Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ tài chính của ngân hàng tmcp ngoại thương việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (658.47 KB, 99 trang )

DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1 HĐQT Hội đồng quản trị
2 HKD Đô la Hồng Kông
3 HSC Hội sở chính
4 L/C Thư tín dụng
5 NHTM Ngân hàng thương mại
6 SWIFT
Hiệp hội viễn thông tài chính liên ngân
hàng toàn thế giới
7 TCKT Tổ chức kinh tế
8 TCTD Tổ chức tín dụng
9 TMCP Thương mại cổ phần
10 WTO Tổ chức thương mại thế giới
11 XNK Xuất nhập khẩu
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng:
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 4
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU DỊCH VỤ 4
TÀI CHÍNH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 4
CHƯƠNG 2 30
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU DỊCH VỤ TÀI CHÍNH 30
CỦA NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 30
CHƯƠNG 3 71
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU DỊCH VỤ TÀI CHÍNH CỦA
NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 71
KẾT LUẬN 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO 92
Biểu:
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 4


NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU DỊCH VỤ 4
TÀI CHÍNH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 4
CHƯƠNG 2 30
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU DỊCH VỤ TÀI CHÍNH 30
CỦA NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 30
CHƯƠNG 3 71
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU DỊCH VỤ TÀI CHÍNH CỦA
NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 71
KẾT LUẬN 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO 92
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Dịch vụ tài chính là một trong những lĩnh vực hết sức nhạy cảm và phải mở
cửa theo lộ trình đã cam kết khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO). Việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính với thế giới dẫn tới sức ép cạnh
tranh lớn hơn, đòi hỏi hệ thống ngân hàng Việt Nam có khả năng hội nhập chủ
động, để không chỉ chiếm lĩnh và đứng vững ở thị trường nội địa, mà còn vươn ra
thế giới với khả năng xuất khẩu các dịch vụ để đem lại nguồn thu cho quốc gia.
Liên tục trong nhiều năm liền được các tạp chí uy tín quốc tế bình chọn là
Ngân hàng hàng đầu Việt Nam trên nhiều lĩnh vực hoạt động, ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam đã và đang có những bước phát triển bền vững. Với mục
tiêu trở thành một tập đoàn tài chính đa năng hàng đầu Việt Nam và trở thành ngân
hàng tầm cỡ quốc tế ở khu vực, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ tài chính luôn nằm trong
định hướng kinh doanh của Ngân hàng.
Tuy nhiên, trong nỗ lực thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ tài chính, so với các
Ngân hàng thương mại nước ngoài, Ngân hàng TMCP Ngoại thương vẫn còn yếu
hơn về nhiều mặt như nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý, kinh doanh, công nghệ, kỹ
thuật, chất lượng và loại hình dịch vụ, cũng như khả năng chống đỡ rủi ro. Đồng
thời trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống Ngân hàng Việt

Nam nói riêng đang trong quá trình hội nhập, hoạt động xuất khẩu dịch vụ tài chính
của Ngân hàng TMCP Ngoại thương cũng phải đối mặt với những thách thức to lớn
như môi trường pháp lý chưa đồng bộ, áp lực cạnh tranh gay gắt, đòi hỏi cao của thị
trường
Xuất phát từ thực tế trên, đề tài “Thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ tài chính của
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam” được chọn làm đề tài nghiên cứu cho
bản luận văn này. Mục đích chính của đề tài là phân tích về thực trạng xuất khẩu
dịch vụ tài chính của Ngân hàng TMCP Ngoại thương, làm rõ những cơ hội, thách
thức và khả năng, hạn chế của Ngân hàng trong xuất khẩu dịch vụ tài chính và từ đó
đưa ra những giải pháp thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ của Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam, đem lại mức lợi nhuận lớn và nâng cao vị thế, uy tín của Ngân
hàng.
2
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề cơ bản về xuất khẩu dịch vụ tài chính, tham
khảo kinh nghiệm của các ngân hàng tại các quốc gia xuất khẩu dịch vụ tài chính
lớn trên thế giới, đồng thời phân tích thực trạng xuất khẩu dịch vụ tài chính của
Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam, đánh giá cơ hội, khả năng và thách
thức, hạn chế từ đó đưa ra những giải pháp thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ tài chính của
Ngân hàng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề cơ bản về xuất khẩu dịch
vụ tài chính và thực trạng việc xuất khẩu dịch vụ tài chính của Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu việc xuất khẩu dịch vụ tài chính của Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam theo đầy đủ các phương thức xuất khẩu dịch vụ tài
chính trong giai đoạn từ năm 2006 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu

Áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng trong thu thập và xử lý thông
tin, dữ liệu và các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Giá trị khoa học: Đề tài hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về xuất khẩu dịch
vụ tài chính, các phương thức và ý nghĩa của nó trong bối cảnh hiện nay.
Giá trị thực tiễn: Hệ thống lại các phương thức xuất khẩu dịch vụ tài chính
hiện có của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, phân tích cơ hội, khả năng,
thách thức, hạn chế trong xuất khẩu dịch vụ tài chính từ đó đề xuất các giải pháp để
thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ tài chính của Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại
thương Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2015.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn bao gồm 3
chương:
3
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về xuất khẩu dịch vụ tài chính của các Ngân hàng
thương mại
Chương 2. Thực trạng xuất khẩu dịch vụ tài chính của Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam
Chương 3. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ tài chính của Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam
4
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU DỊCH VỤ
TÀI CHÍNH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Dịch vụ tài chính và ý nghĩa của xuất khẩu dịch vụ tài chính đối với
quốc gia nói chung và đối với các Ngân hàng thương mại nói riêng
1.1.1. Dịch vụ tài chính
1.1.1.1. Khái niệm và các loại dịch vụ tài chính
Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS) là một hiệp định của Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO). Hiệp định được ký kết sau khi kết thúc Vòng

đàm phán Uruguay và bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1995. Hiệp
định được thiết lập nhằm mở rộng phạm vi điều chỉnh của hệ thống thương mại đa
phương sang lĩnh vực dịch vụ chứ không chỉ điều chỉnh một mình lĩnh vực thương
mại hàng hóa như trước đó. Hiệp định gồm nội dung chủ yếu nói về quyền và nghĩa
các nước tham gia thương mại dịch vụ. Tất cả các thành viên của WTO đều tham
gia GATS.
Theo GATS, một dịch vụ tài chính (DVTC) là bất kỳ dịch vụ nào có tính
chất tài chính, được một nhà cung cấp dịch vụ tài chính cung cấp. Dịch vụ tài chính
bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến bảo hiểm, mọi dịch vụ
ngân hàng và dịch vụ tài chính khác (ngoại trừ bảo hiểm). Đây chưa phải là một
khái niệm mà là sự mô tả nội hàm của thuật ngữ DVTC.
Như vậy ngay cả trong Hiệp định chung về thương mại –dịch vụ tài chính
của WTO cũng không đưa ra định nghĩa về DVTC mà chỉ liệt kê 12 ngành dịch vụ
lớn, trong đó, dịch vụ tài chính được xếp trong phân ngành thứ 7 của bảng danh
mục phân loại bao gồm: Dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến bảo hiểm, dịch
vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác (không kể dịch vụ bảo hiểm)
Dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến bảo hiểm gồm có: bảo hiểm trực
tiếp (bao gồm đồng bảo hiểm), trong đó có bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân
thọ; Tái nhượng bảo hiểm; Các dịch vụ bảo hiểm trung gian (như môi giới, đại lý
bảo hiểm); Các dịch vụ bổ trợ bảo hiềm như tư vấn, thẩm định rủi ro và dịch vụ
thanh toán bảo hiểm;
5
Dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác (không kể dịch vụ bảo hiểm)
bao gồm: nhận tiền gửi và các loại quỹ có thể hoàn lại từ công chúng; Tất cả các
hình thức cho vay bao gồm tín dụng tiêu dùng, tính dụng thế chấp, bao thanh toán
và tài trợ các giao dịch thương mại; Cho thuê tài chính; Tất cả các dịch vụ thanh
toán và chuyển tiền bao gồm thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, séc du lịch và hối phiếu ngân
hàng; Bảo lãnh và các cam kết; Kinh doanh với danh nghĩa bản thân hoặc khách
hàng trên các sàn giao dịch chính thức hoặc các thị trường phi chính thức các công
cụ tài chính: công cụ thị trường tiền tệ (bao gồm séc, hối phiếu, chứng chỉ tiền gửi),

