Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

tìm hiểu thực trạng, yêu cầu và một số giải pháp góp phần hoàn thiện nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý agribank trong bối cảnh hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.1 KB, 55 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu 4
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Kết cấu luận văn
Chương I: Những cơ sở lý luận về nhân cách người lãnh đạo,
quản lý ngành Ngân hàng
8
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về nhân cách
người cán bộ lãnh đạo, quản lý
8
2. Đặc điểm, yêu cầu của hoạt động lãnh đạo, quản lý ngành ngân hàng 20
3. Những yêu cầu về phẩm chất và năng lực người cán bộ lãnh đạo,
quản lý Agribank (cấp Trung ương)
21
4. Mô hình nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành ngân hàng 29
Chương II: Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở Agribank
38
1. Khái quát về Agribank 38
2. Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Agribank 40
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở Agribank trong bối cảnh hội nhập
44
1. Phương hướng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của
Agribank trong bối cảnh hội nhập
44
2. Các giải pháp cơ bảntheo chị nên có thêm giải pháp về rà soát lại


đội ngũ….
45
Kết luận và kiến nghị 52
- Kết luận
- Kiến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo 55
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trước xu hướng toàn cầu hóa, với xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế,
Đảng ta đã chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhằm xây dựng
một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh”.
Ngành Ngân hàng đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế đất
nước, đặc biệt là trong việc cùng Chính phủ đảm bảo kinh tế vĩ mô. Là Ngân
hàng thương mại nhà nước hàng đầu Việt Nam về mọi phương diện tổng tài sản,
tổng nguồn vốn, mạng lưới chi nhánh, số lượng cán bộ, viên chức v.v Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) được Đảng,
Chính phủ giao trọng trách, sứ mệnh quan trọng đó là chủ lực trong đầu tư cho
Nông nghiệp, Nông dân, Nông thôn và nền kinh tế. Để hoàn thành nhiệm vụ đó
đòi hỏi Agribank phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là phải có
được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm
chất đạo đức trong sáng, với trình độ chuyên môn đáp ứng được yêu cầu của
thực tiễn. Có thể nói, cán bộ lãnh đạo, quản lý là người chịu trách nhiệm toàn
diện trước cơ quan quản lý cấp trên về mọi hoạt động của đơn vị, doanh nghiệp.
Điều này cũng có nghĩa là doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ có đạt hiệu quả hay
không một phần lớn phụ thuộc vào năng lực, phẩm chất của người cán bộ lãnh
đạo, quản lý. Cũng chính vì thế mà vai trò, năng lực, phẩm chất, nhân cách của

người cán bộ lãnh đạo, quản lý góp phần rất quan trọng trong hoạt động lãnh
đạo, quản lý xây dựng doanh nghiệp.
Agribank qua gần 25 xây dựng và phát triển đang ngày càng lớn mạnh về
quy mô và chất lượng. Qua thực tiễn phát triển của Ngân hàng và yêu cầu phát
4
triển đất nước càng đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý Agribank phải rèn
luyện về năng lực và phẩm chất, vì đó cũng chính là nhân tố quyết định đến chất
lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị cũng như hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng.
Tuy nhiên, qua thực tiễn cho thấy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
Agribank còn có một số mặt khiếm khuyết và bất cập, đặc biệt vấn đề nhân cách
(ở đây xin được đề cập về năng lực, phẩm chất) của cán bộ lãnh đạo, quản lý
Agribank cấp Trung ương là một vấn đề then chốt, đang là vấn đề đòi hỏi phải
có sự đầu tư nghiên cứu nghiêm túc và thận trọng.
Là một người đã tham gia hoạt động lãnh đạo, quản lý cấp đơn vị (Ban) ở
Agribank nhiều năm, mặt khác rất quan tâm đến việc xây dựng nhân cách của
đội ngũ lãnh đạo, quản lý cấp Trung ương của Agribank, hơn nữa, thấy được vai
trò quan trọng của nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hoạt động
chuyên môn nói chung, trong lãnh đạo, quản lý Ngân hàng nói riêng v.v Đây
là những lý do để tôi lựa chọn vấn đề tìm ra giải pháp góp phần hoàn thiện nhân
cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý Agribank làm đề tài tốt nghiệp. Tuy nhiên,
trong điều kiện và khả năng có hạn, tôi xin giới hạn ở vấn đề tìm hiểu thực
trạng, yêu cầu và một số giải pháp góp phần hoàn thiện nhân cách người cán bộ
lãnh đạo, quản lý Agribank trong bối cảnh hội nhập.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát thực trạng nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, quản
lý Agribank cấp Trung ương (Trụ sở chính) trong khoảng thời gian từ năm 2009
đến tháng 9/2012, phân tích để thấy được điểm mạnh và những hạn chế của đội
ngũ này trong việc thực thi nhiệm vụ. Từ đó, đề xuất những yêu cầu nhân cách
cần có của đội ngũ cán bộ này trong bối cảnh hội nhập, cũng như đề xuất kiến

nghị một số giải pháp để hoàn thiện nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, quản
lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của một Ngân hàng Thương mại Nhà nước
hàng đầu Việt Nam.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
5
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý Agribank cấp Trung ương
trong bối cảnh hội nhập.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu nhân cách của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý Agribank cấp
Trung ương (tại Trụ sở chính) trong thời gian từ năm 2009 đến tháng 9/2012.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu một số vấn đề lý luận như:
- Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về tiêu
chuẩn người cán bộ lãnh đạo (phẩm chất và năng lực).
- Mô hình nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành ngân hàng
4.2. Nghiên cứu thực trạng phẩm chất và năng lực của người cán bộ, lãnh
đạo quản lý Agribank cấp Trung ương từ năm 2009 đến tháng 9/2012
Từ việc phân tích thực trạng để thấy được điểm mạnh và những điểm còn
hạn chế của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý Agribank cấp Trung ương (tại Trụ
sở chính) hiện nay.
4.3. Đề ra phương hướng, giải pháp góp phần hoàn thiện nhân cách của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý Agribank trong bối cảnh hội nhập.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập và phân tích tài liệu để xây dựng cơ sở lý luận cho việc nghiên
cứu về nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý Agribank cấp Trung ương.
5.2. Phương pháp nghiên cứu các số liệu thống kê
Phương pháp này được sử dụng để tập hợp các số liệu về thực trạng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý Agribank cấp Trung ương (Trụ sở chính) từ năm

