Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

skkn phương pháp dạy học hiệu quả phân môn vẽ heo mẫu ở tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.04 KB, 41 trang )

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân
Thông tin chung về sáng kiến
1. Tên sáng kiến : Phơng pháp dạy - học hiệu quả phân môn vẽ
theo mẫu ở tiểu học.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến : Môn Mĩ thuật
3.Thời gian áp dụng sáng kiến : Từ ngày 15/9/2009 đến 5/5/2012
4. Tác giả :
Họ và tên : Nguyễn Phi Lân
Năm sinh : 14/08/1979
Nơi thờng trú : 106 đờng Nguyễn Văn Trỗi, phờng Năng Tĩnh,
TP Nam Định.
Trình độ chuyên môn : Cao đẳng s phạm Mĩ thuật.
Chức vụ công tác : Giáo viên Mĩ thuật.
Nơi làm việc : Trờng tiểu học A Đại Thắng
Địa chỉ liên hệ : 106 đờng Nguyễn Văn Trỗi, phờng Năng Tĩnh,
TP Nam Định.
Điện thoại : 0949482475
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến :
Tên đơn vị : Trờng tiểu học A Đại Thắng
Địa chỉ : xã Đại Thắng, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Điện thoại : 03503.987652
- -
1
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân
i. điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
1. Cơ sở lí luận.
Vẽ theo mẫu là một phân môn quan trọng, còn có thể nói là xơng
sống, trọng tâm và là nòng cốt của bộ môn mĩ thuật. Hơn nữa, với môn mĩ
thuật ở tiểu học chúng ta đang hớng dẫn học sinh cảm thụ mĩ thuật ở mức


cảm tính thì phân môn vẽ theo mẫu lại đóng vai trò quan trọng hơn cả. Khi
học sinh nắm vững kiến thức cơ bản ban đầu của phân môn này một cách
vững vàng sẽ là điều kiện và khả năng để phát huy các phân môn khác. Khi
nói tới bộ môn mĩ thuật chúng ta sẽ hiểu rằng nó đợc bắt đầu từ cảm sau
cảm mới là lý hay nói cách khác nó bắt nguồn từ cảm tính dần chuyển
thành lý tính. Chính vì vậy, ở tiểu học mới chỉ dừng ở mức cảm tính mà
thôi. Chúng ta dạy học sinh nhằm đạt đợc mục tiêu là học sinh có kiến thức
ban đầu về mĩ thuật. Để bắt đầu cảm nhận mĩ thuật các em sẽ hình thành
khái niệm mĩ thuật qua cách quan sát, nhận xét sự vật hiện tợng trong cuộc
sống. Và tất thảy những sự vật hiện tợng ấy đợc sắp xếp, tổ chức trong 45
tiết (bài) vẽ theo mẫu ở tiểu học. Trong những bài này là những mẫu vẽ đã đ-
ợc chủ động nghiên cứu để nó trở thành những mẫu đại diện điển hình cho
mọi sự vật hiện tợng.
Vẽ theo mẫu ở tiểu học là một phân môn tạo nên ý thức quan sát để
cảm nhận cái đẹp, cái mĩ của sự vật hiện tợng. Đó sẽ là một trong những
kiến thức ban đầu quan trọng của chơng trình mĩ thuật tiểu học, và từ đây, sẽ
dần hình thành các kĩ năng cần thiết để giúp học sinh hoàn thành đợc các bài
tập theo chơng trình, và vận dụng những kiến thức ấy vào học tập, sinh họat
hàng ngày. Kiến thức vẽ theo mẫu ở tiểu học, cũng nh các phân môn khác
của bộ môn mĩ thuật đều đợc thiết kế theo chơng trình đồng tâm từ dễ đến
khó, đó không phải là những mẫu vẽ, bài vẽ khó và đòi hỏi trình độ cao siêu
mà đợc bắt đầu từ cách vẽ những nét thẳng, nét cong (đối với lớp 1), đến vẽ
những đồ vật thông dụng nh cái xô, cái phích, cái bát (đối với lớp 4,5).
Vẽ theo mẫu là một phân môn mà học sinh đợc quan sát mẫu thực và
nhận xét mẫu để rồi mô phỏng lại mẫu một cách tơng đối giống thực. Tức là
học sinh sẽ hình thành đợc kiến thức cơ bản của môn mĩ thuật qua phân môn
vẽ theo mẫu này. Học sinh sẽ vẽ theo một phơng pháp cụ thể, đơn giản. Đó
- -
2
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn

