NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
TRỊNH THỊ MINH HẢI
HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN NỘI BỘ
TẠI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI – NĂM 2011
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
TRỊNH THỊ MINH HẢI
HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN NỘI BỘ
TẠI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHẠM NGỌC PHONG
HÀ NỘI – NĂM 2011
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các dữ liệu trong luận văn là trung thực và có nguồn
gốc rõ ràng.
Tác giả luận văn
Trịnh Thị Minh Hải
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 4
1.1. Những vấn đề cơ bản về kiểm toán 4
1.1.1. Khái niệm về kiểm toán 4
1.1.2. Vai trò của kiểm toán trong nền kinh tế 6
1.1.3. Chức năng của kiểm toán 7
1.1.4. Phân loại kiểm toán 8
1.1.5. Quy trình kiểm toán 14
1.2. Kiểm toán nội bộ Ngân hàng Trung ương 16
1.2.1. Khái niệm kiểm toán nội bộ NHTW 16
1.2.2. Vai trò của kiểm toán nội bộ NHTW 18
1.2.3. Nội dung kiểm toán nội bộ NHTW 19
1.2.4. Nguyên tắc hoạt động 21
1.3. Kiểm toán nội bộ Ngân hàng Trung ương một số nước và những bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam 22
1.3.1. Kiểm toán nội bộ Ngân hàng Trung ương một số nước 22
1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 28
Kết luận chương 1: 30
CHƯƠNG 2 31
2.1. Khái quát về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 31
2.2. Thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam 33
2.2.1. Quá trình phát triển hoạt động Kiểm toán nội bộ Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam 33
2.2.2. Thực trạng hoạt động kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam 38
2.3. Đánh giá hoạt động kiểm toán nội bộ NHNN Việt Nam 58
2.3.1. Mặt được 58
2.3.2. Những hạn chế 59
2.3.3. Nguyên nhân 63
Kết luận chương 2 64
CHƯƠNG 3 64
3.1. Định hướng hoàn thiện hoạt động kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam 64
3.2. Giải pháp hoàn thiện công tác kiểm toán, kiểm soát nội bộ tại Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam 69
3.2.1. Hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động Kiểm toán nội bộ của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 69
3.2.2. Tăng cường kiểm soát chất lượng kiểm toán nội bộ 70
3.2.3. Áp dụng phương pháp kiểm toán theo định hướng rủi ro 71
3.2.4. Nâng cao trình độ chuyên môn và phẩm chất nghề nghiệp của đội
ngũ cán bộ kiểm toán viên 80
3.2.5. Tiếp tục hoàn thiện quy chế kiểm soát viên 82
3.2.6. Tăng cường mối quan hệ giữa Kiểm toán nội bộ với cơ quan Kiểm
toán Nhà nước, giữa Kiểm toán nội bộ và các đơn vị thuộc Ngân hàng
Nhà nước 85
3.2.7. Tăng cường ứng dụng công nghệ tin học trong hoạt động kiểm
toán nội bộ 86
3.3. Kiến nghị
86
3.3.1. Kiến nghị với Kiểm toán Nhà nước 86
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước 87
Kết luận chương 3 88
KẾT LUẬN 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLĐ
Ban lãnh đạo
KTNN
Kiểm toán Nhà nước
KTNB
Kiểm toán nội bộ
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
NHTW
Ngân hàng Trung ương
NXB
Nhà xuất bản
XDCB
Xây dựng cơ bản
TCTD
Tổ chức tín dụng
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
CCLĐ
Công cụ lao động
TSCĐ
Tài sản cố định
DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU
Thứ tự Tên sơ đồ và bảng biểu Trang
Sơ đồ 2.1 Cơ cấu tổ chức Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 33
Sơ đồ 2.2
Cơ cấu tổ chức Kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam.
38
Sơ đồ 2.3 Quy trình kiểm toán nội bộ NHNN Việt Nam 39
Biểu 2.1
Kết quả thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính từ năm
2008 đến năm 2010
43
Biểu 2.2
Số lượng các đơn vị áp dụng sai tỷ lệ trích khấu hao
TSCĐ từ năm 2008 đến năm 2010
45
Biều 2.3
Số lượng các đơn vị mua sắm tài sản sai quy trình từ
năm 2008 đến năm 2010
45
Biểu 2.4
Kết quả thực hiện kiểm toán xây dựng cơ bản từ năm
2008 đến năm 2010
47
Biểu 2.5
Kết quả thực hiện kiểm toán tuân thủ và hoạt động từ
năm 2008 đến năm 2010
49
Biểu 2.6
Kết quả thực hiện kiểm toán hoạt động tin học từ năm
2008 đến năm 2010
52
Biểu 2.7
Kết quả thực hiện kiểm toán hoạt động an toàn kho quỹ
từ năm 2008 đến năm 2010
56
Biểu 2.8
Số lượng các đơn vị có hệ thống trang thiết bị kho tiền
chưa đảm bảo quy định từ năm 2008 đến năm 2010
57
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng Trung ương ( NHTW) có vai trò hết sức quan trọng trong
nền kinh tế. Vì vậy, cơ chế quản trị điều hành hoạt động của NHTW đòi hỏi
phải nhanh nhạy, thích ứng theo những biến động vốn rất nhạy cảm của nền
kinh tế; đặc biệt là trong các nền kinh tế chuyển đổi, tính ổn định bền vững
chưa cao. Một NHTW hiện đại là một ngân hàng có đủ khả năng sử dụng linh
hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ, thông qua việc thực hiện các mục tiêu
trung gian để tác động đến mục tiêu cuối cùng là ổn định giá trị đối nội và đối
ngoại của đồng tiền, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; trong đó, yếu tố ổn định an
toàn với một cơ cấu tổ chức, bộ máy hợp lý và một hệ thống kiểm toán nội bộ
hiệu quả có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Mỗi quốc gia với điều kiện lịch sử, văn hoá, thể chế chính trị, kinh tế -
xã hội, cũng như trình độ phát triển khác nhau sẽ lựa chọn một mô hình tổ
chức bộ máy và phương pháp quản trị, điều hành NHTW phù hợp; song đều
hướng tới một mục tiêu chung là bảo đảm khả năng thực hiện tốt nhất những
hoạt động nghiệp vụ phục vụ cho mục tiêu của chính sách tiền tệ an toàn, hiệu
quả và đúng hành lang pháp luật. Hoạt động kiểm toán nội bộ được coi là một
trong những khâu trọng yếu trong cơ chế quản trị điều hành của NHTW.