2009 đến tháng 9/2012.
5.3. Phương pháp khảo sát và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý Agribank cấp Trung ương.
6
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết quả nghiên cứu còn được trình bày
trong 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận về nhân cách người lãnh đạo, quản lý
ngành Ngân hàng
Chương II: Thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Agribank
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở Agribank trong bối cảnh hội nhập
Cuối cùng là danh mục các tài liệu tham khảo.
7
CHƯƠNG I
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHÂN CÁCH NGƯỜI LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ NGÀNH NGÂN HÀNG
Chương I: Những vấn đề lý luận về nhân cách người lãnh đạo, quản lý
ngành Ngân hàng
Đọc đề cương chưa thấy chỗ nào đề cập đến bối cảnh hội nhập
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về nhân cách người
cán bộ lãnh đạo, quản lý
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý
- Cấu trúc nhân cách: Đức – Tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách con người là một vấn đề có ý nghĩa to
lớn cả lý luận và thực tiễn, là mối quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Quan điểm của Người về nhân cách là kết hợp hài hòa truyền thống của
dân tộc Việt Nam với tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, đặc biệt là chủ
nghĩa nhân đạo cao cả của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.Lênin.
Những luận giải về nhân cách của Người đến nay đã được nhiều nhà khoa

học nghiên cứu và nhận định rằng: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách là hệ
thống nhất, khoa học nhất, nhân văn và toàn diện nhất. Đó là cách tiếp cận đi từ
nhận thức về nhân cách, cấu trúc nhân cách, con đường hoàn thiện nhân cách,
đặc biệt là đối với nhân cách của người cán bộ cách mạng.
Trong quan niệm về nhân cách, Người nhấn mạnh hai thành tố quan trọng
là tài và đức (hồng và chuyên), trong đó đức là cái gốc của con người, nhất là
người cán bộ. Theo Người, cái cốt lõi, nền tảng của nhân cách người cán bộ
cách mạng là đạo đức cách mạng. Người chỉ rõ: “Cũng như sông thì có nguồn
mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì
cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải
8
phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức,
không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì”
1
.
Đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đạo đức tiến bộ, đạo đức
cách mạng của giai cấp công nhân. “Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu.
Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải là vì danh vọng của cá nhân,
mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”
2
. Đạo đức mới khác
hẳn về chất so với kiểu đạo đức cũ. “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống
đất, chân chổng lên trời, đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới
đất đầu ngẩng lên trời”. Đạo đức mới - đạo đức cách mạng, theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh là quyết tâm suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng, đó là điều
chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện
tốt đường lối chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao
động lên trên, lên trước lợi ích cá nhân mình. Hết lòng phục vụ nhân dân. Vì
Đảng, vì nhân dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Người

dạy: “ Mỗi đồng chí phải ra sức học tập, rèn luyện, tu dưỡng, củng cố lập trường
giai cấp công nhân… phải tuyệt đối chấp hành đường lối chính sách của Đảng
và chính phủ…Dù cương vị nào, các đồng chí phải luôn gương mẫu, luôn luôn
xứng đáng là người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân”
3
.
Mặt khác, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ của người cán bộ cách mạng thì
nhất thiết phải có năng lực công tác. Quan điểm của Người về vấn đề năng lực
luôn có tác dụng định hướng và chỉ đạo việc bồi dưỡng nâng cao năng lực của
cán bộ. Theo Người, “có tài mà không có đức thì vô dụng, có đức mà không có
tài thì làm việc gì cũng khó”. Do đó, vấn đề năng lực cũng là vấn đề luôn được
Người quan tâm đặc biệt. Người cán bộ cần có năng lực là gì? Theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh, trước hết phải quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm chỉnh quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng, có trình độ và năng lực cần thiết để đảm
nhiệm trọng trách mà Đảng giao phó.
1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2002, tr. 252-253.
2
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2002, tr. 252
3
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2002, tr.275
9
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra con đường cơ bản cho người cán bộ cách
mạng tự vươn lên hoàn thiện mình, đó là phải học tập, rèn luyện bền bỉ suốt đời.
Để tu dưỡng, rèn luyện đạt kết quả, đòi hỏi trước hết, mỗi cán bộ, chiến sĩ phải
nêu cao tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê bình. Người dạy: “Trên con
đường phát triển cách mạng của mình, Đảng ta, quân đội ta cũng như mỗi đồng
chí chúng ta luôn luôn có ưu điểm và không tránh khỏi có khuyết điểm. Chỉ có
không ngừng đấu tranh, phê bình và tự phê bình, nhận rõ đúng sai, phát huy cái
đúng, khắc phục cái sai mới có thể làm cho mình, cho Đảng, cho cách mạng tiến

bộ mãi”
4
.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên
trau dồi phẩm chất cách mạng, đồng thời phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá
nhân, bài trừ bệnh quan liêu, xa rời quần chúng, phải thực sự là người đầy tớ, là
công bộc của nhân dân. Người nói: “Muốn gột rửa sạch những vết tích xấu xa
của xã hội cũ, muốn rèn luyện đạo đức cách mạng, thì chúng ta phải ra sức học
tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi. Nếu không cố gắng để tiến bộ tức là
thoái bộ, là lạc hậu”
5
. Muốn tự cải tạo được bản thân để tự mình hoàn thiện nhân
cách thì mỗi cán bộ phải tự nhận thức được những ưu điểm và khuyết điểm của
mình để tự giác, tự xây dựng kế hoạch, đề ra mục tiêu, thời gian sửa chữa, học
tập, rèn luyện, tu dưỡng để hoàn thiện nhân cách. Quá trình tự hoàn thiện, tự
giáo dục, tự rèn luyện nhân cách không phải là công việc tự giác nhất thời mà là
quá trình phấn đấu thường xuyên, liên tục, có chủ định và phải phát huy cao độ
vai trò của ý chí, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Cuộc đời và sự nghiệp vĩ đại của Người là bài học quý giá để giáo dục cho
thế hệ trẻ biết nỗ lực phấn đấu, không ngại khó, ngại khổ. Nếu mỗi cá nhân biết
rèn giũa, phát huy ý chí cao độ thì nhất định thành công. Bài học đó đã được
Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết ở 4 câu thơ: “Gạo đem vào giã bao đau đớn.
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông. Sống ở trên đời người cũng vậy. Gian nan rèn
luyện ắt thành công”.
4
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2002, tr.584
5
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2002, tr.284
10
Đồng thời, việc tu dưỡng, rèn luyện đối với mỗi người cán bộ, theo Chủ

