Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng vpbank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.22 KB, 105 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU 3
Danh mục sơ đồ 3
MỞ ĐẦU 1
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
VPBank
Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh Việt Nam
TCTD Tổ chức tín dụng
CBTD Cán bộ tín dụng
NHTM Ngân hàng thương mại
NHNN Ngân hàng nhà nước
DTBB Dự trữ bắt buộc
VND Việt Nam đồng
USD Đôla
EUR Đồng tiền chung Châu Âu
P. TH & PTSP Phòng Tổng hợp và phát triển sản phẩm
VPBS Công ty chứng khoán VPBank
AMC Công ty quản lý tài sản VPBank
HĐQT Hội đồng quản trị
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Danh mục sơ đồ
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU 3
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU 3
Danh mục sơ đồ 3
Danh mục sơ đồ 3
MỞ ĐẦU 1
MỞ ĐẦU 1
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế của các nước nói chung và các nước đang phát triển
nói riêng. Với Việt Nam trong những năm qua, sự phát triển vượt bậc của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ cả về số lượng và chất lượng đã góp phần quan
trọng vào mục tiêu tăng trưởng cũng như đóng góp không nhỏ vào ngân sách
nhà nước, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động; góp phần
đáng kể trong việc huy động nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế – xã hội.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất năng động và thích nghi nhanh chóng với sự
thay đổi về cung cầu trên thị trường, góp phần đa dạng hoá các hoạt động
kinh tế và đóng góp một tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất nhập khẩu của mỗi
quốc gia. Tại Việt nam, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang đóng góp khoảng
40% GDP của cả nước, thu hút khoảng 50% tổng số lao động trong doanh
nghiệp và chiếm 17,46% tổng nộp ngân sách, tham gia xuất khẩu với khối
lượng lớn, nhất là đối với thủy sản và may mặc … tạo nguồn thu ngoại tệ lớn
cho nền kinh tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối
với nền kinh tế đặc biệt là trong giai đoạn nền kinh tế nước ta đang hội
nhập ngày càng mạnh mẽ với nền kinh tế khu vực và thế giới. Đảng và Nhà
nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương chính sách cụ thể nhằm tạo môi trường
thông thoáng để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ như hỗ trợ về vốn,
về mặt bằng sản xuất, đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ, trình độ kỹ
thuật; xúc tiền mở rộng thị trường; tham gia kế hoạch mua sắm, cung ứng
dịch vụ công; thông tin và tư vấn; trợ giúp phát triển nguồn nhân lực… Với
sự vào cuộc quyết liệt của Chính phủ cùng với sự nỗ lực của chính các
1
doanh nghiệp vừa và nhỏ, các ngân hàng thương mại đã dần thay đổi định
kiến và tạo điều kiện hơn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận nguồn
vốn tín dụng của mình. Tuy nhiên, hầu hết các ngân hàng thương mại mới chỉ

quan tâm đến việc mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà
ít chú ý tới việc nâng cao chất lượng tín dụng với đối tượng khách hàng này.
Đặc biệt chất lượng tín dụng của các Ngân hàng thương mại bị giảm sút
nghiêm trọng trong giai đoạn vừa qua, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã gặp
rất nhiều khó khăn khi NHNN thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ và tín
dụng. Do đó, vấn đề đặt ra là, làm thế nào để nâng cao chất lượng tín dụng đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ là một yêu cầu bức xúc, là một định hướng
trong hoạt động của các ngân hàng thương mại hiện nay.
Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt
Nam (VPBank) là một trong những ngân hàng cổ phần đầu tiên tại Việt Nam
và là một trong những ngân hàng cổ phần có bước phát triển vượt bậc trong
thời gian qua dựa trên chiến lược đẩy mạnh hoạt động tín dụng tiêu dùng, tín
dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ và phát triển các dịch vụ ngân
hàng. Với định hướng phát triển lâu dài là trở thành ngân hàng bán lẻ hàng
đầu và nằm trong nhóm dẫn đầu trong hệ thống ngân hàng thương mại cổ
phần tại Việt nam, VPBank luôn đặt sự quan tâm hàng đầu đến chất lượng tín
dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Là một cán bộ của Ngân hàng VPBanhk, nhận thức được tầm quan trọng
của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế và của chất lượng tín dụng
ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, tôi đã lựa chọn tên đề tài luận
văn: “Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
Ngân hàng VPBank” để nghiên cứu tìm ra một số giải pháp giúp VPBank
tháo gỡ các khó khăn trong thực tế.
2
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Xuất phát từ cơ sở lý thuyết về chất lượng tín dụng của ngân hàng đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ, Luận văn phân tích thực trạng chất lượng tín
dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại VPBank và tìm ra một số giải pháp
nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại VPBank.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng tín dụng của VPBank.
- Phạm vi nghiên cứu: Chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa
và nhỏ tại VPBank trong giai đoạn từ 2005 đến 2008.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp: thống kê, phân tích tổng hợp và phương
pháp so sánh.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và
các danh mục khác, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về tín dụng và chất lượng tín dụng của ngân
hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại VPBank.
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại VPBank.
3
Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÍN DỤNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ
1.1. TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hiện nay trên thế giới mỗi nước đều đưa ra những khái niệm khác nhau về
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo tiêu chuẩn phân loại doanh nghiệp trong liên
minh các nước Châu Âu (EU), doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp
có số lao động dao động từ 10 - 249 người, doanh thu hàng năm từ 10 - 50 triệu
Euro và tổng tài sản từ 10 - 43 triệu Euro. Theo quan điểm của các nhà kinh tế
học Singapore thì việc phân loại này chỉ dựa trên hai tiêu chí đó là số lượng lao