Qua hơn 20 năm hoạt động, công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã đóng góp tích cực vào việc đảm bảo an
toàn tài sản của Nhà nước, phát hiện và phòng ngừa rủi ro, bảo vệ Ngân hàng
Nhà nước hoạt động an toàn và hiệu quả. Bên cạnh những mặt tích cực, còn
một số tồn tại về nội dung, phương pháp kiểm toán nội bộ; về xây dựng các
cơ chế, chế độ nghiệp vụ làm cho hoạt động kiểm toán nội bộ của NHNN
Việt Nam chưa phát huy được hết chức năng và vai trò của mình.
1
Với mong muốn góp phần tìm ra các giải pháp để tiếp tục hoàn thiện, đổi
mới hoạt động Kiểm toán nội bộ của NHNN Việt Nam, nhằm đáp ứng yêu
cầu đổi mới và hoàn thiện, đảm bảo tính độc lập của NHTW hoạt động theo
cơ chế thị trường trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, tôi đã chọn đề tài
“Hoàn thiện hoạt động Kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam” cho Luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung phân tích thực trạng của hoạt động kiểm toán nội bộ
NHNN Việt Nam trong những năm qua ( từ năm 2008 đến năm 2010), nhìn
nhận một cách khách quan, trên cơ sở khoa học những điểm mạnh, những tồn
tại hạn chế để qua đó tìm ra các giải pháp có tính khả thi, nhằm hoàn thiện
hoạt động kiểm toán nội bộ NHNN, góp phần đảm bảo an toàn tài sản và nâng
cao hiệu quả hoạt động, đáp ứng yêu cầu hoạt động của NHNN Việt Nam
trong giai đoạn mới.
Để thực hiện mục tiêu trên, tác giả đã đề ra nhiệm vụ nghiên cứu của
luận văn là:
- Hệ thống hóa những lý luận cơ bản về kiểm toán nói chung, đặc biệt là
kiểm toán nội bộ NHTW và những yêu cầu tất yếu của hoạt động kiểm toán
nội bộ NHTW. Nghiên cứu kinh nghiệm hoạt động KTNB của NHTW các
nước để có thể vận dụng vào điều kiện Việt Nam.
- Phân tích đánh giá hoạt động kiểm toán nội bộ của Vụ Kiểm toán nội
bộ NHNN Việt Nam trong thời qua. Đặc biệt chú trọng phân tích những tồn
tại trong hoạt động, để tìm ra những giải pháp hoàn thiện hoạt động kiểm toán
nội bộ của hệ thống NHNN Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động,
đáp ứng yêu cầu hội nhập trong giai đoạn mới.
2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm toán nói
chung, đặc biệt tâp trung nghiên cứu lý luận kiểm toán nội bộ của NHTW, mô
hình kiểm toán nội bộ NHTW một số nước. Đồng thời, phân tích và đánh giá
thực trạng kiểm toán nội bộ tại NHNN Việt Nam từ năm 2008 đến năm 2010,
để đề xuất các giải pháp hoàn thiện hoạt động này tại NHNN Việt Nam trong
giai đoạn tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học chủ
yếu; đặc biệt là phương pháp tư duy biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử;
áp dụng các phưong pháp thống kê, khảo sát, tổng hợp, phân tích, so sánh;
dùng các sơ đồ, nguồn số liệu và tình hình thực tế để minh hoạ, chứng minh
nhằm đáp ứng mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu nói trên.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo nội dung cơ bản
của luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về kiểm toán, kiểm toán nội bộ Ngân
hàng Trung ương
Chương 2: Thực trạng hoạt động Kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam
Chương 3: Hoàn thiện hoạt động Kiểm toán nội bộ Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam.
Trong quá trình hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được sự hướng dẫn,
góp ý tận tình của GVHD PGS.TS Phạm Ngọc Phong. Xin trân trọng cảm ơn thầy.
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KIỂM TOÁN,
KIỂM TOÁN NỘI BỘ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
1.1. Những vấn đề cơ bản về kiểm toán
1.1.1. Khái niệm về kiểm toán
Trên thế giới, thuật ngữ “Kiểm toán” có từ rất lâu, khi các chủ thể trong
các mối quan hệ kinh tế có nhu cầu xác định tính trung thực và độ tin cậy của
thông tin trong báo cáo tài chính, hệ thống kế toán và thực trạng về tài sản
tiền vốn của một tổ chức. Hoạt động kiểm toán là hoạt động thẩm định thông
tin của kiểm toán viên. Hoạt động kiểm toán thực sự phát triển trong nền kinh
tế của hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa từ thế kỷ 18,19. Ở Việt Nam, thuật
ngữ “ Kiểm toán” được sử dụng nhiều từ những năm đầu của thập kỷ 90. Cho
đến nay, ở Việt Nam, cũng như thế giới còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau
về kiểm toán.
