Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

nâng cao chất lượng tín dụng đối với dn vừa và nhỏ tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam - chi nhánh sóc sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (702.93 KB, 95 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 12
12
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU ĐỒ 13
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 3
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP 3
VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
1.1. Khái quát về tín dụng ngân hàng 3
1.1.1 Khái niệm 3
Tín dụng được hiểu là là hoạt động cho vay tiền giữa người cho vay và
người đi vay trong điều kiện hoàn trả cả vốn và lãi (là hoạt động vay tiền
của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng). Trong đó bên cho vay chuyển
giao tiền cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thời
hạn hai bên đã thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả đúng và đủ
theo quy định khi đến hạn, hay nói cách khác tín dụng là một mối quan
hệ trong lĩnh vực kinh tế mà mỗi cá nhân hay tổ chức chuyển quyền sử
dụng một khối lượng giá trị, hiện vật cho một cá nhân hay tổ chức khác
với những ràng buộc nhất định về thời gian hoàn trả cả gốc và lãi 3
Tín dụng ngân hàng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng,
là loại hình dịch vụ chủ yếu của ngân hàng - tổ chức tài chính, cung cấp
một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất và thực hiện nhiều
chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong
nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng là hình thức phát triển cao của tín dụng
nói chung, về bản chất vẫn là quá trình chuyển dịch vốn dưới hình thái
tiền tệ hay hiện vật của một tổ chức hay cá nhân này cho một tổ chức hay
1
cá nhân khác sử dụng trong một thời gian nhất định trên nguyên tắc hoàn
trả. Song điểm khác biệt của tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng ở
đây là bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng, một tổ chức chuyên kinh


doanh trong lĩnh vực tiền tệ, đóng cả vai trò đi vay và cho vay với một
bên là tất cả các thành phần kinh tế trong xã hội. Tín dụng ngân hàng
được hình thành trên cơ sở các nghiệp vụ tín dụng. Tín dụng ngân hàng
ngày càng phát triển mạnh, phạm vi hoạt động ngày càng rộng và trở
thành hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thay thế tín dụng
thương mại. Nó luôn phát huy được vai trò đáp ứng nhu cầu về vốn để
duy trì và mở rộng quá trình tái sản xuất đồng thời được sử dụng như
một công cụ tài trợ cho những ngành kinh tế khác phát triển theo yêu cầu
phát triển kinh tế của Nhà nước 3
1.1.2 Phân loại tín dụng ngân hàng 4
Phân loại theo hình thức cấp tín dụng: 4
Chiết khấu thương phiếu: đây là nghiệp vụ đơn giản, khách hàng gửi
thương phiếu tới ngân hàng xin chiết khấu, ngân hàng kiểm tra chất lượng
của thương phiếu và tiến hành chiết khấu nghĩa là đưa tiền cho khách hàng
và nắm giữ thương phiếu. Số tiền này căn cứ vào lãi suất, thời hạn và lệ phí
chiết khấu. Các NHTM thường tái chiết khấu thương phiếu tại NHNN để
đáp ứng nhu cầu thanh khoản 4
Cho vay : Cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển,
cho vay trả góp. Có thể hiểu chung nhất cho vay là việc ngân hàng đưa tiền
cho khách hàng với cam kết sẽ trả nợ gốc và lãi trong một thời gian xác
định. Thấu chi là nghiệp vụ mà ngân hàng cho phép người vay chi vượt số
dư trong tài khoản tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định
và trong khoảng thời gian xác định. Cho vay trực tiếp từng lần thường áp
dụng với khách hàng có nhu cầu thời vụ, mỗi lần vay khách hàng phải làm
đơn và trình phương án dùng vốn vay. Ngân hàng xem xét và đưa ra qui mô
2
cho vay, thời hạn trả nợ, lãi suất Cho vay theo hạn mức là ngân hàng thoả
thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng, trong một thời hạn đã được
ghi trên hợp đồng thường là một năm và một lượng vốn cố định do hai bên
thoả thuận. Hạn mức được xác định dựa vào kế hoạch SXKD của khách

hàng, nhu cầu vốn và nhu cầu vay của họ. Cho vay luân chuyển là dựa vào
sự luân chuyển của hàng hoá, DN khi không đủ vốn mua hàng, ngân hàng sẽ
cho vay và thu nợ khi DN bán được hàng, thường khoản vay này thế chấp
bằng tài sản hình thành chính bằng nguồn vốn vay của ngân hàng. Cho vay
trả góp thường áp dụng với món vay trung dài hạn, khách hàng được phép
trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng. Cho vay theo hạn mức là
ngân hàng cho khách hàng vay vượt quá hạn mức đã thoả thuận ban đầu
trong một giới hạn nhất định. Hình thức này được áp dụng khi khách hàng
không đủ vốn để bù đắp cho những khoản chi phí phát sinh. Cho vay theo
hạn mức tín dụng dự phòng thể hiện sự linh hoạt của NHTM đối với DN,
giúp DN giải quyết những vướng mắc tạm thời. Phương thức này chỉ áp
dụng đối với khách hàng lâu năm và có uy tín. Cho vay theo dự án đầu tư
đây là phương thức cho vay đối với khách hàng có nhu cầu vay vốn để thực
hiện những dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thương mại dịch vụ
và các dự án phục vụ đời sống xã hội 4
Cho thuê: là việc ngân hàng mua tài sản để cho khách hàng thuê theo thỏa
thuận cụ thể. Tài sản cho thuê thuộc quyền sở hữu của ngân hàng, ngân
hàng có thể bán hay cho người khác thuê khi người thuê không trả nợ được.
Cho thuê có hai hình thức là cho thuê nghiệp vụ và cho thuê tài chính. Hoạt
động cho thuê của ngân hàng chủ yếu là cho thuê tài chính, nó đáp ứng nhu
cầu thuê trong thời gian dài và người đi thuê có quyền mua lại tài sản khi
hết hợp đồng thuê 5
Phân loại theo tài sản đảm bảo: 5
Về nguyên tắc mọi khoản tín dụng đều có đảm bảo nhưng với các khách
hàng uy tín, tài chính mạnh hay các món vay theo chỉ thị của Chính phủ
3
thì không cần tài sản đảm bảo. Có 2 nghiệp vụ đảm bảo là cầm cố và thế
chấp. Cầm cố là hình thức mà người vay phải chuyển quyền kiểm soát tài
sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian xác định, thường là bằng
thời gian nhận tài trợ. Thế chấp là hình thức mà người vay phải chuyển các

giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu hay quyền sử dụng tài sản đảm bảo sang
ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết. Tài sản đảm bảo được phân loại
theo tính chất an toàn ngân hàng có thể chia thành hai loại: 5
Loại I: Là những tài sản được hình thành từ vốn vay, đây là biện pháp cuối
cùng để ngân hàng có thể hạn chế người vay bán tài sản được hình thành từ
vốn vay. Hình thức đảm bảo này có mức độ rủi ro cao hơn vì khi người vay
không có khả năng trả nợ thì phần lớn các tài sản này cũng đều bị giảm giá,
khó thanh khoản 5
Loại II: Là các tài sản thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu dài của khách hàng,
hoặc bảo lãnh của bên thứ ba cho khách hàng của ngân hàng. Các khoản tín
dụng dựa trên đảm bảo loại II thường có mức độ rủi ro thấp, song gây khó
khăn cho cả khách hàng lẫn ngân hàng trong việc định giá, bảo quản cất
giữ, làm cho thời gian phân tích tín dụng kéo dài 5
Phân loại theo thời gian: 6
Do thời gian liên quan đến tính sinh lời và an toàn của tín dụng nên phân
chia theo thời gian là cần thiết. Tín dụng ngắn hạn là từ 12 tháng trở xuống
và thường tài trợ cho tài sản lưu động. Tín dụng trung hạn là từ 1 đến 5
năm, thường tài trợ cho tài sản cố định. Tín dụng dài hạn là trên 5 năm, tài
trợ cho các công trình xây dựng như cầu, đường, máy móc thiết bị sử dụng
lâu dài 6
Phân loại theo rủi ro : 6
Rủi ro nói chung là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến. Còn rủi ro tín
dụng được hiểu là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu
do khách hàng không trả, trả không đúng hạn hay không trả đủ vốn và lãi.
Tín dụng gồm các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Cách
4
phân loại này giúp ngân hàng đánh giá được kịp thời các khoản tín dụng,
giúp cho việc đánh giá chất lượng tín dụng 6
Ngoài ra, còn có thể xem xét nghiệp vụ tín dụng theo ngành kinh tế công
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; theo mục đích sử dụng khoản tài trợ là

sản xuất, tiêu dùng hay thương mại Quan hệ tín dụng được thiết lập
giữa hai bên là ngân hàng và khách hàng, khách hàng là đối tác hết sức
quan trọng trong hoạt động tín dụng với ngân hàng. Vì vậy, người ta
cũng phân chia khách hàng thành DN lớn, DN vừa và nhỏ, cá nhân hộ
gia đình 6
1.1.3 Vai trò của tín dụng ngân hàng 6
* Đối với DNVVN 6
Vốn kinh doanh là yếu tố tiền đề của mọi quá trình đầu tư. Trong nền kinh
tế bao cấp với cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã không quan niệm vốn là
hàng hoá đặc biệt vì vốn được rót từ ngân sách và ngân hàng. Vốn đã không
được sử dụng hiệu quả do không có nơi giao dịch trên thị trường, điều đó đã
làm mất đi vai trò khách quan của nó trong sản xuất và đầu tư 6
Có thể khái quát, vốn kinh doanh ( bao gồm vốn sử dụng cho sản xuất kinh
doanh và vốn đầu tư tài chính của DN ) là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ
tài sản được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời 6
Đối với bất kỳ một DN nào, vốn cũng là yếu tố cơ bản không thể thiếu của
mọi quy trình SXKD. Nó là điều kiện để đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng
sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc làm và thu nhập cho
người lao động từ đó tạo điều kiện để DN tăng sức cạnh tranh trên thị
trường, mở rộng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả SXKD. Tạo vốn được hiểu
theo nghĩa rộng là làm cho đồng tiền từ khâu dự trữ đi vào khâu lưu thông
trên cơ sơ đảm bảo nguyên tắc sinh lời. Khi thành lập cũng như trong quá
trình phát triển, các DN phải xác định được nhu cầu vốn, cần xem xét có thể
tạo vốn từ những nguồn nào, dưới hình thức nào với chi phí vốn thấp nhất,
từ đó để có thể bảo đảm đầy đủ vốn, sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh
5
vòng quay vốn. Đây là vấn đề hết sức quan trọng và khó khăn đặc biệt với
các DNVVN 6
Căn cứ vào phạm vi huy động nguồn vốn mà DNVVN có khả năng huy
động thì có thể chia thành nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài DN.

Nguồn vốn bên trong thể hiện khả năng tự tài trợ của DN. Nguồn vốn bên
trong bao gồm vốn chủ sở hữu bỏ ra đầu tư ban đầu và một phần nguồn vốn
từ chính hoạt động của bản thân DN. Tuy nhiên DNVVN với đặc điểm vốn
đầu tư ban đầu thường ít, quá trình tích tụ tập trung để tái sản xuất diễn ra
chậm chạp nên nguồn vốn bên trong này không đủ đáp ứng nhu cầu vốn cho
đầu tư, vượt quá khả năng vốn liếng của chủ DN. Điều đó đòi hỏi các
DNVVN phải huy động tìm kiếm nguồn vốn từ bên ngoài. Tuy nhiên với sự
hạn chế và khả năng lập dự án của các DNVVN, cộng với nguyên tắc an
toàn trong việc cấp tín dụng của các NHTM nên đa phần các DN này khó
tiếp cận được nguồn vốn dài hạn để đầu tư mở rộng nguồn vốn sản xuất
kinh doanh. Chính vì vậy khoản cho vay trung và dài hạn đối với các
DNVVN chiếm một tỉ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn cho vay đối với loại hình
DN này. Tỉ lệ nhỏ đó lại thuộc về đại đa số các DN vừa và nhỏ thuộc khối
DN nhà nước 7
Quan hệ tín dụng giữa các NHTM và DNVVN tiềm ẩn nhiều rủi ro. Những
rủi ro đó xuất phát từ chính những hạn chế của loại hình DN này như vốn ít,
trình độ quản lý yếu kém, hạn chế về công nghệ cũng như tính minh bạch
trong báo cáo tài chính mà các ngân hàng rất quan tâm trong việc thẩm
định trả nợ, một trong những điều kiện cơ bản của các khoản vay là các tài
sản đảm bảo đây cũng là điểm yếu của rất nhiều DNVVN, vì các tài sản đảm
bảo thường là tài sản cá nhân của chủ DN và giá trị của các tài sản đó
thường thấp hơn nhiều so với nhu cầu vay vốn của DNVVN đó là những khó
khăn mà DNVVN gặp phải khi đi tìm nguồn vốn đầu tư cho DN của mình 7
Để mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao chất
lượng sản phẩm tăng khả năng cạch tranh trên thị trường. DNVVN không
6
chỉ cần có vốn lưu động ngắn hạn mà còn phải có một lượng vốn và tài sản
cố định dài hạn. Quy mô vốn đầu tư cho các nhu cầu trên đôi khi vượt quá
khả nămg vốn tự có và đi vay của DNVVN. Tín dụng ngân hàng có thể cho
các DN thoả mãn nhu cầu vốn phục vụ cho các hoạt động mở rộng đầu tư