động và tổng giá trị tài sản. Trong khu vực Châu Á, Hồng Kông xác định
doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ dựa trên tiêu thức số lượng lao động, nhưng số
lượng lao động đặt ra cho các ngành là rất khác nhau, với ngành dịch vụ thì
lượng lao động nhỏ hơn số lượng lao động trong ngành công nghiệp…
Tuy nhiên việc phân loại doanh nghiệp theo quy mô vừa và nhỏ chỉ
mang tính tương đối do quá trình phân loại còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như: trình độ phát triển kinh tế của một nước; tính chất ngành nghề sản xuất;
tính chất lịch sử…Trên cơ sở đó mỗi nước sẽ có những sự lựa chọn các
tiêu thức khác nhau để đưa ra khái niệm riêng của mình. Song nhìn chung
các nước thường sử dụng hai tiêu thức phổ biến nhất là số lượng lao động
trung bình và tổng số vốn của doanh nghiệp.
Ở Việt nam, việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu theo hai
4
tiêu chí là lao động thường xuyên và số vốn tham gia sản xuất vì chúng dễ xác
định và có tính chính xác cao. Chúng có thể xác định dễ dàng tại mọi cấp độ
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và tại mọi thời điểm.
Để cụ thể hóa các tiêu chí này và để thuận tiện cho việc phân loại doanh
nghiệp vừa và nhỏ, ngày 20/6/1998, Thủ tướng Chính phủ đã có Công văn số
681/CP-KTN quy định tiêu chí tạm thời việc xác định doanh nghiệp vừa và
nhỏ, theo đó doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp có vốn pháp định
tối đa 5 tỷ đồng và số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người. Tuy
nhiên, qua quá trình khảo sát điều tra các doanh nghiệp, Chính phủ thấy rằng
các tiêu chí đưa ra chưa thực sự hợp lý và chưa phù hợp với sự phát triển. Vì
vậy ngày 23/11/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP
về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đã định nghĩa: “Doanh nghiệp
vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo
pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng và số lao động
trung bình hàng năm không quá 300 người”.
Theo định nghĩa này doanh nghiệp vừa và nhỏ được hiểu là:
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước.

- Các công ty cổ phần, trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp tư nhân
đăng ký hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
- Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật hợp tác xã.
Như vậy tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có đăng
ký kinh doanh theo luật định và thoả mãn hai tiêu chí là có vốn đăng ký kinh
doanh không quá 10 tỷ đồng và số lao động trung bình hàng năm không quá
300 người đều được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Với cách phân loại này thì ở Việt Nam số doanh nghiệp vừa và nhỏ
chiếm tới 93% tổng số doanh nghiệp hiện đang hoạt động. Việc xác định
doanh nghiệp vừa và nhỏ như trên là phù hợp với thực tế khách quan của
5
nước ta, một nước với nguồn vốn có hạn nhưng nguồn lao động dồi dào. Việc
xác định này nhằm đưa ra những chính sách khuyến khích các doanh nghiệp
này phát triển, để đáp ứng được yêu cầu cấp bách của xã hội là đảm bảo công
ăn việc làm, nâng cao mức sống của đại đa số nhân dân lao động và dần đưa
nước ta thoát khỏi tình trạng đói nghèo.
1.1.1.2. Đặc trưng của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Cho dù khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ ở mỗi quốc gia là khác nhau
nhưng nhìn chung các khái niệm đều khẳng định rằng doanh nghiệp vừa và nhỏ
là một tập hợp các thực thể kinh tế có quy mô nhỏ và vừa xét trên phương diện
vốn, lao động so với mặt bằng phát triển chung của nền kinh tế ở một quốc gia
nhất định và có những lợi thế cũng như những hạn chế cơ bản sau:
- Lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Với ưu thế quy mô vốn nhỏ, cơ sở vật chất không lớn, cơ cấu bộ máy
quản lý gọn nhẹ, doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng nhanh chóng chuyển
hướng kinh doanh và chuyển đổi mặt hàng, tăng giảm lao động một cách dễ
dàng, có thể nhanh chóng chuyển đổi mở rộng hoặc thu hẹp quy mô sản xuất.
Đồng thời cùng với lợi thế này mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất năng
động, linh hoạt, thích ứng kịp thời với những biến động của thị trường, có khả
năng tiếp cận và đáp ứng tốt hơn các doanh nghiệp có quy mô lớn ở mảng thị