Trong giáo dục và đào tạo kiểm toán tại Cộng hòa Pháp “Kiểm toán là
việc nghiên cứu và kiểm tra các tài khoản niên độ của một tổ chức do một
người độc lập, đủ danh nghĩa gọi là kiểm toán viên, tiến hành để khẳng định
rằng những tài khoản đó phản ánh đúng đắn tình hình tài chính thực tế, không
che dấu gian lận và chúng được trình theo mẫu chính thức của luật định”.
Lại có quan điểm khác cho rằng kiểm toán là quá trình do các chuyên gia
có trình độ nghiệp vụ thích hợp, được pháp luật thừa nhận, tiến hành để thu
thập, xét đoán các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được, liên
quan đến quá trình hoạt động của một đơn vị kinh tế, để xác định mức độ phù
hợp giữa các thông tin có thể định lượng được với các chuẩn mực đã thiết lập
và lập báo cáo kết luận về mức độ phù hợp này.
Tuy nhiên quan niệm về kiểm toán được chấp nhận phổ biến hiện nay là:
“ Kiểm toán là quá trình các kiểm toán viên độc lập và có năng lực tiến hành
4
thu thập và đánh giá các bằng chứng về thông tin được kiểm toán, nhằm xác
nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn
mực đã được thiết lập”.[4, tr 5]
Các thuật ngữ trong định nghĩa này được hiểu như sau:
Các Kiểm toán viên độc lập và có năng lực: Là người có những yếu tố,
kỹ năng, phẩm chất về chuyên môn nghiệp vụ mà người kiểm toán viên cần
phải có, để tổ chức và thực hiện được các cuộc kiểm toán có hiệu quả. Kiểm
toán viên phải là người độc lập về chuyên môn, độc lập về kinh tế và độc lập
trong các mối quan hệ gia đình. Tuỳ theo nội dung và tính chất của mỗi loại
kiểm toán cụ thể khác nhau, mà mức độ độc lập có thể được đòi hỏi khác nhau.
Thu thập và đánh giá các bằng chứng: Bằng chứng kiểm toán là các loại
tài liệu, thông tin mà các Kiểm toán viên sử dụng để phân tích, xem xét và
đưa ra kết luận trên đó. Quá trình kiểm toán thực chất là quá trình các Kiểm
toán viên áp dụng các phương pháp kỹ thuật kiểm toán, để thu thập và đánh
giá các bằng chứng kiểm toán, làm cơ sở cho các ý kiến nhận xét của họ.
Các thông tin được kiểm toán: Đó là những thông tin đã có sẵn nguồn
bằng chứng cho kiểm toán và có căn cứ, làm cơ sở cho việc đánh giá thông
tin. Thông tin được kiểm toán có thể là những thông tin được lượng hoá hoặc
những thông tin có thể so sánh, đối chiếu hay kiểm tra lại được; có thể là
những thông tin tài chính hoặc thông tin phi tài chính.
Các chuẩn mực đã được xây dựng và thiết lập: Là cơ sở, thước đo để
đánh giá các thông tin trong quá trình kiểm toán. Các chuẩn mực này rất
phong phú và đa dạng, tuỳ thuộc vào từng loại kiểm toán, như quy định trong
các văn bản pháp quy, các tiêu chuẩn định mức cho các lĩnh vực khác nhau…,
tuỳ từng loại kiểm toán mà sử dụng các chuẩn mực này cho phù hợp, nhưng
các chuẩn mực này luôn luôn phải là các chuẩn mực có hiệu quả cho cuộc
kiểm toán đó.
5
Báo cáo kết quả kiểm toán: Đây là công việc cuối cùng của một cuộc
kiểm toán, thể hiện ý kiến nhận xét kết luận của Kiểm toán viên và cung cấp
thông tin cho người đọc, người sử dụng về mức độ tương quan và phù hợp
giữa các thông tin của một đơn vị với các chuẩn mực đã được xây dựng.
Như vậy, thực chất của kiểm toán nói chung là việc kiểm tra và cho ý
kiến nhận xét về mức độ phù hợp của thông tin được kiểm toán so với các tiêu
chuẩn, chuẩn mực của thông tin đã được thiết lập; việc kiểm tra này được
thực hiện bởi người độc lập và có năng lực. Nói cách khác, hoạt động kiểm
toán là hoạt động thẩm định thông tin của kiểm toán viên.
1.1.2. Vai trò của kiểm toán trong nền kinh tế
Kiểm toán ra đời và phát triển là một tất yếu khách quan do yêu cầu quản
lý và phục vụ cho quản lý nhằm cung cấp thông tin trung thực, tin cậy cho
những người quan tâm đến đối tượng kiểm toán trên thị trường. Từ đó, có thể
thấy rõ vai trò tác dụng mà kiểm toán mang lại cho nền kinh tế:
Thứ nhất, kiểm toán góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và ổn định củng cố
hoạt động tài chính, kế toán nói riêng và hoạt động của các đơn vị được kiểm
toán nói chung. Thông qua kiểm toán, khi phát hiện gian lận sai sót, Kiểm
toán viên uốn nắn, chỉ dẫn và đề nghị doanh nghiệp sửa chữa, tư vấn giúp
doanh nghiệp ổn định và kinh doanh hiệu quả. Hoạt động kiểm toán không
những củng cố hoạt động tài chính, kế toán cho doanh nghiệp nói riêng, mà
còn làm lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia; đồng thời thúc đẩy phát triển
kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính.
