ phận không
nhỏ Đảng viên, cán bộ vi phạm chính sách rồi lách luật và không làm gương nên
người dân vi phạm chính sách DS-KHHGĐ cũng rất nhiều.
Song đội ngũ cán bộ chuyên trách DS-KHHGĐ cấp xã, phường, thị trấn vẫn
chưa được tuyển dụng thành viên chức y tế nên đã tác động không nhỏ tới tâm lý,
thái độ và động lực làm việc của đội ngũ trực tiếp làm công tác tuyên truyền vận
động này.
H0N
Thời gian qua, các dịch vụ kỹ thuật về CKSKSS-KHHGĐ đã được chú
trọng, song chất lượng các dịch vụ chăm sóc SKSS, chất lượng các thủ thuật, các
BPTT lâm sàng và phi lâm sàng chưa cao và chưa bao phủ được tất cả các đối
tượng, mới chỉ quan tâm hơn đến các vùng giáo, vùng biển, vùng có mức sinh cao.
Các PTTT miễn phí như bao cao su và viên uống tránh thai phải tiến tới tiếp thị xã
hội, trong khi đó Nghệ An vẫn đang là tỉnh ngheo thì công tác tiếp thị xã hội sẽ gặp
rất nhiều khó khăn.
FA 4O8
- Nguyên nhân chủ quan:
DVề phía chính quyền Trung ương
Việc nới lỏng nhanh chóng các biện pháp hành chính, việc ban hành Pháp
lệnh Dân số và một số chính sách xã hội khác thiếu chặt chẽ, đã làm cho người dân
hiểu sai về các quy định đối tượng được sinh con thứ 3
+
;
Bộ máy làm công tác Dân số/KHHGĐ và đội ngũ cán bộ làm công tác Dân
số/KHHGĐ ở cơ sở thiếu ổn định. Từ năm 1989 đến nay, 3 lần thay đổi tổ chức bộ
máy làm công tác DS-KHHGĐ, đặc biệt là việc giải thể Uỷ ban DS-GĐ-TE từ
tháng 8/2007 ở TW, nhưng 10 tháng sau mới kiện toàn ở địa phương có ảnh hưởng
trực tiếp không nhỏ tới kết quả thực hiện các mục tiêu DS-KHHGĐ.
Đội ngũ cán bộ làm công tác dân số, nhất là ở cơ sở, những người trực tiếp
x
làm công tác tuyên truyền vận động, chưa được ổn định, các điều kiện đảm bảo,
nhất là chính sách cho cán bộ cơ sở quá thấp; cán bộ chuyên trách cấp xã còn làm
việc theo chế độ hợp đồng thời vụ (chưa có các chế độ bảo hiểm), Cộng tác viên
dân số chế độ phụ cấp quá thấp nên chưa thật sự gắn bó, tâm huyết, nhiệt tình với
công việc được giao.
Nguồn lực đầu tư cho công tác DS-KHHGĐ từ Trung ương đến cơ sở còn
thấp, chưa tương xứng với các yêu cầu và mục tiêu đặt ra trong công tác DS-
KHHGĐ.
D Về phía chính quyền địa phương
Do chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng, ý nghĩa chiến lược, tính chất
khó khăn, phức tạp của công tác Dân số nên một số cấp uỷ Đảng, chính quyền đã
quan tâm chưa đúng mức, có nơi đã buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác
Dân số; Một số địa phương có biểu hiện chủ quan thoả mãn với những thành công
của công tác Dân số; Đầu tư nguồn lực cho công tác Dân số chưa đáp ứng với nhu
cầu thực tế.
Chưa triển khai ký cam kết không vi phạm chính sách DS-KHHGĐ đối với
các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, cán bộ, công nhân viên chức, đảng viên trên
toàn địa bàn của Nghệ An, chỉ có quy định về xử lý vi phạm chính sách DS-
KHHGĐ và hình thức chủ yếu là vận động người dân không vi phạm chính sách
DS-KHHGĐ nên chưa thật sự có phương pháp răn đe người dân có ý định sinh con
thứ 3
+
.