tịch Hồ Chí Minh, phải được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của bản
thân mình; trong sinh hoạt học tập, chiến đấu, công tác, trong các mối quan hệ
với Tổ quốc, với xã hội, với Đảng với nhân dân và bản thân. Thông qua hoạt
động thực tiễn, người cán bộ biết điều chỉnh hành vi của mình và cũng thông
qua thực tiễn, phẩm chất nhân cách của mỗi người được thể hiện rất cụ thể,
phong phú, đa dạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trường kỳ kháng chiến
là một viên đá thử vàng đối với mỗi một quốc dân, đồng thời là một trường học
để rèn luyện cho cán bộ”
6
. Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, thông qua quá
trình tu dưỡng rèn luyện công phu mới có được phẩm chất nhân cách tốt đẹp và
phẩm chất ấy ngày càng được bồi đắp, nâng cao, hoàn thiện. Người cũng khẳng
định rõ mối quan hệ mật thiết giữa lý luận và hoạt động thực tiễn. Đây là mối
quan hệ biện chứng, quan hệ chặt chẽ. Thực tiễn cần tới lý luận soi đường, dẫn
dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm, còn
lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với
thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo điều.
- Những yêu cầu về Nhân – Lễ - Trí – Tín – DũngBên cạnh quan niệm về
Đức - Tài, Hồ Chí Minh còn nêu lên những yêu cầu về Nhân, Lễ, Trí, Tín, Dũng
- những phẩm chất nhân cách cốt lõi.
“Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí đồng bào sẵn
lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà
không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ uy quyền. Những người đã
không ham, không e, không sợ gì thì việc gì là việc phải, họ đều làm được
Nghĩa là ngay thẳng, không có tâm tư, không làm việc bậy, không có việc
gì phải giấu đoàn thể, ngoài lợi ích của đoàn thể, không có lợi ích riêng phải lo
toan.
Trí là không có việc gì tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch,
sáng suốt; dễ hiểu lý; dễ tìm phương hướng; biết xem người, biết xét việc. Vì
vậy mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho đoàn thể.

6
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2002, tr.148.
11
Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc gì cũng phải có gan làm, thấy khuyết
điểm phải có gan sửa chữa, cực khổ khó khăn có gan chịu đựng. Có gan chống
lại những sự vinh hoa, phú quý không chính đáng. Nếu cần thì có gan hy sinh cả
tính mệnh cho đoàn thể, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè nhút nhát.
Liêm là không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng,
không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao
giờ hủ hóa. Chỉ có một cái ham là ham học, ham làm và ham tiến bộ.”
7

Có thể so sánh quan niệm của Hồ Chí Minh và Khổng Tử về đạo đức. Khi
nói đến đạo đức con người, Khổng Tử cũng nêu lên 5 đức tính: Nhân, Lễ, Trí,
Tín, Dũng. Tuy nhiên, mặc dù quan niệm của Khổng Tử về năm đức tính đó là
tiến bộ trong thời đại của ông. Nhưng thực chất cũng chỉ nhằm phục vụ cho giai
cấp thống trị. Điều khác nội dung đạo đức của Khổng Tử là Hồ Chí Minh đã
thay “Lễ, Tín” bằng “Dũng, Liêm”. Chính sự thay thế này đã thể hiện tính chất
cách mạng trong quan niệm đạo đức của Hồ Chí Minh. Bởi theo Người, con
người có phẩm chất dũng cảm, có ý chí mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng và xã hội giao phó. Đối với người cán bộ, tiêu chuẩn quan trọng phải là
liêm khiết không tham ô, tham nhũng mới có thể gọi là con người có đạo đức.
Đồng thời, nội dung nhân nghĩa từ tư tưởng của Hồ Chí Minh mang tính nhân
dân và thực tiễn sâu sắc so với Khổng Tử.
- Đạo đức cách mạng: Cần – Kiệm – Liêm – Chính – Chí công vô tư
Ngoài những phẩm chất nhân cách cốt lõi, trong nhiều bài huấn thị của Hồ
Chí Minh đều thể hiện quan điểm đạo đức là gốc, nếu không có đạo đức thì tài
cũng vô dụng.
Người viết: “Cũng như sông có nguồn mới có nước, không có nguồn thì
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có

đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân”
8
.
7
Hồ Chí Minh: Về đạo đức cách mạng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr 34-35.
8
X.Y.Z: Sửa đổi lối làm việc, Nxb Sự thật, Hà Nội (xuất bản lần thứ 7), 1959, tr 32-33.
12
Đạo đức theo quan điểm của Hồ Chí Minh khác với đạo đức cũ theo quan
niệm trước đây. Nó không phải là đạo đức thủ cựu, mà là đạo đức mới. Đạo đức
mới được hình thành và phát triển cùng với sự nghiệp cách mạng và phục vụ cho
sự nghiệp cách mạng. Nó khác với đạo đức cũ bởi tính cách mạng của nó. Tính
chất của đạo đức mới là mình vì mọi người và mang tính truyền thống dân tộc.
Nội dung của đạo đức cách mạng là:
Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư là những khái niệm đạo đức cũ,
được Hồ Chí Minh tiếp thu, chọn lọc, đưa vào những yêu cầu và nội dung mới.
Người chỉ ra rằng: phong kiến nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không thực
hiện; ngày nay, ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương
cho nhân dân theo để lợi cho nước, cho dân. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư là một biểu hiện sinh động của phẩm chất "trung với nước, hiếu với dân".
Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai. Kiệm là tiết kiệm vật tư,
tiền bạc, của cải, thời gian, không xa xỉ, không hoang phí. Liêm là trong sạch,
không tham lam tiền của, địa vị, danh tiếng. Chính là không tà, là thẳng thắn,
đứng đắn. Các đức tính đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cần mà không
kiệm giống như một chiếc thùng không đáy. Kiệm mà không cần thì lấy gì mà
kiệm. Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần
có cành, lá, hoa, quả mới là hoàn chỉnh.
Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người. Hồ Chí Minh
viết:

"Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa, thì không thành trời
Thiếu một phương, thì không thành đất.
Thiếu một đức, thì không thành người"
13
Cần, kiệm, liêm, chính càng cần thiết đối với cán bộ, đảng viên. Bởi vì, nếu
cán bộ, đảng viên mắc sai lầm, khuyết điểm thì sẽ ảnh hưởng đến nhiệm vụ
chung của cách mạng, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Mặt khác, những người
trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần,
kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân.
Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh
về tinh thần, sự văn minh tiến bộ của một dân tộc. Cần, kiệm, liêm, chính là nền
tảng của đời sống mới, nền tảng của thi đua yêu nước; là cái cần để làm việc,
làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân,
phụng sự Tổ quốc và nhân loại.
Chí công vô tư là không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc,
vì đồng bào; là đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
Thực hành chí công vô tư cũng có nghĩa là phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa
cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là chỉ muốn "mọi người vì mình" mà
không biết "mình vì mọi người". Nó là một thứ giặc nội xâm, còn nguy hiểm
hơn cả giặc ngoại xâm. Nó là bạn đồng minh của chủ nghĩa đế quốc và thói quen
truyền thống lạc hậu. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng
trăm thứ bệnh nguy hiểm, như quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô,
lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị, quyền hành, tự cao tự đại, coi
thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán chuyên quyền Tóm lại, "chủ
nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta.
Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu dậy". Chủ nghĩa

cá nhân là mối nguy hại cho cá nhân con người, cho một đảng và cả dân tộc.
Người viết: "Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại,
có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người
yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá
nhân". Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Vì vậy thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc
đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
14
Tuy nhiên, cần có nhận thức đúng đắn đâu là chủ nghĩa cá nhân, đâu là lợi
ích cá nhân. Hồ Chí Minh cho rằng: đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không
phải là giày xéo lên lợi ích cá nhân. Mỗi người đều có cá tính riêng, sở trường
riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình. Nếu những lợi ích cá
nhân đó không trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu. Theo quan điểm
của Hồ Chí Minh, chỉ ở trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều
kiện để cải thiện đời sống của riêng mình, phát huy tính cách riêng và sở trường
riêng của mình.
- Sửa đổi lề lối, tác phong làm việc
Tháng 10 năm 1947, giữa những ngày căn cứ địa Việt Bắc đang tập trung
chống trả cuộc tấn công ác liệt của thực dân Pháp, tại ATK Thái Nguyên (chiến
khu Việt Bắc), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc. Xuyên
suốt tác phẩm này, Hồ Chí Minh đã làm rõ quan điểm quần chúng, chỉ rõ tầm
quan trọng của mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân và khẳng định: “Sự
lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra,
trở lại nơi quần chúng”
9
.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhiều lần nói về tiêu chuẩn của một Đảng
cách mạng, đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên và coi đó là một
trong những điều kiện cần thiết để Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình.
Trong tư tưởng của Người: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát

tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh,
đồng bào sung sướng”
10
. Cho nên, “trong lúc dân tộc đang ở trên ngã tư đường,
chết hay sống, mất hay còn, mỗi một đồng chí và toàn cả Đoàn thể phải đem tất
cả tinh thần và lực lượng ra để đưa toàn dân quay về một hướng, nhằm vào một
mục đích: đánh đuổi thực dân Pháp, làm cho nước được thống nhất và độc
lập”
11
. Và để có thể hoàn thành được trọng trách mà Tổ quốc và nhân dân giao
phó, Hồ Chí Minh yêu cầu: Đảng - đội tiền phong của dân tộc, bộ tham mưu
9
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1995, t.5, tr.290.
10
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1995, t.5, tr.249.
11
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1995, t.5, tr.76.
15
lãnh đạo cuộc kháng chiến nhất định “phải luôn luôn xem xét lại tất cả công tác
của Đảng”
12
.
Việc đầu tiên theo Người cần phải “sửa đổi” chính là mỗi cán bộ, đảng viên
khi thấy khuyết điểm, nhất định phải kiên quyết tiến hành phê bình và sửa chữa,
đồng thời giúp đồng chí mình sửa chữa. Để khắc phục tình trạng “chỉ đi chữa
bệnh cho người khác, còn bệnh trong mình thì quên chữa”, các cơ quan, các cán
bộ, đảng viên, mỗi người, mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm
đồng chí mình, để “Đảng chóng phát triển, công việc chóng thành công”. Trong
mọi thời điểm, cán bộ, đảng viên “chẳng những phải lãnh đạo quần chúng, mà
lại phải học hỏi quần chúng”. Muốn vậy, người lãnh đạo không nên kiêu ngạo,

mà nên hiểu thấu. Sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình chưa đủ cho sự lãnh
đạo đúng đắn, vì vậy, ngoài kinh nghiệm của mình, người lãnh đạo còn phải
lắng nghe và áp dụng kinh nghiệm của đảng viên, của dân chúng. Thực tế cho
thấy, những nơi công việc không chạy đều, chủ yếu là do cán bộ lãnh đạo không
mật thiết liên hợp với quần chúng. Vì dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất
anh hùng, cho nên “phải học dân chúng, phải hỏi dân chúng, phải hiểu dân
chúng”, nhưng tuyệt đối không phải là “theo đuôi” quần chúng.
Đặc biệt, Người nhấn mạnh: trong quá trình công tác, cán bộ, đảng viên
phải đặt khẩu hiệu và chỉ thị của Đảng cho phù hợp với thực tế và phải kiểm
soát những khẩu hiệu và chỉ thị đó được thực hiện như thế nào. Nói tóm lại, theo
lời Người thì cách làm việc, cách tổ chức, nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu,
viết báo, v.v. đều phải lấy câu này làm khuôn phép: “Từ trong quần chúng ra.
Về sâu trong quần chúng”. Để học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho
dân chúng, tin dân chúng, đưa “chính trị vào giữa nhân gian” nhằm gắn bó mật
thiết với nhân dân, thì cán bộ, đảng viên phải xem xét lại, phải sửa đổi và khắc
phục ngay “bệnh chủ quan” trong tư tưởng, mà biểu hiện là kém lý luận (không
biết giải quyết vấn đề, không đưa lý luận vào thực tiễn), khinh lý luận (chỉ đề
cao kinh nghiệm) và lý luận suông (chỉ lý luận mà không áp dụng được vào thực
tiễn). Căn bệnh tiếp theo là khuyết điểm về sự quan hệ trong Đảng và ngoài
12
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1995, t.5, tr.249.
16
Đảng cần phải sửa đó là “bệnh hẹp hòi”, thể hiện rõ ở kiểu làm việc ưa xu nịnh
(dìm người tài giỏi, dùng người thuộc cánh hẩu…), không thống nhất giữa toàn
cục và bộ phận (chỉ thấy lợi ích của bộ phận mình, không thấy lợi ích của toàn
thể, ham danh vọng và địa vị), dẫn đến việc phá hoại khối đoàn kết, thống nhất
trong Đảng và khối đại đoàn kết toàn dân-nguồn sức mạnh nội lực của Đảng.
Căn bệnh thứ ba là hệ quả của hai căn bệnh trước chính là “thói ba hoa”, thể
hiện rõ trong cách nói và cách viết (viết dài dòng, loanh quanh, không rõ nội
dung; viết cẩu thả, lúng túng). Những căn bệnh này là kẻ địch bên trong, là bạn