ngoại hối, các sản phẩm phái sinh chẳng hạn: tương lai, quyền chọn, các công cụ lãi
suất, tỷ giá hối đoái, bao gồm các sản phẩm như thoả thuận mua bán tỷ giá kỳ hạn,
hoán đổi, các chứng khoán có thể chuyển nhượng được, các công cụ có thể chuyển
nhượng được và các tài sản tài chính khác, bao gồm cả vàng thỏi; Tham gia vào
việc phát hành tất cả các loại chứng khoán, bao gồm cả việc cung cấp các dịch vụ
liên quan đến phát hành; Môi giới hoạt động tiền tệ; Quản lý tài sản có như quản lý
tiền mặt, danh mục đầu tư, tất cả các dạng quản lý quỹ đầu tư, quản lý quỹ lương
hưu, dịch vụ cất giữ tài sản và dịch vụ tín thác; Các dịch vụ thanh toán và bù trừ tài
sản tài chinh bao gồm chứng khoán, các sản phẩm phái sinh và các công cụ có thể
chuyển nhượng khác; Cung cấp và chuyển tiếp các thông tin tài chính và xử lý dữ
liệu, phần mềm liên quan bởi các nhà cung cấp dịch vụ tài chính khác; Dịch vụ tư
vấn, làm trung gian và các dịch vụ hỗ trợ tài chính khác trên mọi hoạt động dịch vụ
ngân hàng được liệt kê ở trên, bao gồm phân tích tín dụng, nghiên cứ và tư vấn đầu
tư, tư vấn về hoạt động mua lại, cơ cấu lại, chiến lược doanh nghiệp …
Việc bố trí phân ngành trên cho thấy ngoài 2 nhóm ngành cụ thể là dịch vụ
ngân hàng và dịch vụ bảo hiểm, sự có mặt của “các dịch vụ tài chính khác” đã cho
thấy tính đa dạng, phong phú và phức tạp của dịch vụ tài chính. Đồng thời nói lên
cách phân ngành mang tính chất mở của WTO nghĩa là: bất kỳ dịch vụ nào đang tồn
tại hoặc các dịch vụ mới sẽ xuất hiện trong tương lai dù không được liệt kê trong
danh mục WTO cũng sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của GATS nếu những dịch vụ
này được cung cấp trên cơ sở thương mại. Điều này nhằm tạo cơ hội dễ dàng cho
các nước khi tham gia vào WTO.
Việt Nam áp dụng Hệ thống ngành kinh tế theo Quyết định số 10/2007/QĐ-
TTg ngày 23 tháng 01 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ, gồm 21 nhóm ngành,
6
642 hoạt động kinh tế cụ thể. Trong đó nhóm ngành dịch vụ tài chính ngân hang
bảo hiểm là nhóm ngành K (nhóm ngành thứ 11) hoạt động tài chính, ngân hàng và
bảo hiểm.
Căn cứ Quyết định nêu trên của Thủ tướng chính phủ, ngày 10/04/2007, bộ
Kế hoạch và đầu tư đã ban hành Quyết định số: 337/QĐ-BKH kèm theo Quy định

nội dung Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam. Quyết định này đã quy định rõ các
hoạt động thuộc nhóm ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng và bảo hiểm của Việt
Nam. Nhìn chung, do dựa trên hệ thống phận loại các ngành dịch vụ của WTO và
của Liên hiệp quốc nên hệ thống phân ngành dịch vụ của Việt Nam nói chung và
đối với dịch vụ tài chính, ngân hàng và bảo hiểm nói riêng có những điểm tương
đồng với hệ thống phân loại của thế giới. Tuy nhiên trong phân ngành dịch vụ của
WTO chỉ gọi chung nhóm ngành dịch vụ tài chính thì trong phân ngành của Việt
Nam được gọi tên là nhóm ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng và bảo hiểm.
Trong các loại hình dịch vụ tài chính, dịch vụ ngân hàng là loại hình dịch vụ
xuất hiện sớm nhất, gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá
trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của dịch vụ ngân hàng và
ngược lại, sự phát triển của hệ thống ngân hàng đã trở thành động lực thúc đẩy phát
triển nền kinh tế. Dịch vụ ngân hàng đã xuất hiện cách đây hơn 2000 năm. Hầu hết
các ngân hàng đầu tiên xuất hiện tại vùng Địa Trung Hải, cụ thể là tại Hy Lạp và La
Mã, với dịch vụ đầu tiên là đổi tiền và đúc tiền của các thợ vàng, đổi ngoại tệ lấy
bản tệ và dịch vụ chiết khấu thương phiếu giúp các nhà buôn có vốn.
Sự phát triển của những con đường thương mại xuyên lục địa mới và những
biến chuyển trong ngành hàng hải vào các thế kỷ XV, XVI, XVII đã dần chuyển
trung tâm thương mại thế giới từ Địa Trung Hải sang Châu Âu và quần đảo Anh,
nơi ngân hàng trở thành ngành công nghiệp hàng đầu. Sự phát triển của cách mạng
công nghiệp, việc ứng dụng phương thức sản xuất lớn đòi hỏi một sự mở roọng
tương ứng trong thương mại toàn cầu để tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp, đồng
thời, đòi hỏi phải phát triển các phương thức thanh toán và tín dụng mới. Vì vậy, hệ
thống ngân hàng đã nhanh chóng phát triển về loại hình và các dịch vụ mới để đáp
ứng nhu cầu. Từ các ngân hàng tư nhân, quá trình tích tụ và tập trung vốn trong
ngân hàng đã dẫn đến hình thành ngân hàng cổ phần. Quá trình gia tăng vai trò quản
lý nhà nước đối với hoạt động ngân hàng đã tạo ra các ngân hàng thuộc sở hữu nhà
7
nước, các ngân hàng liên doanh, các tập đoàn ngân hàng phát triển mạnh mẽ trong
những năm cuối thế kỷ XX với sự đa dạng về dịch vụ.