Chế độ khen thưởng về thực hiện tốt công tác DS-KHHGĐ còn thấp làm
giảm động lực phấn đấu ở các địa phương đồng thời hình thức xử lý vi phạm chính
sách DS-KHHGĐ quá nhẹ.
Hỗ trợ kinh phí địa phương cho hoạt động DS - KHHGĐ còn quá hạn hẹp,
chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ của công tác DS-KHHGĐ.
+ Về phía các Ban, ngành, đoàn thể và tổ chức chính trị - xã hội khác
Đến nay, một số tổ chức chưa ban hành nội quy, quy chế hoặc bằng các hình
thức khác để thực hiện mục tiêu chính sách dân số trong cơ quan, trong hệ thống tổ
chức của mình, một số địa phương chưa cụ thể hoá một số chính sách, chế độ phù
xi
hợp với đặc điểm của địa phương để thực hiện mục tiêu chính sách dân số, các cơ
quan, tổ chức nói chung chưa tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật về dân số, như
xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế, điều lệ hoặc các hình thức khác, tổ chức
thực hiện các biện pháp phù hợp, đưa chỉ tiêu thực hiện công tác dân số vào kế
hoạch hoạt động thường xuyên, kiểm tra, đánh giá, sơ kết, tổng kết việc thực hiện
mục tiêu, chưa đưa việc ký cam kết thực hiện tốt chính sách dân số -KHHGĐ vào
đầu năm nên không có căn cứ để xử lý vi phạm.
Tác dụng tiêu cực do việc chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác tuyên
truyền Pháp lệnh Dân số của các tổ chức khác đã tác động đến nhận thức của nhân
dân và cộng đồng trong việc thực hiện mục tiêu giảm sinh và giảm tỷ lệ sinh con
thứ 3
+
.
Việc bình luận thiên lệch về quyền không gắn liền với nghĩa vụ công dân đã
tạo dư luận xã hội, làm cho nhân dân chỉ chú ý đến quyền do mình tự nguyện quyết
định. Việc suy diễn quyền đồng nghĩa với thoải mái, tự do, không hạn chế và không
bị phạt đã tạo dư luận xã hội, làm cho các cơ quan, tổ chức dao động, chần chừ
trong việc ban hành chính sách khuyến khích, không khuyến khích và thực hiện các
biện pháp hành chính, chưa xử lý nghiêm, triệt để cán bộ, đảng viên vi phạm chính
sách Dân số - KHHGĐ đang là yếu tố thúc đấy gia tăng mức sinh, điều này đã tác
động xấu đến phong trào vận động quần chúng nhân dân thực hiện chính sách Dân
số - KHHGĐ.
Mặc dù việc suy diễn là không đúng với bản chất về quyền của công dân
được quyết định tự nguyện và có trách nhiệm, với tính thống nhất của hệ thống
pháp luật nước ta. Mặc dù các hành vi là cố tình hay vô ý trong phạm vi hẹp, song
cũng tạo nên dư luận xã hội không thuận cho việc thực hiện mục tiêu chính sách
DS-KHHGĐ trong thời gian qua. Song việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật vẫn
chưa được thực hiện tốt.
D Về phía người dân
Tư tưởng trọng nam khinh nữ, tâm lý tập quán muốn có đông con, nhiều
cháu, phải có con trai để nối dõi tông đường (tư tưởng nhất nam viết hữu thập nữ
xii
viết vô, có con trai để đi vào nơi thờ tự), làm nương rẫy, chăm sóc bố mẹ khi về già.
Bên cạnh đó, hiện nay ở nước ta chế độ an sinh người già chưa đảm bảo.
Đồng thời, những yếu tố kinh tế - xã hội và lối sống vẫn tạo ra nhu cầu đông
con, có con trai (thực tế thời gian qua, những cặp vợ chồng có con một bề, có hai
con gái đã sinh con thứ ba trở lên chiếm tỷ lệ chủ yếu).