Thứ hai, kiểm toán tạo niềm tin cho những người quan tâm đến đối
tượng kiểm toán. Báo cáo kết quả kiểm toán cung cấp các thông tin trung thực
giúp cho các cơ quan Nhà nước điều hành kinh tế vĩ mô. Các nhà quản trị
doanh nghiệp, nhà đầu tư coi kiểm toán là một công cụ hỗ trợ xây dựng chiến
6
lược hoạt động, đưa ra những quyết định đúng đắn trong quá trình quản lý, sử
dụng vốn hiệu quả.
Thứ ba, kiểm toán góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý.
Ngoài chức năng xác nhận thông tin tài chính, kiểm toán còn có chức năng tư
vấn cho các doanh nghiệp, đơn vị được kiểm toán nhằm kinh doanh hiệu quả,
hạn chế rủi ro. Chức năng này được phát huy tác dụng rất lớn ở các đơn vị
được kiểm toán thường xuyên.
1.1.3. Chức năng của kiểm toán
Thông qua định nghĩa nói chung về kiểm toán, ta có thể rút ra hai chức
năng cơ bản của kiểm toán như sau:
Thứ nhất, chức năng cơ bản đầu tiên của kiểm toán, đó là kiểm tra và
xác nhận hay còn gọi là chức năng xác minh.
Đây là chức năng được hình thành đầu tiên gắn liền với sự ra đời, hình
thành và phát triển của kiểm toán. Bản thân chức năng này không ngừng phát
triển mạnh mẽ, cùng với sự phát triển của xã hội loài người nói chung và
kiểm toán nói riêng; đồng thời chức năng này luôn thể hiện ở các mức độ
khác nhau trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Chức năng này nhằm khẳng
định mức độ trung thực của số liệu, tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp
vụ hay việc lập các báo cáo tài chính.
Thứ hai, chức năng trình bày ý kiến hay chức năng tư vấn
Đây là chức năng phát sinh và hình thành sau chức năng xác minh. Chức
năng trình bày ý kiến cũng có quá trình phát sinh và phát triển riêng của nó.
Cùng với quá trình phát triển của kiểm toán, chỉ một chức năng xác minh,
kiểm toán không thể đáp ứng được yêu cầu của nhà quản lý. Chính từ yêu cầu
thực tiễn quản lý đặt ra, đã xuất hiện chức năng tư vấn. Ở thời kỳ ban đầu khi
mới hình thành, chức năng này biểu hiện dưới dạng thư quản lý. Trong quá
7
trình phát triển, sự biểu hiện của tư vấn cũng rất khác nhau, theo từng giai
đoạn lịch sử nhất định.
Qua hai chức năng của kiểm toán ta thấy kiểm toán nhìn nhận đánh giá
một cách toàn diện cả về quá khứ và tương lai. Về quá khứ, đối với các sự
kiện đã nảy sinh, kiểm toán với tư cách là người kiểm tra xác minh sự việc đã
hoàn thành, nhằm đáp ứng yêu cầu của người sử dụng thông tin. Như vậy,
chức năng kiểm toán xác nhận hay xác minh là chức năng hướng về quá khứ.
Mặt khác, để đáp ứng yêu cầu của người sử dụng thông tin trong tương lai,
kiểm toán lại có thêm chức năng thứ hai đó là chức năng tư vấn hay chức
năng trình bày ý kiến, chức năng này hướng về tương lai. Hai chức năng của
kiểm toán hình thành và phát triển hoàn toàn khác nhau, tuỳ theo từng giai
đoạn lịch sử nhất định. Ở thời kỳ đầu, người ta thường chỉ tập trung quan tâm
đến chức năng kiểm tra xác nhận. Nhưng khi xã hội càng ngày càng phát
triển, người ta càng quan tâm nhiều hơn đến chức năng tư vấn của kiểm toán,
đó là việc nhìn nhận, định hướng cho một tương lai đúng đắn để có những
quyết định tối ưu và giành được thắng lợi trong cạnh tranh. Chính vì vậy ở
giai đoạn hiện nay, nhằm đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin trong tương lai,
không phải chỉ riêng có chức năng của kiểm toán, mà còn có hàng loạt các tổ
chức khác cùng thực hiện chức năng này như: các tổ chức tư vấn về thuế, tư
vấn về pháp luật…
1.1.4. Phân loại kiểm toán
Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau, người ta có thể phân ra nhiều loại
kiểm toán khác nhau:
1.1.4.1. Theo chủ thể thực hiện kiểm toán
a. Kiểm toán Nhà nước
Kiểm toán Nhà nước là hệ thống bộ máy chuyên môn của nhà nước thực
hiện các chức năng kiểm toán tài sản công. Ở thời kỳ trung đại, kiểm toán nhà
8
nước đã xuất hiện để đối soát tài sản của vua chúa. Qua qúa trình phát triển,
cho đến nay kiểm toán nhà nước ở các nước phát triển đều thực hiện chức
năng kiểm toán các đơn vị ở khu vực công cộng. Kiểm toán nhà nước thường
tiến hành các cuộc kiểm toán tuân thủ, xem xét việc chấp hành các chính
sách, luật lệ và chế độ của Nhà nước tại các đơn vị có sử dụng vốn là kinh phí
của Nhà nước và kiểm toán hoạt động các đơn vị nói trên.
b. Kiểm toán độc lập
Kiểm toán độc lập là loại kiểm toán được tiến hành bởi các kiểm toán
viên độc lập thuộc các công ty, các văn phòng kiểm toán chuyên nghiệp.
Kiểm toán độc lập là loại hoạt động dịch vụ tư vấn được pháp luật thừa nhận
và bảo hộ, được quản lý chặt chẽ bởi các Hiệp hội chuyên ngành về kiểm toán
và là hoạt động đặc trưng của nền kinh tế thị trường.