“đồng minh” của kẻ địch khác ở bên ngoài để phá ta, “nếu không chữa ngay, để
nó lây ra, thì có hại vô cùng”, làm rạn nứt mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với
nhân dân.
Đặt vấn đề Sửa đổi lối làm việc trong bối cảnh cả nước đang tiến hành cuộc
kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên liệu trước được tình
hình, cảnh báo một cách khoa học khả năng phát sinh, phát triển rất nhanh của
lối làm việc xa rời bản chất của một Đảng cách mạng chân chính. Chỉ mới 2
năm sau ngày nước nhà giành được độc lập, trong một bộ phận những “ông
quan cách mạng” đã xuất hiện. Họ chính là những người đã biến “những nghị
quyết và chỉ thị Đảng” thành những “lời nói suông”, không phải phục vụ nhân
dân mà trở thành “cha mẹ dân”, làm “hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với
Đảng”.
Luôn chú trọng sự thống nhất giữa lời nói và việc làm, lý luận gắn liền với
thực tiễn, cho nên Người nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tổ chức lề lối làm
việc một cách hiệu quả và khẳng định đó sẽ là một nhân tố quan trọng, quyết
định đến kết quả trong thực tiễn đường lối chính trị của một Đảng cầm quyền.
Trả lời câu hỏi: “Lãnh đạo đúng là thế nào?”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “1.
Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng vì dân chúng chính là những
người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta. 2. Phải tổ chức sự thi hành
cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong. 3. Phải
17
tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng mới
giúp được”
13
.
Nói tóm lại, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì Sửa đổi lối làm việc để rèn
luyện tính Đảng, để toàn tâm, toàn ý phục vụ Tổ quốc và nhân dân. Mỗi cán bộ,
đảng viên phải thật thà tự phê bình, tự sửa chữa những khuyết điểm của mình,
phải thực hành khẩu hiệu: “Chí công vô tư; cần, kiệm, liêm chính”, để khắc
phục thói quen “trông từ trên xuống”, “cách xa dân chúng, không liên hệ chặt

chẽ với dân chúng, cũng như đứng lửng lơ giữa trời, nhất định thất bại”.
Tuy nhiên, học hỏi quần chúng, lắng nghe, tập trung ý kiến của quần
chúng, “hoá nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng”, “hoá nó thành
cách chỉ đạo nhân dân”, để quần chúng “đều hiểu, đều tin, đều quyết tâm làm
theo lời kêu gọi của mình”, nhưng tuyệt đối không nên “theo đuôi” quần chúng,
vì nói như Người thì: lắng nghe quần chúng, học hỏi quần chúng để lãnh đạo
quần chúng, phục vụ quần chúng được tốt hơn, nhưng nếu không giữ vững lập
trường, sẽ đánh mất vai trò lãnh đạo của mình.
1.2. Quan điểm của Đảng ta về tiêu chuẩn người cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đánh giá được tầm quan trọng của công việc xây dựng và kiện toàn đội ngũ
cán bộ, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng quan tâm và có những giải pháp
tích cực nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong tình hình mới. Luôn
xác định đây là một trong những nội dung quan trọng của các kỳ đại hội Đảng
đặc biệt là từ Đại hội VI (năm 1986) cho đến nay. Xây dựng và phát triển đội
ngũ cán bộ là một trong ba nội dung của chương trình cải cách hành chính nhà
nước- công việc mà Đảng và Nhà nước đang tập trung sức lực, trí tuệ để giải
quyết. Đảng ta dã từng bước hoàn thiện về lý luận trong vấn đề xây dựng đội
ngũ cán bộ một cách toàn diện từ quan điểm, nguyên tắc, cơ cấu, tiêu chuẩn, vấn
đề quản lý, lãnh đạo, kiểm tra, giám sát và chính sách đối với cán bộ; đặc biệt là
đạo đức, lối sống, hiệu quả công việc của đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết TW3, TW7 khóa VIII, TW
13
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1995, t.5, tr.285-286.
18
9 khóa IX, đã đề ra nhiều chủ trương biện pháp để nâng cao trình độ mọi mặt
cho đội ngũ cán bộ công chức trong thời kỳ mới. Mục tiêu của việc xây dựng và
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới được xác định là: Xây
dựng một đội ngũ cán bộ có chất lượng đồng bộ và toàn diện, có cơ cấu hợp lý,
bộ máy tinh giản, năng động, hoạt động có hiệu quả. Một đội ngũ cán bộ vững

về chính trị tư tưởng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ chuyên môn
cao, có năng lực lãnh đạo, quản lý, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của sự
nghiệp đẩy mạnh Công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII về định hướng chiến lược cán bộ và
Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước đã nhấn mạnh về vai trò của cán bộ, đặc biệt là cán
bộ quản lý. Cán bộ được coi là nhân tố quyết định cho sự thành bại của cách
mạng, của sự nghiệp phát triển đất nước.
- Tiêu chuẩn chung đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lýVăn kiện nêu rõ
tiêu chuẩn của người cán bộ lãnh đạo, quản lý gồm các nội dung sau:
Trước hết, về tiêu chuẩn chung, người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải:
“- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường
lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết
đấu tranh chống tham nhũng. Có hình thức tổ chức kỷ luật. Trung thực, không
cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
- Có trình độ hiểu biết lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ
năng lực và sức khỏe để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được
giaoo.
Các tiêu chuẩn đó phải có mối quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả đức
và tài. Đức là gốc”
14
.
14
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị BCH Trung ương khóa VIII, Nxb CTQG, HN, 1997, tr 80-81.
19
- TVề tiêu chuẩn đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp:
“- Hiểu biết sâu sắc các quan điểm kinh tế của Đảng, có phẩm chất và đạo

đức, cần kiệm, liêm chính, không lợi dụng chức quyền để tham ô, lãng phí, xa
hoa.
- Có kiến thức kinh tế thị trường và quản trị doanh nghiệp, hiểu biết khoa
học, công nghệ, pháp luật và thông lệ quốc tế.’
- Có khả năng tổ chức kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế - xã hội.”
15