Chẩn đoán thai nhi bất hợp pháp, đặc biệt là siêu âm loại bỏ thai nhi vì lý do
giới tính, và điều kiện kinh tế thấp là nguyên nhân khó khăn phức tạp và lâu dài
trong việc thực hiện mục tiêu mỗi cặp vợ chồng có 1 hoặc 2 con, bảo đảm cân bằng
giới tính và nâng cao chất lượng dân số.
Số phụ nữ bước vào chu kỳ sinh đẻ tăng đột biến ở nhóm tuổi có tỷ lệ mắn
đẻ "20-29 tuổi" cao nhất, trung bình cứ một phụ nữ bước ra khỏi độ tuổi sinh đẻ thì
có 2,5 phụ nữ bước vào.
Tất cả những nguyên nhân trên đã làm cho mức sinh và sinh con thứ 3
+
cao và
còn có xu hướng tăng nhanh.
- Nguyên nhân khách quan
+Trình độ phát triển kinh tế - xã hội
Phương thức sản xuất còn lạc hậu và một số công việc nặng nhọc các ngành
kinh tế Nông – Lâm – Ngư nghiệp đòi hỏi sức lao động động của nam giới.
Chính sách an sinh xã hội cho người cao tuổi còn hạn chế, chưa đồng bộ.
Chưa có chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho gia đình sinh con một bề là gái.
Vai trò vị trí người phụ nữ trong gia đình và xã hội còn hạn chế, còn tình
trạng mất bình đẳng giới trong xã hội. Nhiều cơ quan khi tuyển dụng cán bộ thường
đưa ra tiêu chí lựa chọn giới tính như “ưu tiên nam giới”.
Gia đình quy mô nhỏ cũng tạo áp lực giảm sinh, khi mỗi cặp vợ chồng chỉ
sinh 1 – 2 con, điều này đã tạo áp lực đối với các cặp vợ chồng: vừa mong muốn có
ít con, lại mong muốn trong số đó phải có con trai.
+ Sự phát triển của khoa học công nghệ
Khả năng chẩn đoán giới tính thai nhi sớm qua các hình thức: siêu âm, chọc
ối, sinh thiết gai rau và các biện pháp áp dụng kỹ thuật cao khác; khả năng lựa chọn
xiii
phôi trong quá trình thụ tinh nhân tạo đang diễn ra khá phổ biến nên làm tăng mất
cân bằng giới tính khi sinh.
+ Văn hóa truyền thống
Do tâm lý ưa thích con trai của người dân sòn phổ biến; phong tục tập
quán thờ cúng tổ tiên, có con trai để nối dõi tông đường, tư tưởng trọng nam
khinh nữ, sinh con dự phòng mà không nghĩ tới hệ lụy sâu xa. Bên cạnh đó, điều
kiện tự nghiên khắc nghiệt, cuộc sống của con người khổ sở, quanh năm vất vả
nên cứ nghĩ có thêm con để nương tựa tuổi già…Tất cả những vấn đề này đều
ảnh hưởng đến các công cụ của chính sách DS-KHHGĐ nhằm giảm mức sinh và
tỷ lệ sinh con thứ 3
+
.
Chương 3: Từ phân tích điểm mạnh, điểm yếu, nguyên nhân trên và căn cứ vào
phương hướng hoàn thiện các công cụ Chính sách DS-KHHGĐ tại Nghệ An nhằm
giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
, tác giả đã đưa ra những giải pháp nhằm
hoàn thiện các công cụ như sau:
- Hoàn thiện các công cụ truyền thông – giáo dục và tâm lý:
+ Tăng cường, đổi mới truyền thông vận động, giáo dục chuyển đổi hành vi
+ Tăng cường đào tạo, tập huấn cho đội ngũ cán bộ làm công tác Dân số ở cơ sở.
+ Nâng cao động lực cho cán bộ Dân số-KHHGĐ cơ sở.