Phi Lân
là vẽ hình chung trớc (tổng thể mẫu), sau rồi mới vẽ chi tiết (các bộ phận
nhỏ), và chu trình vẽ này đều đợc vận dụng trong tất cả các phân môn của bộ
môn mĩ thuật. Nói nh vậy để thấy rằng vẽ theo mẫu sẽ tạo đợc thói quen cơ
bản cho học sinh, đó là vẽ từ phần chung trớc, phần riêng sau; vẽ phần chính
trớc, phụ sau; vẽ đơn giản trớc, chi tiết sau; vẽ nét thẳng trớc, nét cong sau và
vẽ mảng chính trớc, mảng phụ sau.
Nói tóm lại vẽ theo mẫu có thể là kim chỉ nam cho các phân môn
còn lại của bộ môn mĩ thuật. Và đây sẽ là kiến thức cơ bản tạo đà để học
sinh tiếp tục khám phá và làm chủ cái đẹp trong chơng trình mĩ thuật đồng
tâm ở các cấp cao hơn , đặc biệt là biết vận dụng cái đẹp vào cuộc sống hằng
ngày.
2. thực trạng
a/ Đối với giáo viên.
Trong thực tế của ngành giáo dục, giáo viên của bộ môn mĩ thuật
trong những năm gần đây đã đợc chuyên biệt hoá cao. Tức là đã tơng đối đủ
chỉ tiêu giáo viên chuyên bộ môn mĩ thuật cho các trờng tiểu học. Nh vậy, ở
các trờng tiểu học, học sinh đã đợc học môn mĩ thuật do giáo viên chuyên
phụ trách. Nhng trong chơng trình giáo dục mĩ thuật tiểu học lại có tới 5
phân môn nhỏ, đòi hỏi ngời giáo viên phải vận dụng linh họat nhiều phơng
pháp giảng dạy thì mới có hiệu quả. Riêng đối với phân môn vẽ theo mẫu
phần nào đó bị tác động bởi điều kiện dạy học mà giáo viên cha chú ý tới ph-
ơng pháp hiệu quả của phân môn này. Giáo viên dạy còn phụ thuộc vào nói
suông hay còn gọi là dạy chay, mà dạy chay kiểu này rất không hiệu
quả, mà còn ảnh hởng lớn tới ý thức ban đầu về bộ môn. Yêu cầu của phân
môn vẽ theo mẫu là cho học sinh vẽ mẫu thực, quan sát mẫu thực. Nhng
cũng có nhiều lí do mà giáo viên vẫn cha chuẩn bị mẫu thực cho học sinh vẽ
đợc. Chính điều đó, khiến mỗi học sinh không nhận thức đợc đầy đủ kiến
thức, cũng nh kết quả của bài vẽ kém hiệu quả. Ngoài thực trạng trên vẫn
còn nhiều giáo viên sử dụng phơng pháp cũ mà giờ đây đã trở thành lạc hậu,