Bên cạnh dịch vụ ngân hàng, cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế,
cách mạng công nghiệp và sự phát triển của nền kinh tế thế giới, các loại hình dịch
vụ tài chính khác cũng được hình thành. Sự phát triển dịch vụ chứng khoán bắt đầu
từ năm 1611 với sự hình thành sở giao dịch chứng khoán đầu tiên tại Amsterdam,
Hà Lan. Năm 1724, Pháp thành lập sở giao dịch chứng khoán Pari. Tuy nhiên, phải
đến năm 1802, mở cửa sở giao dịch chứng khoán London, đánh dấu bước phát triển
quan trọng của thị trường chứng khoán. Năm 1817, “Hội giao dịch chứng khoán
New York được thành lập, năm 1863 đổi tên thành “Sở giao dịch chứng khoán New
York”.
Các dịch vụ về bảo hiểm cũng ra đời và phát triển mạnh ở Anh ngay từ thế
kỷ XVI, loại h́nh dịch vụ bảo hiểm đầu tiên là hình thức bảo hiểm tương hỗ. Đến
cuối thế kỷ XVIII, công ty bảo hiểm tương hỗ đầu tiên cũng được thành lập tại Mỹ.
1.1.1.2. Đặc điểm dịch vụ tài chính
Tính vô hình
Tính vô hình của dịch vụ là tính chất không thể sờ mó hay nắm bắt dịch vụ,
không có một hình dạng cụ thể như một sản phẩm. Đây là điểm phân biệt cơ bản
với các sản phẩm của các ngành sản xuất vật chất.
Sản phẩm dịch vụ tài chính thường được thực hiện theo một quy trình, chất
lượng sản phẩm chỉ có thể đánh giá trong và sau khi sử dụng, thậm chí việc đánh
giá chất lượng sản phẩm dịch vụ tài chính trở nên khó khăn ngay cả khi đang sử
dụng chúng. Vì vậy khách hàng sử dụng dịch vụ tài chính do các chủ thể cung cấp
thường gặp khó khăn trong việc ra quyết định lựa chọn sử dụng sản phẩm.
Từ đặc tính vô hình của sản phẩm nên trong kinh doanh phải dựa vào lòng
tin. Các nhà cung cấp dịch vụ thường chú ý tới việc củng cố niềm tin đối với khách
hàng bằng cách nâng cao chất lượng dịch vụ, nâng cao hình ảnh, uy tín.
Tính không thể tách biệt hay không chia cắt
Quá trình cung cấp dịch vụ tài chính và quá trình tiêu dùng dịch vụ tài chính
xảy ra đồng thời và có sự tham gia của khách hàng. Đặc điểm này có nghĩa là không
thể tách rời giữa cung cấp và sử dụng, dịch vụ tài chính được cung ứng cho người
sử dụng khi và chỉ khi họ có nhu cầu về dịch vụ tài chính và đáp ứng được điều kiện

8
quy định của tổ chức tài chính, không thể sản xuất trước. Do đó, dịch vụ tài chính
không có sản phẩm dở dang, dự trữ lưu kho.
Tính không ổn định và khó xác định
Một sản phẩm dịch vụ tài chính dù lớn hay nhỏ về quy mô đều không đồng
nhất về thời gian, cách thức, điều kiện thực hiện, khách hàng sử dụng vì vậy rất khó
xác định sự ổn định về mặt chất lượng. Mặt khác chất lượng của sản phẩm DVTC
được cấu thành bởi nhiều yếu tố như uy tín, công nghệ, trình độ nhân sự của tổ chức
tài chính … mà các yếu tố này lại thường xuyên biến động nên rất khó luợng hoá.
Sản phẩm dịch vụ tài chính mang tính cộng đồng, xã hội cao, rủi ro cao
Sản phẩm dịch vụ tài chính mang tính cộng đồng, xã hội cao, rủi ro cao vì nó
gắn liền với các tài sản tài chính của khách hàng. Do vậy, bất cứ sơ suất nào trong
cung ứng dịch vụ tài chính đều có thể gây ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức tài
chính. Nghiêm trọng hơn, nếu một tổ chức tài chính để xảy ra sự cố chẳng hạn:
thiếu tiền mặt, mất khả năng thanh khoản … sẽ nhanh chóng gây ra hiệu ứng mất
lòng tin một cách dây chuyền của khách hàng, có thể làm phá sản tổ chức tài chính
Thêm vào đó, vì các nguồn tài chính luôn luôn vận động, luân chuyển trong nền
kinh tế giữa các tổ chức tài chính, vì vậy một tổ chức tài chính gặp rủi ro có thể gây
ảnh hưởng đến sự tồn tại của hàng loạt các tổ chức khác, ảnh hưởng đến hệ thống
tài chính quốc gia.
1.1.1.3. Chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính
Có các chủ thể sau tham gia cung cấp dịch vụ tài chính:
Các chủ thể nhận tiền gửi:
Dịch vụ tài chính cơ bản mà các trung gian tài chính cung cấp là dịch vụ
ngân hàng và các dịch vụ liên quan đến ngân hàng, trong đó quan trọng nhất là dịch
vụ huy động tiền gửi và cho vay. Các tổ chức nhận tiền gửi gồm: Ngân hàng thương
mại, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng tiết kiệm, Hiệp hội tín
dụng. Trong các tổ chức này, ngân hàng thương mại được thực hiện đầy đủ các dịch
vụ tiền gửi như: nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn ngắn, trung và dài hạn.
Các trung gian đầu tư:

Dịch vụ cơ bản mà các trung gian đầu tư cung cấp ra thị trường là dịch vụ
đầu tư gián tiếp thông qua các công cụ tài chính và các dịch vụ có liên quan khác.
Các trung gian này gồm: Quỹ đầu tư, Công ty tài chính, … . Hoạt động chủ yếu của
9
các tổ chức này là phát hành các công cụ tài chính như: cổ phiếu, tín phiếu, chứng
chỉ quỹ đầu tư…, sau đó đầu tư trở lại nền kinh tế thông qua thị trường chứng
khoán, thị trường tín dụng.
Các nhà môi giới và các tổ chức nghề nghiệp
Các nhà môi giới và các tổ chức nghề nghiệp cũng tham gia vào việc cung
cấp dịch vụ tài chính nhằm thúc đẩy quá trình luân chuyển các nguồn tài chính
trong nền kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra, kiểm soát, đảm
bảo tính an toàn, công bằng và minh bạch trong các hoạt động chuyển giao vốn của
nền kinh tế. Các chủ thể cung cấp dịch vụ này gồm: Công ty chứng khoán, công ty
kiểm toán, công ty tư vấn tài chính, các hiệp hội như hiệp hội ngân hàng, …
1.1.2. Ngân hàng thương mại và xuất khẩu dịch vụ tài chính của các Ngân
hàng thương mại
1.1.2.1. Ngân hàng thương mại
Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền
kinh tế. Tùy thuộc vào tính chất và mục tiêu hoạt động cũng như sự phát triển của
nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, Ngân hàng bao gồm Ngân
hàng thương mại, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách,
Ngân hàng hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác, trong đó Ngân hàng thương
mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các
Ngân hàng. Ngân hàng thương mại được xem là một trung gian tài chính có chức
năng dẫn vốn từ nơi có khả năng cung ứng vốn đến những nơi có nhu cầu về vốn
nhằm tạo điều kiện cho đầu tư phát triển kinh tế. Chúng ta có thể xem xét một số
khái niệm về NHTM như sau:
Theo Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990 của Việt Nam có qui định: NHTM là
một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà nghiệp vụ thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền

gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay,
chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Theo Luật các Tổ chức tín dụng (TCTD) của Việt Nam do Quốc hội khóa X
thông qua ngày 12/12/1997 thì: Ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện toàn
bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.
10
Trong đó TCTD được định nghĩa là loại hình doanh nghiệp được thành lập
theo qui định của Luật này và theo các qui định khác của Pháp luật để hoạt động
kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ Ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng
tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Ngoài ra, Nghị định Chính phủ số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/09/2000 có nêu:
NHTM là Ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt
động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các
mục tiêu kinh tế của Nhà nước. Trong đó, hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử
dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Nếu xét trên phương diện những loại hình dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp
thì NHTM là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục dịch vụ tài chính
đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, thanh toán và thực hiện nhiều chức
năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế

[5]
Như vậy, có thể nói NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh về tiền
tệ với hoạt động thường xuyên là huy động vốn, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cung
cấp các dịch vụ tài chính và các hoạt động khác có liên quan. Ngoài ra, NHTM còn
là một định chế tài chính trung gian cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế thị trường.
Nhờ vào hệ thống này mà các nguồn tiền nhàn rỗi vốn nằm rải rác trong xã hội sẽ
được huy động và tập trung lại với số lượng đủ lớn để cấp tín dụng cho các Tổ chức
kinh tế, cá nhân nhằm mục đích phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Sự có mặt của
NHTM trong hầu hết các mặt hoạt động của nền kinh tế - xã hội đã chứng minh

rằng: Ở đâu có một hệ thống NHTM phát triển thì ở đó sẽ có sự phát triển với tốc
độ cao của nền kinh tế - xã hội và ngược lại.
Các hoạt động của Ngân hàng thương mại bao gồm:
Hoạt động huy động vốn: đây là một nghiệp vụ đặc trưng của trong hoạt
động kinh doanh của NHTM, có ý nghĩa quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát
triển của Ngân hàng. Các NHTM có thể huy động các nguồn vốn nhàn rỗi từ các tổ
chức kinh tế và dân cư bằng nhiều hình thức khác nhau trong đó hoạt động nhận
tiền gửi thường chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng nguồn huy động của NHTM do
các Ngân hàng đã chú trọng đến việc đa dạng hóa các loại tiền gửi không kỳ hạn,
tiền gửi có kỳ hạn, trong mỗi loại lại chia thành nhiều loại khác nhau đáp ứng nhu
11
cầu của khách hàng. Ngân hàng có thể huy động vốn từ dân cư, tổ chức kinh tế
bằng cách bán cho họ các trái phiếu do Ngân hàng phát hành, đây là hình thức hay
được sử dụng vì thời gian huy động vốn rất ngắn trong khi lãi suất có được lại
tương đối cao, do đó Ngân hàng thường phát hành trái phiếu khi cần vốn đột xuất.
Ngoài các hình thức huy động vốn trên, các Ngân hàng có thể huy động vốn bằng
cách vay Ngân hàng Trung ương và các tổ chức tín dụng khác. Ở Việt Nam, hình
thức này chịu sự quản lý của Ngân hàng Trung ương cả về khối lượng vay và lãi
suất đi vay. Do vậy, trong bảng tổng kết tài chính của các NHTM khoản đi vay này
chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng huy động vốn của Ngân hàng.
Hoạt động sử dụng vốn: Ngân hàng huy động vốn và sử dụng vốn đó cho
vay và đầu tư để hưởng doanh lợi. Cho vay là hình thức thông dụng nhất ở các định
chế tài chính nói chung và NHTM nói riêng ở khắp các nơi trên thế giới. Ở Việt
Nam, hoạt động cho vay là hoạt động kinh doanh chính mang tính lợi nhuận cao
nhất cho các Ngân hàng và có ý nghĩa sống còn đối với Ngân hàng. Cho vay là
nghiệp vụ trong đó một thể nhân hoặc một pháp nhân gọi là người cho vay để cho
một người khác gọi là người đi vay sử dụng một số tiền với cam kết hoàn trả kèm
theo lãi. Chính vì thế, có thể nói: “Ngân hàng là người đi vay để cho vay”, số tiền
để Ngân hàng sử dụng để cho vay xuất phát từ nguồn vốn mà Ngân hàng huy động
được [6]. Lợi nhuận thu được của Ngân hàng phụ thuộc vào khoản chênh lệch giữa

chi phí huy động nguồn và lãi suất Ngân hàng cho vay.
Qua các lý luận về hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn nói trên của
Ngân hàng, có thể thấy Ngân hàng thực hiện chức năng là người trung gian đứng ra
dàn xếp giữa người thừa vốn và người thiếu vốn. Thông qua hoạt động cho vay,
Ngân hàng kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông, tăng vòng quay vốn của nền
kinh tế, làm cho khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế không ngừng vận động và sinh
lời.
Thực hiện các dịch vụ khác cho khách hàng: ngày nay, hoạt động dịch vụ
của NHTM trên thế giới đem lại một mức lợi nhuận khổng lồ cho Ngân hàng
(chiếm khoảng 75% tổng số lợi nhuận Ngân hàng) nhưng ở Việt Nam thì con số này
thật khiêm tốn, chỉ chiếm khoảng 25%. Do vậy, vấn đề đa dạng hóa các hoạt động
dịch vụ ở Ngân hàng đang rất được quan tâm. Các dịch vụ này bao gồm:
12
 Hoạt động điện tử liên quan đến Ngân hàng: gồm việc nối mạng từ các máy
tính của Ngân hàng và máy tính của khách hàng, chủ yếu là các công ty để trao đổi
các thông tin dữ liệu giúp cho các công ty quản trị nguồn vốn của mình có hiệu quả
hơn.
 Bảo đảm an toàn vật có giá: Đây là một trong những dịch vụ lâu đời nhất
của NHTM. Do Ngân hàng có đội ngũ nhân viên bảo vệ và có các két sắt giữ tiền
rất an toàn, nên khách hàng có thể ký gửi các tài sản quý, những giấy tờ có giá…
dịch vụ nhận tiền gửi qua đêm. Ở nước ta hiện nay dịch vụ này chưa có nhưng trong
tương lai sẽ dần dần hình thành vì thu nhập của dân của ngày càng tăng lên, đồng
nghĩa với việc các tài sản quý mà người dân sở hữu cũng tăng lên và từ đó phát sinh
nhu cầu được bảo vệ và đây cũng là lúc Ngân hàng phát huy chức năng quan trọng
của mình
 Các nghiệp vụ ủy thác: Ngân hàng nhận ủy thác từ các khách hàng để quản
trị các tài sản khác. Có thể chia thành 2 loại tài sản bằng tiền và hiện vật, phần đông
khách hàng ủy thác cho Ngân hàng quản trị tài sản bằng tiền, ký gửi vào một tài
khoản, ủy thác cho Ngân hàng quản trị một mình hay cùng với người khác. Ngoài
ra, Ngân hàng cũng được ủy thác quản trị tài sản của người cầm cố, của vị thành

niên…
 Các dịch vụ kinh doanh khác: Những dịch vụ khác bao gồm nhiều loại như
bảo đảm tín dụng, mua các khoản sẽ thu của các công ty, phát hành thẻ tín dụng,
làm dịch vụ tư vấn thuê mua…
Có thể thấy hoạt động của NHTM là vô cùng phong phú và đa dạng, trong
đó nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay chiếm tỷ trọng hàng đầu. Thông qua các
nghiệp vụ này, NHTM đã chứng tỏ vai tro quan trọng không thể thiếu của mình
trong mỗi quốc gia
1.1.2.2. Xuất khẩu dịch vụ tài chính của Ngân hàng thương mại
 Xuất khẩu dịch vụ tài chính
Theo quy định của Tổng cục thống kê, Bộ kế hoạch và đầu tư, xuất nhập
khẩu dịch vụ là hoạt động mua bán, trao đổi, biếu tặng dịch vụ giữa đơn vị thường
trú của Việt Nam và đơn vị không thường trú. Khái niệm về đơn vị thường trú và
không thường trú được quy định thống nhất trong Hệ thống tài khoản quốc gia
(SNA) và cán cân thanh toán quốc tế (BOP). Cụ thể:
13
Đơn vị thường trú là các tổ chức, cá nhân đóng tại lãnh thổ Việt Nam và các
tổ chức cá nhân đóng tại nước ngoài, có lợi ích kinh tế trung tâm tại Việt Nam.
Gồm: Doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam;
Đại sứ quán, lãnh sự quán, đại diện quốc phòng, an ninh làm việc ở nước ngoài;
Các văn phòng đại diện của Việt Nam ở nước ngoài; Các cá nhân Việt Nam, cá
nhân đại diện cho các tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam đi công tác, làm việc ở nước
ngoài dưới một năm; Du học sinh và người đi chữa bệnh ở nước ngoài.
Đơn vị không thường trú là các tổ chức, cá nhân đóng ở nước ngoài và các tổ
chức, cá nhân đóng ở Việt Nam có lợi ích kinh tế trung tâm ở nước ngoài. Gồm:
Doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ngoài; Đại
sứ quán, lãnh sự quán, đại diện quốc phòng, an ninh làm việc tại Việt Nam; Các văn
phòng đại diện của các công ty nước ngoài đóng tại Việt Nam; Các cá nhân nước
ngoài, cá nhân đại diện cho các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài đến công tác, làm
việc tại Việt Nam dưới một năm; Du học sinh và người nước ngoài đến chữa bệnh