- Hoàn thiện các công cụ kinh tế:
+ Khuyến khích, khen thưởng đối với cá nhân
+ Khuyến khích, khen thưởng đối với các xã, phường, thị trấn:
+ Đầu tư kinh phí và sử dụng kinh phí
- Hoàn thiện các công cụ hành chính - Tổ chức:
+ Lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức & quản lý
+ Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách Dân số-KHHGĐ
+ Xử lý vi phạm
- Hoàn thiện các công cụ nghiệp vụ (kỹ thuật):
- Dịch vụ Dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản
- Xã hội hóa trong thực hiện công tác DS-KHHGĐ
xiv
Để có thể thực hiện thành công các giải pháp trên cần đảm bảo những điều
kiện sau:
- Đối với chính quyền Trung ương
+ Chính Phủ:
+ Bộ Y tế, Tổng cục DS-KHHGĐ
- Đối với chính quyền địa phương
- Đối với các Ban, ngành, đoàn thể và tổ chứcchính trị - xã hội khác
Kết luận: Từ thực tiễn công tác tại Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh Nghệ An và
đặc biệt trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã thực hiện được các kết quả sau:
- Đã hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận về các công cụ chính sách DS-
KHHGĐ nhằm giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
.
- Đã phân tích thực trạng về mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
. Đặc biệt là
thực trạng về các công cụ của chính sách DS-KHHGĐ Nghệ An
- Từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên tác giả đã đề xuất một số giải pháp và
kiến nghị hoàn thiện các công cụ chính sách DS-KHHGĐ nhằm giảm mức sinh và
tỷ sinh con thứ 3
+
của Nghệ An.
xv
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Gia tăng dân số ngày càng nhanh đã đưa nước ta trở thành nước đông dân
thứ 3 ở Đông Nam Á (sau Indonexia và Philipin) và đứng thứ 13 thế giới. Theo các
nhà khoa học của Liên Hiệp Quốc, để cuộc sống thuận lợi, bình quân trên 1km
2
chỉ
nên có từ 35 đến 40 người. Ở Việt Nam mật độ dân số gần 260 người/km
2
, gấp 6-7
lần so với mật độ chuẩn và gấp 5 lần so với mật độ thế giới, so với các nước đã phát
triển thì gấp trên 10 lần. Hiện nay, mỗi năm dân số nước ta tăng thêm xấp xỉ 1 triệu
người, nghĩa là bằng dân số một tỉnh loại trung bình (nước ta có 39 tỉnh có dân số từ
1,1 triệu người trở xuống). Đến nay, diện tích đất canh tác bình quân đầu người ở
nước ta chỉ còn dưới 0,1 ha/người, xếp vào những quốc gia có diện tích đất canh tác
bình quân đầu người rất thấp, dưới mức đảm bảo an ninh lương thực rất nhiều. Đây
là thách thức lớn khi nước ta có dân số nông thôn chiếm tỷ lệ lớn và chưa có việc
làm còn nhiều. Quy mô dân số lớn cùng với việc gia tăng dân số quá nhanh kèm
theo hàng loạt vấn đề cần giải quyết như nạn phá rừng ngày càng tăng, ô nhiễm môi
trường trầm trọng, giao thông ách tắc, dịch bệnh tăng nhanh
Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng và hết sức quan tâm đến công
tác DS-KHHGĐ. Nghị quyết số 04-NQ/HNTW của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa VII) ngày 14 tháng 01 năm 1993 về chính sách DS-
KHHGĐ đã chỉ rõ: !"#$!%
&'"()*&+",-.*)/0%12)3 $!
