Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
……………………………
NGUYỄN ANH CHỈNH
BIỆN PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Thái Nguyên – Năm 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
……………………………
NGUYỄN ANH CHỈNH
BIỆN PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Chuyên ngành : Quản lý Giáo dục
Mã số : 60.14.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học
TS. DƯƠNG THỊ DIỆU HOA
Thái Nguyên – Năm 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong
Khoa sau đại học, các thầy cô giáo trong và ngoài trường đại học Sư phạm
Thái Nguyên trực tiếp giảng dạy lớp Cao học Quản lý giáo dục khoá K17 đã
giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Đặc biệt, em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo hướng
dẫn - Tiến sĩ Dương Thị Diệu Hoa - đã dành nhiều thời gian, tận tình chỉ
bảo, giúp đỡ em trong suốt quá trình làm luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn các đồng chí hiệu trưởng, giáo viên các trường
THPT trong thị xã Từ Sơn, hội CMHS và học sinh trên địa bàn thị xã Từ Sơn
đã nhiệt tình giúp đỡ, cộng tác, cung cấp số liệu, đóng góp ý kiến, tạo điều
kiện thuận lợi cho tác giả trong quá trình nghiên cứu thực tế để luận văn
được hoàn thiện.
Mặc dù đã cố gắng song chắc chắn luận văn không tránh khỏi những
thiếu sót, rất mong được sự thông cảm và góp ý kiến của các thầy cô giáo,
các bạn đồng nghiệp và những người quan tâm tới những vấn đề được trình
bày trong luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn.
Tác giả luận văn
Nguyễn Anh Chỉnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
CÁC TỪ VIẾT TẮT
BGH : Ban giám hiệu
BTĐTN : Bí thư đoàn thanh niên
BTT : Ban thường trực
CMHS : Cha mẹ học sinh
CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
GDĐĐ : Giáo dục đạo đức
GDHS : Giáo dục học sinh
GD & ĐT : Giáo dục và đào tạo
GVBM : Giáo viên bộ môn
GVCN : Giáo vên chủ nhiệm
HĐCN : Hội đồng chủ nhiệm
HĐGD : Hoạt động giáo dục
HĐGDNGLL : Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
HĐND : Hội đồng nhân dân
HĐSP : Hội đồng sư phạm
HĐTT : Hoạt động tập thể
NXB : Nhà xuất bản
QLGD : Quản lý giáo dục
TDTT : Thể dục thể thao
THPT : Trung học phổ thông
TNCSHCM : Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
TNXH : Tệ nạn xã hội
UBND : Uỷ ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
XHH : Xã hội hoá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC Trang
Mở đầu: 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 3
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 3
4. Giả thuyết khoa học 3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài 4
7. Phương pháp nghiên cứu 4
Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
GVCN TRONG QUÁ TRÌNH GDĐĐ CHO HỌC SINH 6
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề 6
1.2. Một số khái niệm công cụ nghiên cứu của đề tài 8
1.3. Vai trò, vị trí của GDĐĐ đối với sự phát triển nhân cách học sinh THPT 17
1.4. Vai trò của hiệu trưởng trong công tác quản lý bồi dưỡng đội ngũ
GVCN làm công tác GDĐĐ cho học sinh 20
1.5. Những yếu tố ảnh hưởng tới công tác quản lý GVCN làm công tác
GDĐĐ cho học sinh THPT 26
Chương 2 : THỰC TRẠNG CÁC BIỆN PHÁP PHÁT HUY VAI CỦA
GVCN TRONG QUÁ TRÌNH GDĐĐ CHO HỌC SINH THPT 35
2.1. Đặc điểm tình hình của các nhà trường THPT trong thị xã Từ Sơn, tỉnh
Bắc Ninh 35
2.2. Thực trạng công tác GDĐĐ cho học sinh ở các trường THPT trong thị
xã Từ Sơn ( Bắc Ninh) 43
2.3. Thực trạng các biện pháp phát huy vai trò của GVCN trong quá trình
GDĐĐ cho học sinh ở các trường THPT thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh 56
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2.4. Những nguyên nhân và tồn tại cần khắc phục 61
Chương 3 : MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GVCN
TRONG QUÁ TRÌNH GDĐĐ CHO HỌC SINH THPT 67
3.1. Nguyên tắc đề xuất các biện pháp phát huy vai trò của GVCN trong quá
trình GDĐĐ cho học sinh THPT 67
3.2. Các biện pháp 68
3.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp 97
3.4. Khảo nghiệm tính cần thiết và khả thi của các biện pháp đề xuất 98
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO 109
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong mọi xã hội, đạo đức được xem là cốt lõi, là thước đo giá trị con
người. Nhờ có những chuẩn mực đạo đức mà con người có thể hoàn thiện mình,
vươn tới cái đẹp và cùng nhau tiến bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi “Đức” là yếu
tố không thể thiếu trong một con người đó là cần, kệm, liêm, chính. Người quan
niệm : “ Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương : Đông,
Tây, Nam, Bắc. Người có bốn đức : Cần, kiệm, liêm, chính.Thiếu một mùa thì
không thành trời. Thiếu một phương thì không thành đất. Thiếu một đức thì
không thành người” [17, tr. 80].