trường nhỏ lẻ mang tính khu vực.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ được thành lập với lượng vốn đầu tư ban
đầu ít, hoạt động có hiệu quả với chi phí cố định thấp, thu hồi vốn nhanh. Đa
phần các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều có thể dễ dàng bắt đầu hoạt động ngay
sau khi có ý tưởng kinh doanh với một số vốn cũng như lao động nhất định.
Trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ việc quản lý và điều hành rất gọn
nhẹ, linh hoạt. Công tác điều hành tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ mang tính
trực tiếp, quan hệ giữa những người lao động và người quản lý khá chặt chẽ,
6
gắn bó, tạo ra môi trường làm việc tốt.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất dễ dàng đổi mới thiết bị công nghệ. Khác
với các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ với yêu cầu vốn bổ sung
không nhiều và giảm được sự thiệt hại trong việc thay đổi tư bản cố định khi có sự
cạnh tranh phải chuyển sang kinh doanh ngành khác nên các doanh nghiệp vừa và
nhỏ dễ dàng và nhanh chóng trong việc đổi mới thiết bị công nghệ khi cần thiết.
Sự đình trệ, thua lỗ, phá sản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có ảnh
hưởng rất ít hoặc không gây nên khủng hoảng kinh tế và xã hội, đồng thời ít
chịu ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế dây chuyền.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo điều kiện duy trì tự do cạnh tranh. Có rất
nhiều các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực cung cấp các
mặt hàng thiết yếu nên thường không có tình trạng độc quyền. Các doanh
nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh, không
trông chờ vào sự giúp đỡ của Nhà nước. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có lợi thế
trong việc theo sát nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng, từ đó sáng tạo ra nhiều
hàng hóa và dịch vụ mới đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường.
- Hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Bên cạnh những lợi thế có được như đã nêu ở trên, các doanh nghiệp vừa
và nhỏ vẫn còn tồn tại những hạn chế đối với sự phát triển, xuất phát từ chính
những đặc điểm của loại hình doanh nghiệp này, cụ thể:
Nguồn vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu từ tài sản của chủ

doanh nghiệp và các thành viên góp vốn, mà lượng vốn này thường nhỏ và
phân tán dẫn đến vốn đầu tư cho doanh nghiệp bị hạn chế nên các doanh
nghiệp vừa và nhỏ sẽ gặp khó khăn trong giai đoạn mới hình thành. Các
TCTD thường e ngại khi họ có nhu cầu vay vốn vì họ chưa tạo lập được uy
tín trong kinh doanh và tạo được niềm tin trong trả nợ.
Cơ sở vật chất kỹ thuật và thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp vừa
7
và nhỏ thường manh mún và lạc hậu. Do vậy năng suất lao động, sản phẩm và
chất lượng sản phẩm thấp làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng rất khó tiếp cận với thị trường công nghệ,
máy móc và thiết bị hiện đại. Rất ít doanh nghiệp vừa và nhỏ được trang bị
công nghệ hiện đại, trừ khi liên doanh với nước ngoài.
Trình độ đội ngũ cán bộ quản lý và người lao động của doanh nghiệp vừa
và nhỏ chưa cao. Một số chủ doanh nghiệp không có kiến thức quản lý, trình
độ chuyên môn thấp, không đủ khả năng xây dựng được chiến lược phát triển
cho doanh nghiệp trong trung hạn và dài hạn. Đồng thời đa số các doanh
nghiệp vừa và nhỏ hiện nay được thành lập với các thành viên là người trong
gia đình, họ hàng nên tính chuyên nghiệp trong quản lý và trong sản xuất kinh
doanh là chưa cao. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thiếu đội ngũ lao
động có trình độ tay nghề, có khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Một trong những khó khăn không nhỏ nữa của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ hiện nay chính là thị trường tiêu thụ sản phẩm. Với đặc thù của nền
kinh tế thị trường là cá lớn nuốt cá bé dẫn đến cạnh tranh trên thị trường là vô
cùng khốc liệt. Cộng với sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các doanh
nghiệp do sự độc quyền nhà nước của một số tập đoàn lớn và do sự vi phạm
bản quyền sở hữu trí tuệ và quyền sở hữu công nghiệp. Do vậy thị trường của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường là nhỏ bé và không ổn định.
Do quy mô nhỏ, nguồn lực hạn chế và khó khăn trong việc tiếp cận
nguồn thông tin thị trường về sản phẩm và đối thủ cạnh tranh nên các doanh

nghiệp vừa và nhỏ thiếu sức phòng, tránh rủi ro, dễ rơi vào tình trạng phá sản.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa coi trọng đúng mức việc thiết lập một
hệ thống sổ sách, báo cáo tài chính một cách rõ ràng và minh bạch. Khả năng
lập các phương án sản xuất kinh doanh còn yếu, chưa tính toán một cách đầy
8
đủ doanh thu, chi phí, lợi nhuận và đặc biệt là rủi ro thị trường. Do vậy, độ
chính xác và minh bạch về tình hình tài chính của doanh nghiệp vừa và nhỏ
thông qua sổ sách kế toán là thấp.
Qua phân tích những ưu và nhược điểm của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, chúng ta thấy vì sao hầu hết các nước, đặc biệt là các nước đang phát
triển đều có chiến lược phát triển và hỗ trợ các loại hình doanh nghiệp này.
Và muốn phát triển được thì Chính phủ các nước cần đưa ra những chính
sách, biện pháp hỗ trợ phù hợp. Bởi vì các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày
càng giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế và trong quá trình phát triển kinh
tế của đất nước.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm tín dụng ngân hàng đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ
1.1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Tín dụng là quan hệ vay mượn giữa bên đi vay và bên cho vay, trong đó
bên cho vay chuyển giao tiền cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất
định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vốn gốc và lãi vay
cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Tại điều 20 Luật các tổ chức tín dụng ban hành năm 1997 và Luật các tổ
chức tín dụng được bổ sung sửa đổi năm 2004 thì: “Hoạt động tín dụng là
việc TCTD sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng”
và “Cấp tín dụng là việc TCTD thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản
tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho
thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.
Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ được hiểu là quan
hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện

vật) giữa ngân hàng (bên cho vay) với doanh nghiệp vừa và nhỏ (bên đi vay),
trong đó ngân hàng chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời
9
gian nhất định theo thoả thuận và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều
kiện cả gốc và lãi cho ngân hàng khi đến hạn thanh thanh toán.
1.1.2.2. Đặc điểm tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngay từ khi thành lập và trong suốt quá
trình sản xuất kinh doanh đều có quy mô nhỏ, cộng với nhu cầu vay vốn chủ
yếu để tài trợ cho sự thiếu hụt vốn lưu động tạm thời, nên các khoản vay này
thường là nhỏ.
Với sự hạn chế từ chính bản thân các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cộng với
sự chắc chắn trong việc cấp tín dụng của các NHTM nên đa phần các doanh
nghiệp này khó tiếp cận được nguồn vốn dài hạn để đầu tư mở rộng sản xuất
kinh doanh. Chính vì vậy khoản cho vay trung dài hạn đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn cho vay đối với
loại hình doanh nghiệp này. Và tỷ lệ nhỏ đó lại thuộc về đại đa số các doanh
nghiệp vừa và nhỏ thuộc khối doanh nghiệp Nhà nước.
Quan hệ tín dụng giữa các NHTM và các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiềm
ẩn nhiều rủi ro. Những rủi ro đó xuất phát từ chính các hạn chế của loại hình
doanh nghiệp này như vốn ít, trình độ quản lý yếu kém…
1.1.3. Nội dung hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.3.1. Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng là một văn bản quy định những nguyên tắc cơ bản
chung nhất của hoạt động tín dụng tại NHTM, nhằm quản lý thống nhất hoạt
động cấp tín dụng. Chính sách tín dụng được thiết lập nhằm đảm bảo hoạt
động tín dụng được thực hiện trên cơ sở khách quan, thống nhất và minh bạch
tại mọi đơn vị trong hệ thống NHTM, tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
Chính sách tín dụng là cơ sở quan trọng để bảo đảm cho hoạt động tín
10

dụng đi đúng quỹ đạo, nó góp phần quyết định đến sự thành công hay thất bại
của một ngân hàng. Một chính sách cho vay đúng đắn sẽ có tác dụng nâng cao
chất lượng tín dụng và thu hút thêm khách hàng, phân tán rủi ro, tuân thủ
pháp luật, chấp hành tốt chính sách của Nhà nước, đảm bảo khả năng sinh lời
cho Ngân hàng cũng như tạo động lực cho kinh tế và xã hội phát triển. Mỗi
NHTM có đặc điểm riêng, vì vậy muốn chất lượng tín dụng được nâng cao thì
phải xây dựng chính sách cho vay phù hợp với ngân hàng mình trong từng
giai đoạn cụ thể.
1.1.3.1. Các hình thức tín dụng:
 Phân loại theo hình thức tài trợ tín dụng
- Cho vay: là việc ngân hàng cấp cho khách hàng một lượng tiền cụ thể
với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi vay trong một khoảng thời
gian nhất định. Cho vay là một nghiệp vụ chính của ngân hàng và mang lại
nhiều lợi nhuận nhất so với các nghiệp vụ khác, đồng thời nó cũng là hình
thức phổ biến và truyền thống trong hoạt động của NHTM.
Hiện nay, ở Việt nam các NHTM đang áp dụng các phương thức cho vay
đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ bao gồm:
Cho vay từng lần: áp dụng với khách hàng có nhu cầu vốn không thường
xuyên hoặc chu kỳ kinh doanh dài. Mỗi nhu cầu vay vốn được lập hồ sơ, quản
lý theo dõi theo một hợp đồng tín dụng riêng.
Cho vay trả góp: là hình thức cấp tín dụng mà khách hàng trả dần số tiền
vay bao gồm cả gốc và lãi theo phân kỳ. Tín dụng trả góp có quan hệ chặt chẽ
với việc mua bán hàng hoá (tài sản). Việc cấp tín dụng được thực hiện trên cơ
sở thoả thuận giữa các bên có liên quan: khách hàng mua (người đi vay), bên
bán hàng và ngân hàng.
Cho vay hợp vốn: trong trường hợp bên vay có nhu cầu vay với số tiền
11
lớn mà một ngân hàng không đáp ứng được (do thiếu nguồn, do quy định của
chính ngân hàng đó và NHNN) thì các ngân hàng và các TCTD thường cùng
nhau góp vốn để cho vay đồng thời cử một ngân hàng làm đầu mối và phân

