Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Xây dựng hứng thú học tập lịch sử cho học sinh bằng cách vận dụng, lồng ghép kiến thức văn học vào bài giảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.24 KB, 10 trang )

PHẦN A: PHẦN MỞ ĐẦU:

I . LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong hệ thống giáo dục ở trường trung học cơ sở, môn lịch sử có vai trò
quan trọng trong việc bồi dưỡng thế hệ trẻ về kiến thức văn hoá, tư tưởng chính
trị, phẩm chất đạo đức và năng lực hành động.
Lịch sử cũng như các môn học khác, có vai trò tác động đến con người
không chỉ về trí tuệ mà còn cả về tư tưởng tình cảm. Bên cạnh đó góp pần xây
dựng con người phát triển hoàn thiện về “ĐỨC- TRÍ- THỂ- MĨ” Ở những mức
độ khác nhau. Nếu văn học giúp học sinh thấy được cái hay, cái đẹp trong thơ ca
để càng yêu quý hơn con người, dân tộc Việt Nam thì thông qua môn học lịch
sử các em không chỉ thấy được quá trình phát triển của một đất nước, một dân
tộc mà rộng hơn là cả một xã hội loài người , bên cạnh đó nó góp phần quan
trọng trong việc hình thành bồi dưỡng nhân sinh quan, thế giới quan khoa học.
Như vậy so với các môn học khác thì môn lịch sử có nhiều ưu thế trong
việc giáo dục tư tưởng tình cảm đối với thế hệ trẻ, những kiến thức lịch sử
không chỉ đơn thuần dạy cho các em biết yêu, ghét trong đấu tranh giai cấp, biết
yêu quý lao động, trân trọng cái đẹp mà còn góp phần định hình cho học sinh
cách ứng xử đúng đắn trong cuộc sống bởi “Bắt nguồn từ một sự thực là trong
khoa học lịch sử có những yếu tố nghệ thuật” (N.A.Erojheop).
Mặt dù có vai trò, chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục thế hệ
trẻ nhưng hiện nay việc dạy học lịch sử chưa hoàn thành tốt vai trò của mình
và một thực tế đáng buồn là học sinh không thích học môn lịch sử, xem nhẹ
môn lịch sử. Các em tiếp thu kiến thức một cách hời hợt, thiếu chính xác, thiếu
hệ thống vì đa phần các em cho rằng học lịch sư ûphải ghi nhớ quá nhiều sự
kiện khô khan, lịch sử là một môn học nghiên cứu về quá khứ mà quá khứ là
những cái đã qua không thể thay đổi nên chỉ học cho qua chứ không có gì để
vận dụng vào thực tế.
Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân gây nên song cơ bản không phải do
bản thân môn lịch sử mà do quan niệm, phương pháp dạy học chưa phù hợp,
chưa đáp ứng yêu cầu môn học đề ra. Giáo viên dạy lịch sử chưa phát huy được


thế mạnh của bộ môn, chưa chỉ cho các em xác định được đây là bộ môn khoa
học cần phải có sự học tập nghiên cứu nghiêm túc, chưa tái hiện được không khí
của lịch sử trong giờ học nên để học sinh rơi vào tình trạng thụ động, chưa phát
huy được tính tích cực của học sinh làm cho không khí học tập mệt mỏi, làm
cho giờ học trở nên khô khan nặng nề.
Vì vậy làm thế nào để tạo cho học sinh hứng thú học lịch sử, phát huy tích
cực xây dựng bài, kích thích sự tìm hiểu khám phá về kiến thức…Thiết nghĩ có
rất nhiều công trình nghiên cứu, nhiều ý kiến xoay quanh vấn đề trên, vậy trong
khuôn khổ bài viết nhỏ này chúng tôi xin trình bày một vài suy nghĩ trong việc
xây dựng hứng thú học tập lịch sử cho học sinh bằng cách vận dụng, lồng
ghép kiến thức văn học vào bài giảng.

PHẦN B. NỘI DUNG:
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:

Trong thực tế, giảng dạy lịch sử là môn học có kiến thức liên môn, song có lẽ
có mối quan hệ tác động qua lại mật thiết và bổ sung cho nhau nhiều nhất là mối
quan hệ giữa lịch sử và văn học. Trước hết lịch sử đề cập đến nhiều lĩnh vực
khác nhau của cuộc sống cho nên việc lồng ghép kiến thức văn học vào trong
giờ dạy lịch sử là điều không thể thiếu được. Nếu như văn học thường mô tả
những sự kiện bằng hình tượng thì lịch sử tái tạo lại quá khứ bằng những con
số , sự kiện cụ thể, điều đó đã tác động rất lớn đến nhận thức của học sinh. Đã
có không ít tác phẩm văn học từ bản thân nó là một tư liệu lịch sử như “HỊCH
TƯỚNG SĨ”; “CÁO BÌNH NGÔ”; HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ”… là
những minh chứng hùng hồn cho mối quan hệ tương đồng giữa lịch sử và văn
học.

II. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH:
Hiện nay trong các nhà trường có rất nhiều học sinh thích học môn lịch sử
nhưng bên cạnh đó cũng có không ít học sinh không thích học môn lịch sử, các

em coi học môn lịch sử quá khô khan , cứ nói đến lịch sử là cả một khoản thời
gian và sự kiện làm sao nhớ được và học không có cách nào khác là chỉ thuộc
lòng những gì mà thầy, cô cho ghi và cố nhớ đã tạo nên một sự áp đặt trong học
tập của các em. Do đó đã có tình trạng là sự kiện này gắn liền với thời gian kia
hay nhân vật nọ gắn liền với thời điểm kia, một giờ học lịch sử buồn bả, khô
khan, tinh thần học của học sinh rất ể oải. Vì thế với trọng trách là giáo viên dạy
môn lịch sử trong nhiều năm qua, bản thân chúng tôi được phân công dạy ở các
khối- lớp của bậc THCS đa õthấy tình hình thực tế như vậy nên chúng tôi thiết
nghĩ mình phải có nhiệm vụ là làm thế nào để học sinh có hứng thú học môn
lịch sử nhiều hơn.
III. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN:
1.Thực trạng:
Qua đặc điểm tình hình như vậy chúng tôi đã tiến hành khảo sát tìm hiểu về
phía học sinh.Cụ thể tôi đã phát câu hỏi đến tận học sinh để cho các em phát
biểu cảm nghĩ của mình thế nào.
Nội dung câu hỏi:
? Em có cảm nhận như thế nào khi học môn lịch sử?
Aùp dụng cho tất cả các lớp, khối:
6:
7
8
9
Với số lượng học sinh.
Khi tổng hợp thì có kết quả như sau :
+ % học sinh cho rằng Lịch sử là môn học bổ ích nhưng khô khan, thiếu
sinh động, quá nhiều mốc thời gian - khó nhớ.
+% học sinh thích học môn lịch sử.
Qua thực tế chúng tôi nhận thấy rằng sự mâu thuẩn giữa nhận thức là môn
học bổ ích cho kiến thức người học nhưng các em lại không thích học. Cụ thể
theo tỉ lệ phần trăm nêu trên.

Khi giảng dạy nội dung một bài học lịch sử người giáo viên không chỉ tập
trung khai thác đủ nội dung kiến thức của bài một cách rập khuôn theo SGK,
SGV hoặc sách hướng dẫn là thoả mãn với công việc mà đòi hỏi phải tìm tòi,
cập nhật thông tin vận dụng vào nội dung bài giảng một cách sinh động để lôi
cuốn học sinh vào bài học với một không khí nhẹ nhàng, thoải mái.
2. Nguyên nhân:
Trong thực tế không ít giáo viên đang còn quá rập khuôn trong bài giảng nên
dẫn đến sự khô khan và thiếu sinh động. Mặc khác, việc tích cực chủ động và
tìm tòi tài liệu Lịch sử ở học sinh còn hạn chế, các em chưa biết vận dụng mốc
thời điểm lịch sử với xu hướng chung, tình hình văn hoá xã hội.
Như vậy, về chủ quan mà nói trong thực tiễn giảng dạy , sự đầu tư tìm tòi
mọi nguồn tài liệu để phục vụ cho bài giảng của người giáo viên còn hạn chế và
thường cho rằng trách nhiệm môn nào thì đào sâu môn đó với tính chất nguyên
tắc chủ quan. Bởi thế khi dạy chỉ nghĩ làm sao nói và truyền tải hết nội dung, sự
kiện là coi như bài giảng đã hoàn chỉnh.
Nhưng xét về mặc khách quan thì:
Thứ nhất: Nguồn tài liệu kể cả bộ môn này cũng như bộ môn khác tài liệu
ở thư viện nhà trường còn rất hạn chế nên khi cần tài liệu để giảng dạy một bài
đạt chất lượng về mọi mặc là rất khó khăn.
Thứ hai: Tâm lý của học sinh ưa thích sự đơn giản, thích những gì dễ
nghe, dễ hiểu, dễ nhớ.
IV. GIẢI PHÁP:
Trong giảng dạy bộ môn lịch sử, người giáo viên đóng vai trò quan trọng
trong việc làm sống lại các sự kiện lịch sử. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào những
kiến thức trong SGK thì khó có thể tạo dựng lại không khí lịch sử cần thiết. Để
thu hút các em đi sâu tìm hiểu khám phá quá khứ của dân tộc tạo nên những
cảm xúc thực sự trước những sự kiện thì việc vận dụng kiến thức văn học vào
giảng dạy lịch sử là điều cần thiết góp phần làm cho bài giảng trở nên sinh động
và hấp dẫn , nâng cao hứng thú học tập của các em.
Chẳn hạn khi dạy bài “ Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân

pháp xâm lược kết thúc” (Lịch sử 9 phần II) sau khi khái quát về kết quả của
chiến dịch Điện Biên Phủ tôi đã trích dẫn thơ của Tố Hữu:
“… 56 ngày đêm khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn…”.
Không chỉ mô tả về khí thế của chiến dịch mà còn hướng cho học sinh đi
tìm hiểu nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc, tôi
nhận thấy rằng các em rất xúc động về những hình ảnh mà mình thu nhận được.
Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục tinh thần cảm phục đối với công
lao của các thế hệ đi trước cũng như góp phần nâng cao ý thức bảo vệ quê
hương đất nước trong nhận thức của các em.
Khi nói về ý nghĩa chiến thắng của Điện Biên Phủ tôi trích hai câu thơ:
“9 năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”
Cũng bằng phương pháp trên tôi áp dụng trong bài “Chiến thắng Chi
Lăng – Xương Giang” lịch sử 7. Khi giảng diễn biến trận Chi Lăng – Xương
Giang tôi trích dẫn trong bài “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi:
“… Ngày 18 trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế
Ngày 20 trận Mã Yên Liễu Thăng cụt đầu
Ngày 25 bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày 28 Thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn
… Xương Giang Bình Than máu trôi đỏ nước…
Bị ta chặn ở Lê Hoa quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vở mật…”
Không khí rất sôi nổi, thoải mái đầy hào hứng. Các em tỏ ra thích thú với
các sự kiện trong bài và có thái độ rõ ràng khi giáo viên nêu lên dẫn chứng tiêu
biểu.
Như vậy, tôi nhận thấy rằng sử dụng lồng ghép kiến thức văn học trong
giảng dạy lịch sử không những giúp các em nắm vững nội dung bài nhanh
chóng, nhớ lâu hơn mà còn góp phần củng cố thêm kiến thức văn học tạo điều
kiện cho học sinh hình thành phương pháp liên hệ trong quá trình học tập của

mình.
Không những chỉ gần gũi trong nội dung kiến thức lịch sử và văn học còn
có nhiều điểm tương đồng về phương pháp so sánh, miêu tả.
Dạy bài “Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945” (sử 9) tôi nhấn mạnh
khí thế bừng bừng như thác đổ của cuộc khởi nghĩa đang lan rộng ra khắp các
địa phương trong toàn quốc bằng một đoạn trích:
“ Đồng cỏ héo đã bùng lên lửa cháy
Nước non ơi hết thảy vùng lên
Bắc, Trung, Nam khắp ba miền
Toàn dân khởi nghĩa chính quyền về tay…”
Học sinh rất chú ý lắng nghe, khi được gọi lên nhận xét các em đã khái
quát được không khí trong cuộc khởi nghĩa khi liên tưởng đến những sự kiện
mình đang học bằng hình ảnh đồng thời còn giúp các em đánh giá đúng về vai
trò của quần chúng nhân dân những người làm nên lịch sử – Là động lực chính
đưa cách mạng đến thành công.
Khi dạy bài “ Cuộc kháng chiến từ 1858 – 1873” (sử 8) mô tả về hoàn
cảnh nước ta khi thực dân Pháp xâm lược, lên án trách nhiệm của nhà Nguyễn
và nêu cao tinh thần chiến đấu của nhân dân Nam Kỳ. Chúng tôi trích dẫn thơ
của Nguyễn Đình Chiểu bài “ Chạy tây” và bài “Văn Tế Nghĩa Sỹ Cần
Giuộc”:
“ Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi, trong
tay cầm một ngọn tầm vông chư nài, sắm dao tu nón gõ
Hoả mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong nhà dạy đạo kia, gươm
đeo dùng bằng lưỡi dao phay chém rớt đầu quan hai nọ…”
Học sinh có ngay những hình dung về phong trào đấu tranh của nhân dân
ta lúc bấy giờ.
Chẳng hạn khi dạy bài “Phong trào kháng Pháp trong những năm cuối
thế kỷ XIX” (sử 8) ta có thể đặt câu hỏi: Trong văn học các em thấy có tác
phẩm nào đề cập đến bối cảnh đất nước giai đoạn này? Bằng các ý trả lời của
học sinh chúng ta đi vào khái quát tình hình đất nước trên cơ sở các kiến thức