Trong bối cảnh của xã hội ta hiện nay, với nền kinh tế thị trường đang phát
triển mạnh, với xu thế toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế thì vấn đề GDĐĐ lại càng
trở nên quan trọng và cần thiết hơn trong việc đào tạo nhân lực phục vụ cho sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước. Thế hệ trẻ hiện nay có nhiều điểm ưu việt là thông
minh, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm. Tuy nhiên hiện nay có một bộ
phận học sinh, sinh viên đang có tình trạng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý
tưởng theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp Và vấn đề
đạo đức của thế hệ trẻ đang trở thành mối quan tâm chung của toàn xã hội.
Trong các nhà trường phổ thông, việc giáo dục đạo đức cho học sinh là một
trong những nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược vô vùng quan trọng. Trước yêu cầu
của cuộc sống, của xã hội, nhiệm vụ đặt ra cho những người chiến sĩ trên lĩnh vực
mặt trận văn hoá là phải đào tạo thế hệ trẻ vừa có tài, vừa có đức, có đủ khả năng
tham gia vào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã
từng căn dặn : “ Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ thông mà phải
có đạo đức cách mạng. Có tài phải có đức. Có tài mà không có đức, tham ô hủ
hoá có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không
giúp ích gì được ai”[17, tr. 145].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Việc GDĐĐ cho học sinh ở trường THPT đòi hỏi sự phối kết hợp các thành
phần trong đó vai trò của đội ngũ GVCN là chủ đạo. Người GVCN ở trường
THPT có một vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho
học sinh. Ngoài việc làm gương cho học sinh noi theo, người GVCN còn là người
chăm sóc và nuôi dưỡng tâm hồn các em, giúp đỡ từng học sinh tiến bộ, đưa tập
thể lớp thành trở thành tập thể đoàn kết, tiên tiến về mọi hoạt động. Với nhà
trường, GVCN là người thay mặt hiệu trưởng thực hiện mọi chủ trương, chính
sách, kế hoạch giáo dục. Với học sinh, GVCN là người bảo vệ chính đáng nghĩa
vụ và quyền lợi trực tiếp của học sinh lớp mình chủ nhiệm. Có thể coi người
GVCN như “ một hiệu trưởng nhỏ” trong tập thể lớp mình phụ trách. Để hoàn
thành tốt những chức năng trên đòi hỏi người GVCN phải có trình độ, chuyên
môn nghiệp vụ về công tác chủ nhiệm, hiểu rõ tầm quan trọng và nhiệm vụ
GDĐĐ cho học sinh. Mặt khác trong công tác quản lý, ngoài việc mọi thành viên
trong trường hiểu rõ mục tiêu cần làm thì việc bồi dưỡng, đào tạo nhân viên một
cách thường xuyên, cung cấp công cụ cho họ làm việc tốt là hết sức cần thiết.
1.2. Thực tế hiện nay ở các trường phổ thông nói chung và các trường
THPT nói riêng, việc GDĐĐ cho học sinh còn nhiều hạn chế và không đồng đều
ở các trường. Đội ngũ GVCN còn nhiều hạn chế về nhận thức, về phương pháp
giáo dục, ảnh hưởng tới hiệu quả GDĐĐ cho học sinh. Bên cạnh một số GVCN
có tâm huyết, yêu nghề, mến trẻ, có trình độ tổ chức và quản lý lớp, còn rất nhiều
GVCN do những nguyên nhân khác nhau như : Tuổi cao, ngại đổi mới, không
yêu trẻ, thiếu kinh nghiệm tổ chức quản lý lớp đã ảnh hưởng không nhỏ tới kết
quả giáo dục học sinh. Một số giáo viên rất tâm huyết với nghề song do hạn chế
về phương pháp, thiếu kinh nghiệm, thiếu nghiệp vụ sư phạm nên đôi khi họ bị
thất bại và nản chí. Mặt khác đội ngũ quản lý ở các nhà trường do hạn chế về
nhận thức, hạn chế về trình độ quản lý, coi thường công tác chủ nhiệm, thiếu quan
tâm tới đội ngũ GVCN, chỉ đạo hời hợt, thiếu đồng bộ, thiếu khoa học nên dẫn
đến GVCN làm việc tuỳ tiện, kém nhiệt tình, thiếu trácnh nhiệm. Thực tế này làm
ảnh hưởng không nhỏ tới việc GDĐĐ cho học sinh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Vì vậy, việc tìm ra những biện pháp tổ chức, quản lý công tác chủ nhiệm
nhằm phát huy vai trò của đội ngũ GVCN trong công tác giáo dục học sinh là hết
sức cần thiết và quan trọng. Từ những căn cứ khoa học và thực trạng đã nêu, tôi
chọn đề tài nghiên cứu: “Biện pháp phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm
trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp của mình với mong muốn được góp một phần nhỏ bé vào việc
GDĐĐ cho học sinh ở các trường THPT.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất những biện pháp quản lý, bồi dưỡng của hiệu trưởng đối với đội
ngũ GVCN nhằm phát huy khả năng, vai trò của đội ngũ GVCN trong quá trình
GDĐĐ cho học sinh THPT.
3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Công tác tổ chức, quản lý, bồi dưỡng của người hiệu trưởng trường THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong quá trình giáo
dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông.