đã tạo nên sự áp đặt kiến thức một cách cứng nhắc và cha phù hợp với đại trà
đối tợng học, khiến cho học sinh tiếp thu một cách thụ động, qua loa chiếu
lệ, có thái độ không cần thiết. Một số giáo viên vẫn coi bộ môn mĩ thuật là
môn phụ, môn có cũng đợc, không có cũng không sao, dạy thế nào cũng
- -
3
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân
xong, học sinh tiếp thu đợc bao nhiêu cũng mặc kệ, khiến cho việc khích lệ
các em khá, giỏi có năng khiếu và các em yếu, trung bình bị hạn chế. Phơng
pháp giảng dạy của bộ môn mĩ thuật nói chung và phân môn vẽ theo mẫu nói
riêng là rất đặc thù, rất riêng. Đòi hỏi ngời thầy phải hiểu rõ mình đang dạy
đối tợng đại trà không có năng khiếu bằng một môn năng khiếu. Cái khó là
rất khó nếu những ngời đóng vai trò gợi mở cho học sinh không biết cách
tìm tòi, sáng tạo và sử dụng linh họat nhiều phơng pháp; cái dễ lại rất dễ nếu
chúng ta sử dụng các phơng pháp linh họat có sáng tạo một chút, học sinh sẽ
tiếp thu bài một cách độc lập, hiệu quả cao.
Vì là một phân môn đòi hỏi học sinh phải tập chung quan sát mẫu là
chính mà giáo viên một mặt không chuẩn bị mẫu thực, một mặt cha hớng
dẫn kĩ (kể cả lúc học sinh thực hành). Hầu hết học sinh sau khi nghe giảng
cách vẽ theo mẫu nhng vẫn cha vẽ đợc theo mẫu, bởi lời giảng của giáo viên
còn trừu tợng, cha phù hợp với cảm tính ở lứa tuổi của trẻ. Nhiều khi giáo
viên còn coi học sinh nh những ngời học chuyên về họa, lời giảng còn nhiều
lý tính, gần nh để dạy học sinh trở thành họa sỹ. Trong khi đó mục tiêu của
chúng ta lại không phải là nh vậy.
Nói tóm lại, để giảng dạy tốt phân môn vẽ theo mẫu ở tiểu học. Giáo
viên cần hớng học sinh theo định hớng tích cực, truyền tải cho học sinh
những khái niệm mĩ thuật hết sức cụ thể, đơn giản và dễ hiểu. Kết hợp lời
giảng với ví dụ, chứng minh thực tế để học sinh thấy ngay, nhận biết dễ
dàng. Học sinh hiểu đợc đờng nét, hình khối, mảng miếng, mầu sắc đơn giản

từ đó mô phỏng đợc gần giống với mẫu thực, không có sai sót chính về tỉ lệ,
hình dáng của mẫu; có ý thức bớc đầu về đậm nhạt.
b/ Đối với học sinh.
Bộ môn mĩ thuật nhìn chung học sinh đều có ý thức tích cực học tập,
yêu thích bộ môn. nhng xét về chuyên môn thì những ý thức ấy, sở thích ấy
cũng chỉ dừng ở trào lu đơn thuần do học môn này học sinh đợc tự do sáng
tạo, không khí học thoải mái hay nói đúng hơn học sinh đợc giải trí sau
nhiều tiết học căng thẳng khác. Chính vì điều này, mà chất thực sự của học
sinh qua bộ môn này cha hiệu quả cao. Tới tiết học mĩ thuật thờng học sinh
rất mong đợi nhng khi thực hành thì lại không tuân thủ (làm theo) các bớc cơ
bản đã đợc giáo viên hớng dẫn. Đặc biệt là phân môn vẽ theo mẫu nếu giáo
- -
4
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân
viên chuẩn bị đợc mẫu thì học sinh cũng dờng nh không cần chú ý đến vật
mẫu đợc bầy ở trên bảng, cũng không cần vẽ theo góc nhìn của mình đối với
mẫu. Tôi đã nhận thấy một số tiết vẽ theo mẫu (có mẫu) nhng học sinh lại vẽ
theo hình minh họa bảng của giáo viên chứ không vẽ theo những gì mình
nhìn thấy.
Do ý thức vẽ nh vậy nên kết quả bài vẽ thờng không vẽ theo hớng tại
vị trí mình ngồi (bên trái, bên phải và ở giữa đề vẽ cùng một góc vẽ giống
nhau). Điều này cho ta thây học sinh không hề chú ý tới hình dáng của mẫu
một chút nào.
Một điều nữa, chứng tỏ học sinh tiểu học cha vợt ra khỏi vở ô ly, đó là
vẽ ở vở mĩ thuật (không có ô ly) học sinh thờng thấy trống trếnh bởi trang
giấy trắng lại rộng, do đó thờng vẽ hình rất nhỏ so với trang giấy. Có khi vẽ
ở mãi trên đỉnh trang, có khi vẽ lệch sang trái, sang phải, thậm chí có khi lại
vẽ tụt xuống tận dới đáy của trang vẽ khiến bài vẽ bị lệch lạc về bố cục,
không cân đối với trang giấy. Qua thực tế giảng dạy rôi nhận thấy yếu điểm