&+!4% 567)(8!,*&' 95$!:&;
:!)<.,12=>Pháp lệnh Dân số cũng đã xác định: 895
",-4% 5 4%)?9@"(/ $!)*&+=>
Trải qua hơn 50 năm phấn đấu, công tác DS-KHHGĐ cả nước nói chung,
tỉnh Nghệ An nói riêng đã đạt được những thành tựu quan trọng, đặc biệt trong việc
giảm mức sinh và nâng cao tuổi thọ, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế xã
hội của đất nước, của địa phương. Bên cạnh những thành tựu đó, công tác DS-
1
KHHGĐ cả nước nói chung và Nghệ An nói riêng đang đối mặt với nhiều thách
thức cả về quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số và phân bố dân cư, tác động trực tiếp
đến sự phát triển bền vững của đất nước, địa phương. Nghệ An là tỉnh có quy mô
dân số rất lớn, dân số Nghệ An hiện nay hơn 3,1 triệu người, đứng thứ 4 so với cả
nước (sau Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Thanh Hóa) và nằm ở tốp 10 tỉnh có
mức sinh cao nhất cả nước (Kon tum, Hà Giang, Lai Châu, Gia Lai, Quảng Trị, Lào
Cai, Đắc Nông, Sơn La, Điện Biên), ngày càng có xu hướng gia tăng trong khi cả
nước đã đạt mức sinh thay thế, trong 10 tỉnh trên thì Nghệ An là tỉnh có quy mô dân
số đông nhất và cũng là một tỉnh nghèo;
Ở Nghệ An tỷ lệ sinh con thứ 3
+
đang cao và có xu hướng tăng nhanh,
trong khi đó số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ chiếm tỷ lệ lớn (cứ một phụ nữ bước
ra khỏi độ tuổi sinh đẻ thì có 2,5 người bước vào). Số trẻ sinh hàng năm vẫn nhiều
(trên 40.000 cháu/năm), trong đó tỷ lệ sinh con thứ 3
+
cao. Chính vì vậy, mục tiêu
của Nghệ an trong thời gian tới là giảm quy mô dân số, giảm mức sinh và sinh con
thứ 3
+
.
Công tác Dân số của Nghệ An trong thời gian qua đã đạt được những kết
quả đáng khích lệ, xử lý vi phạm chính sách DS-KHHGĐ đã có tiến bộ như mức
sinh con thứ 3
+
đã giảm nhưng vẫn còn cao. Bên cạnh đó, ngày 24 tháng 03 năm
2011, vừa ban hành Quyết định 09-QĐ/TW của Bộ Chính trị về sửa đổi, bổ sung
điều 7, Quy định số 94 -QĐ/TW ngày 15/10/2007 của Bộ Chính trị (khóa XI) về xử
lý kỷ luật đảng viên vi phạm chính sách Dân số kế hoạch hóa gia đình tức nới lỏng
xử lý vi phạm sinh con thứ 3
+
. Trong thực tế lâu nay sinh con thứ 3
+
trong cả nước
chủ yếu xuất phát từ việc mong muốn sinh con trai với mục đích nối dõi tông
đường, là lao động chính, là trụ cột gia đình thì giờ đây, sau khi Quyết định 09 -
QĐ/TW ban hành, hàng loạt phụ nữ là cán bộ, đảng viên đang mang thai và đang có
ý định mang thai là con thứ 3
+
. Nếu chúng ta không có giải pháp kịp thời thì khó
tránh khỏi nguy cơ từ vấn đề bùng nổ dân số. Việc gia tăng dân số nhanh có thể tạo
ra thị trường lớn với nguồn lao động dồi dào, giá rẻ, có sức hấp dẫn đầu tư, song
cũng góp phần không nhỏ làm trầm trọng thêm những khó khăn trong giải quyết
2
việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện tình trạng y tế, giáo dục, nhà ở, xóa bỏ tệ nạn
xã hội, tai nạn giao thông, đất rừng, đất ở ngày càng cạn kiệt, môi trường sống ngày
càng ô nhiễm đang là những thách thức đối với sự phát triển của Việt Nam nói
chung và Nghệ An nói riêng. Một số vấn đề mới xuất hiện như mất cân bằng giới
tính khi sinh đã ở mức báo động, nếu không có giải pháp tích cực, sự mất cân bằng
giới tính khi sinh sẽ đem lại những hệ lụy nặng nề, tác động xấu đến trật tự, an ninh
xã hội. Cơ cấu dân số đang có những biến đổi quan trọng, chuyển từ “ cơ cấu dân số
trẻ” sang “cơ cấu dân số vàng” và xuất hiện “già hóa dân số”. Chất lượng dân số
mặc dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn hạn chế, đang là những vấn đề hết sức
được quan tâm…
Do vậy, hoàn thiện các công cụ chính sách DS-KHHGĐ nhằm giảm mức
sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
tại Nghệ An là rất cần thiết. Giải quyết tốt đề tài trên có
ý nghĩa thiết thực nhằm giảm quy mô dân số, giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ
3
+
, từ đó giúp cho chất lượng dân số Nghệ An ngày càng được nâng cao về mọi mặt.