4. Giả thuyết khoa học
Hiện nay việc quản lý đội ngũ GVCN làm công tác GDĐĐ cho học sinh ở
các trường THPT thuộc thị xã Từ Sơn (Bắc Ninh) còn có những hạn chế do những
nguyên nhân chủ quan và khách quan. Nếu người hiệu trưởng các trường THPT ở
thị xã Từ Sơn (Bắc Ninh) có những biện pháp quản lý đội ngũ GVCN làm công
tác GDĐĐ cho học sinh thường xuyên, khoa học thì sẽ nâng cao được chất lượng
giáo dục toàn diện trong nhà trường.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hoá những vấn đề lý luận làm cơ sở nghiên cứu của đề tài.
5.2. Điều tra, đánh giá thực trạng công tác quản lý bồi dưỡng của hiệu trưởng đối
với đội ngũ GVCN làm công tác GDĐĐ cho học sinh trong các trường THPT.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
5.3. Đề xuất những biện pháp quản lý bồi dưỡng của hiệu trưởng đối với đội ngũ
GVCN nhằm nâng cao hiệu quả công tác GDĐĐ cho học sinh.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong đề tài này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu đề xuất các biện pháp
phát huy vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong quá trình giáo dục đạo đức cho
học sinh trung học phổ thông ở các trường THPT trong địa bàn thị xã Từ Sơn,
tỉnh Bắc Ninh.
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu đội ngũ hiệu trưởng, giáo viên chủ nhiệm ở
các trường THPT trong địa bàn thị xã Từ Sơn. Cụ thể như sau :
Hiệu trưởng : 04 người.
Giáo viên chủ nhiệm : 50 người. Học sinh : 60 em.
Các trường THPT là : Nguyễn Văn Cừ, Lý Thái Tổ, Ngô Gia Tự, Từ Sơn
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
Nghiên cứu những tài liệu khoa học có liên quan đến vấn đề biện pháp
quản lý của iệu trưởng nhằm phát huy vai trò của đội ngũ giáo viên chủ nhiệm
trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh…
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi : Dùng phiếu điều tra để khảo sát
đội ngũ hiệu trưởng, giáo viên chủ nhiệm và học sinh ở các trường THPT ở thị xã
Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
- Phương pháp chuyên gia : Lấy ý kiến chuyên gia về những vấn đề liên
quan đến đề tài.
- Phương pháp toạ đàm : Trò chuyện với đồng nghiệp, với các học sinh ở
các trường THPT thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, với các chuyên gia nhằm
tìm hiểu sâu hơn những vấn đề nghiên cứu, định tính nội dung nghiên cứu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm : Xem sổ chủ nhiệm, kế hoạch của
giáo viên chủ nhiệm…
7.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học:
Sử dụng các công thức tính tương quan, trung bình cộng, tần xuất…để xử
lý các số liệu thu được.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GVCN TRONG
QUÁ TRÌNH GDĐĐ CHO HỌC SINH
1.1. Sơ lƣợc lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Đạo đức là một hiện tượng xã hội - một hình thái ý thức đặc biệt phản ánh
các mối quan hệ xã hội bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực, định hướng giá trị
được xã hội thừa nhận, có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của con người
trong quan hệ với người khác và toàn xã hội.
Khổng tử ( 551 - 479 TCN) nhà tư tưởng, nhà chính trị, nhà giáo dục nổi
tiếng, người sáng lập phái Nho giáo của Trung Hoa cổ đại đã đặc biệt quan tâm
tới vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho con người. Ông mong muốn lập lại
trật tự, kỉ cương xã hội, đem lại một xã hội thành bình, thịnh trị, quốc thái, dân an
bằng con đường lấy đức để trị, lấy nhân làm gốc. Theo Ông, con người phải theo
lô gích hệ thống : Từ gia đình đến xã hội, từ vi mô đến vĩ mô nghĩa là tu thân, tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ. Con người phải được giáo dục những phẩm chất cơ
bản như : Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Trong đó “ Nhân là gốc” là phẩm chất đạo đức
đứng đầu trong tất cả các đức làm người. Theo Khổng Tử nhân là : “Điều gì mình
không muốn thì đừng làm cho người. Điều gì mình muốn đạt thì đạt cho người.
Điều gì mình muốn lập thì lập cho người” ( Kỉ sở bất dục - Vật thi ư nhân. Kỉ sở
dục đạt nhi đạt nhân. Kỉ sở dục lập nhi lập nhân) [8] .
Cômenxki ( 1592 - 1670 ) nhà sư phạm lỗi lạc, một nhà giáo dục nổi tiếng
phương Tây thế kỉ XVII, ông tổ của nền sư phạm cận đại cho rằng con người là
một tác phẩm hoàn thiện nhất, đẹp đẽ nhất của thiên nhiên, là tiểu vũ trụ và phải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
giáo dục con người để tạo ra nhân đạo, chế tạo ra hạnh phúc, chế tạo ra con người
chân chính. Những quy tắc trong ứng xử, trong sinh hoạt đối với mọi người, trong
cách nói năng và im lặng chính là những giá trị đạo đức mà ông muốn mọi người
đều phải đạt được. Theo ông phải giáo dục con người có “ Trái tim ngự trị cái
thiện”, việc trau dồi đức hạnh phải được bắt đầu từ tuổi ấu thơ, trước khi tâm hồn
bị hoen ố.