chia lợi nhuận cũng như rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mình.
Cho vay theo hạn mức tín dụng: là phương thức cho vay mà việc cho vay
và thu nợ căn cứ vào quá trình nhập, xuất vật tư, hàng hóa. Ngân hàng cho
vay khi doanh nghiệp có nhu cầu vốn phát sinh để nhập vật tư, hàng hóa và
ngân hàng thu nợ khi doanh nghiệp có thu nhập từ việc tiêu thụ sản phẩm
hàng hoá đó. Phương thức cho vay này thường áp dụng cho các doanh nghiệp
mà trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh họ thường xuyên có nhu
cầu vay trả, có tốc độ luân chuyển vốn tín dụng nhanh, có tín nhiệm với ngân
hàng trong quan hệ tín dụng.
Cho vay theo hạn mức dự phòng: là ngân hàng cho phép khách hàng vay
vượt quá hạn mức đã thoả thuận ban đầu trong một giới hạn nhất định. Hình
thức này được áp dụng khi khách hàng không đủ vốn để bù đắp cho những
khoản chi phí phát sinh. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng thể hiện sự
linh hoạt của NHTM đối với doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp giải quyết
những vướng mắc tài chính tạm thời. Phương thức này ngân hàng chỉ áp dụng
đối với khách hàng có quan hệ lâu năm và có uy tín.
Cho vay theo dự án đầu tư: là phương thức cho vay đối với khách hàng
có nhu cầu vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và các dự án phục vụ đời sống.
- Chiết khấu thương phiếu
Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của NHTM,
trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu những thương phiếu chưa
đến hạn thanh toán cho NHTM để nhận lấy một khoản tiền bằng mệnh giá trừ
đi lợi tức và hoa hồng phí.
- Bảo lãnh
12
Bảo lãnh là sự cam kết bằng văn bản của ngân hàng (dưới hình thức thư
bảo lãnh, hợp đồng bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc
thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh. Khi bên được bảo
lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ đã cam kết với

bên nhận bảo lãnh, thì ngân hàng sẽ thực hiện thay nghĩa vụ đó. Bảo lãnh bao
gồm các loại: Bảo lãnh thanh toán; Bảo lãnh thực hiện hợp đồng; Bảo lãnh
bảo hành (bảo lãnh chất lượng sản phẩm); Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước;
Bảo lãnh vay vốn; Bảo lãnh thanh toán.
- Tín dụng thuê mua:
Là hoạt động tín dụng trung và dài hạn, trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài
sản giữa bên cho thuê là ngân hàng với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời
hạn thuê, khách hàng được ưu tiên mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo
điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng. Tài sản cho thuê là những tài sản cố
định và có giá trị lớn.
 Phân loại theo sự đảm bảo tín dụng
- Tín dụng có tài sản bảo đảm
Tín dụng có bảo đảm là hình thức cấp tín dụng có tài sản bảo đảm hoặc
có sự bảo lãnh của người thứ ba. Trên nguyên tắc không phải bất cứ một
nghiệp vụ tín dụng nào cũng phải có bảo đảm. Trong các nghiệp vụ đơn giản
ít khi ngân hàng đòi phải có bảo đảm đối với khách hàng quen và có tín
nhiệm cao. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp luôn chứa đựng nhiều rủi ro, điều đó rất có thể kéo theo rủi
ro của ngân hàng cho vay vốn. Bởi vậy, trên thực tế, bảo đảm thường được
coi là điều kiện tất yếu của mọi nghiệp vụ tín dụng, bảo đảm phải luôn đi liền
với nghiệp vụ tín dụng đồng thời nó cũng là nguồn thanh toán thứ cấp nếu
khách hàng vay không thanh toán được nợ vay.
- Tín dụng không có bảo đảm (tín chấp)
13
Là loại cho vay không có tài sản bảo đảm thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo
lãnh của bên thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa trên uy tín của khách hàng. Ngân
hàng chỉ cấp loại tín dụng này cho các khách hàng tốt, trung thực trong kinh
doanh, có khả năng tài chính lành mạnh, sản xuất kinh doanh có hiệu quả và
đã có quan hệ lâu năm với ngân hàng.
 Phân loại theo thời hạn tín dụng bao gồm các loại

- Tín dụng ngắn hạn:
Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm (12 tháng).
Đối tượng cho vay của các NHTM là một bộ phận vốn thiếu hụt tạm thời phát
sinh trong quá trình luân chuyển vốn của các doanh nghiệp. Nói cách khác,
đối tượng cho vay vốn lưu động là một bộ phận vốn lưu động mà ngân hàng
cho vay để khách hàng dự trữ vật tư, hàng hoá, trả các chi phí và những nhu
cầu tài chính khác.
- Tín dụng trung hạn:
Tín dụng trung hạn là loại hình tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Tín
dụng trung hạn chủ yếu được các doanh nghiệp vay để mua sắm trang thiết bị
tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, công nghệ, mở rộng sản xuất
kinh doanh, đầu tư cho các dự án, công trình có qui mô vừa và nhỏ và có thời
gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn:
Tín dụng dài hạn là loại hình tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Tín dụng dài
hạn nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong việc mua sắm các thiết bị máy móc có giá
trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài và thường là đầu tư cho các chương trình dự án
mang tính chiến lược của doanh nghiệp và có thời gian thu hồi vốn lâu.
1.1.3.3. Quy trình tín dụng:
Quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc và quy định của ngân hàng
trong việc cấp tín dụng. Nội dung của quy trình tín dụng là việc hướng dẫn
chi tiết các bước cần thực hiện trong quá trình thẩm định, phân tích tín dụng
14
và quản lý sau khi cấp tín dụng đối với khách hàng. Cụ thể gồm năm bước
sau: tiếp xúc và thu thập hồ sơ khách hàng (hồ sơ pháp lý, hồ sơ kinh tế, hồ sơ
tài sản bảo đảm); thẩm định khách hàng; ra quyết định cấp tín dụng; giải ngân
và kiểm tra trong, sau cho vay; thu nợ và thanh lý hợp đồng tín dụng.
1.2. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ.