tại Việt Nam.
Ngày 01/08/2011, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư số
08/2011/TT-BKHĐT quy định nội dung Danh mục dịch vụ xuất, nhập khẩu Việt
Nam. Danh mục dịch vụ xuất, nhập khẩu Việt Nam là danh mục phân loại các sản
phẩm dịch vụ được xuất khẩu, nhập khẩu giữa đơn vị thường trú của Việt Nam và
đơn vị không thường trú. Danh mục Dịch vụ xuất, nhập khẩu Việt Nam gồm 12
nhóm ngành dịch vụ trong đó bao gồm dịch vụ tài chính (mã 2600).
Như vậy, theo quan điểm nêu trên có thể định nghĩa xuất khẩu dịch vụ tài
chính là hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính của đơn vị thường trú của Việt Nam
cho các đơn vị không thường trú.
Tuy nhiên, trong GATS, thương mại dịch vụ giữa các thành viên WTO (xuất
khẩu dịch vụ) được định nghĩa là việc cung cấp dịch vụ:
(i) từ lãnh thổ của một quốc gia thành viên WTO vào lãnh thổ của bất kỳ một quốc
gia thành viên nào khác;
(ii) trong lãnh thổ của bất kỳ một quốc gia thành viên cho người tiêu dùng dịch vụ
của bất kỳ một quốc gia thành viên nào khác;
(iii) do một người cung cấp dịch vụ từ một quốc gia thành viên thực hiện thông qua
hiện diện thương mại tại lãnh thổ của một quốc gia thành viên khác;
14
(iv) do một người cung cấp dịch vụ từ một quốc gia thành viên thực hiện thông qua
hiện diện của thể nhân của quốc gia thành viên đó trong lãnh thổ của bất kỳ một
quốc gia thành viên khác.
Xuất khẩu dịch vụ tài chính chính là việc cung cấp dịch vụ tài chính giữa các
quốc gia thành viên theo 4 phương thức như trên. Như vậy, quan điểm của WTO
cho chúng ta một khái niệm xuất khẩu dịch vụ cụ thể, thêm vào đó còn phân loại rõ
các phương thức xuất khẩu dịch vụ ngay từ định nghĩa trên. Các nội dung tiếp theo
của luận văn, tác giả sẽ phân tích theo quan điểm của WTO về xuất khẩu dịch vụ
nói chung, xuất khẩu dịch vụ tài chính nói riêng.
 Xuất khẩu dịch vụ tài chính của các Ngân hàng thương mại
Dịch vụ tài chính được xuất khẩu bởi nhiều chủ thể cung cấp dịch vụ tài

chính. Tuy nhiên, NHTM là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục dịch
vụ tài chính đa dạng nhất. Thêm vào đó, với mục đích nghiên cứu xuất khẩu dịch vụ
tài chính của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, các nội dung tiếp theo của
luận văn sẽ tập trung phân tích về xuất khẩu dịch vụ tài chính của các NHTM nói
chung và Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam nói riêng.
Theo GATS, chúng ta có thể hiểu xuất khẩu dịch vụ tài chính của các Ngân
hàng thương mại Việt Nam là việc cung cấp dịch vụ tài chính: từ lãnh thổ Việt Nam
vào lãnh thổ của bất kỳ một quốc gia thành viên nào khác; Trong lãnh thổ Việt Nam
cho người tiêu dùng dịch vụ của bất kỳ một quốc gia thành viên nào khác; Do một
ngân hàng thương mại Việt Nam thực hiện thông qua hiện diện thương mại (chi
nhánh, văn phòng đại diện, … ) tại lãnh thổ của một quốc gia thành viên khác; Do
một một ngân hàng thương mại Việt Nam thực hiện thông qua hiện diện của thể
nhân (chuyên gia của Ngân hàng trong lĩnh vực dịch vụ tài chính …) của Việt Nam
trong lãnh thổ của bất kỳ một quốc gia thành viên khác.
Nội dung xuất khẩu dịch vụ tài chính của các Ngân hàng thương mại bao
gồm các hoạt động nghiên cứu thị trường nhập khẩu (môi trường pháp lý, kinh tế,
xã hội), xác định danh mục dịch vụ tài chính xuất khẩu, đối tượng khách hàng nhập
khẩu, xây dựng chiến lược và kế hoạch xuất khẩu, lựa chọn các phương thức xuất
khẩu phù hợp, tổ chức các hoạt động marketing trong xuất khẩu, …
Ngày nay, những khách hàng năng động đòi hỏi ngân hàng hoạt động trên thị
trường quốc tế phải cung cấp một danh mục đa dạng các dịch vụ từ tín dụng, thanh
toán cho đến các dịch vụ tư vấn và hỗ trợ về Marketing, giúp đỡ khách hàng nghiên
15
cứu thị trường nước ngoài. Danh mục các dịch vụ tài chính xuất khẩu đã ngày càng
được mở rộng đáng kể để tương xứng với sự tăng lên trong nhu cầu dịch vụ của
khách hàng và sự gia tăng không ngừng trong cạnh tranh quốc tế.
1.1.3. Ý nghĩa của xuất khẩu dịch vụ tài chính đối với quốc gia nói chung
và đối với các Ngân hàng thương mại nói riêng
1.1.3.1. Ý nghĩa của xuất khẩu dịch vụ tài chính đối với quốc gia
Xuất khẩu dịch vụ nói chung và xuất khẩu dịch vụ tài chính nói riêng là giải

pháp quan trọng góp phần cải thiện cán cân thương mại chung của nền kinh tế, là
nguồn thu ngoại tệ quan trọng của quốc gia. Dịch vụ tài chính có giá trị gia tăng cao
đang trở thành lĩnh vực xuất khẩu mới đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam (xem bảng 1.1), tạo nguồn vốn cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước . Xuất khẩu dịch vụ tài chính có hiệu quả sẽ đem lại lợi
ích kinh tế lớn cho đất nước.
Bảng 1.1. Tỷ lệ đóng góp của giá trị xuất khẩu dịch vụ tài chính
vào tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Giá trị XK
DVTC
(triệu USD)
265 320 397 290 240 262
Tổng giá trị
XK
(triệu USD)
32447,10 39826,20 48561,40 62685,10 57096,30 72191,90
Tỷ lệ đóng
góp (%)
0,82 0,80 0,82 0,46 0,42 0,36
(Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ Kế hoạch và đầu tư)
Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ tài chính của Việt Nam năm 2005 là 265 triệu
USD, năm 2006 là 320 triệu USD, năm 2007 là 397 triệu USD, năm 2008 là 290
triệu USD, năm 2009 là 240 triệu USD. Như vậy, giá trị xuất khẩu đều tăng qua các
năm 2005, 2006, 2007. Tốc độ tăng trưởng năm 2006 là 20,75%, năm 2007 là
29,06%. Năm 2008 và 2009 giá trị xuất khẩu dịch vụ tài chính đã giảm xuống chủ
yếu do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt
nguồn từ Mỹ vào cuối năm 2007. Tuy nhiên, sơ bộ năm 2010, kim ngạch xuất khẩu
dịch vụ tài chính của Việt Nam đã tăng trở lại với mức 9,16%.
16