Hồ Chí Minh ( 1890 - 1969 ) - Lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của cách
mạng Việt Nam, danh nhân văn hoá thế giới đã đi xa nhưng để lại cho dân tộc ta
một di sản vô giá, đó là tư tưởng của người, trong đó có tư tưởng về đạo đức. Bản
thân Chủ Tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về đạo đức. Người coi
đạo đức là gốc của người cách mạng, là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con
người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối “ Cũng như sông thì có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc
thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân” [ 17, tr. 11].
Nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức đã có nhiều tác giả với những tác
phẩm nổi tiếng. Có thể điểm qua một số tác phẩm tiêu biểu:
Tác giả Đặng Vũ Hoạt – Hà Thế Ngữ đã đề cập tới vai trò, vị trí và ý nghĩa
quan trọng của việc GDĐĐ cho học sinh [14].
Phạm Khắc Chương với tác phẩm “ Chỉ nam nhân cách học trò” NXBTN -
Hà Nội ( 1998 ) đã nêu những phẩm chất tốt đẹp trong nhân cách một con người
và những điều cần bồi dưỡng, rèn luyện nhân cách [3].
Tác giả Phạm Khắc Chương trong tác phẩm “Đạo đức học” ( 2000) đã nêu
lên các phạm trù cơ bản của đạo đức, học tập và tu dưỡng đạo đức cách mạng của
Chủ Tịch Hồ Chí Minh và đặc biệt đã nêu lên phương pháp giảng dạy và giáo dục
đạo đức cho học sinh trong nhà trường phổ thông [5].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Tác giả Lê Văn Hồng đã nêu rất rõ về cấu trúc hành vi đạo đức và việc giáo
dục đạo đức cho học sinh ở THCS và THPT [12].
Về bồi dưỡng phương pháp cho đội ngũ GVCN lớp, tác giả Hà Nhật Thăng
trong tác phẩm “ Công tác GVCN ở lớp, ở trường phổ thông” nêu lên chức năng,
nhiệm vụ của người GVCN lớp, các nội dung của công tác chủ nhiệm lớp và
hướng dẫn thực hiện một số nội dung của công tác chủ nhiệm lớp. Các tác giả Hà
Nhật Thăng ( Chủ biên), Nguyễn Dục Quang, Lê Thanh Sử, Nguyễn Thị Kỷ với
giáo trình “Hoạt động ở trường THPT” đã nêu nhiều vấn đề về giáo viên chủ
nhiệm, đặc biệt nhấn mạnh phương pháp công tác của GVCN lớp.
Trong giáo trình “ Thực hành tổ chức hoạt động giáo dục” tác giả Hà Nhật
Thăng đã nêu lên sự cần thiết tổ chức các hoạt động GD, hệ thống kĩ năng tổ chức
HĐGD và đặc biệt nêu lên phương pháp tổ chức HĐGD của GVCN lớp.
Như vậy, các vấn đề GDĐĐ và phương pháp GDĐĐ cho học sinh của đội
ngũ GVCN, hệ thống các phương pháp tổ chức thực hành các hoạt động của
GVCN đã có nhiều công trình, nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên vấn
đề quản lý, bồi dưỡng đội ngũ GVCN làm công tác GDĐĐ cho học sinh nhằm
thúc đẩy và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong các nhà trường trung
học phổ thông thị xã Từ Sơn (Bắc Ninh) chưa có công trình nào đề cập đến.
1.2. Một số khái niệm công cụ nghiên cứu của đề tài.
1.2.1. Đạo đức và giáo dục đạo đức.
1.2.1.1. Khái niệm về đạo đức và hành vi đạo đức
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về đạo đức. Theo tác giả Phạm Khắc
Chương : “Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội mà
nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi, hoạt động của mình sao cho phù hợp
với lợi ích, hạnh phúc và tiến bộ chung của xã hội, trong mối quan hệ giữa con
người với con người, giữa cá nhân với xã hội”. [4, tr. 6].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Ông quan niệm, “Đạo đức là hệ thống những quy tắc chuẩn mực biểu hiện
sự tự giác trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cộng
đồng xã hội, với tự nhiên và với cả bản thân mình” [4, tr. 6]
Theo tác giả Lê Văn Hồng, “Đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu
hiện thái độ đánh giá quan hệ giữa lợi ích của bản thân với lợi ích của người khác
và của xã hội”. [12, tr. 156].
Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ, đạo đức nảy sinh từ nhu cầu của xã
hội điều hoà và hệ thống nhất chung ( của tập thể, của xã hội) và lợi ích riêng (của
cá nhân), nhằm bảo đảm trật tự xã hội và khả năng phát triển xã hội và cá nhân.
Để giải quyết các mâu thuẫn đó, một trong những phương thức của xã hội là đề ra
các yêu cầu dưới dạng những chuẩn mực giá trị, được mọi người công nhận và
được củng cố bằng sức mạnh của phong tục, tập quán, dư luận, lương tâm [13].