của DN 8
Trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã làm nảy sinh nhiều hình
thức và phương pháp huy động vốn mới cho DN. Đó có thể là thuê tài chính,
vay của bạn bè người thân hay đối tác, gọi vốn liên doanh liên kết, phát
hành chứng khoán hoặc thu hút vốn thông qua sáp nhập DN, cổ phần hoá
DN. Thị trường chứng khoán nước ta mới được thành lập còn non trẻ và rất
nhiều tồn tại cần khắc phục, nên DNVVN phát hành chứng khoán khó đáp
ứng các yêu cầu, thủ tục rườm rà và khả năng hiệu quả là thấp. Liên doanh
liên kết hay sáp nhập cần xem xét cân nhắc kỹ lưỡng, làm mất tính chủ động
của chủ DN cũng như hoạt động kinh doanh bị rằng buộc chặt chẽ. Trong
các DNVVN đặc biệt các DN tư nhân thường tạo nguồn vốn bằng cách đi
vay của bạn bè hay người thân, thị trường vốn “ chìm “. Tuy nhiên hình
thức này nhiều khả năng nảy sinh phức tạp mối quan hệ kinh doanh, quan
hệ gia đình xã hội, không ổn định cũng như chịu chi phí vốn cao 8
* Đối với nền kinh tế 8
Tín dụng không chỉ đem lại những lợi ích to lớn cho DNVVN và ngân hàng,
việc cho vay đối với các DNVVN của ngân hàng còn có ý nghĩa quan trọng
đối với sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Nhìn chung các nước trên thế
giới DNVVN chiếm đại đa số trong tổng số các DNVVN của nước đó, hàng
năm nó tạo ra công ăn việc làm cho hàng triệu lao động. Vì vậy, tín dụng đối
với DNVVN đã giúp các DN có đủ vốn để ổn định và phát triển sản xuất
kinh doanh 8
Chất lượng tín dụng được nâng cao phản ánh hoạt động kinh doanh của
ngân hàng và DN có hiệu quả, từ đó góp phần tăng trưởng kinh tế, giải
quyết công ăn việc làm, điều tiết vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tăng sản phẩm
7
cho xã hội nâng cao mức sống cho đại bộ phận dân cư. Chất lượng tín dụng
là một khái niệm rất bao quát ( đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng, luôn ra
tăng tiện ích cho khách hàng…) nhưng cũng rất cụ thể ( tỷ lệ tăng trưởng về
dư nợ, tỷ lệ lợi nhuận trên đồng vốn, tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ khó đòi…).

Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp nó phản ánh sức mạnh của một
ngân hàng thương mại trong cạnh tranh để tồn tại và đạt hiệu quả sản xuất
kinh doanh của ngân hàng đó 9
* Đối với ngân hàng 9
Trong các hoạt động của ngân hàng thương mại, tín dụng là hoạt động chủ
yếu, chiếm tỉ trọng lớn nhất và đem lại thu nhập chính cho ngân hàng. thực
hiện đúng quy trình tín dụng (Quy trình tín dụng là bảng tổng hợp mô tả
công việc của ngân hàng từ khi tiếp nhận hồ sơ vay vốn của một khách hàng
cho đến khi quyết định cho vay, giải ngân, thu nợ và thanh lý hợp đồng tín
dụng) đặc biệt quan trọng đối với một ngân hàng thương mại: Về mặt hiệu
quả, một quy trình tín dụng hợp lý sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao chất
lượng tín dụng và giảm thiểu rủi ro tín dụng. Về mặt quản lý: Quy trình tín
dụng có tác dụng làm cơ sở cho việc phân chia nguồn vốn đối với từng
ngành nghề, ổn định tăng trưởng cho ngân hàng theo từng năm và đem lại
lợi ích cho ngân hàng 9
1.1.4 Quy trình tín dụng 10
Quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc và quy trình của ngân hàng
trong việc cấp tín dụng. Nội dung của quy trình tín dụng là việc hướng dẫn
chi tiết các bước cần thực hiện trong quá trình thực hiện, phân tích và quản
lý sau khi cấp tín dụng đối với khách hàng bao gồm các bước sau: Tiếp xúc
và thu thập hồ sơ khách hàng ( Hồ sơ pháp lý, hồ sơ tài sản bảo đảm, hồ sơ
kinh tế ), thẩm định khách hàng, ra quyết định cấp tín dụng, giải ngân và
kiểm tra trong quá trình cho vay và sau cho vay, thu nợ và thanh lý hợp
đồng tín dụng 10
8
Quy trình tín dụng nhìn chung không có sự khác biệt giữa các đối tượng
khách hàng là DN lớn hay DNVVN nhưng cần có các giải pháp linh hoạt áp
dụng cho các món vay nhỏ và ngắn hạn như của các DNVVN 10
1.2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ 10
1.2.1 Khái niệm 10

1.2.2 Đặc điểm của Doanh nghiệp vừa và nhỏ 13
1.2.3 Vai trò của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ 15
1.3 Chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ 17
1.3.1 Khái niệm về chất lượng tín dụng 17
1.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng đối với các DNVVN 18
Chỉ tiêu này là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng
đối với DNVVN, hoạt động cho vay nói chung và cho vay DNVVN nói
riêng của NHTM phải đảm bảo mục tiêu an toàn hiệu quả, tỷ lệ này cũng
giúp cho các ngân hàng đánh giá và xếp loại tín dụng đối với các
DNVVN 25
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng đối với các DNVVN 25
1.4.1 Nhân tố từ phía ngân hàng 25
1.4.2 Nhân tố từ phía khách hàng 28
1.4.3 Nhân tố từ phía nền kinh tế xã hội 29
1.5 Kinh nghiệm một số nước trên thế giới 30
1.5.1 Kinh nghiệp của Nhật Bản 30
1.5.2 Kinh nghiệp của Đài Loan 31
CHƯƠNG 2 33
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI 33
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI CHI NHÁNH 33
NHNN & PTNT SÓC SƠN 33
2.1 Giới thiệu chung về chi nhánh NHNN & PTNT SÓC SƠN 33
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển 33
9
2.1.2 Bộ máy tổ chức điều hành tại Sóc Sơn 35
2.1.3 Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng NHNN & PTNT
Sóc Sơn 36
2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng DNVVN tại NHNN & PTNT Sóc Sơn.39
2.2.1 Thực trạng tại chi nhánh NHNN&PTNT Sóc Sơn 39
2.2.2 Hoạt động cho vay vốn 41