Hoạt động kiểm toán độc lập do các Kiểm toán viên chuyên nghiệp thực
hiện, tuân theo các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán, kiểm toán nhất định do
các cơ quan có thẩm quyền quy định. Các Kiểm toán viên độc lập là đội ngũ
hành nghề chuyên nghiệp, có đạo đức và kỹ năng nghề nghiệp, phải trải qua
các kỳ thi quốc gia và đạt được các tiêu chuẩn nhất định về bằng cấp và kinh
nghiệp.
Kiểm toán độc lập chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán báo cáo
tài chính. Ngoài ra còn tuỳ thuộc yêu cầu của khách hàng, kiểm toán viên độc
lập còn có thể thực hiện kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ hoặc tiến
hành các dịch vụ tư vấn tài chính kế toán khác.
Hoạt động kiểm toán độc lập giúp các cơ quan chức năng và những
người sử dụng thông tin tài chính của các đơn vị được kiểm toán có những
căn cứ chắc chắn để khẳng định những thông tin mà họ đang sử dụng là trung
thực, khách quan và hợp pháp. Từ đó, họ có thể đưa ra những quyết định
đúng đắn trong công tác quản lý, cũng như trong hoạt động kinh doanh.
9
Hoạt động kiểm toán độc lập còn giúp các đơn vị được kiểm toán phát
hiện và chấn chỉnh kịp thời các sai sót, do vô tình hay cố ý; kiểm soát các rủi
ro trong kinh doanh. Tuy nhiên, hoạt động chủ yếu của Kiểm toán độc lập là
xác nhận các bảng cân đối kế toán, mà không đi sâu vào đánh giá tính hiệu
lực và hiệu quả của toàn bộ qúa trình hoạt động của đơn vị.
c. Kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là loại kiểm toán do các kiểm toán viên nội bộ của đơn
vị tiến hành. Kiểm toán nội bộ có chức năng độc lập trong một tổ chức.
Nhiệm vụ của nó là kiểm tra, đánh giá những rủi ro mà tổ chức có thể gặp
phải, xem xét lại sự hoàn thiện của hệ thống kiểm soát nội bộ và đảm bảo
rằng hệ thống kiểm soát nội bộ được thực hiện có hiệu lực, hiệu quả nhằm
ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra.
Như vậy, khái niệm của kiểm toán nội bộ có 3 vấn đề cơ bản:
- Bộ phận kiểm toán nội bộ là bộ phận đặc biệt của hệ thống kiểm soát
nội bộ. Kiểm toán nội bộ là loại hình kiểm soát có tính độc lập,nằm ngoài quy
trình nghiệp vụ và không phải là một phần bổ sung hoặc thay thế cho hoạt
động kiểm soát hằng ngày. Tính độc lập của kiểm toán viên nội bộ là yếu tố
cốt lõi. Nếu kiểm toán viên không được độc lập với lĩnh vực đang được kiểm
toán, thì lĩnh vực này có thể gây áp lực cho kiểm toán viên, nhằm che giấu
việc phát hiện những điều bất hợp lý.
- Rủi ro trong một tổ chức là điểm xuất phát của các kiểm toán viên. Chi
phí hành chính cho chức năng kiểm toán rất cao, vì vậy các kiểm toán viên
thường tập trung các nguồn lực của mình vào những khu vực rủi ro cao nhất.
- Điều cần quan tâm hàng đầu của kiểm toán viên nội bộ là hệ thống
kiểm soát nội bộ của đơn vị có hoạt động hiệu quả không? Thực tiễn cho thấy
việc thiết lập một hệ thống kiểm soát nội bộ hoàn hảo thường rất tốn kém. Vì
10
vậy, khi đánh giá tính thích hợp của nó, kiểm toán viên cần phải thận trọng
trong việc góp ý kiến cho hệ thống này.
Lĩnh vực chủ yếu của kiểm toán nội bộ là kiểm toán hoạt động để đánh
giá tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động trong đơn vị. Bên
cạnh đó, các kiểm toán viên nội bộ cũng tiến hành các cuộc kiểm toán tuân
thủ để xem xét việc chấp hành các quy chế, chính sách trong nội bộ đơn vị.
Báo cáo kiểm toán nội bộ được Thủ trưởng đơn vị tin tưởng, nhưng chỉ
có giá trị nội bộ, giá trị pháp lý không cao. Báo cáo kiểm toán nội bộ cũng là
tài liệu tham khảo cho Kiểm toán Nhà nước hoặc Kiểm toán độc lập, trước
khi tiến hành kiểm toán tại đơn vị đó. Chất lượng báo cáo kiểm toán nội bộ
tốt, sẽ giảm khả năng kiểm toán bên ngoài, tiết kiệm chi phí cho kiểm toán.
Kiểm toán nội bộ do các Kiểm toán viên nội bộ thực hiện, tuân theo các
nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán do Ban lãnh đạo của cơ quan đơn vị đó quy
định. Đồng thời những nguyên tắc, chuẩn mực đó phải phù hợp với thông lệ
quốc tế về nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán.
Kiểm toán nội bộ có mối quan hệ rất chặt chẽ với kiểm toán bên ngoài về
chương trình, tài liệu kiểm toán, nội dung kiểm toán, báo cáo kiểm toán và
việc sử dụng các phương pháp, kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán. Cụ
thể như sau : kiểm toán bên ngoài sử dụng kết quả, tài liệu của kiểm toán nội
bộ để làm căn cứ xây dựng kế hoạch, chương trình kiểm toán; kiểm toán bên
ngoài đánh giá chất lượng hoạt động của kiểm toán nội bộ, xác định rủi ro để
xây dựng nội dung kiểm toán; khai thác sử dụng báo cáo của kiểm toán nội bộ
trong quá trình kiểm toán; qua kết quả của kiểm toán nội bộ để quyết định lựa
chọn phương pháp, kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán thích hợp.