Có thể thấy rằng, Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) về Chiến lược cán
bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và các nghị quyết
của Bộ Chính trị về công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ đã góp phần quy
hoạch chuẩn bị từ xa và tạo nguồn cán bộ dồi dào, làm căn cứ để đào tạo, bồi
dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp vững vàng về chính
trị, trong sáng về đạo đức, thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ, có trình độ và
năng lực, nhất là năng lực trí tuệ và thực tiễn tốt, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ
cấu, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
trong giai đoạn hiện nay.
2. Đặc điểm, yêu cầu của hoạt động lãnh đạo, quản lý ngành Ngân hàng
Ngành Ngân hàng đóng vai trò quan trọng đặc biệt đối với nền kinh tế đất
nước. Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt. Hoạt động ngân
hàng thương mại có tính nhạy cảm rất cao. Ngân hàng là nơi công chúng – đặc
biệt là các cá nhân và hộ gia đình gửi một khối lượng lớn tiền nhàn rỗi dưới
dạng tiền gửi không kỳ hạn với thời gian tương đối ngắn và tính thanh khoản
cao. Việc thất thoát các khoản tiền này trong trường hợp ngân hàng phá sản sẽ
trở thành thảm họa cho phần đông công chúng và kéo theo là những tác động
sâu rộng đến đời sống kinh tế - xã hội. Hơn nữa, sự tồn tại, phát triển và sức
khỏe của các ngân hàng thương mại quyết định sự tồn tại, phát triển và sức khỏe
của nền kinh tế. Lịch sử đã chứng kiến nhiều cuộc khủng hoảng của các nền
15
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị BCH Trung ương khóa VIII, Nxb CTQG, HN, 1997, tr 81-82.
20

kinh tế lớn mà nguyên nhân ban đầu là sự đổ vỡ và khủng hoảng trong ngành tài
chính, ngân hàng. Điển hình là cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ châu Á năm
1997, và gần đây là khủng hoảng của hệ thống tài chính Mỹ, sau đó lan rộng
sang châu Âu, châu Á và hiện nay là khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Chỉ với sự
trục trặc, mất lòng tin đối với một ngân hàng, tác động của nó có thể ảnh hưởng
trực tiếp và sẵn sàng lan rộng gây khủng hoảng và đổ vỡ cho toàn hệ thống ngân
hàng và xa hơn là toàn bộ nền kinh tế.
Hoạt động ngân hàng thương mại là phong vũ biểu phản ánh sức khỏe của
nền kinh tế. Đặc điểm này xuất phát từ chức năng “tạo tiền”, sự thay đổi trong
khối lượng tiền tệ do các ngân hàng thương mại tạo ra có liên quan chặt chẽ tới
tình hình kinh tế, đặc biệt là tốc độ tăng trưởng, tạo ra công ăn việc làm, tình
trạng lạm phát. Cũng từ chức năng “tạo tiền”, phản ứng dây chuyền hay còn gọi
“phản ứng đô-mi-nô” là một đặc trưng rất khác biệt trong hoạt động của ngân
hàng thương mại. Mỗi ngân hàng thương mại là một mắt xích liên hoàn trong
quá trình tạo tiền của toàn hệ thống. Do vậy, sự trục trặc hoặc mất uy tín của
một ngân hàng thương mại nhỏ có thể kéo theo sự sụp đổ của cả hệ thống.
Với vai trò trung gian tài chính và trung gian thanh toán cho nền kinh tế,
hoạt động ngân hàng thương mại rất đa dạng và có liên quan trực tiếp tới nhiều
loại đối tượng khách hàng. Khách hàng của ngân hàng thương mại có thể là
chính phủ, các tổ chức chính trị xã hội, các cá nhân hoặc bất cứ đối tượng nào có
nhu cầu sử dụng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Do vậy, ngoài việc xác định
nhu cầu, ngân hàng thương mại còn phải nghiên cứu cả những yếu tố khác như
truyền thống, văn hóa, phong tục, thói quen, hành vi của từng loại đối tượng
khách hàng để phát triển, đưa ra các sản phẩm dịch vụ đáp ứng nhu cầu đa dạng
của mỗi loại đối tượng khách hàng. Nói cách khác, ngân hàng thương mại cần
nghiên cứu và thích nghi với nhiều mặt trong đời sống xã hội.
Với những đặc trưng và tính nhạy cảm cao của hoạt động ngân hàng, hoạt
động lãnh đạo, quản lý ngành ngân hàng cũng phải có những nét riêng và đặc
thù so với các ngành khác, các doanh nghiệp khác.
21

Riêng đối với Agribank – Ngân hàng Thương mại Nhà nước lớn nhất Việt
Nam vừa đảm nhiệm trọng trách thực hiện nhiệm vụ chính trị chủ lực đầu tư cho
Nông nghiệp, Nông dân, Nông thôn và nền kinh tế, vừa thực hiện nhiệm vụ kinh
doanh, được đông đảo người dân gửi gắm niềm tin (tin tưởng lựa chọn gửi tiền,
giao dịch …), tuy nhiên trong bối cảnh hội nhập, khả năng cạnh tranh của
Agribank không cao v.v… do đó hoạt động lãnh đạo, quản lý ở Agribank cũng
có những nét đặc thù, yêu cầu người cán bộ lãnh đạo, quản lý của Agribank
cũng phải đáp ứng được những yêu cầu nhất định, riêng có.
3. Những yêu cầu về Thực trạng về năng lực và phẩm chất và năng lực
người cán bộ lãnh đạo, quản lý Agribank (cấp Trung ương) => tất cả thực
trạng đưa sang chương 2. Còn chương 1 chỉ dừng ở mức độ cơ sở lý luận,
nên 1.3. sẽ chỉ là những yêu cầu về phẩm chất và năng lực người cán bộ
lãnh đạo, quản lý Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn (cấp
Trung ương)
Hiện nay, vai trò của các nhà kinh doanh được đánh giá to lớn trong quá
trinh xây dựng, phát triển kinh tế trong sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Tuy
nhiên, khi đất nước hội nhập ngày càng sâu vào khu vực và nhất là đã tham gia
vào WTO thì giới doanh nhân Việt Nam nói chung và những người làm trong
ngành ngân hàng nói riêng không phải chỉ có thời cơ mà còn có rất nhiều khó
khăn, thách thức. Để xứng đáng là người tiên phong trong lĩnh vực phát triển
kinh tế, yêu cầu đặt ra cho giới doanh nhân và những người làm ngành ngân
hàng phải khắc phục được những hạn chế cũng như phát huy được những ưu
điểm của mình. Để làm được điều đó, những người lãnh đạo, quản lý phải có
những yêu cầu về phẩm chất và năng lực cho riêng mình.
3.1. Những yêu cầu về phẩm chất:
Khi xem xét phẩm chất, phải chia ra làm 2 nhóm: nhóm những phẩm chất
chung và nhóm những phẩm chất cá nhân.
22
Nhóm những phẩm chất chung, hay còn gọi là phẩm chất “xã hội” như: thế
giới quan, niềm tin, lý tưởng, lập trường, quan điểm, thái độ chính trị, thái độ lao