2.2.3 Các hoạt động kinh doanh khác 43
2.2.4 Tăng dư nợ và doanh số cho vay 45
2.2.5 Nợ quá hạnDNVVN 47
2.2.6 Thu lãi từ hoạt động tín dụng DNVVN 50
2.3 Đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng DNVVN tại NHNN & PTNT Sóc
Sơn 52
2.3.1 Những kết quả đạt được 52
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 54
CHƯƠNG 3 63
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NHNN & PTNT SÓC SƠN 63
3.1 Định hướng hoạt động tín dụng đối với các DNVVN tại NHNN&PTNT
Sóc Sơn 63
3.1.1 Những định hướng phát triển tồng thể 63
3.1.2 Định hướng phát triển hoạt động tín dụng 65
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNVVN tại Chi nhánh
NHNN&PTNT Sóc Sơn 65
3.2.1 Tăng cường khai thác những nguồn vốn có chi phí thấp 65
3.2.2 Nâng cao chất lượng công tác thẩm định 67
3.2.3 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát tiền vay 68
3.2.4 Xử lý kịp thời nợ quá hạn 68
3.2.5 Trích lập quỹ bù đắp rủi ro 69
10
3.2.6 Nâng cao chất lượng nhân sự 69
3.2.7 Đa dạng hoá các hình thức tín dụng 70
3.2.8 Tăng cường công tác tư vấn cho DN vay vốn 72
3.2.9 Mở rộng Marketing ngân hàng để thu hút thêm nhiều khách hàng73
3.3. Kiến nghị 73
3.3.1 Kiến nghị đối với NHNN&PTNT Việt Nam 73
3.3.2 Kiến nghị đối với ngân hàng Nhà nước 76

3.3.3 Kiến nghị với các DNVVN 77
3.3.4 Kiến nghị đối với cơ quan Nhà nước 78
Thứ năm: Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế:
Khi đất nước ta đổi mới nhất là khi có luật DN ra đời, nền kinh tế dần đi vào
nền kinh tế thị trường phát triển đa dạng với nhiều thành phần kinh tế và các
ngành nghề khác nhau. Mỗi thành phần kinh tế đóng góp không nhỏ vào sự
thành công trong công cuộc đổi mới của đất nước. Do đặc thù nền kinh tế nước
ta là thành phần kinh tế nhà nước chiếm vai trò chủ đạo nên không tránh khỏi
sự ưu ái của nhà nước trong việc đầu tư và phát triển nền kinh tế này. Các
thành phần kinh tế khác trong đó có DNVVN mặc dù tạo ra nhiều công ăn việc
làm cho xã hội đóng góp tới 55% GDP nhưng vẫn chưa nhận được nhiều sự
quan tâm của nhà nước. Chính vì vậy nhà nước cần có chính sách đồng bộ, tạo
môi trường bình đẳng cho hoạt động sản xuất của các thành phần kinh tế nói
chung và DNVVN nói riêng 80
KẾT LUẬN 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO 82
11
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBTD : Cán bộ tín dụng
DN : Doanh nghiệp
DNVVN : Doanh nghiệp vừa và nhỏ
HĐQT : Hội đồng quản trị
NHNN&PTNT : Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
NHNN : Ngân hàng nhà nước
NHTW : Ngân hàng trung ương
SXKD : Sản xuất kinh doanh
TMCP : Thương mại cổ phần
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn

12
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Bộ máy tổ chức của Chi nhánh NHNN&PTNT Sóc Sơn 35
Sơ đồ 2.2: Quy trình cho vay tại NHNN & PTNT Sóc Sơn 41
Bảng 1.1: Tiêu chí xác định DNVVN ở một số quốc gia trên thế giới 11
Bảng 2.1: Nguồn vốn huy động giai đoạn 2006-2010 36
Bảng 2.2: Lợi nhuận kinh doanh NHNN & PTNT Sóc Sơn giai đoạn 37
2006 - 2010 37
Bảng 2.3: Kết quả cho vay giai đoạn 2006-2010 41
Bảng 2.4: Cơ cấu dư nợ cho vay đối với DNVVN theo ngành kinh tế giai
đoạn 2006 - 2010 42
Bảng 2.5: Thu-chi tiền và kinh doanh khác giai đoạn 2006 - 2010 43
Bảng 2.6: Dư nợ cho vay tại NHNN & PTNT Sóc Sơn 45
Bảng 2.7: Nợ quá hạn DNVVN 47
Bảng 2.8: Nợ quá hạn DNVVN 49
Bảng 2.9: Thu lãi từ hoạt động cho vay DNVVN 50
Biểu đồ 2.1: Nợ quá hạn DNVVN 48
13
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là một loại hình DN không những thích hợp đối với
nền kinh tế của những nước công nghiệp phát triển mà nó còn đặc biệt thích hợp với
nền kinh tế của những nước đang phát triển. ở nước ta trước đây, việc phát triển các
DNVVN cũng đã được quan tâm, song chỉ từ khi có đường lối đổi mới kinh tế do
Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng thì các DN này mới thực sự phát triển nhanh
về cả số và chất lượng.
Trong điều kiện của những bước đi ban đầu thực hiện công nghiệp hóa và
hiện đại hoá đất nước, có thể khẳng định việc đẩy mạnh phát triển DNVVN là
bước đi phù hợp với điều kiện kinh tế nước ta. DNVVN là công cụ góp phần khai
thác toàn diện mọi nguồn lực kinh tế đặc biệt là những nguồn lực tiềm tàng sẵn có

ở mỗi người, mỗi miền của đất nước. Loại hình DN này phát triển chắc chắn sẽ có
tác dụng to lớn trong việc giải quyết các mối quan hệ mà quốc gia nào cũng phải
quan tâm chú ý đến : tăng trưởng kinh tế - giải quyết và đào tạo việc làm - kiềm
chế lạm phát.
Song DNVVN cũng gặp không ít khó khăn trong quá trình hoạt động kinh
doanh của mình, đặc biệt là thiếu vốn để mở rộng đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh
doanh theo chiều sâu. Xuất phát từ đường lối chủ trương đa dạng hoá các thành phần
kinh tế, nhu cầu vốn cấp bách của các DN, cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường và thị
phần Chi nhánh NHNN & PTNT Sóc Sơn đã tập trung ưu tiên cấp tín dụng cho
khách hàng vừa và nhỏ. Nhưng với một Chi nhánh nằm trên một huyện nghèo, hoạt
động tín dụng của Chi nhánh nói chung và hoạt động tín dụng đối với DNVVN nói
riêng cũng còn nhiều mặt hạn chế. Như chưa đáp ứng đủ nhu cầu vốn vay, mới giải
quyết được nhu cầu vốn trong ngắn hạn là chủ yếu còn nhu cầu vốn vay dài hạn gặp
rất nhiều khó khăn và thiếu vốn, hình thức tín dụng nghèo nàn. Nên việc định hướng
cho phát triển loại hình DNVVN vẫn còn nhiều hạn chế.
Vì vậy, em chọn đề tài “Nâng cao chất lượng tín dụng đối với DN vừa và nhỏ
tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Sóc Sơn”
để làm luận văn.
1
2. Mục đích nghiên cứu.
- Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng đối với DNVVN
của NHTM.
- Phân tích, đánh giá về tình hình thực tế hoạt động tín dụng DNVVN tại chi
nhánh NHNN & PTNT Việt Nam - chi nhánh Sóc Sơn.
- Đưa ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại NHNN & PTNT Sóc Sơn.
- Nhằm có một cái nhìn tổng thể về thực trạng tín dụng DNVVN của chinhánh
NHNN&PTNT Sóc Sơn trong thời gian qua.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là: Chất lượng tín dụng DNVVN tại NHNN & PTNT