Biểu đồ 1.1. Giá trị xuất khẩu dịch vụ tài chính của Việt Nam
(Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ Kế hoạch và đầu tư)
Xuất khẩu dịch vụ tài chính tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ cho các Doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân Việt Nam hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ngoài có
thể sử dụng dịch vụ tài chính Việt Nam trên thị trường nước ngoài với nhiều ưu đãi.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, qua xuất khẩu tài chính, họ có thể được hỗ trợ
trong việc nghiên cứu thị trường nước ngoài, phân tích thị trường nước ngoài, các
biện pháp bảo hiểm và tài trợ thương mại giúp các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất
khẩu, nâng cao tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu của toàn bộ nền kinh tế.
Xuất khẩu dịch vụ tài chính góp phần tạo thêm việc làm cho nền kinh tế.
Thêm vào đó, xuất khẩu dịch vụ tài chính đòi hỏi nhân lực trong lĩnh vực dịch vụ tài
chính phải có trình độ chuyên môn, ngoại ngữ cao trong môi trường cạnh tranh cao.
Điều này trở thành động lực thúc đẩy các cơ sở đào tạo, giáo dục nâng cao chất
lượng đào tạo, góp phần phát triển nền giáo dục nước nhà.
Hệ thống tài chính quốc gia đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh
tế, là ‘mạch máu’ của nền kinh tế quốc dân. Thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ tài chính
góp phần đẩy mạnh sự phát triển hệ thống tài chính quốc gia, liên kết nền tài chính
quốc gia với hệ thống tài chính quốc tế. Thêm vào đó, xuất khẩu dịch vụ tài chính là
cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta, tạo điều
kiện để nước ta hội nhập sâu hơn với thế giới.
1.1.3.2. Ý nghĩa của xuất khẩu dịch vụ tài chính đối với các Ngân hàng
thương mại
17
Xuất khẩu dịch vụ tài chính là một giải pháp cơ bản hết sức cần thiết bởi nó
thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế, tăng tính cạnh tranh, nâng cao tính chủ động,
hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, đặc biệt nâng cao uy tín, hình ảnh của các
Ngân hàng thương mại trên thị trường trong nước và quốc tế.
Thực hiện xuất khẩu dịch vụ tài chính chính là việc các ngân hàng đáp ứng
đòi hỏi của thực tế cạnh tranh. Thực tế với xu hướng mở cửa thị trường tài chính thế
giới dẫn tới sức ép cạnh tranh lớn hơn, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có

khả năng hội nhập chủ động, không chỉ chiếm lĩnh và đứng vững ở thị trường nội
địa, mà còn vươn ra thế giới xuất khẩu các dịch vụ. Có vươn lên đáp ứng đòi hỏi
của cạnh tranh thì các ngân hàng thương mại mới có thể tồn tại.
Xuất khẩu dịch vụ tài chính đem lại cho ngân hàng một nguồn thu ngoại tệ
lớn. Điều này góp phần hoàn thành mục tiêu của ngân hàng thương mại là tối đa
hoá lợi nhuận.
Xuất khẩu dịch vụ tài chính giúp các ngân hàng đa dạng hóa rủi ro thông qua
việc mở rộng thị trường, tiếp nhận các kiến thức hoặc kinh nghiệm mới để có thế áp
dụng ở thị trường nội địa.
Xuất khẩu dịch vụ tài chính nâng cao hình ảnh, uy tín, vị thế của các ngân
hàng thương mại. Một ngân hàng thương mại có khả năng xuất khẩu dịch vụ tài
chính, có khả năng cung cấp các dịch vụ tài chính trên lãnh thổ nước khác, có mạng
lưới kinh doanh hoạt động lớn cả trong và ngoài nước sẽ cho thấy đó là một ngân
hàng hoạt động hiệu quả, có chất lượng dịch vụ tốt, tiêu chuẩn quốc tế, sẽ được
khách hàng đánh giá cao và lựa chọn sử dụng dịch vụ. Từ đó, hiệu quả kinh doanh
của ngân hàng ngày một tăng lên.
1.2. Các phương thức xuất khẩu dịch vụ tài chính
Dịch vụ tài chính là một trong những nhóm ngành dịch vụ do vậy nó cũng có
4 phương thức xuấtkhẩu dịch vụ (4 phương thức cung cấp dịch vụ mang tính
thương mại quốc tế) do GATS chia ra như sau:
 Cung cấp qua biên giới
Phương thức cung cấp qua biên giới (gọi tắt là Phương thức 1 hay Mode 1)
là phương thức mà theo đó, dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của một nước này
sang lãnh thổ của một nước khác, không có sự di chuyển của người cung cấp và
18
người tiêu thụ dịch vụ sang lãnh thổ của nhau. Ví dụ các ngân hàng ở hai nước khác
nhau sử dụng dịch vụ của nhau để thông báo L/C, phát hành bảo lãnh ….
Theo phương thức này, cả người cung cấp dịch vụ lẫn người tiêu dùng dịch
vụ đều không di chuyển ra khỏi lãnh thổ nước mình. Dịch vụ tài chính được cung
cấp và tiêu thụ "qua biên giới". Các ngân hàng chủ yếu sử dụng hình thức giao dịch

qua hệ thống mạng dành riêng cho các ngân hàng (mạng SWIFT) để yêu cầu được
cung cấp dịch vụ và thực hiện dịch vụ.
 Tiêu dùng dịch vụ ngoài lãnh thổ
Phương thức tiêu dùng ngoài lãnh thổ (gọi tắt là Phương thức 2 hay Mode 2)
là phương thức mà theo đó, người tiêu dùng của một nước di chuyển sang lãnh thổ
của một nước khác để tiêu dùng dịch vụ, ví dụ như khách du lịch nước ngoài sang
Việt Nam có sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương
Việt Nam: dịch vụ mua bán ngoại tệ, dịch vụ thanh toán séc du lịch
Theo phương thức này, ngân hàng có thể phát huy tối đa hiệu quả của mạng
lưới chi nhánh, nguồn nhân lực, công nghệ của ngân hàng để cung cấp dịch vụ trên
lãnh thổ đất nước mình.
 Hiện diện thương mại
Phương thức hiện diện thương mại (gọi tắt là Phương thức 3 hay Mode 3) là
phương thức mà theo đó, nhà cung cấp dịch vụ tài chính của một nước thiết lập các
hình thức hiện diện như công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh, chi
nhánh…, tức là lập ra một pháp nhân…trên lãnh thổ của một nước khác để cung
cấp dịch vụ, ví dụ như Ngân hàng HSBC thành lập ngân hàng con 100% vốn HSBC
tại Việt Nam để cung cấp dịch vụ tài chính tại Việt Nam.
Với phương thức này, do hiện diện thương mại tại một quốc gia với luật
pháp, con người, phong tục tập quán, thói quên khác đất nước mình nên bản than
các ngân hàng phải có tiềm lực tài chính đủ mạnh, phải hoạch định một chiến lược
xuất khẩu dịch vụ tài chính cụ thể để nghiên cứu, tìm hiểu thị trường nước ngoài,
đối thủ cạnh tranh, nhu cầu khách hàng, yêu cầu của chính sách pháp luật nước
nhập khẩu từ đó mới có thể tiến hành xuất khẩu dịch vụ tài chính.
 Hiện diện thể nhân
Phương thức hiện diện thể nhân (gọi tắt là Phương thức 4 hay Mode 4) là
phương thức theo đó thể nhân cung cấp dịch vụ của một nước di chuyển sang lãnh
19
thổ của một thành viên khác để cung cấp dịch vụ, ví dụ như các nhà phân tích tài
chính cấp cao Mỹ sang Việt Nam làm việc: chuyên viên cố vấn cao cấp cho một