Tác giả Phạm Minh Hạc quan niệm, “Đạo đức theo nghĩa hẹp là luận lý,
những quy định, những chuẩn mực ứng xử trong quan hệ của con người. Nhưng
trong điều kiện hiện nay, chính quan hệ của con người cũng đã mở rộng và đạo
đức bao gồm những quy định, những chuẩn mực ứng xử của con người với con
người, với công việc, với bản thân kể cả với thiên nhiên và môi trường sống”[11].
Như vậy, đạo đức là những quy tắc, những chuẩn mực trong quan hệ xã
hội, được hình thành và tồn tại phát triển trong cuộc sống, được con người trong
xã hội thừa nhận và tự giác thực hiện. Đạo đức là một hình thái kinh tế xã hội,
mỗi hình thái kinh tế xã hội hay mỗi giai đoạn lịch sử đều có những nguyên tắc,
chuẩn mực đạo đức tương ứng. Đạo đức có tính giai cấp, tính dân tộc và tính thời
đại, vì thế có những giá trị đạo đức phù hợp với chế độ này nhưng lại không phù
hợp với chế độ khác.
Trong quá trình sống, con người nhờ lĩnh hội được các phạm trù đạo đức cơ
bản mà nhận thức được đầy đủ, toàn diện bộ mặt đạo đức của xã hội và soi chiếu
đánh giá cho từng cá nhân và cho chính bản thân mình. Và đạo đức trong xã hội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
hiện nay không chỉ đơn giản là mối quan hệ giữa con người với con người mà nó
còn thể hiện với 5 thành tố:
- Với bản thân.
- Với người khác : Từ nhỏ đến rộng ( quốc tế).
- Với công việc.
- Môi sinh ( tự nhiên và văn hoá xã hội).
- Lý tưởng của dân tộc.
Cấu trúc tâm lý của hành vi đạo đức bao gồm:
- Tri thức và niềm tin đạo đức.
- Động cơ và tình cảm đạo đức.
- Thiện chí và thói quen đạo đức.
Các yếu tố tâm lý nói trên có mối liên quan mật thiết với nhau. Tri thức đạo
đức soi sáng con đường dẫn đến mục đích của hành vi đạo đức. Tình cảm đạo
đức, thiện chí, niềm tin đạo đức là yếu tố phát động mọi sức mạnh vật chất và tinh
thần của con người để thực hiện hành vi đạo đức. Thiện chí là điều kiện đảm bảo
cho con người có hành vi đạo đức nhưng đòi hỏi phải có tri thức đạo đức. Giữa ý
thức đạo đức và hành vi đạo đức còn có một khoảng cách do vậy nhà giáo dục có
trách nhiệm nối liền khoảng cách đó, làm cho ý thức đạo đức và hành vi đạo đức
của học sinh có sự thống nhất cao độ, từ ý thức đạo đức đến hành vi đạo đức và
tạo thành thói quen đạo đức. Như vậy giáo dục đạo đức là hình thành những phẩm
chất đạo đức cho học sinh, là tạo ra ở chúng một cách đồng bộ những yếu tố tâm
lý nói trên. Và để làm được điều đó các nhà giáo dục phải tổ chức các hoạt động
để học sinh tham gia và trong quá trình tham gia các hoạt động, những hành vi
đạo đức và thói quen đạo đức được hình thành [12].
Đạo đức có mối quan hệ với các hình thái ý thức xã hội như : chính trị,
pháp luật, khoa học, tôn giáo. Đạo đức và pháp luật có mối quan hệ khăng khít
với nhau. Tác giả Phạm Khắc Chương cho rằng : “ Pháp luật chỉ là đạo đức tối
thiểu còn đạo đức mới là pháp luật tối đa”. [5, tr. 21]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Theo quan niệm trên thì yêu cầu tối thiểu của pháp luật là không được làm
hại ai cả. Yêu cầu tối đa của đạo đức không chỉ dừng lại là “ không làm hại ai cả”
mà còn cao hơn là tự nguyện, hết lòng giúp đỡ mọi người, tích cực làm điều thiện,
đem lại lợi ích cho người khác.
Trong nền kinh tế thị trường đầy biến động và phát triển như hiện nay, các
giá trị đạo đức phải là sự kết hợp sâu sắc truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc
với xu hướng tiến bộ của nhân loại, của thời đại. Đó là tinh thần cần cù lao động,
sáng tạo, là tình yêu quê hương đất nước gắn liền với chủ nghĩa xã hội, sống và
làm việc theo hiến pháp và pháp luật, có nếp sống văn minh, lành mạnh, có tinh
thần nhân đạo và tinh thần quốc tế cao cả. Trước nhu cầu mới của xã hội ngày nay
đòi hỏi phải đào tạo những con người có đủ tài và đức để có thể gánh vác được
trọng trách của đất nước giao phó, thực hiện tốt sự nghiệp CNH, HĐH đất nước,
đưa nước ta ngày càng tiến kịp các nước tiên tiến trên thế giới.
1.2.1.2. Giáo dục đạo đức:
Giáo dục theo nghĩa rộng là lĩnh vực hoạt động của xã hội nhằm truyền đạt
những kinh nghiệm lịch sử xã hội đã được tinh chế, chiết xuất cho thế hệ trẻ trở
thành lực lượng tiếp nối sự phát triển xã hội, kế thừa và phát triển nền văn hoá của
loài người và dân tộc.