Việt Nam - Chi nhánh Sóc Sơn.
- Phạm vi không gian: NHNN&PTNT Sóc Sơn
- Phạm vi thời giam: Nghiên cứu chất lượng tín dụng DNVVN tại NHNN &
PTNT Sóc Sơn giai đoạn từ 2007 - 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Thu thập số liệu từ các báo cáo của các kỳ kinh doanh của ngân hàng từ năm
2007 – 2010.
- Luận văn áp dụng phương pháp phân tích, so sánh, thống kê tổng hợp số liệu
để đưa ra kết luận về đối tượng cần nghiên cứu. Nguồn tài liệu chính được thu thập
thông qua các báo cáo của NHNN&PTNT Sóc Sơn, nhằm giải quyết và làm sáng tỏ
mục tiêu đặt ra trong luân văn.
5. Cấu trúc luận văn:
- Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Chất lượng tín dụng đối với DN vừa và nhỏ của ngân hàng Thương Mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DN vừa và nhỏ tại Chi
nhánh NHNN & PTNT Sóc Sơn.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DN vừa và nhỏ tại
Chi nhánh NHNN & PTNT Sóc Sơn.
2
CHƯƠNG 1
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về tín dụng ngân hàng
1.1.1 Khái niệm
Tín dụng được hiểu là là hoạt động cho vay tiền giữa người cho vay và người
đi vay trong điều kiện hoàn trả cả vốn và lãi (là hoạt động vay tiền của ngân hàng
hoặc tổ chức tín dụng). Trong đó bên cho vay chuyển giao tiền cho bên đi vay sử
dụng trong một thời gian nhất định theo thời hạn hai bên đã thoả thuận, bên đi vay
có trách nhiệm hoàn trả đúng và đủ theo quy định khi đến hạn, hay nói cách khác
tín dụng là một mối quan hệ trong lĩnh vực kinh tế mà mỗi cá nhân hay tổ chức

chuyển quyền sử dụng một khối lượng giá trị, hiện vật cho một cá nhân hay tổ chức
khác với những ràng buộc nhất định về thời gian hoàn trả cả gốc và lãi.
Tín dụng ngân hàng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng, là
loại hình dịch vụ chủ yếu của ngân hàng - tổ chức tài chính, cung cấp một danh mục
các dịch vụ tài chính đa dạng nhất và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so
với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng là
hình thức phát triển cao của tín dụng nói chung, về bản chất vẫn là quá trình chuyển
dịch vốn dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật của một tổ chức hay cá nhân này cho
một tổ chức hay cá nhân khác sử dụng trong một thời gian nhất định trên nguyên tắc
hoàn trả. Song điểm khác biệt của tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng ở đây là
bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng, một tổ chức chuyên kinh doanh trong lĩnh
vực tiền tệ, đóng cả vai trò đi vay và cho vay với một bên là tất cả các thành phần
kinh tế trong xã hội. Tín dụng ngân hàng được hình thành trên cơ sở các nghiệp vụ tín
dụng. Tín dụng ngân hàng ngày càng phát triển mạnh, phạm vi hoạt động ngày càng
rộng và trở thành hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thay thế tín dụng
thương mại. Nó luôn phát huy được vai trò đáp ứng nhu cầu về vốn để duy trì và mở
3
rộng quá trình tái sản xuất đồng thời được sử dụng như một công cụ tài trợ cho những
ngành kinh tế khác phát triển theo yêu cầu phát triển kinh tế của Nhà nước.
1.1.2 Phân loại tín dụng ngân hàng
Phân loại theo hình thức cấp tín dụng:
Chiết khấu thương phiếu: đây là nghiệp vụ đơn giản, khách hàng gửi thương
phiếu tới ngân hàng xin chiết khấu, ngân hàng kiểm tra chất lượng của thương phiếu
và tiến hành chiết khấu nghĩa là đưa tiền cho khách hàng và nắm giữ thương phiếu.
Số tiền này căn cứ vào lãi suất, thời hạn và lệ phí chiết khấu. Các NHTM thường tái
chiết khấu thương phiếu tại NHNN để đáp ứng nhu cầu thanh khoản.
Cho vay : Cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển,
cho vay trả góp. Có thể hiểu chung nhất cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho
khách hàng với cam kết sẽ trả nợ gốc và lãi trong một thời gian xác định. Thấu chi
là nghiệp vụ mà ngân hàng cho phép người vay chi vượt số dư trong tài khoản tiền

gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác
định. Cho vay trực tiếp từng lần thường áp dụng với khách hàng có nhu cầu thời vụ,
mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình phương án dùng vốn vay. Ngân hàng
xem xét và đưa ra qui mô cho vay, thời hạn trả nợ, lãi suất Cho vay theo hạn mức
là ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng, trong một thời hạn
đã được ghi trên hợp đồng thường là một năm và một lượng vốn cố định do hai bên
thoả thuận. Hạn mức được xác định dựa vào kế hoạch SXKD của khách hàng, nhu
cầu vốn và nhu cầu vay của họ. Cho vay luân chuyển là dựa vào sự luân chuyển của
hàng hoá, DN khi không đủ vốn mua hàng, ngân hàng sẽ cho vay và thu nợ khi DN
bán được hàng, thường khoản vay này thế chấp bằng tài sản hình thành chính bằng
nguồn vốn vay của ngân hàng. Cho vay trả góp thường áp dụng với món vay trung
dài hạn, khách hàng được phép trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng. Cho
vay theo hạn mức là ngân hàng cho khách hàng vay vượt quá hạn mức đã thoả thuận
ban đầu trong một giới hạn nhất định. Hình thức này được áp dụng khi khách hàng
không đủ vốn để bù đắp cho những khoản chi phí phát sinh. Cho vay theo hạn mức
tín dụng dự phòng thể hiện sự linh hoạt của NHTM đối với DN, giúp DN giải quyết
4
những vướng mắc tạm thời. Phương thức này chỉ áp dụng đối với khách hàng lâu
năm và có uy tín. Cho vay theo dự án đầu tư đây là phương thức cho vay đối với
khách hàng có nhu cầu vay vốn để thực hiện những dự án đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh thương mại dịch vụ và các dự án phục vụ đời sống xã hội.
Cho thuê: là việc ngân hàng mua tài sản để cho khách hàng thuê theo thỏa
thuận cụ thể. Tài sản cho thuê thuộc quyền sở hữu của ngân hàng, ngân hàng có thể
bán hay cho người khác thuê khi người thuê không trả nợ được. Cho thuê có hai
hình thức là cho thuê nghiệp vụ và cho thuê tài chính. Hoạt động cho thuê của ngân
hàng chủ yếu là cho thuê tài chính, nó đáp ứng nhu cầu thuê trong thời gian dài và
người đi thuê có quyền mua lại tài sản khi hết hợp đồng thuê.
Phân loại theo tài sản đảm bảo:
Về nguyên tắc mọi khoản tín dụng đều có đảm bảo nhưng với các khách hàng
uy tín, tài chính mạnh hay các món vay theo chỉ thị của Chính phủ thì không cần tài