ngân hàng trong quá trình triển khai dịch vụ ngân hàng mới.
Nhìn chung trong xuất khẩu dịch vụ tài chính, phương thức này thường được
sử dụng bởi các nước phát triển nơi mà có nền giáo dục phát triển vượt bậc đem lại
cho công dân của nước họ lượng kiến thức chuyên sâu, ngành tài chính vô cùng
phát triển đem lại cho các lao động làm việc trong ngành một lượng kinh nghiệm
thực tiễn, phong phú, vận dụng được trong nhiều trường hợp đặc biệt là cho những
nước đi sau trong quá trình phát triển ngành tài chính.
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu dịch vụ tài chính của các
Ngân hàng thương mại
1.3.1. Các nhân tố vĩ mô
1.3.1.1. Môi trường pháp lý
Hệ thống khung pháp luật do nhà nước thiết lập nhằm quy định các nguyên
tắc hoạt động cơ bản của thị trường dịch vụ tài chính nói chung và hoạt động của
các ngân hàng thương mại nói riêng. Đây là căn cứ cơ bản để các ngân hàng thương
mại thành lập và cung cấp các dịch vụ tài chính nói chung, xuất khẩu dịch vụ tài
chính nói riêng. Sự thống nhất, ổn định, minh bạch, sự vận dụng đúng các tiêu
chuẩn quốc tế của hệ thống các văn bản điều chỉnh hoạt động cung cấp các dịch vụ
tài chính trong phạm vi quốc gia và phạm vi quốc tế có tác động hết sức quan trọng
đến xuất khẩu dịch vụ tài chính của các ngân hàng thương mại. Nó quyết định việc
ngân hàng thương mại có đáp ứng điều kiện cơ bản để thực hiện việc xuất khẩu dịch
vụ tài chính. Nó kiểm soát việc tuân thủ các quy định về an toàn trong cung cấp
dịch vụ tài chính nói chung và xuất khẩu dịch vụ tài chính nói riêng của các ngân
hàng thương mại. Chiến lược, quy mô, phương thức, danh mục, chất lượng dịch vụ
tài chính xuất khẩu của các ngân hàng thương mại phải được xây dựng dựa trên cơ
sở của hệ thống các văn bản pháp lý này, phải được sự cho phép của các cơ quan
quản lý nhà nước về lĩnh vực này. Ở Việt Nam, đó là Ngân hàng nhà nước. Cơ sở
pháp lý quan trọng của hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính cũng như xuất khẩu
dịch vụ tài chính của các ngân hàng thương mại là Luật các TCTD năm 1997; Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng năm 2004;
20

Do hoạt động xuất khẩu dịch vụ tài chính của các ngân hàng thương mại diễn
ra ở phạm vi giữa các quốc gia với nhau nên xuất khẩu dịch vụ tài chính còn được
điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật, chính sách về mở cửa thị trường tài chính của
nước nhập khẩu dịch vụ tài chính. Trước hết, giữa hai nước đã phải có đặt các cơ sở
quan hệ ngoại giao, kinh tế. Các ngân hàng thương mại trước khi tiến hành xuất
khẩu dịch vụ tài chính đều phải có nghiên cứu hết sức kỹ càng về hệ thống pháp lý
của nước nhập khẩu, đặc biệt là các quy định về mở cửa thị trường dịch vụ tài
chính, các điều kiện cho phép các ngân hàng nước ngoài cung cấp dịch vụ tài chính
trên lãnh thổ của họ…
1.3.1.2. Chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển
thị trường tài chính nói riêng
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước có ảnh hưởng to lớn đến
xuất khẩu dịch vụ tài chính của các ngân hàng thương mại. Chính sách thu hút vốn
đầu tư nước ngoài, phát triển mạnh các khu công nghiệp có vốn nước ngoài sẽ làm
tăng cầu về dịch vụ tài chính xuất khẩu.
Sự hội nhập về kinh tế - xã hội, chính sách mở cửa thị trường dịch vụ tài
chính trong nước sẽ làm gia tăng sức ép cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại
trong nước với nhau và giữa các ngân hàng nội địa và các ngân hàng nước ngoài khi
họ thâm nhập vào thị trường tài chính trong nước. Điều này sẽ trở thành động lực
thúc đẩy các ngân hàng thương mại nâng cao hiệu quả, chất lượng dịch vụ tài chính
cung cấp trong thị trường trong nước mà còn vươn ra thị trường nước ngoài qua
xuất khẩu dịch vụ tài chính.
Chính sách kinh tế trong tất cả các lĩnh vực nói chung, trong lĩnh vực dịch vụ
tài chính nói riêng của nước nhập khẩu dịch vụ cũng có vai trò quan trọng đối với
sự tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ tài chính của các ngân hàng thương mại. Mức độ
mở cửa thị trường dịch vụ tài chính của các nước này sẽ quyết định mức độ thâm
nhập, quy mô xuất khẩu tài chính của các ngân hàng thương mại từ nước xuất khẩu
sang.
1.3.1.3. Hệ thống cơ sở hạ tầng, vật chất, công nghệ, kỹ thuật
Sự phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, vật chất, kỹ thuật, đặc biệt là trình độ

phát triển và ứng dụng hệ thống công nghệ là yếu tố có vai trò quyết định đối với
khả năng cung ứng dịch vụ tài chính cũng như xuất khẩu dịchv ụ tài chính của các
21
ngân hàng thương mại. Khác với các ngành sản xuất vật chất, dịch vụ tài chính
được cung ứng tới khách hàng chủ yếu qua hệ thống công nghệ. Công nghệ của bản
thân quốc gia xuất khẩu dịch vụ tài chính càng cao hay khả năng về cơ sở hạ tầng
có thể ứng dụng công nghệ cao vào xuất khẩu dịch vụ tài chính sẽ quyết định quy
mô, danh mục, chất lượng dịch vụ tài chính xuất khẩu của các ngân hàng thương
mại.
Tương tự khi xuất khẩu dịch vụ tài chính tới các thị trường nhập khẩu, trình
độ công nghệ tại nước nhập khẩu có khả năng tiếp nhận những dịch vụ tài chính nào
cũng sẽ quyết định danh mục dịch vụ tài chính mà các ngân hàng thương mại của
nước xuất khẩu có thể cung cấp. Nếu công nghệ của nước nhập khẩu cao hơn, các
ngân hàng xuất khẩu dịch vụ tài chính có điều kiện tiếp cận, học hỏi và ứng dụng.
Từ đó, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ tài chính của mình ở tất cả các thị
trường.
1.3.2. Các nhân tố thuộc về bản thân các Ngân hàng thương mại
1.3.2.1. Tiềm lực tài chính của các ngân hàng thương mại
Tiềm lực tài chính là thước đo sức mạnh của một ngân hàng tại một thời
điểm nhất định. Tiềm lực tài chính thể hiện qua các chỉ tiêu: quy mô vốn chủ sở
hữu, quy mô tổng tài sản, mức độ an toàn vốn và khả năng huy động vốn, chất
lượng tài sản (tỷ lệ nợ xấu, khả năng thu hồi nợ xấu, …), mức sinh lợi, khả năng
thanh khoản.
Tiềm lực tài chính là nhân tố quyết định đến xuất khẩu dịch vụ tài chính của
các ngân hàng thương mại. Để có thể thực hiện xuất khẩu dịch vụ tài chính, các
ngân hàng thương mại phải có tiềm lực tài chính đủ mạnh. Đối với các dịch vụ cần
đầu tư nguồn vốn lớn tất yếu phải có nguồn vốn mới có thể cung ứng dịch vụ,
nguồn vốn lớn sẽ đủ lực để xuất khẩu đa dạng các dịch vụ tài chính và nâng cao
hiệu quả cung cấp dịch vụ. Vốn cũng cần để mua sắm trang thiết bị, đầu tư công
nghệ, đào tạo nguồn nhân lực và mở rộng mạng lưới hoạt động, phạm vi, quy mô