Giáo dục hiểu theo nghĩa hẹp đó là giáo dục nhà trường, gia đình, xã hội có
tổ chức, có kế hoạch nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng, hình thành thái độ hành
vi của học sinh, xây dựng và phát triển hoàn thiện nhân cách theo mục tiêu giáo
dục hoá xã hội đề ra. Các hoạt động giáo dục trong nhà trường tác động đến hệ
thống các phẩm chất nhân cách của học sinh như : đạo đức, thế giới quan, niềm
tin, nhu cầu thói quen cho học sinh, biến những đòi hỏi bên ngoài xã hội thành
những đòi hỏi bên trong đối với mỗi cá nhân đối tượng được giáo dục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường phổ thông hiện nay là một
trong những nhiệm vụ quan trọng mang tính chất chiến lược vì: “ Bồi dưỡng thế
hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” [17, tr. 261].
Trong các nhà trường “ Dạy cũng như học, phải biết chú trọng cả tài lẫn
đức. Đức là đạo đức cách mạng, là cái gốc rất quan trọng” [17, tr. 235].
Đảng ta luôn đề cao đạo đức cách mạng và việc giáo dục đạo đức cho quần
chúng nhân dân. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành TW Đảng khoá
VIII về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc đã nêu “ Phải đẩy mạnh việc giáo dục tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh
trong toàn đảng, toàn dân. Văn hoá đạo đức và lối sống lành mạnh phải được thể
hiện trước hết trong mọi tổ chức đảng, Nhà nước, đoàn thể, trong cán bộ, viên
chức nhà nước, trong từng đảng viên, hội viên ở các bậc cha mẹ, các thầy cô
giáo”.
Theo tác giả Đặng Thế Hoạt và Hà Thế Ngữ thì GDĐĐ là quá trình biến hệ
thống các chuẩn mực đạo đức, từ những đòi hỏi của bên ngoài xã hội đối với cá
nhân thành những đòi hỏi bên trong của bản thân, thành niềm tin, nhu cầu, thói
quen của người được giáo dục [14].
Nhân cách của con người được hình thành và phát triển chủ yếu ở 3 môi
trường : Gia đình, nhà trường và xã hội, trong đó nhà trường là nơi rèn luyện và
phát triển nhân cách chủ yếu. GDĐĐ cho học sinh là cung cấp cho học sinh
những tri thức đạo đức, giúp cho học sinh hiểu về đạo đức, về thái độ phải có, về
bổn phận và nhiệm vụ phải làm . Xét cho cùng thì một hành vi đạo đức cụ thể là
một nhân cách trọn vẹn thực hiện nó bao gồm cả tri thức đạo đức và niềm tin đạo
đức, tình cảm đạo đức lẫn thiện chí, nghị lực và cả thói quen đạo đức Do vậy có
thể nói chủ thể của hành vi đạo đức là toàn bộ nhân cách của một con người cụ
thể. Vì vậy GDĐĐ cho học sinh không thể hình thành một cách cô lập một phẩm
chất hay một thói quen nào đó mà phải giáo dục toàn bộ nhân cách thông qua tổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
chức hành vi đạo đức. Vì thế, chúng ta cần phải hiểu rõ cấu trúc tâm lý của hành
vi đạo đức và rèn luyện cho học sinh nhận thức theo trình tự các yếu tố tâm lý
trong cấu trúc hành vi đạo đức đó là : tri thức đạo đức, tình cảm đạo đức, niềm tin
đạo đức, động cơ đạo đức, thiện chí và thói quen đạo đức. Và để hình thành được
thói quen đạo đức thì phải bằng hoạt động, thông qua hoạt động. Phải tạo điều
kiện cho các em được tham gia vào các hoạt động tập thể, có như vậy các em mới
bộc lộ mình, có nhận thức đúng để sửa minh, và các thói quen tốt sẽ được lặp đi
lặp lại trở thành phẩm chất tốt đẹp trong các em. Như vậy GDĐĐ thực chất là
hình thành những phẩm chất đạo đức cho học sinh, là tạo ra cho chúng một cách
đồng bộ các yếu tố tâm lý nói trên.
Nhân dân Việt Nam vốn có truyền thống đạo đức tốt đẹp. Truyền thống đạo
đức của dân tộc ta bao gồm nhiều nội dung thuộc nhiều lĩnh vực của đời sống đạo
đức, có thể kể một số nội dung đó là:
- Cần cù lao động.
- Lòng yêu nước.
- Trọng nhân nghĩa.
- Trọng lễ độ.
- Trọng chữ tín.
- Cần, kiệm, liêm, chính.