sản đảm bảo. Có 2 nghiệp vụ đảm bảo là cầm cố và thế chấp. Cầm cố là hình thức mà
người vay phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong
thời gian xác định, thường là bằng thời gian nhận tài trợ. Thế chấp là hình thức mà
người vay phải chuyển các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu hay quyền sử dụng tài
sản đảm bảo sang ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết. Tài sản đảm bảo được
phân loại theo tính chất an toàn ngân hàng có thể chia thành hai loại:
Loại I: Là những tài sản được hình thành từ vốn vay, đây là biện pháp cuối
cùng để ngân hàng có thể hạn chế người vay bán tài sản được hình thành từ vốn
vay. Hình thức đảm bảo này có mức độ rủi ro cao hơn vì khi người vay không có
khả năng trả nợ thì phần lớn các tài sản này cũng đều bị giảm giá, khó thanh
khoản.
Loại II: Là các tài sản thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu dài của khách hàng, hoặc
bảo lãnh của bên thứ ba cho khách hàng của ngân hàng. Các khoản tín dụng dựa
trên đảm bảo loại II thường có mức độ rủi ro thấp, song gây khó khăn cho cả khách
hàng lẫn ngân hàng trong việc định giá, bảo quản cất giữ, làm cho thời gian phân
tích tín dụng kéo dài.
5
Phân loại theo thời gian:
Do thời gian liên quan đến tính sinh lời và an toàn của tín dụng nên phân chia
theo thời gian là cần thiết. Tín dụng ngắn hạn là từ 12 tháng trở xuống và thường tài
trợ cho tài sản lưu động. Tín dụng trung hạn là từ 1 đến 5 năm, thường tài trợ cho
tài sản cố định. Tín dụng dài hạn là trên 5 năm, tài trợ cho các công trình xây dựng
như cầu, đường, máy móc thiết bị sử dụng lâu dài.
Phân loại theo rủi ro :
Rủi ro nói chung là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến. Còn rủi ro tín dụng
được hiểu là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do khách hàng
không trả, trả không đúng hạn hay không trả đủ vốn và lãi. Tín dụng gồm các khoản
có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Cách phân loại này giúp ngân hàng đánh
giá được kịp thời các khoản tín dụng, giúp cho việc đánh giá chất lượng tín dụng.
Ngoài ra, còn có thể xem xét nghiệp vụ tín dụng theo ngành kinh tế công nghiệp,

nông nghiệp và dịch vụ; theo mục đích sử dụng khoản tài trợ là sản xuất, tiêu dùng
hay thương mại Quan hệ tín dụng được thiết lập giữa hai bên là ngân hàng và
khách hàng, khách hàng là đối tác hết sức quan trọng trong hoạt động tín dụng với
ngân hàng. Vì vậy, người ta cũng phân chia khách hàng thành DN lớn, DN vừa và
nhỏ, cá nhân hộ gia đình.
1.1.3 Vai trò của tín dụng ngân hàng
* Đối với DNVVN
Vốn kinh doanh là yếu tố tiền đề của mọi quá trình đầu tư. Trong nền kinh tế
bao cấp với cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã không quan niệm vốn là hàng hoá đặc
biệt vì vốn được rót từ ngân sách và ngân hàng. Vốn đã không được sử dụng hiệu
quả do không có nơi giao dịch trên thị trường, điều đó đã làm mất đi vai trò khách
quan của nó trong sản xuất và đầu tư.
Có thể khái quát, vốn kinh doanh ( bao gồm vốn sử dụng cho sản xuất kinh
doanh và vốn đầu tư tài chính của DN ) là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản
được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Đối với bất kỳ một DN nào, vốn cũng là yếu tố cơ bản không thể thiếu của
6
mọi quy trình SXKD. Nó là điều kiện để đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản
xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc làm và thu nhập cho người lao
động từ đó tạo điều kiện để DN tăng sức cạnh tranh trên thị trường, mở rộng xuất
khẩu, nâng cao hiệu quả SXKD. Tạo vốn được hiểu theo nghĩa rộng là làm cho
đồng tiền từ khâu dự trữ đi vào khâu lưu thông trên cơ sơ đảm bảo nguyên tắc sinh
lời. Khi thành lập cũng như trong quá trình phát triển, các DN phải xác định được
nhu cầu vốn, cần xem xét có thể tạo vốn từ những nguồn nào, dưới hình thức nào
với chi phí vốn thấp nhất, từ đó để có thể bảo đảm đầy đủ vốn, sử dụng vốn có hiệu
quả, tăng nhanh vòng quay vốn. Đây là vấn đề hết sức quan trọng và khó khăn đặc
biệt với các DNVVN.
Căn cứ vào phạm vi huy động nguồn vốn mà DNVVN có khả năng huy động thì
có thể chia thành nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài DN. Nguồn vốn bên
trong thể hiện khả năng tự tài trợ của DN. Nguồn vốn bên trong bao gồm vốn chủ