Sự khác biệt cơ bản giữa Kiểm toán nội bộ với Kiểm toán Nhà nước và
kiểm toán độc lập là: Kiểm toán nội bộ có chức năng kiểm tra, đánh giá và
giám sát tính hiệu lực và tính hiệu quả của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm
11
soát nội bộ. Kiểm toán nội bộ thường liên quan đến các hệ thống trong một
đơn vị ( ví dụ: hệ thống tiền mặt, hệ thống kế toán, hệ thống tin học )
1.1.4.2. Theo nội dung kiểm toán
Tuỳ theo mục đích của người sử dụng thông tin, một cuộc kiểm toán có
thể tiến hành đồng thời hoặc một trong ba loại kiểm toán sau:
a. Kiểm toán hoạt động
Kiểm toán hoạt động là loại kiểm toán nhằm để xem xét và đánh giá về
tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động được kiểm toán.
Tính kinh tế là sự tiết kiệm các nguồn lực. Hay đây còn gọi là nguyên tắc
tối thiểu, nghĩa là để đạt được mục tiêu nhất định, cần dùng một lượng nguồn
lực ít nhất.
Tính hiệu lực là khả năng về mức độ hoàn thành các nhiệm vụ và mục
tiêu đã xác định của đơn vị.
Tính hiệu quả là việc đạt được kết quả cao nhất, với một lượng nguồn
lực nhất định hay đây còn gọi là nguyên tắc tối đa.
Có rất nhiều lĩnh vực khác nhau cần phải kiểm tra và theo dõi về tính
kinh tế, tính hiệu lực và tính hiệu quả, nên đối tượng của kiểm toán hoạt động
cũng rất phong phú. Chúng không chỉ giới hạn trong lĩnh vực tài chính, mà
còn có thể bao gồm nhiều lĩnh vực và hoạt động khác. Việc xác minh các tiêu
chuẩn, chuẩn mực để đánh giá về tính kinh tế, tính hiệu lực và tính hiệu quả
của các hoạt động là việc làm rất khó khăn, việc lượng hoá các mặt trên thành
các tiêu chuẩn để đánh giá là việc làm mang nặng tính chủ quan. Do vậy, việc
đánh giá kết quả trong kiểm toán hoạt động cũng hết sức chủ quan. Để thực
hiện cuộc kiểm toán hoạt động, đòi hỏi người kiểm toán viên phải am hiểu
nhiều lĩnh vực khác nhau
Báo cáo kiểm toán hoạt động chủ yếu đánh giá tiềm năng, nên nó không
mang tính công khai. Do đó, các tổ chức kiểm toán độc lập thường không
12
thực hiện loại kiểm toán này, mà kiểm toán hoạt động thường là nội dung
không thể thiếu trong kế hoạch kiểm toán nội bộ. Kết quả của kiểm toán hoạt
động chủ yếu phục vụ lợi ích bản thân đơn vị được kiểm toán.
b. Kiểm toán tuân thủ
Kiểm toán tuân thủ là loại kiểm toán nhằm để xem xét đơn vị được kiểm
toán, có tuân thủ các quy định mà các cơ quan có thẩm quyền cấp trên hoặc
cơ quan chức năng của Nhà nước hoặc cơ quan chuyên môn đề ra hay không.
Đối tượng của kiểm toán tuân thủ cũng khá linh hoạt. Nó có thể là việc tuân
thủ các quy tắc do các cơ quan Nhà nước cấp trên đề ra hoặc việc tuân thủ
những quy định do người quản lý cấp trên trong đơn vị đề ra… Các tiêu
chuẩn, chuẩn mực để đánh giá thông tin ở loại kiểm toán này, không phức tạp
như kiểm toán hoạt động, chúng thường được xác định một cách dễ dàng gắn
liền với các thủ tục, quy tắc được kiểm toán. Thông thường, loại kiểm toán
này được thực hiện để phục vụ cho nhu cầu của bản thân các đơn vị, hoặc nhu
cầu của cơ quan quản lý cấp trên, nên kết quả của kiểm toán tuân thủ, nói
chung được báo cáo cho người có trách nhiệm trong đơn vị được kiểm toán
hoặc cơ quan quản lý cấp trên, hơn là cho một phạm vi rộng người sử dụng.
Kiểm toán tuân thủ được thực hiện bởi cả Kiểm toán Nhà nước, Kiểm
toán nội bộ và Kiểm toán độc lập.
c. Kiểm toán báo cáo tài chính
Kiểm toán báo cáo tài chính là loại kiểm toán, mà các Kiểm toán viên có
thẩm quyền thực hiện kiểm tra một cách độc lập, các thông tin liên quan đến
báo cáo tài chính của một đơn vị, tổ chức để xác nhận tính trung thực, hợp
pháp và phù hợp với các nguyên tắc quản lý tài chính và hạch toán kế toán
của các thông tin đó.
Theo khái niệm trên ta thấy, kiểm toán báo cáo tài chính không chỉ xác
nhận tính trung thực của các thông tin trong báo cáo tài chính, mà còn xác
13
nhận cả tính chính xác, hợp pháp và phù hợp của các loại thông tin. Do đó,
khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, là chúng ta đã thực hiện kiểm toán
tuân thủ dưới một giác độ nhất định.