Với những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “hoàn thiện các công cụ chính sách DS
-KHHGĐ nhằm giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
tại Nghệ An
”
làm luận văn
tốt nghiệp.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Những nội dung liên quan đến chính sách đối với DS-KHHGĐ nói chung đã
được một số tác giả nghiên cứu dưới những góc độ, đối tượng, phạm vi và thời
điểm khác nhau. Các công trình nghiên cứu của các tác giả đã được công bố dưới
dạng đề tài, chuyên đề, khảo sát và các bài đăng tải trên các tạp chí, sách, báo
Nhìn chung, trên những bình diện khác nhau, các tác giả đã nghiên cứu một cách cơ
bản, đi sâu, làm rõ và đưa ra những luận cứ khoa học cùng với những kinh nghiệm
thực tiễn nhằm giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
. Đây là nguồn tư liệu quí giá
giúp tác giả kế thừa trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về vấn đề hoàn thiện các công cụ chính sách DS-
KHHGĐ nhằm giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
tại Nghệ An vẫn chưa có tác
3
giả nào thực hiện. Vì vậy, tác giả mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này với mong muốn
góp phần vào luận giải những vấn đề mà lý luận và thực tiễn đã và đang đặt ra.
3. Mục tiêu
- Làm rõ cơ sở lý luận của các công cụ chính sách DS-KHHGĐ.
- Phân tích thực trạng các công cụ Chính sách DS-KHHGĐ nhằm giảm mức
sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
tại Nghệ An.
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các công cụ chính sách DS-KHHGĐ
nhằm giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
tại Nghệ An.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các công cụ Chính sách DS-KHHGĐ tại địa
phương
-
Phạm vi nghiên cứu:
+ AB CCông cụ của chính sách DS-KHHGĐ tại tỉnh Nghệ An nhằm
giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
.
DE;!CDữ liệu được thu thập trong giai đoạn 2008 – 2011, vì năm
2008 có thay đổi tổ chức bộ máy.
D!C Địa bàn tỉnh Nghệ An.
5. Câu hỏi nghiên cứu
- Chính sách DS-KHHGĐ gồm các công cụ gì?
- Nghệ An đã sử dụng các công cụ chính sách DS- KHHGĐ như thế nào
nhằm giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
?
- Nghệ An cần hoàn thiện các công cụ chính sách DS-KHHGĐ như thế nào
để giảm mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3
+
?
4
6. Phương pháp nghiên cứu
- Khung lý thuyết:
Thực hiện
mục tiêu:
- Giảm mức
sinh
- Giảm tỷ lệ
sinh con thứ 3
+
Các yếu tố ảnh
hưởng tới chính
sách dân số -
KHHGĐ của
Nghệ An:
1. Chủ quan
Các công cụ
của chính sách
dân số -
KHHGĐ tỉnh
Nghệ An:
Truyền thông -
Giáo dục
&Tâm lý
Kinh tế
Hành chính -
Tổ chức
Nghiệp vụ
(Kỹ thuật)
Chính quyền
Trung ương
Chính quyền
địa phương
Tổ chức khác
Người dân
2. Khách quan
5