sở hữu bỏ ra đầu tư ban đầu và một phần nguồn vốn từ chính hoạt động của bản
thân DN. Tuy nhiên DNVVN với đặc điểm vốn đầu tư ban đầu thường ít, quá trình
tích tụ tập trung để tái sản xuất diễn ra chậm chạp nên nguồn vốn bên trong này
không đủ đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư, vượt quá khả năng vốn liếng của chủ
DN. Điều đó đòi hỏi các DNVVN phải huy động tìm kiếm nguồn vốn từ bên ngoài.
Tuy nhiên với sự hạn chế và khả năng lập dự án của các DNVVN, cộng với nguyên
tắc an toàn trong việc cấp tín dụng của các NHTM nên đa phần các DN này khó tiếp
cận được nguồn vốn dài hạn để đầu tư mở rộng nguồn vốn sản xuất kinh doanh.
Chính vì vậy khoản cho vay trung và dài hạn đối với các DNVVN chiếm một tỉ lệ
nhỏ trong tổng nguồn vốn cho vay đối với loại hình DN này. Tỉ lệ nhỏ đó lại thuộc
về đại đa số các DN vừa và nhỏ thuộc khối DN nhà nước.
Quan hệ tín dụng giữa các NHTM và DNVVN tiềm ẩn nhiều rủi ro. Những rủi
ro đó xuất phát từ chính những hạn chế của loại hình DN này như vốn ít, trình độ
quản lý yếu kém, hạn chế về công nghệ cũng như tính minh bạch trong báo cáo tài
chính mà các ngân hàng rất quan tâm trong việc thẩm định trả nợ, một trong những
điều kiện cơ bản của các khoản vay là các tài sản đảm bảo đây cũng là điểm yếu của
7
rất nhiều DNVVN, vì các tài sản đảm bảo thường là tài sản cá nhân của chủ DN và
giá trị của các tài sản đó thường thấp hơn nhiều so với nhu cầu vay vốn của
DNVVN đó là những khó khăn mà DNVVN gặp phải khi đi tìm nguồn vốn đầu tư
cho DN của mình.
Để mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao chất
lượng sản phẩm tăng khả năng cạch tranh trên thị trường. DNVVN không chỉ cần
có vốn lưu động ngắn hạn mà còn phải có một lượng vốn và tài sản cố định dài hạn.
Quy mô vốn đầu tư cho các nhu cầu trên đôi khi vượt quá khả nămg vốn tự có và đi
vay của DNVVN. Tín dụng ngân hàng có thể cho các DN thoả mãn nhu cầu vốn
phục vụ cho các hoạt động mở rộng đầu tư của DN.
Trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã làm nảy sinh nhiều hình thức
và phương pháp huy động vốn mới cho DN. Đó có thể là thuê tài chính, vay của
bạn bè người thân hay đối tác, gọi vốn liên doanh liên kết, phát hành chứng khoán

hoặc thu hút vốn thông qua sáp nhập DN, cổ phần hoá DN. Thị trường chứng khoán
nước ta mới được thành lập còn non trẻ và rất nhiều tồn tại cần khắc phục, nên
DNVVN phát hành chứng khoán khó đáp ứng các yêu cầu, thủ tục rườm rà và khả
năng hiệu quả là thấp. Liên doanh liên kết hay sáp nhập cần xem xét cân nhắc kỹ
lưỡng, làm mất tính chủ động của chủ DN cũng như hoạt động kinh doanh bị rằng
buộc chặt chẽ. Trong các DNVVN đặc biệt các DN tư nhân thường tạo nguồn vốn
bằng cách đi vay của bạn bè hay người thân, thị trường vốn “ chìm “. Tuy nhiên
hình thức này nhiều khả năng nảy sinh phức tạp mối quan hệ kinh doanh, quan hệ
gia đình xã hội, không ổn định cũng như chịu chi phí vốn cao.
* Đối với nền kinh tế
Tín dụng không chỉ đem lại những lợi ích to lớn cho DNVVN và ngân hàng,
việc cho vay đối với các DNVVN của ngân hàng còn có ý nghĩa quan trọng đối với
sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Nhìn chung các nước trên thế giới DNVVN
chiếm đại đa số trong tổng số các DNVVN của nước đó, hàng năm nó tạo ra công
ăn việc làm cho hàng triệu lao động. Vì vậy, tín dụng đối với DNVVN đã giúp các
DN có đủ vốn để ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh.
8
Chất lượng tín dụng được nâng cao phản ánh hoạt động kinh doanh của ngân
hàng và DN có hiệu quả, từ đó góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn
việc làm, điều tiết vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tăng sản phẩm cho xã hội nâng cao
mức sống cho đại bộ phận dân cư. Chất lượng tín dụng là một khái niệm rất bao
quát ( đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng, luôn ra tăng tiện ích cho khách hàng…)
nhưng cũng rất cụ thể ( tỷ lệ tăng trưởng về dư nợ, tỷ lệ lợi nhuận trên đồng vốn, tỷ
lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ khó đòi…). Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp nó
phản ánh sức mạnh của một ngân hàng thương mại trong cạnh tranh để tồn tại và
đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngân hàng đó.
* Đối với ngân hàng
Trong các hoạt động của ngân hàng thương mại, tín dụng là hoạt động chủ
yếu, chiếm tỉ trọng lớn nhất và đem lại thu nhập chính cho ngân hàng. thực hiện
đúng quy trình tín dụng (Quy trình tín dụng là bảng tổng hợp mô tả công việc của

ngân hàng từ khi tiếp nhận hồ sơ vay vốn của một khách hàng cho đến khi quyết
định cho vay, giải ngân, thu nợ và thanh lý hợp đồng tín dụng) đặc biệt quan trọng
đối với một ngân hàng thương mại: Về mặt hiệu quả, một quy trình tín dụng hợp lý
sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng và giảm thiểu rủi ro tín dụng.
Về mặt quản lý: Quy trình tín dụng có tác dụng làm cơ sở cho việc phân chia nguồn
vốn đối với từng ngành nghề, ổn định tăng trưởng cho ngân hàng theo từng năm và
đem lại lợi ích cho ngân hàng.
* Đối với nhà nước
Hoạt động tín dụng tạo ra thu nhập chủ yếu cho ngân hàng, tạo ra nguồn thu
cho ngân sách nhà nước. Tín dụng ngân hàng là công cụ để Nhà nước điều tiết khối
lượng tiền tệ trong lưu thông. Thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế, ngân
hàng đã tạo nên cung tiền tệ. Đó chính là khả năng tạo tiền của ngân hàng.
Như ta đã biết, một khoản tiền gửi ban đầu khi gửi vào, sau khi đã trừ đi khối
lượng dự trữ, sẽ được ngân hàng sử dụng để cấp tín dụng. Sau đó, khoản tiền này lại
quay trở lại ngân hàng một cách lặp đi lặp lại. Khối lượng tiền gửi được ghi nhận tại
ngân hàng sẽ tăng lên nhiều lần so với số tiền gửi ban đầu. Vì thế cung tiền trong
9
nền kinh tế tăng lên. Tỉ lệ cấp tín dụng của ngân hàng so với khối lượng vốn huy
động càng lớn thì mức cung tiền tệ, hay khối lượng tiền tệ thực trong lưu thông
càng lớn. Do vậy, bằng các chính sách của mình, NHTW dễ dàng thay đổi lượng
tiền trong lưu thông bằng cách điều chỉnh tỉ lệ dự trữ bắt buộc hoặc hạn mức tín
dụng đối với các NHTM.
1.1.4 Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc và quy trình của ngân hàng
trong việc cấp tín dụng. Nội dung của quy trình tín dụng là việc hướng dẫn chi tiết
các bước cần thực hiện trong quá trình thực hiện, phân tích và quản lý sau khi cấp
tín dụng đối với khách hàng bao gồm các bước sau: Tiếp xúc và thu thập hồ sơ
khách hàng ( Hồ sơ pháp lý, hồ sơ tài sản bảo đảm, hồ sơ kinh tế ), thẩm định khách
hàng, ra quyết định cấp tín dụng, giải ngân và kiểm tra trong quá trình cho vay và
sau cho vay, thu nợ và thanh lý hợp đồng tín dụng.