này của học sinh chiếm tỷ lệ tơng đối lớn (khoảng 20 đến 30 %).
Từ cơ sở lí luận và một số vấn đề thực tế còn hạn chế, vớng mắc đối
với cả giáo viên và học sinh, đã ảnh hởng ít nhiều tới kết quả dạy học phân
môn vẽ theo mẫu của bộ môn mĩ thuật. Tôi xin mạnh dạn đa ra biện pháp
nhằm khắc phục để nâng cao chất lợng cho phân môn này bằng đề tài kinh
nghiệm: Phơng pháp Dạy - Học hiệu quả phân môn vẽ theo mẫu ở tiểu
học.
ii/. các giảI pháp
1/. Đặc điểm tình hình.
Vẽ theo mẫu rèn luyện cho học sinh khả năng quan sát, nhận xét và kĩ
năng vẽ nét, vẽ bố cục và vẽ hình. Vẽ theo mẫu còn giúp học sinh hiểu đợc
vẻ đẹp của mẫu, tạo điều kiện để học sinh học các bài vẽ trang trí, vẽ theo đề
tài, vẽ tự do, thờng thức mĩ thuật thuận lợi và hiệu quả hơn
Phân môn vẽ theo mẫu xuyên suốt chơng trình mĩ thuật tiểu học đợc
thiết kế theo qui trình đồng tâm, các đơn vị kiến thức đợc lặp lại nhng có
nâng cao hơn qua mỗi bài, mỗi lớp. Từ lớp một cho tới lớp năm bao gồm 45
bài vẽ theo mẫu . Với những mẫu vẽ đơn giản thờng là những hình khối, đ-
- -
5
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân
ờng nét quen biết nh: nét thẳng, nét cong, các hình cơ bản (hình tròn, hình
vuông, tam giác, chữ nhật ); khối đơn giản (khối hộp, khối cầu, trụ); vật
dụng phổ biến, gần gũi (cái xoong, cái ấm, cái chén, cặp sách, lá cây, quả
cây ). Khi học vẽ theo mẫu học sinh sẽ nắm đợc cách vẽ cân đối, vẽ từ bao
quát đến chi tiết. Vẽ từ những hình cơ bản tới những đồ vật cụ thể, bớc đầu
so sánh kích thớc, hình dáng, đậm nhạt, màu sắc của vật mẫu. Từ đó học
sinh sẽ cảm nhận đợc mẫu, vẽ mẫu theo sự cảm và so sánh để hình vẽ gần
đúng với mẫu hơn.
Trong bộ môn mĩ thuật bao gồm năm phân môn: vẽ theo mẫu ; vẽ

trang trí; vẽ theo đề tài và vẽ tự do (nay là vẽ tranh); xem tranh (nay là thờng
thức mĩ thuật) và tập nặn (nay là tập nặn tạo dáng tự do). Trong năm phân
môn này chúng ta thấy vẽ theo mẫu là phân môn rất quan trọng và cần thiết
cho các phân môn còn lại. Bởi vì, nắm vững cách vẽ của vẽ theo mẫu thì vẽ
các phân môn khác sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn nhiều và đặc biệt sẽ hình
thành cách nhìn tổng thể (định hình đợc trớc khi vẽ). Học sinh sẽ vẽ theo
mẫu theo một qui trình: Quan sát - So sánh - cảm nhận - nhận biết mẫu -
Hình thành thói quen, kĩ năng. Nói tóm lại vẽ theo mẫu giúp các em có óc
quan sát tinh tế, có cách nhìn đúng khi vẽ, dạy các em lối vẽ đúng (từ cơ bản
đến cụ thể).
Với vai trò quan trọng của phân môn và yêu cầu cần thiết của bộ môn
mỗi giáo viên cần tìm tòi, sáng tạo và vận dụng nhiều phơng pháp truyền
thống cùng với hiện đại nhằm đa tới học sinh cách học đơn giản và dễ hiểu
nhất , nhằm ngày càng nâng cao chất lợng cho bộ môn mĩ thuật ở tiểu học để
góp phần vào việc hoàn thành mục tiêu giáo dục của ngành chúng ta, đã đợc
ghi cụ thể trong Luật giáo dục tại Điều 2 mục tiêu giáo dục: Đào tạo con
ngời Việt Nam phát triển một cách toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ,
thẩm mĩ và nghề nghiệp
2/. Những vấn đề cần giải quyết.
Trớc thực trạng khó khăn, điều kiện dạy học cha đầy đủ và đồng bộ,
phơng pháp giáo dục cha phát huy mạnh đợc vai trò của học sinh, để phân
môn vẽ theo mẫu thực sự trở thành xơng sống của bộ môn, để học sinh học
mĩ thuật ngoài hứng thú ra còn có khả năng biểu hiện cái đẹp và cảm thụ cái
- -
6
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân
đẹp. Để học sinh hoàn thành xuất sắc các bài tập theo chơng trình chúng ta
cần tậo trung vào giải quyết một số vấn đề cụ thể sau.
+ Công tác chuẩn bị cần thiết cho bài giảng.