lịch sử đã học.
Nhìn chung có rất nhiều kiến thức để vận dụng kiến thức văn học trong
giảng dạy lịch sử. Ta có thể đưa vào bài giảng một câu thơ, một đoạn văn hay
một trích đoạn để cụ thể hoá vấn đề, sự kiện nhằm nêu ra một kết luận khái quát
giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn. Cũng có thể giáo viên chỉ cần liên hệ qua một
câu hỏi (có thể ở đầu, giữa hoặc cuối bài) tạo tính liên hệ qua một tác phẩm văn
học với một sự kiện lịch sử để gây hứng thú học tập.
*Kết quả đạt được:
Sau khi tiến hành đưa ra giải pháp hỗ trợ để giúp học sinh hứng thú với môn
lịch sử hơn, chúng tôi nhìn thấy sự nhận thức của các em về môn lịch sử có sự
chuyển biến rõ rệt. Để nắm bắt tình hình sau khi đã thực hiện giải pháp chúng
tôi tiến hành điều tra lấy ý kiến đối với những đối tượng học sinh ban đầu và
kết quả đạt được như sau:
+ % học sinh thích học môn lịch sử,cho rằng lịch sử là môn học bổ ích, các em
cảm thấy thích học và yêu môn lịch sử.
+ % học sinh cho rằng Lịch sử là môn học bổ ích nhưng khô
khan, thiếu sinh động, quá nhiều mốc thời gian - khó nhớ.
PHẦN C: KẾT LUẬN:
Như vậy việc tạo hứng thú học tập là điều kiện cần thiết để tiến hành giáo
dục và giáo dưỡng có hiệu quả, hình thành thế giới quan khoa học đối với học
sinh điều này cần được tiến hành trên tất cả các mặt nội dung, phương pháp,
điều kiện học tập… Ngoài việc sử dụng các phương tiện trực quan khi đưa kiến
thức văn học lồng ghép trong bài dạy có tác động rất tốt đến sự chú ý của các
em. Trước hết việc sử dụng ngôn ngữ mượt mà, những giai điệu âm thanh giàu
tính hình tượng có biểu cảm, những hình tượng nghệ thuật gắn liền nội dung
lịch sử không những giảm đi tính khô khan của các sự kiện mà còn tạo ra không
khí nhẹ nhàng trong tiết học giúp học sinh dễ nhớ và nhớ lâu hơn kiến thức mà
mình thu nhận được. Để nâng cao hiệu quả sử dụng kiến thức văn học trong
giảng dạy lịch sử phải vận dụng một cách khéo léo có chọn lựa những chi tiết
sao cho phù hợp với mục đích yêu cầu của bài giảng và tính chất của từng sự

kiện, hiện tượng lịch sử. Kết hợp kiến thức của môn lịch sử với môn ngữ văn để
xây dựng lên một bức tranh sinh động về những sự kiện, những nhân vật của
thời đại trong một bối cảnh xã hội cụ thể phải đảm bảo cho được hai yếu tố cơ
bản: Giá trị giáo dục – giáo dưỡng và phù hợp với trình độ, nhận thức của học
sinh. Sử dụng những chi tiết dù nhỏ trong văn học như một câu thơ, một đoạn
văn ngắn đúng lúc, đúng chổ thì nó sẽ trở thành chất xúc tác trong việc khơi dậy
hứng thú, say mê học tập của các em. Tuy nhiên không nên quá lạm dụng kiến
thức văn học bởi lạm dụng quá kiến thức văn học sẽ biến giờ học sử thành giờ
học văn, xa rời mục đích cũng như đặc trưng riêng của bộ môn.
Tuy nhiên việc vận dụng các kiến thức văn học vào dạy học lịch sử ngoài
những ưu điểm và thuận lợi như nêu trên thì thường gặp khó khăn trong các loạt
bài về văn hoá – xã hội. Cái khó ở đây là học sinh đã nắm được vấn đề qua môn
văn nên tỏ ra thờ ơ, làm sao kéo được học sinh vào không khí lịch sử và chỉ cho
các em thấy được sự khác biệt giữa kiến thức văn học và kiến thức lịch sử. Bằng
cách sử dụng câu hỏi liên hệ đã phần nào khắc phục được tình trạng trên .

×