GDĐĐ cho học sinh ở trường phổ thông trong thời kỳ hậu công nghiệp
hiện nay phải kết hợp giữa đạo đức truyền thống và đạo đức của thời đại làm sao
để có thể có những con người vừa có nét đẹp của truyền thống dân tộc vừa mang
tính hiện đại, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, có tinh thần vượt khó hoàn thành xuất
sắc mọi nhiệm vụ được giao, làm cho tâm hồn các em có yếu tố đạo đức rất dung
dị như lòng nhân ái, tinh thần tương thân tương ái, biết đồng cảm và giúp đỡ mọi
người. Điều đó vô cùng quan trọng. Rồi đây các em sẽ trở thành những người
trưởng thành, có thể quyết định mọi việc trong cuộc đời mình, các em sẽ trở thành
những công dân của đất nước Việt Nam có tinh thần yêu nước, phấn đấu suốt đời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
cho một nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Đối với ông bà, cha mẹ là một người con
có hiếu, có quan hệ tình bạn chân thành, yêu chung thuỷ, học tập tiến bộ không
ngừng, làm việc vì lợi ích của cá nhân, tập thể và cả cộng đồng
1.2.2. Giáo viên chủ nhiệm, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
GVCN là người quản lý, tổ chức, điều khiển, theo dõi, đánh giá học sinh
một lớp, thực hiện các yêu cầu của nhà trường nhằm đạt mục tiêu giáo dục. Có thể
nói GVCN như một “ Hiệu trưởng nhỏ”, thay mặt hiệu trưởng để giáo dục học
sinh một lớp học.
HĐGDNGLL là những hoạt động được tổ chức ngoài giờ học của các môn
học ở trên lớp. HĐGDNGLL là sự tiếp nối hoạt động dạy - học trên lớp, là con
đường gắn lí thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức và hành
động của học sinh.
1.2.3. Quản lý, quản lý giáo dục, bồi dưỡng giáo viên.
1.2.3.1. Quản lý:
Trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, để tồn tại và phát triển con người luôn
luôn chịu sự chỉ đạo, quản lý của một tổ chức nào đó. Cômenxki đã đề cao vai trò
quản lý trong đời sống của con người : “Thửa vườn chỉ xanh tốt khi được chăm
sóc của người làm vườn cần mẫn. Nghề thủ công được phát triển bằng tay của
người thợ tài hoa. Gia đình chỉ khá giả dưới sự điều khiển của người quản gia
giỏi. Đạo quân chỉ hùng mạnh dưới sự chỉ huy của một nhà quân sự có kinh
nghiệm. Quốc gia chỉ thịnh vượng dưới sự thống trị của một ông vua khôn ngoan”
[3] .
Với nhận định trên, ta thấy quản lý có một vai trò hết sức to lớn trong xã
hội. Người xưa quan niệm “một người hay lo bằng một kho người hay làm” là có
ý khẳng định tầm quan trọng, tác dụng to lớn của công tác quản lý trong đời sống
của con người. Cuộc sống của con người là đa dạng, phức tạp, do vậy nhận thức
của con người về quản lý cũng rất đa dạng, phong phú.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Có rất nhiều khái niệm về quản lý. Theo quan niệm truyền thống, quản lý là
quá trình tác động có ý thức vào một bộ máy bằng cách vạch mục tiêu cho bộ
máy, tìm kiếm biện pháp tác động vào bộ máy đạt tới mục tiêu đã xác định.
“ Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể
quản lý lên đối tượng quản lý về các mặt : Chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội
bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, nguyên tắc, các phương pháp và
các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của
đối tượng” [7, tr. 7].
Theo tác giả Bùi Văn Quân “ Quản lý là quá trình tiến hành những hoạt
động khai thác, lựa chọn, tổ chức và thực hiện các nguồn lực, các tác động của
chủ thể quản lý theo kế hoạch chủ động và phù hợp với quy luật khách quan để
gây ảnh hướng đến đối tượng quản lý nhằm tạo ra sự thay đổi hay tạo ra hiệu quả
cần thiết vì sự tồn tại ( duy trì), ổn định và phát triển của tổ chức trong môi trường
luôn biến động” [19, tr. 9].
Với quan niệm trên chúng ta thấy quản lý có các thành phần chủ yếu:
- Chủ thể quản lý.
- Đối tượng quản lý.
- Mục tiêu quản lý.
Ba thành phần này gắn bó chặt chẽ tạo nên hoạt động của bộ máy quản lý
có chức năng sau:
- Hoạch định ( lập kế hoạch).
- Tổ chức chỉ đạo thực hiện.
- Điều khiển, điều hành.
- Kiểm tra, đánh giá.
Theo Deming, quản lý gồm có những chức năng sau:
- Lâp kế hoạch ( plan).
- Tổ chức chỉ đạo thực hiện( Do).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
- Kiểm tra, kiểm soát (Check).
- Điều chỉnh (Action).
1.2.3.2. Quản lý giáo dục:
Giáo dục là một hiện tượng xã hội tồn tại lâu dài và QLGD cũng vậy. Giáo
dục và QLGD luôn tồn tại song hành với nhau. Giáo dục xuất hiện nhằm thực
hiện cơ chế truyền kinh nghiệm lịch sử - xã hội loài người, của thế hệ trước cho
thế hệ mai sau, và thế hệ sau có trách nhiệm thừa kế, phát triển nó làm cho xã hội
và bản thân con người phát triển không ngừng. Và để đạt được mục đích nói trên
thì không thể không có quản lý.
Cũng như khái niệm quản lý đã trình bày ở trên, khái niệm QLGD cũng có
nhiều quan điểm khác nhau. Khái niệm “ Quản lý giáo dục” có nhiều cấp độ : vĩ
mô, vi mô.
“ QLGD được hiểu là những tác động tự giác (có ý thức có mục đích, có kế
hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất cả các mắt xích của
hệ thống( từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục và nhà trường) nhằm thực hiện
có chất lượng và hịêu quả mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo thế hệ trẻ mà xã
hội đặt ra cho ngành giáo dục” [20, tr. 36].