+ Hớng dẫn học sinh quan sát nhận xét.
+ Hớng dẫn học sinh cách vẽ.
+ Hớng dẫn học sinh thực hành.
+ Nhận xét đánh giá bài của học sinh.
+ Củng cố bài giảng bằng trò chơi phù hợp.
Sáu vấn đề này đợc giải quyết tốt thì hiệu quả sẽ đem lại một bài
giảng thành công cho một phân môn quan trọng của bộ môn mĩ thuật. Cụ thể
từng vấn đề một sẽ đợc giải quyết ở phần III dới đây.
3/. Biện pháp giải quyết.
a/. Vấn đề thứ nhất: Công tác chẩn bị cần thiết cho bài
giảng.
Chuẩn bị cho một bài giảng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Cả giáo
viên (ngời dạy) và học sinh (ngời học) đều phải có sự chuẩn bị chu đáo cho
một bài học. Mọi yếu tố của bài đợc chuẩn bị tốt thì tiết dạy sẽ hiệu quả,
thành công, ngợc lại nếu không chuẩn bị tốt sẽ lúng túng mất thời gian và
không hiệu quả.
a/. Sự chuẩn bị đối với giáo viên.
Giáo viên cần chủ động chuẩn bị hai nội dung cụ thể đó là: Đồ dùng
dạy học (mẫu vẽ, trực quan các bớc vẽ theo mẫu) và chuẩn bị phơng pháp
giảng dạy (theo từng bài, từng lớp).
* Đối với việc chuẩn bị đồ dùng dạy học của giáo viên: Đối với
môn mĩ thuật nói chung và phân môn vẽ theo mẫu nói riêng, việc sử dụng đồ
dùng dạy học (ĐDDH) là đặc biệt cần thiết. Bởi vì, dạy mĩ thuật là dạy trên
những gì cụ thể, hiện diện một cách rõ ràng trớc học sinh. Học sinh phải đợc
quan sát một cách cụ thể về hình dáng, đậm nhạt, mầu sắc, đờng nét, bố cụ
và tơng quan vật mẫu (đối với bài hai mẫu). Đó cũng chính là kiến thức cơ
- -
7
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân

bản của bộ môn mĩ thuật. Vì thế, để dạy tiết học vẽ theo mẫu cần phải chú ý
nhiều tới ĐDDH và phơng pháp sử dụng đồ dùng dạy học.
Khi nói tới dạy mĩ thuật tức là nói tới việc sử dụng phơng pháp trực
quan. Vì học sinh phải quan sát, nhận xét thì mới hình thành đợc khái niệm.
Hơn thế vẽ theo mẫu lại phải trực quan cụ thể, thực tế. Thực tế ở chỗ vẽ theo
mẫu phải có mẫu thực không thể cho học sinh vẽ theo mẫu mà giáo viên
minh họa trên bảng đợc, đối với một số phân môn khác thì làm nh vậy các
em vẫn có thể tiếp thu bài và vẽ đợc bài.
Trong chơng trình giáo dục mĩ thuật ở tiểu học có 45 bài vẽ theo mẫu
giáo viên cần chuẩn bị đủ mẫu theo đơn vị bài và trực quan cho các bài đó.
Từ những mẫu đơn giản nh các khối hình (khối hộp, khối trụ, khối cầu) tới
những mẫu cụ thể hơn (nh quả cây, đồ dùng vật dụng). Khi giáo viên đã
chuẩn bị chu đáo thì lúc đó giáo viên mới có thể dạy tốt đợc. Đây là phân
môn vẽ theo mẫu, nếu không có mẫu thì không phải là vẽ theo mẫu.
Sự chuẩn bị của giáo viên còn căn cứ theo thực tế của từng bài. Một
mặt do tiết học thờng đợc tổ chức ở tại lớp học thông thờng một mặt sĩ số
học sinh/ một lớp đông khiến các em khó quan sát mẫu nếu bày một mẫu
trên bảng. Do đó giáo viên có thể chuẩn bị nhiều mẫu để cho học sinh họat
động theo nhóm, tổ.
Ví dụ: Để dạy bài Vẽ quả (có dạng tròn) bài 10 MT lớp 1 trang 15 vở
tập vẽ. Nếu học sinh từ 30 em trở lên ngồi trong một phòng học bàn ghế kê
sát nhau theo một hớng lên bảng thì việc bầy mẫu một quả cây trên bảng là
điều không thể hoặc khó có thể chấp nhận đợc, bởi vì những học sinh ngồi
cuối lớp hoặc bàn dới sẽ không thể thấy rõ đợc mẫu. Nh vậy sẽ vô hiệu khi
giáo viên hớng dẫn quan sát nhận xét. ở bài này do quả quan sát khó (vì
nhỏ) cho nên giáo viên có thể chuẩn bị 3, 4 mẫu và bầy mẫu theo nhóm, theo
tổ giúp học sinh quan sát và vẽ hiệu quả hơn.
Nếu trờng có điều kiện trang bị đầy đủ thiết bị cho phòng giáo dục
nghệ thuật cụ thể nh giá vẽ cho học sinh. Thì với sĩ số trên (trên 30 em/lớp),
cùng với phòng học cha đủ tiêu chuẩn về diện tích và ánh sáng thì học sinh