xuất khẩu dịch vụ tài chính.
Tiềm lực tài chính cũng là chỉ tiêu mà các khách hàng nhìn vào, đánh giá uy
tín, hình ảnh, quy mô ngân hàng. Tiềm lực tài chính lớn sẽ làm cho các ngân hàng
thương mại có vị thế cao trên thị trường, tăng sức cạnh tranh trên thị trường xuất
khẩu dịch vụ tài chính.
22
1.3.2.2. Trình độ nhân lực
Nguồn nhân lực là tài sản quý giá nhất của ngân hàng thương mại. Về trình
độ nguồn nhân lực, trước hết phải nhấn mạnh trình độ quản lý, điều hành hoạt động
kinh doanh của nhân sự cấp cao trong các ngân hàng thương mại. Trình độ quản lý
của các ngân hàng thương mại quyết định định hướng phát triển, chiến lược phát
triển của mỗi ngân hàng trong đó có chiến lược xuất khẩu dịch vụ tài chính. Trình
độ quản lý tốt, bắt kịp xu hướng, diễn biến nền kinh tế, tài chính thế giới và trong
nước thì ngân hàng sẽ có được sự phát triển bền vững, ổn định, an toàn, khả năng tự
kiểm soát cao, đồng thời có kế hoạch xuất khẩu dịch vụ tài chính an toàn và hiệu
quả.
Trình độ của cán bộ ngân hàng có ảnh hưởng quyết định tới năng lực cạnh
tranh, chất lượng dịch vụ tài chính xuất khẩu của ngân hàng. Xuất khẩu dịch vụ tài
chính đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên
môn, trình độ ngoại ngữ cao, khả năng làm việc dưới áp lực lớn, khả năng giao tiếp
tốt. Chất lượng dịch vụ tài chính xuất khẩu của ngân hàng được chính các cán bộ
ngân hàng tạo thành vì họ là người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, mức độ hài
lòng, lòng tin của các khách hàng vào ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào trình độ, thái
độ phục vụ của cán bộ ngân hàng đó. Nói cách khác, mỗi nhân viên là hình ảnh của
ngân hàng trong mắt khách hàng. Do vậy, yếu tố này cực kỳ quan trọng, là lợi thế
cạnh tranh mà các ngân hàng phải cố gắng xây dựng và gìn giữ để có được hiệu quả
cung ứng dịch vụ tài chính cao nói chung và hiệu quả xuất khẩu dịch vụ tài chính
lớn, bền vững.
1.3.2.3. Công nghệ ứng dụng tại các ngân hàng thương mại
Công nghệ mà các ngân hàng thương mại áp dụng quyết định đến tốc độ, số

lượng, chất lượng các dịch vụ tài chính mà các ngân hàng có thể xuất khẩu dịch vụ
tài chính. Trong sự phát triển chung của hệ thống Ngân hàng hiện nay, hầu hết các
dịch vụ tài chính đều phải được hỗ trợ bởi các giải pháp công nghệ thông tin. Dịch
vụ tài chính là một dịch vụ hết sức nhạy cảm, đòi hỏi sự chính xác đến từng con số
nhỏ, đòi hỏi sự nhanh chóng đến từng giây, từng phút nhất là trong xuất khẩu dịch
vụ tài chính, dữ liệu tài chính liên quan phải được tập hợp từ nhiều thị trường, từ
khắp nơi trên thế giới, Do vậy, công nghệ ngân hàng triển khai càng tiên tiến thì khả
23
năng đáp ứng các yêu cầu này càng cao từ đó tăng khả năng xuất khẩu dịch vụ tài
chính của các ngân hàng thương mại.
1.4. Kinh nghiệm xuất khẩu dịch vụ tài chính của các Ngân hàng Mỹ và
bài học rút ra cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam
1.4.1. Kinh nghiệm xuất khẩu dịch vụ tài chính của các Ngân hàng Mỹ
Mỹ là quốc gia phát triển nhất thế giới và điều này đúng đối với cả ngành
ngân hàng của Mỹ. Đây là đất nước sở hữu hầu hết các tập đoàn tài chính ngân hàng
lớn hàng đầu thế giới như JP Morgan Chase, Citi group, Wells Fargo, Bank of New
York, Bank of America, … Các ngân hàng Mỹ cũng là những ngân hàng tiên phong
trong xuất khẩu dịch vụ tài chính trên phạm vi toàn thế giới và thu về giá trị xuất
khẩu lớn cho đất nước. Do vậy, kinh nghiệm của nước Mỹ cũng như của bản thân
các ngân hàng Mỹ trong xuất khẩu dịch vụ tài chính rất đáng để chúng ta nghiên
cứu và học tập những điểm phù hợp với thực tế Việt Nam.
Ngay từ khi mới xuất hiện, ngành công nghiệp ngân hàng đã không ngừng
nỗ lực mở rộng phạm vi cung cấp dịch sang các khu vực khác, sang các quốc gia
khác, nói cách khác xuất khẩu dịch vụ tài chính đã ra đời từ rất sớm. Những ngân
hàng đầu tiên đặt trụ sở tập trung ở các trung tâm thương mại lớn gần biển Địa
Trung Hải, như Athens, Cairo, Jeusalem và Rome, với chức năng hỗ trợ cho giới
thượng gia trong việc mua bán nguyên liệu, hàng hoá và tiến hành hoạt động
chuyển đổi đồng tiền của một quốc gia này sang đồng tiền của quốc gia khác để tạo
sự tiện lợi trong quá trình giao dịch cho các nhà buôn đia phương và khác du lịch. Ở
Mỹ, trong thời kì thuộc địa và cho đến tận thế kỉ 19, việc tài trợ cho các công ty

được đáp ứng chủ yếu bởi một số ngân hàng nước ngoài.
Trong những năm 1950 và 1960, các ngân hàng Mỹ đã nhanh chóng mở rộng
hoạt động của mình ra nước ngoài, đặc biệt là thông qua việc thiết lập mạng lưới chi
nhánh, thành lập công ty thành viên và liên doanh với các hãng địa phương tại hàng
trăm khu vực và thị trường khác nhau. Quá trình bành trướng ra nước ngoài của các
ngân hàng Mỹ chủ yếu hướng vào thị trường Tây Âu, Trung Đông, Nam Mỹ và
Trung Mỹ. Vào những năm 1970 và 1980, các ngân hàng Mỹ đã có mặt tài vành đai
Thái Bình Dương, đặc biệt ở Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông và Singapore.
Những ngân hàng đa quốc gia này đóng một vai trò rất quan trọng trong việc đầu tư
vào những khoản vốn lớn trong các nước sản xuất dầu lửa bởi vì giá dầu thế giới đã

×