động, định hướng xã hội
Nhóm những phẩm chất cá nhân, chẳng hạn như: tâm tính, nết, thói, tính
khí và các phẩm chất riêng bảo đảm cho con người tham gia một loại hoạt
động nghề nghiệp cụ thể nào đó. Ở đây là hoạt động kinh doanh của người cán
bộ lãnh đạo, quản lý ngành ngân hàng.
Khi nói đến phẩm chất của người cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành ngân
hàng cần lưu ý số lượng phẩm chất là vô hạn và có các quan điểm khác nhau.
Hơn nữa, bản thân phẩm chất chưa đủ để đảm bảo thành đạt mà còn phải đặt con
người kinh doanh trong môi trường, tổ chức và hoàn cảnh tình huống cụ thể.
Mặc dù vậy, để tiến hành hoạt động đặc thù của mình mỗi con người cũng cần
phải có một số phẩm chất cần thiết. Cụ thể như sau:
- Phẩm chất về tư tưởng chính trị và đạo đức kinh doanh. Hoạt động của
ngân hàng diễn ra trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chính vì vậy, người cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành ngân hàng trong quá trình
xác định mục đích và phương hướng hoạt động của mình phải hướng vào các
mục tiêu chung của đất nước, của dân tộc. Hoạt động của ngân hàng phải tuân
thủ pháp luật, phải hướng tới những giá trị đạo đức trong kinh doanh, “có ý thức
trách nhiệm trước pháp luật, trước xã hội”.
- Có “cái tâm” trong kinh doanh. Tâm là cốt lõi của nhân cách. Với người
cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành ngân hàng, chữ Tâm được đặt trên chữ Tín. Có
tâm là có tín, cũng như có tài sẽ có tiền. Cái tâm biểu hiện ở chỗ biết lấy giá trị
chung của dân tộc, từng bước tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa là giá trị cao nhất
và lợi ích cao nhất. “Có ý chí phấn đấu cho dân giàu nước mạnh”.
“Cái tâm” là một phẩm chất gắn liền với phạm trù lương tâm - chỉ có tác
dụng chi phối và quy định hành vi, thái độ ứng xử của mỗi cá nhân. Gắn liền với
tấm lòng - tấm lòng bao dung, độ lượng, trong sáng, chí công, vô tư, tận tụy với
23
công việc, quan tâm, chú ý chia sẻ tình cảm, thân thiết, gần gũi trước tiên trong
sự rèn luyện và thể hiện mình.
Đồng thời, “cái tâm” còn thể hiện thông qua “cái liêm” - không tham tiền,

tham của, tham sắc. Thông qua cái nhân, đó chính là lòng bác ái, yêu nước, yêu
dân, yêu đồng bào, yêu đồng chí, yêu đồng loại theo tinh thần của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Cái tâm không tự nhiên mà có, mà phải rèn luyện, tự tu dưỡng mới có được.

- Phải luôn luôn giữ vững chữ tín trong kinh doanh. Coi trọng chữ “tín”,
bởi chữ “tín” quý hơn vàng; đồng thời, đó là phương châm xử thế trong các mối
quan hệ của người cán bộ lãnh đạo, quản lý ngân hàng. Những hành vi lừa đảo,
chiếm dụng vốn trong thời gian qua đã gây những hậu quả tai hại cho khách
hàng và cho chính sự tồn tại, phát triển của ngành ngân hàng.
- Phải có niềm tin mạnh mẽ vào sự nghiệp của mình và tự tin với chính
mình. Trong môi trường kinh doanh đang có những diễn biến phức tạp, cơ sở
pháp lý chưa hoàn thiện, dư luận xã hội, những yếu tố về vốn, nguồn nhân lực
cũng chưa được thuận lợi hoàn toàn và vô vàn những khó khăn thử thách khác,
đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành ngân hàng phải có niềm tin vào sự
nghiệp kinh doanh của mình. Tuy nhiên, có niềm tin cũng chưa đủ, mà còn phải
biết tác động, tạo dựng niềm tin đó ở những đồng sự, ở cấp dưới, ở giới lãnh đạo
chính quyền địa phương.
- Trung thực. Hoạt động kinh doanh ngân hàng cần phải kê khai rõ ràng các
khoản đầu tư, nộp thuế đầy đủ cho Nhà nước, báo cáo chính xác về hoạt động
của đơn vị tuân thủ những quy định của pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn
xã hội và thực hiễn các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
- Có định hướng giá trị đúng đắn. Định hướng giá trị là thái độ, là sự lựa
chọn các giá trị vật chất và tinh thần, là hệ thống tâm thế, niềm tin, sở thích của
con người đối với một giá trị nào đó.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý
ngành ngân hàng phải định hướng tới các giá trị cốt lõi trong các mặt như: Giá
24
trị nhân văn trong kinh doanh; Giá trị đạo đức trong kinh doanh; Giá trị văn hóa;
Giá trị xã hội; Giá trị chính trị; Giá trị kinh tế.