Báo cáo tài chính được kiểm toán thường là bảng cân đối kế toán, báo
cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và bản thuyết minh báo
cáo tài chính…
Tiêu chuẩn, chuẩn mực cho việc đánh giá thông tin của loại kiểm toán
này thường là các chuẩn mực kế toán, các quy định pháp lý về kế toán và
những quy định khác có liên quan.
1.1.5. Quy trình kiểm toán
Đối với hoạt động kiểm toán, bên cạnh việc xây dựng hệ thống chuẩn
mực kế toán làm cơ sở, thì một vấn đề quan trọng mang tính cấp bách đối với
hoạt động thực tiễn của hoạt động kiểm toán, đó chính là việc xây dựng một
quy trình chuẩn trong hoạt động kiểm toán.
Quy trình kiểm toán là trình tự và nội dung các bước công việc mà kiểm
toán viên (đoàn kiểm toán) phải thực hiện, để hoàn thành trách nhiệm nghề
nghiệp của mình, đã được cụ thể hóa thành các mục tiêu của các cuộc kiểm toán.
Các loại kiểm toán khác nhau có những quy trình kiểm toán đặc thù khác
nhau. Tuy nhiên trên một phạm vi chung, tất cả các loại kiểm toán đều có quy
trình kiểm toán tương tự nhau, đó là:
Giai đoạn chuẩn bị kiểm toán:
Chuẩn bị kiểm toán là bước công việc đầu tiên của một quy trình kiểm
toán, nhằm tạo ra các điều kiện pháp lý, cũng như các điều kiện cơ bản khác
để tiến hành một cuộc kiểm toán. Chính vì lý do này, bước chuẩn bị là hết sức
quan trọng và là bước quyết định hiệu quả, hiệu năng và chất lượng của một
cuộc kiểm toán.
14
Bước chuẩn bị bao gồm các công việc chính sau: chuẩn bị đầy đủ cơ sở
pháp lý để tiến hành kiểm toán, lập kế hoạch kiểm toán, chuẩn bị lực lượng và
điều kiện vật chất cụ thể cho cuộc kiểm toán.
Giai đoạn thực hiện kiểm toán:
Thực hiện kiểm toán là quá trình thực hiện đồng bộ các công việc đã ấn
định trong kế hoạch, chương trình kiểm toán. Khi thực hiện kiểm toán phải
tôn trọng những nguyên tắc cơ bản: Kiểm toán viên phải tuyệt đối tuân thủ
chương trình kiểm toán đã được xây dựng; trong quá trình kiểm toán, kiểm
toán viên phải thường xuyên ghi chép những phát hiện, những nhận định về
các nghiệp vụ, các con số , nhằm tích lũy bằng chứng, nhận định cho những
kết luận kiểm toán; định kỳ tổng hợp kết quả kiểm toán để theo dõi tiến độ
thực hiện công việc so với khối lượng công việc chung; mọi điều chỉnh về
nội dung, phạm vi, trình tự kiểm toán…, đều phải có ý kiến của người có
thẩm quyền.
Giai đoạn lập báo cáo kiểm toán:
Lập báo cáo kiểm toán là giai đoạn cuối của quá trình kiểm toán, là sản
phẩm của một cuộc kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán là sản phẩm cuối cùng của một cuộc kiểm toán, thể
hiện ý kiến nhận xét, đánh giá và kết luận của Đoàn kiểm toán rút ra từ các
bằng chứng kiểm toán ( đã được thu thập làm căn cứ cho việc diễn đạt các ý
kiến nhận xét, đánh giá của mình) về các thông tin tài chính và kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của đơn vị; đồng thời đưa ra các khuyến nghị đơn
vị cần phát huy hoặc khắc phục, cũng như kiến nghị của các cơ quan quản lý
Nhà nước xem xét để hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý kinh tế tài chính.
Chất lượng của Báo cáo kiểm toán phụ thuộc vào chất lượng của bằng
chứng kiểm toán và các căn cứ kiểm toán. Bởi vì chất lượng của cuộc kiểm
toán, phụ thuộc vào việc giải trình có sức thuyết phục về kết quả hoạt động
15
của Đoàn kiểm toán đối với sự việc được phân tích, đánh giá trên cơ sở những
chuẩn mực kiểm toán và những kết luận rút ra từ phân tích, đánh giá đó cùng
những khuyến nghị nhằm giúp đơn vị phát huy những mặt tốt; đồng thời khắc
phục những khiếm khuyết được phát hiện qua kiểm toán.
Giai đoạn kiểm tra thực hiện kết luận và kiến nghị kiểm toán:
Nếu chúng ta quan niệm quy trình kiểm toán của một cuộc kiểm toán,
chỉ dừng lại ở báo cáo kết quả kiểm toán, thì bản báo cáo kiểm toán chỉ là tài
liệu có tính chất lịch sử để lưu trữ và khai thác, nó mang tính chất tư vấn cho
việc nghiên cứu các vấn đề tiếp theo, thì chưa thể hiện đầy đủ bản chất của
một cuộc kiểm toán. Điều đó cũng có nghĩa là cuộc kiểm toán đó thực chất
chưa đi vào hoạt động thực tiễn của đơn vị được kiểm toán trên cả hai lĩnh
vực, quản lý tại các cơ quan quản lý và tại đơn vị được kiểm toán. Không biết
được đơn vị có thực hiện hoặc thực hiện ở mức độ nào về kết luận của Đoàn
kiểm toán, cũng không nắm được kiến nghị của Đoàn có được các Bộ, ngành
nghiên cứu để bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện những chính sách, cơ chế, chế độ
đã ban hành.