1.2.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Ngày nay trong quá trình toàn cầu hoá, tính cạnh tranh, nhu cầu người
tiêu dùng ngày càng gia tăng đã làm thị trường biến đổi. Các doanh nghiệp
muốn tồn tại trong môi trường đầy biến động này họ phải giải quyết nhiều yếu
tố, trong đó chất lượng là một yếu tố then chốt. Chất lượng là yếu tố quan
trọng quyết định khả năng sinh lời của hoạt động sản xuất kinh doanh. Chất
lượng là một khái niệm quá quen thuộc với loài người ngay từ những thời kỳ
cổ đại, tuy nhiên chất lượng cũng là một khái niệm gây nhiều tranh cãi. Có
quan điểm cho rằng, chất lượng là sự phù hợp với mục đích sử dụng và thoả
mãn nhu cầu của người sử dụng. Theo Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá
ISO, trong dự thảo DIS 9000-2000 thì “chất lượng là khả năng tập hợp các
đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu
của khách hàng và các bên có liên quan”.
Với cách đề cập như trên về chất lượng, có thể suy rộng ra chất lượng tín
dụng chính là số tiền mà ngân hàng cấp cho khách hàng được khách hàng sử
dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra một số tiền lớn hơn để
hoàn trả cả gốc, lãi cho ngân hàng đúng hạn. Hay nói cách khác, chất lượng
tín dụng của ngân hàng chính là sự đáp ứng một cách tốt nhất, nhanh nhất
nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng, phù hợp với sự phát triển của xã hội
và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Qua phân tích trên, ta thấy chất lượng tín dụng thể hiện:
15
- Đối với bên đi vay: chất lượng tín dụng chính là khoản tín dụng được
cấp phải phù hợp với nhu cầu và thời hạn vay. Đồng thời thủ tục vay vốn
cũng đơn giản, thuận tiện và thời gian giải quyết món vay cũng phải hợp lý.
- Đối với NHTM: chất lượng tín dụng là khoản cho vay có hoàn trả đúng
hạn bao gồm cả gốc và lãi, đảm bảo cả tiêu chí tăng trưởng dư nợ, tỷ lệ nợ
quá hạn hợp lý và đúng theo quy định của NHNN.
- Đối với nền kinh tế: chất lượng tín dụng được nâng cao phản ánh hoạt
động kinh doanh của ngân hàng và doanh nghiệp có hiệu quả, từ đó góp phần

vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc làm, tăng sản phẩm cho xã
hội và nâng cao mức sống cho đại bộ phận dân cư.
Chất lượng tín dụng là một khái niệm rất bao quát (đó là đáp ứng tốt nhất
nhu cầu của khách hàng, luôn gia tăng tiện ích cho khách hàng….) nhưng
cũng rất cụ thể (như tỷ lệ tăng trưởng về dư nợ, tỷ lệ nợ quá hạn, lợi nhuận
trên đồng vốn…). Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh
sức mạnh của một NHTM trong cạnh tranh để tồn tại và hiệu quả hoạt động
kinh doanh của ngân hàng đó.
Trong Luận văn này do hạn chế về thời gian nên tác giả chỉ đi sâu phân
tích một khía cạnh nhỏ đó là chất lượng tín dụng nhìn từ góc độ NHTM.
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng
1.2.2.1 Nhóm các chỉ tiêu định tính
- Đáp ứng tốt nhất những nhu cầu của khách hàng: mỗi một khách hàng
đều có nhu cầu tín dụng khác nhau như số tiền vay, thời hạn vay, mục đích
vay…Vì vậy, các NHTM phải có một đội ngũ cán bộ không những có nghệ
thuật giao tiếp tốt mà còn phải tinh thông về nghiệp vụ để qua tiếp xúc sẽ tư
vấn cho khách hàng vay vốn một cách hợp lý nhất. Mặt khác, để thu hút
khách hàng các NHTM cũng cung cấp cho khách hàng nhiều sản phẩm và
dịch vụ hấp dẫn bằng nhiều hình thức như lãi suất thấp, thời gian giải quyết
món vay nhanh, tăng tỷ lệ cho vay trên tài sản bảo đảm… Nếu thực hiện tốt
16
những vấn đề trên thì hoạt động cho vay của NHTM sẽ được đánh giá cao và
từ đó thu hút được nhiều khách hàng tốt, góp phần nâng cao chất lượng tín
dụng cho các NHTM.
- Tuân thủ các nguyên tắc tín dụng:
Ngân hàng chỉ cho vay khi khách hàng chứng minh được phương án sử
dụng tiền vay có hiệu quả và được ngân hàng chấp nhận.
Khách hàng phải cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích và cung cấp
đầy đủ hồ sơ sau cho vay và tạo điều kiện tốt nhất cho ngân hàng khi kiểm tra
sau cho vay.