- Dám mạo hiểm, dám đối mặt với một rủi ro. Xuất phát từ tiền đề, hoạt
động kinh doanh có nhiều yếu tố bất ngờ, nên đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo,
quản lý phải có những phẩm chất “sáng tạo, dám mạo hiểm, dám chịu rủi ro, khó
khăn” để vượt qua và đưa đơn vị ngày một phát triển.
- Kiên cường, bền bỉ để vượt khó.
- Coi trọng hiệu quả kinh doanh. Mục đích tối thượng của kinh doanh
ngành ngân hàng là nhằm đến lợi nhuận cao và ổn định. Ở người cán bộ lãnh
đạo, quản lý thì mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh đều phải quan tâm, lo lắng và
tính đến hiệu quả công việc.
Ngày nay, cơ chế thị trường rất khắt khe, muốn công việc có hiệu quả thì
người cán bộ lãnh đạo, quản ý đơn vị phải có tri thức, sự thông minh, bề dày
kinh nghiệm và lòng quả cảm, quyết tâm trong công việc để đưa đơn vị mình
ngày một phát triển, đáp ứng yêu cầu tình hình mới.
3.2. Những yêu cầu về năng lực:
Nếu hiểu theo hướng tiếp cận hoạt động thì năng lực là tổ hợp các thuộc
tính tâm lý của chủ thể nhằm đáp ứng yêu cầu của một hoạt động cụ thể nào đó.
Theo cách tiếp cận này thì khả năng đáp ứng yêu cầu của hoạt động và được bộc
lộ qua kỹ năng hoạt động của con người. Khả năng nói lên tiềm năng của con
người đối với một dạng hoạt động nào đó. Còn khi tham gia vào hoạt động, con
người ấy có làm được hay không lại còn tùy thuộc vào khả năng ấy được bộc lộ,
được thể hiện ra ở hành động như thế nào. “Có thể làm” không đồng nhất với
“biết làm”. Hay nói cách khác còn phụ thuộc vào kỹ năng “biết làm” của người
đó - bởi kỹ năng nói lên mặt kỹ thuật của thao tác của hành động.
Xuất phát từ đặc điểm hoạt động của ngành ngân hàng và hoạt động lãnh
đạo, quản lý, chúng ta xác định: để tiến hành được hoạt động nghề nghiệp của
mình, người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có những khả năng, kỹ năng nhất
25
định. Đồng thời, thông qua những hoạt động đó, các khả năng, kỹ năng cần thiết
được nảy sinh, hình thành và phát triển.
Có thể chia khả năng ra làm 2 nhóm: khả năng chung và khả năng riêng

biệt. Đồng thời, tương ứng với nó là kỹ năng chung và kỹ năng chuyên biệt.
Các năng lực chung bảo đảm cho con người có thể tham gia vào mọi hoạt
động. Chẳng hạn như năng lực học tập, óc thông minh, óc quan sát Năng lực
chuyên biệt (hay chuyên môn) là khả năng đảm bảo cho con người tham gia vào
một hoạt động chuyên môn cụ thể, là hiện thực hóa khả năng chung của con
người trong hoạt động chuyên môn đó. Ở đây, chúng ta xác định những năng lực
và kỹ năng chuyên môn của người cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành ngân hàng
gồm các yếu tố sau:
- Năng lực chuyên môn: đây là một yêu cầu quan trọng đối với người cán
bộ lãnh đạo, quản lý - nó được thể hiện thành những đòi hỏi cụ thể như sau:
+ Biết lường hết mọi tình huống có thể xảy ra cho doanh nghiệp, cho bộ
phận và phạm vi chức trách của mỗi người đảm nhận.
+ Phải biết giao việc và giao đúng việc cho cấp dưới và tạo điều kiện cho
cấp dưới thực hiện thành công.
Bên cạnh đó, người cán bộ lãnh đạo, quản lý ngân hàng phải hiểu biết sâu
sắc công việc chuyên môn, có tư duy chiến lược và tầm nhìn dài hạn cho dự
nghiệp phát triển kinh doanh. Cụ thể là:
+ Phải có tri thức lý luận về sự phát triển của ngân hàng.
+ Hiểu biết sâu sắc, toàn diện các ưu và hạn chế của đơn vị mình để đưa ra
những quyết sách, quyết định đúng đắn, phù hợp.
- Năng lực tổ chức: đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý ngân hàng thì
yêu cầu về năng lực về tổ chức là phải biết vận dụng, tổ chức đội ngũ cán bộ
nhân viên thực hiện tốt, thật sự khoa học và hiệu quả các nhiệm vụ được giao.
Tạo ra không khí hồ hởi, phấn khởi trong thực hiện nhiệm vụ. Nắm bắt các chủ
trương phát triển mới để luôn luôn giành thế chủ động trong cạnh tranh.
26
- Phải nhạy cảm với cái mới, phải có óc quan sát và phải thông minh để
nhanh chóng tìm ra mục tiêu của hệ thống và con đường ngắn nhất, hiệu quả
nhất để đạt các mục tiêu đã vạch ra.
- Dũng cảm, dám chịu trách nhiệm, quyết đoán - đây là một yêu cầu cần có

về năng lực tổ chức của người lãnh đạo, vì họ là người đứng mũi chịu sào trước
sự tồn tại và phát triển của đơn vị.
- Không bao giờ chịu đầu hàng trước khó khăn.
- Biết làm việc và sử dụng các con người trong và ngoài đơn vị. Đó là một
yêu cầu cũng khá quan trọng của năng lực tổ chức. Người cán bộ lãnh đạo, quản
lý phải có khả năng lôi cuốn mọi người khác ủng hộ và làm theo mình.
- Có sức làm việc bền bỉ, kiên nhẫn, chịu đựng: công việc của người cán bộ
lãnh đạo, quản lý là tổ chức đơn vị hoạt động với muôn vàn biến động, rủi ro,
bất chắc và thiếu hụt đòi hỏi phải có thời gian và sức chịu đựng
- Luôn luôn lạc quan vui vẻ và truyền sự lạc quan, vui vẻ ấy thành niềm tin
vững chắc vào sự nghiêp cho mọi người trong đơn vị.
- Phải có một tác phong, phong thái đàng hoàng, đĩnh đạc.
- Có tư duy phân tích: khả năng xác định những chủ điểm, quan điểm then
chốt để hiểu rõ và giải thích được các loại thông tin dữ kiện.
- Mềm dẻo trong hành vi: khả năng điều chỉnh hành vi cá nhân để đạt được
mục tiêu; hành vi cá nhân phải thích ứng những thay đổi của môi trường.
- Ra quyết định: khả năng sử dụng thông tin để ra quyết định, chọn phương
án hành động một cách lôgic (biết cách lập luận và đưa ra các cam kết trong
những tình huống phức tạp).
- Lãnh đạo: khả năng lôi cuốn, hướng dẫn các cá nhân và nhóm đạt được
mục tiêu, hoàn thành nhiệm vụ.
- Gây ảnh hưởng cá nhân: khả năng gây được ấn tượng tốt ngay từ đầu, gây
chú ý và kính trọng; tỏ ra tự tin cả trong hành động và lời nói.
27

×