Xét về mặt logic phát triển, thì quy trình kiểm toán của một cuộc kiểm
toán chia làm bốn giai đoạn là hoàn toàn phù hợp với tính khách quan và với
quá trình phát triển tất yếu của một cuộc kiểm toán. Vì nó có quan hệ logic
mật thiết với nhau và được thực hiện theo lịch trình thời gian nối tiếp nhau.
Do đó, bước này là một yêu cầu tất yếu khách quan trong quy trình của một
cuộc kiểm toán.
1.2. Kiểm toán nội bộ Ngân hàng Trung ương
1.2.1. Khái niệm kiểm toán nội bộ NHTW
Từ khái niệm chung về kiểm toán, có thể đưa ra một khái niệm về kiểm
toán nội bộ Ngân hàng Trung ương như sau: “Kiểm toán nội bộ Ngân hàng
Trung ương là một quá trình mà trong đó, một hoặc một số kiểm toán viên đủ
16
năng lực, độc lập, có thẩm quyền, tiến hành thu thập, xác minh, đánh giá các
bằng chứng về các thông tin có thể định lượng liên quan đến các hoạt động
của một đơn vị thuộc Ngân hàng Trung ương hay toàn bộ hệ thống Ngân
hàng Trung ương, nhằm xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa các thông
tin đó với các chuẩn mực đã được thiết lập”.
Kiểm toán nội bộ Ngân hàng Trung ương là một đơn vị độc lập của
Ngân hàng Trung ương thực hiện kiểm tra, đánh giá những hoạt động của
Ngân hàng Trung ương như một dịch vụ cho Ngân hàng Trung ương. Tính
độc lập của kiểm toán nội bộ Ngân hàng Trung ương thể hiện: Các công việc
của kiểm toán không bị những ràng buộc có thể hạn chế đáng kể phạm vi và
hiệu quả của việc thẩm tra hoặc làm chậm trễ việc báo cáo những phát hiện và
kết luận; các kiểm toán viên trực thuộc một đơn vị, bộ phận khác đơn vị được
kiểm toán trong hệ thống Ngân hàng Trung ương.
Kiểm toán nội bộ không phải là yếu tố thay thế cho công tác kiểm soát
nội bộ (bởi kiểm soát nội bộ là công việc mà các cá nhân hoặc cá nhân của tổ
chức kiểm soát nội bộ chuyên trách tại đơn vị kiểm tra việc thực hiện công
việc của từng cá nhân, đơn vị trong quá trình thực thi các quy chế, cơ chế, quy
trình nghiệp vụ, quy định nội bộ có liên quan, nhằm đảm bảo an toàn tài sản,
thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đã đề ra tại đơn vị), mà có trách nhiệm
đảm bảo cho hoạt động của Ngân hàng Trung ương an toàn và hiệu quả. Bên
cạnh đó, Kiểm toán nội bộ là người tư vấn, trợ giúp cho nhà quản lý đánh giá
hệ thống kiểm soát, chỉ ra những rủi ro có thể xảy ra trong các hoạt động
nghiệp vụ, qua đó hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất. Thông qua hoạt động của
mình, Kiểm toán nội bộ cũng có những đề xuất, kiến nghị với các cấp quản lý
để có thể sửa đổi, bổ sung chính sách, quy trình nghiệp vụ nhằm nâng cao
hiệu quả, an toàn cho hệ thống Ngân hàng Trung ương.
17
Phạm vi của kiểm toán nội bộ Ngân hàng Trung ương là tất cả các hoạt
động nghiệp vụ của Ngân hàng Trung ương. Do đó, đòi hỏi các kiểm toán
viên nội bộ Ngân hàng Trung ương phải có trình độ, am hiểu các nghiệp vụ
của Ngân hàng Trung ương, bao gồm về tiền tệ, tín dụng, thanh toán…
1.2.2. Vai trò của kiểm toán nội bộ NHTW
Hoạt động tài chính – ngân hàng, bản thân nó đã chứa đựng nhiều rủi
ro có ảnh hưởng lớn tới nhiều mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của
mọi quốc gia. Chỉ cần một biến động nhỏ trong chính sách lãi suất, tỷ giá
cũng tạo ra một hiệu ứng không nhỏ trong các hoạt động kinh tế và đời
sống dân cư. Hơn thế nữa, trong xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển như
vũ bão của khoa học công nghệ, khủng hoảng tài chính – tiền tệ của một
quốc gia hay khu vực nào đó, dù lớn dù nhỏ, đều có sức ảnh hưởng không
nhỏ tới nền kinh tế của những quốc gia, khu vực còn lại trên thế giới, gây
ra những hậu quả nặng nề về chính trị, kinh tế xã hội cho quốc gia. Vì vậy,
việc kiểm soát, ngăn ngừa rủi ro cho hệ thống Ngân hàng Trung ương là
hết sức cần thiết, tất yếu dẫn đến việc ra đời và phát triển kiểm toán nội bộ
Ngân hàng Trung ương.
Kiểm toán nội bộ NHTW giúp ngăn ngừa thiếu sót trong hệ thống xử lý
nghiệp vụ: các thủ tục kiểm soát phải được thiết kế sao cho có thể hướng các
nghiệp vụ kinh tế được thực hiện đúng nguyên tắc quy định nhằm ngăn chặn
kịp thời các sai sót, nhầm lẫn vô tình hay có thể cố ý gây thất thoát tiền bạc
hoặc tài sản của ngân hàng.
Kiểm toán nội bộ cung cấp cho những nhà quản lý NHTW thông tin
trung thực thông qua báo cáo kiểm toán các đơn vị trong hệ thống; từ đó góp
phần trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật hay chính
sách kinh tế nói chung. Kiểm toán nội bộ có vai trò giúp NHTW phát hiện,
chỉ ra những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động nghiệp vụ để cải tiến và
18