Quy trình tín dụng nhìn chung không có sự khác biệt giữa các đối tượng
khách hàng là DN lớn hay DNVVN nhưng cần có các giải pháp linh hoạt áp dụng
cho các món vay nhỏ và ngắn hạn như của các DNVVN.
1.2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1 Khái niệm
Trong nền kinh tế thị trường, DN được hiểu là một tổ chức kinh tế có tư cách
pháp nhân được tổ chức ra để hoạt động kinh doanh trong một lĩnh vực nhất định
với mục đích công ích hoặc thu lợi nhuận. Thông thường cần có các điều kiện sau
để được công nhận là một DN :
Có tư cách pháp nhân đầy đủ ( DN được Nhà nước thành lập, công nhận hay
cho phép hoạt động ) .
Có vốn pháp định để kinh doanh.
Có tên gọi và hoạt động với danh nghĩa riêng, chịu trách nhiệm độc lập về
mọi hoạt động kinh doanh của mình.
Các loại hình DN trong nền kinh tế thị trường rất đa dạng và phong phú, có
thể phân loại các DN theo các tiêu chí sau :
10
Việc quy định thế nào là DN lớn, vừa và nhỏ là tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế
xã hội cụ thể của từng nước và nó cũng thay đổi theo từng thời kỳ, từng giai đoạn
phát triển kinh tế. Tại Việt Nam, tiêu chí phân loại DNVVN đã được quy định theo
nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 của Thủ tướng Chính phủ. Theo quy
định tại công văn này, tiêu chí xác định DNVVN là vốn và số lượng lao động cụ thể
là DNVVN là DN có vốn điều lệ dưới 10 tỷ đồng và số lao động trung bình hàng
năm dưới 300 lao động. Trong đó quy định DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh
độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành. Căn cứ vào tình hình kinh
tế xã hội cụ thể của từng ngành nghề và từng quốc gia, địa phương trong quá trình
thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể áp dụng linh hoạt theo các quy
định của các quốc gia khác nhau.
Bảng 1.1: Tiêu chí xác định DNVVN ở một số quốc gia trên thế giới
Tên nước Số lao động

Tổng số vốn hoặc
giá trị tài sản
Nhật
< 50 trong bán lẻ
<100 trong bán buôn
< 300 ngành khác
< 10 triệu yên
< 30 triệu yên
< 100 triệu yên
Mỹ < 500 Không quy định
Thái Lan < 100 < 20 triệu bạt
Sin ga po < 100 < 499 triệu SD
Phi lip pin < 200 < 100 triệu pê-sô
In đo nê xia < 100 < 0,6 tỉ ru-pi
Hàn Quốc < 200 Không quy định
Đài Loan < 200 < 80 triêu TWD
Trung Quốc < 500 Không quy định
EU < 249 Không quy định
(Nguồn: Tổng quan về DNVVN, OECD, 2000)
Tại Việt Nam, trước năm 2009 khái niệm DNVVN được quy định tại điều 3,
Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001(Nghị định 90) của chính phủ về trợ
giúp phát triển DNVVN. Theo Nghị định này “ Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở
sản xuất kinh kinh doanh độc lập, đã kinh doanh theo phát luật hiện hành, có vốn
đăng ký không quá 10 tỷ VNĐ hoặc số lao động hàng năm trung bình không quá
300 lao động”. Tuy nhiên so với các nước trên thế giới và khu vực thì nội dung
11
Nghị định 90 này mang tính tổng quát, không chi tiết loại hình, ngành nghề kinh
doanh của từ DN. Việc áp dụng hai tiêu chí trên (vốn điều lệ và số lao động) khiến
cho việc xác định một DN có phải là DNVVN hay không đôi khi gặp khó khăn,
dẫn đến việc bỏ sót DNVVN của các chính sách hỗ trợ của chính phủ nhất là trong

giai đoạn hiện nay nền kinh tế trong nước và thế giới liên tục bị khủng hoảng.
Ngược lại một số DN không thuộc đối tượng trợ giúp của chính sách đôi khi vẫn
được tham gia.
Vì vậy, để công bằng và phù hợp với điều kiện thực tế của Vịêt Nam nhằm
đảm bảo đúng đối tượng được trợ giúp, Chính phủ đã đưa ra tiêu chí mới về cách
xác định DNVVN tại Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009, nội dung Nhị
định, một DN được gọi là DNVVN khi cơ sơ kinh doanh đã đăng ký theo quy định
phát luật, được chia thành ba cấp: Siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô vốn và lao động
cụ thể như sau:
Bảng 1.2: Tiêu chí phân loại DNVVN tại Việt Nam
Quy mô


Khu vực
DN siêu nhỏ DN nhỏ DN vừa
Số lao
động
Tổng nguồn
vốn
Số lao động
Tổng nguồn
vốn
Số lao động
I. Công nghiệp
và xây dựng
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng trở
xuống
từ trên 10

người đến 200
người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100 tỷ
đồng
từ trên 200
người đến 300
người
II. Thương mại
và dịch vụ
10 người trở
xuống
10 tỷ đồng trở
xuống
từ trên 10
người đến 50
người
từ trên 10 tỷ
đồng đến 50 tỷ
đồng
từ trên 50
người đến 100
người
III. Nông, lâm
nghiệp và thủy
sản
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng trở
xuống

từ trên 10
người đến 200
người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100 tỷ
đồng
từ trên 200
người đến 300
người
( Nguồn: Nghị định Số 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNVVN)
Nghị định cũng nói rõ tùy theo tính chất, mục tiêu của từng chính sách,
chương trình trợ giúp mà cơ quan chủ trì có thể cụ thể hóa các tiêu chí nêu trên cho
phù hợp.
Như vậy là việc phân loại của VN cũng đã gần hơn với cách phân loại của thế
12

×