Khách hàng phải cam kết hoàn trả gốc và lãi vay đúng theo thoả thuận
trong hồ sơ tín dụng.
Trong tất cả các nghiệp vụ của NHTM thì nghiệp vụ tín dụng là mang lại
nhiều lợi nhuận cho ngân hàng nhất, tuy nhiên nó cũng chưa đựng rất nhiều
rủi ro. Vì thế, việc thẩm định khách hàng một cách kỹ lưỡng và thực hiện
đúng quy trình quy chế sẽ làm giảm thiểu những rủi ro và từ đó làm tăng chất
lượng tín dụng cho mỗi ngân hàng.
1.2.2.2. Nhóm các chỉ tiêu định lượng
a) Chỉ tiêu nợ xấu và nợ có khả năng mất vốn
Khi đánh giá về chất lượng tín dụng thì tỷ lệ nợ xấu và nợ có khả năng
mất vốn là quan trọng nhất. Tỷ lệ này càng nhỏ thì chất lượng của khoản vay
càng tốt. Khi các NHTM cấp tín dụng cho khách hàng thì khoản tín dụng đó
phải được hoàn trả một cách đầy đủ và đúng hạn như đã cam kết. Nếu không,
điều này sẽ vi phạm nguyên tắc quan trọng nhất trong tín dụng là có vay có
trả. Khi đó khoản vay sẽ được ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn (với lãi suất
bằng 150% lãi suất trong hạn), và được xếp vào là khoản vay có vấn đề, điều
đó có nghĩa là tính an toàn của khoản vay rất thấp.
- Tỷ lệ nợ xấu:
17
Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ phần trăm giữa nợ xấu và tổng dư nợ của NHTM ở
một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm. Chỉ tiêu
này được tính theo công thức:
Tỷ lệ nợ xấu = x 100%
Theo cách phân loại theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày
22/04/2005 về việc ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng
dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD và
Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 về việc sửa đổi bổ sung
một số điều của Quyết định 493 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt
Nam. Trong đó nợ quá hạn được chia làm 05 nhóm sau:
Nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: các khoản nợ trong hạn mà TCTD

đánh giá là có khả năng thu hồi cả gốc và lãi đúng hạn; các khoản nợ quá hạn
dưới 10 ngày và TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi cả gốc và lãi đúng hạn.
Nhóm 2 (nợ cần chú ý) bao gồm: các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến
90 ngày; các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu.
Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày
đến 180 ngày; các khoản nợ được miễn giảm lãi do khách hàng không đủ khả
năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
Nhóm 4 (nợ nghi ngờ) bao gồm: các khoản quá hạn từ 181 ngày đến 360
ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2.
Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: các khoản nợ quá hạn trên
360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn lần thứ 3; các khoản nợ khoanh,
nợ chờ xử lý.
Như vậy, theo Quyết định trên thì nợ xấu được xác định là nợ thuộc các
nhóm 3, 4 và 5.
Tỷ lệ nợ xấu là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá độ an toàn tín dụng
18
cũng như đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng. Một ngân hàng có quá
nhiều khoản nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu ở mức cao thì nguy cơ không thu hồi được
nợ vay là rất lớn, dẫn đến khả năng mất vốn qua đó ảnh hưởng tới khả năng
thanh toán và kết quả kinh doanh của ngân hàng.
Tuy nhiên trên thực tế, bất cứ doanh nghiệp nào trong quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh cũng có thể gặp rủi ro, những rủi ro đó có thể mang
tính khách quan hay chủ quan nhưng đều dẫn đến tình trạng chậm trả gốc và
lãi vay cho ngân hàng. Do đó, các ngân hàng thường chấp nhận một tỷ lệ nợ
xấu nhất định được coi là giới hạn an toàn. Mức giới hạn tỷ lệ nợ xấu ở mỗi
nước là khác nhau, riêng ở Việt Nam hiện nay chấp nhận tỷ lệ này là 3%.
- Tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn:
Tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn là tỷ lệ phần trăm giữa dư nợ tín dụng có
khả năng mất vốn trên tổng dư nợ tín dụng. Tỷ lệ này được xác định theo
công thức:

Tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn = x 100%
Trong đó, dư nợ tín dụng có khả năng mất vốn được xác định là toàn bộ
các khoản nợ thuộc nhóm 5 theo cách phân loại nợ được quy định tại trong
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN
ngày 25/04/2007.
Tỷ lệ này cho phép ngân hàng có thể đánh giá chi tiết hơn về độ an toàn
tín dụng. Cũng giống như tỷ lệ nợ xấu, các ngân hàng luôn cố gắng giảm tỷ lệ
này tới mức thấp nhất có thể.
b) Chỉ tiêu về tăng trưởng tín dụng
Được tính bằng cách lấy dư nợ năm sau trừ đi dư nợ năm trước và chia cho
dư nợ năm trước. Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng trưởng dư nợ qua các năm.
=x 100%
19
Tỷ lệ này lớn hơn không, có thể kết luận rằng dư nợ năm sau đã có sự
mở rộng hơn năm trước. Điều này phản ánh sản phẩm cho vay mà ngân hàng
đang cung cấp thực sự thu hút và lôi kéo được khách hàng. Như vậy, có thể
thấy nhu cầu của khách hàng được đáp ứng tốt và đó cũng chính là chất lượng
tín dụng đã được nâng cao.
c) Chỉ tiêu lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Lợi nhuận là điều kiện cần thiết để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của
mỗi ngân hàng. Vì vậy, đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín
dụng của NHTM.
Mức sinh lời vốn tín dụng được xác định theo công thức
Mức sinh lời vốn tín dụng = x 100%
Chỉ tiêu này cho biết một đồng dư nợ tín dụng bình quân mang lại bao
nhiêu đồng lợi nhuận. Khi chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ khả năng sinh lời từ
tín dụng càng lớn. Mục tiêu cuối cùng của bất cứ môt doanh nghiệp nào cũng
là tăng lợi nhuận, tăng giá trị tài sản chủ sở hữu, ngân hàng cũng vậy, ngân
hàng luôn tìm cách tăng mức sinh lời vốn tín dụng nhằm tăng hiệu quả cũng
như thu nhập của mình.

Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động tín dụng được xác định theo công thức
Tỷ trọng thu nhập từ
hoạt động tín dụng
=
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
x 100%
Tổng lợi nhuận
Chỉ tiêu này cho biết, lợi nhuận từ hoạt động tín dụng chiếm bao nhiêu
phần trăm trong tổng lợi nhuận của ngân hàng, đồng thời nó phản ánh mức
đóng góp của hoạt động tín dụng vào kết quả kinh doanh của toàn ngân hàng.
Tỷ lệ này cao, chứng tỏ lợi nhuận từ hoạt động tín dụng mang lại lớn và nó
cũng phản ánh chất lượng tín dụng tốt.
1.2.3. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
Trong hoạt động kinh doanh các NHTM luôn lấy chất lượng tín dụng là
20
mục tiêu quan tâm hàng đầu sau đó mới đến tăng trưởng tín dụng. Chất lượng
tín dụng là chỉ tiêu phản ánh trình độ tổ chức, quản lý điều hành hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ làm tăng hiệu quả
kinh doanh cho chính bản thân ngân hàng.
Bản thân các NHTM muốn tồn tại và phát triển trước hết phải có lợi
nhuận để tích lũy, để tăng vốn tự có, để mở rộng huy động và cho vay và để
đảm bảo sự an toàn của hệ thống. Do vậy, bên cạnh việc tăng huy động vốn,
cho vay và tiết giảm chi phí, ngân hàng phải tăng cường việc nâng cao chất
lượng cho vay. Khi tín dụng gặp rủi ro dưới dạng nợ quá hạn, nợ khó đòi và
nợ có khả năng mất vốn thì ngay lập tức nó ảnh hưởng tới lợi nhuận, hình ảnh
và nhất là mất khả năng thanh toán của ngân hàng. Vì vậy, nâng cao chất
lượng tín dụng đã trở thành vấn đề sống còn đối với sự tồn tại và phát triển
của ngân hàng. Sự yếu kém về chất lượng tín dụng sẽ làm tăng nguy cơ đổ vỡ
và phá sản của ngân hàng, thậm chí làm đổ vỡ cả hệ thống ngân hàng và toàn

bộ nền kinh tế.
Nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng nói chung và nâng cao chất
lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng sẽ góp phần giúp
ngân hàng thực hiện được hai mục tiêu cơ bản trong hoạt động là an toàn và
hiệu quả. Hoạt động tín dụng có thể xem là một trong những hoạt động mang
lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng, nhưng kèm theo là độ rủi ro rất lớn. Tuy
nhiên, khi chất lượng tín dụng được nâng cao một mặt giúp ngân hàng thu
được nhiều lợi nhuận hơn, mặt khác làm giảm bớt tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó
đòi, hạn chế tối đa tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu, đảm bảo an toàn
trong hoạt động ngân hàng.
Thông qua việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, các ngân hàng cũng xây dựng cho mình một quy trình tín dụng cụ
thể và chặt chẽ hơn trong công tác cấp tín dụng, kiểm tra trong và sau cho
21
vay. Từ đó giúp ngân hàng tạo được một hình ảnh chuyên nghiệp với khách
hàng và đặc biệt là sàng lọc được những doanh nghiệp tốt, qua đó cung cấp
được những sản phẩm, dịch vụ và các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp một
cách hiệu quả.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc nâng cao chất lượng tín dụng
của ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Có rất nhiều nhân tố tác động tới việc nâng cao chất lượng tín dụng của
ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các nhân tố này được chia làm hai
nhóm nhân tố chính. Đó là, các nhân tố chủ quan và các nhân tố khách quan.
1.2.4.1. Các nhân tố chủ quan:
a. Các nhân tố thuộc về ngân hàng:
- Yếu tố con người
Con người ở đâu và bao giờ cũng là yếu tố quyết định đến sự thành bại
trong mọi hoạt động từ sản xuất kinh doanh đến hoạt động xã hội, yếu tố con
người trong hoạt động ngân hàng cũng không nằm ngoài ngoại lệ đó.
Một ngân hàng muốn hoạt động kinh doanh tốt và muốn có chất lượng

tín dụng tốt trước hết phải có đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý là những người
năng động sáng tạo trong kinh doanh với phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với
nghề và luôn vì lợi ích của tập thể, vì lợi ích chung của toàn ngân hàng.
Thứ nữa là phải có đội ngũ CBTD không những có đạo đức tốt mà còn
tinh thông về nghiệp vụ. Có như vậy, các khoản vay sẽ được xử lý tốt, ngân
hàng sẽ có được các khoản tín dụng lành mạnh, giảm thiểu được nhiều rủi ro và
thu được nhiều lợi nhuận. Ngược lại, khi đội ngũ cán bộ tín dụng có trình độ
hạn chế, thiếu tính linh hoạt trong các trường hợp cấp tín dụng, hoặc luôn tuân
thủ các quy định của ngân hàng, của nhà nước một cách thụ động mà không
xem xét nghiên cứu đối với từng trường hợp cụ thể thì sẽ gây khó khăn, phiền
hà cho khách hàng làm giảm uy tín, tạo ra hình ảnh không đẹp về ngân hàng
22

×