Quản lý giáo dục là một dạng của quản lý xã hội vì thế nó có đầy đủ các
đặc điểm của quản lý nói chung và quản lý xã hội nói riêng.
Do tính đặc thù của QLGD mà những đặc điểm của QLGD có nội dung và
hình thái thể hiện khác biệt với các dạng quản lý xã hội khác.
Bốn yếu tố của QLGD là : chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, khách thể
quản lý và mục tiêu quản lý. Bốn yếu tố này có quan hệ tương tác gắn bó với
nhau.
+ Khách thể của QLGD tổng thể là hệ thống giáo dục quốc gia.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
+ Đối tượng của QLGD tổng thể là tất cả những thành tố của hệ thống giáo
dục như : nhân sự, chương trình giáo dục, hoạt động giáo dục, người học, nguồn
lực giáo dục
+ Mục tiêu của QLGD là phát triển các thành tố của hệ thống giáo dục trên
các mặt quy mô, cơ cấu và chất lượng của chúng.
+ Chủ thể của QLGD là Nhà nước từ trung ương tới địa phương và cơ
quan quản lý.
QLGD nói cụ thể chính là quản lý nhà trường. Chủ thể quản lý trực tiếp
của nhà trường đó là hiệu trưởng và giáo viên có nhiệm vụ trực tiếp vận hành hệ
thống giáo dục đi tới mục tiêu chung. Bản chất của quản lý trường học là quản lý
quá trình giáo dục theo nghĩa rộng( quá trình sư phạm tổng thể).
1.2.3.3. Bồi dưỡng giáo viên:
Là cung cấp, trang bị thêm cho đội ngũ giáo viên những kiến thức, kĩ năng
sư phạm để họ có đủ khả năng tiến hành hoạt động đem lại hiệu quả cao hơn. Bồi
dưỡng giáo viên chính là làm tăng thêm, làm phong phú thêm ở họ khả năng hoàn
thành nhiệm vụ với hiệu quả cao hơn.
1.2.4. Biện pháp, biện pháp quản lý.
1.2.4.1. Biện pháp:
Là cách thức, là con đường tác động đến đối tượng nhằm đạt mục tiêu của
chủ thể quản lý. Trong giáo dục người ta thường quan niệm biện pháp là yếu tố
hợp thành của phương pháp, phụ thuộc vào phương pháp. Trong từng tình huống
sư phạm cụ thể, phương pháp và biện pháp giáo dục cụ thể có thể chuyển hoá lẫn
nhau.
Điều này có nghĩa là, một phương pháp nào đó bao giờ cũng có thể và cần
được thực hiện bằng những hành động khác nhau của giáo viên và học sinh, theo
những cách thức khác nhau nhưng đều có chung một chức năng và một mục đích.
Mỗi hành động như vậy là một biện pháp giáo dục. Tuỳ theo từng tình huống cụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
thể trong quá trình giáo dục cụ thể mà việc sử dụng một phương pháp giáo dục
nào đó sẽ được nhà giáo dục tiến hành bằng cách thực hiện một hay nhiều biện
pháp khác nhau. Ví dụ : Phương pháp giáo dục học sinh chậm tiến có thể bằng
cách phê bình trước lớp nhưng có thể chọn cách gọi riêng nói chuyện, khuyên
nhủ
1.2.4.2. Biện pháp quản lý:
Là những cách thức cụ thể để thực hiện phương pháp quản lý. Vì đối tượng
quản lý phức tạp nên những biện pháp quản lý cũng rất đa dạng và linh hoạt. Các
biện pháp quản lý sẽ giúp cho nhà quản lý thực hiện tốt các phương pháp quản lý
của mình mang lại hiệu quả tốt cho bộ máy.
1.3. Vai trò, vị trí của GDĐĐ đối với sự phát triển nhân cách học sinh THPT.
1.3.1. Vai trò, vị trí của GDĐĐ ở THPT trước yêu cầu của xã hội đối với sự
phát triển nhân cách con người.
Trong các nhà trường, việc “dạy chữ” phải kết hợp với việc “ dạy người”.
Ngoài nhiệm vụ truyền đạt kiến thức người giáo viên còn phải có nhiệm vụ hình
thành và phát triển nhân cách cho học sinh, bồi dưỡng cho các em có những phẩm
chất đạo đức tốt.
Học sinh ở lứa tuổi THPT có những đặc điểm tâm sinh lý mang những nét
đặc thù riêng, do vậy giáo dục nhà trường đóng một vai trò quan trọng trong việc
hình thành và phát triển nhân cách cho các em. Đặc biệt trong cơ chế thị trường
như hiện nay, con người rất có thể sa ngã trước những cám dỗ của cuộc sống,
chạy theo đồng tiền và có thể làm những điều tàn nhẫn, bất lương Cho nên
chúng ta phải hướng các em theo những điều thiết thực. Các em cần phải được
tìm hiểu, nhận rõ đúng sai, phân biệt phải trái, từ đó có thái độ đúng với những
hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội.
Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đã đặt ra mục tiêu là đến hết năm 2020 đất
nước ta về cơ bản sẽ trở thành một nước công nghiệp. Và nhân tố quyết định