vẫn cha thể quan sát hiệu quả và vẽ hiệu quả đợc. Vì điều đó, cho nên giáo
viên chuẩn bị mẫu chu đáo theo nhóm là cần thiết và thực tế nhất. Nhng bên
- -
8
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân
cạnh cũng có những bài chỉ cần một mẫu mà học sinh đông và ngồi học tại
lớp học thông thờng nhng cũng vẫn vẽ đợc bài tốt nh bài: Vẽ lá cờ tổ quốc
(Bài 9 MT lớp 2 trang 20).
- Giáo viên phải có khả năng thị phạm tốt bởi vì, học sinh rất thích và
rất tâm phục, khẩu phục khi giáo viên minh họa bảng đẹp và nhanh.
Giáo viên chuẩn bị tốt khả năng này, bài giảng của giáo viên sẽ rất hấp dẫn
và hiệu quả cao. Đặc biệt sẽ định hớng cho học sinh vẽ bài của mình. Khi
giáo viên giảng tới cách vẽ phần nào thì minh họa ngay bớc đó đồng thời
bám sát hình với mẫu thực. Việc đó, sẽ dẫn tới học sinh dần hình thành ý
thức một cách có hệ thống.
- Giáo viên cần chuẩn bị mẫu để so sánh với mẫu chính thức. Với một
bài vẽ theo mẫu ngoài việc giáo viên chuẩn bị một mẫu vẽ chính thức thì
giáo viên cần chuẩn bị thêm một số mẫu tơng tự, hoặc mẫu đối lập để học
sinh so sánh, nhận xét nhanh chóng và dễ dàng hơn.
Ví dụ: ở bài vẽ quả có dạng hình tròn: Ngoài vệc chuẩn bị một mẫu
chính thức là quả táo lê chẳng hạn thì giáo viên cần chuẩn bị thêm một số
quả cũng có dạng hình tròn khác nh quả cam, quả quýt, da lê, ổi,
- Giáo viên cần chuẩn bị cho bài giảng của mình những tranh vẽ các
bớc dựng hình, cách vẽ cụ thể, hoặc để quan sát nhận xét. Tất cả đều thể
hiện trên giấy khổ lớn để học sinh dễ quan sát (trực quan đủ rõ, đủ to). Việc
chuẩn bị này có tác dụng trực tiếp tới giáo viên rất lớn. Có nó, giáo viên thao
tác các bớc trên bảng rất linh họat, làm cho giờ giảng lí thuyết không mất
nhiều thời gian, không bị lúng túng. Việc chuẩn bị trực quan tốt còn giúp
học sinh hình thành khái niệm mẫu vẽ một cách nhanh nhất, đơn giản nhất,

hiệu quả nhất. Phần chuẩn bị này giáo viên có thể chỉ việc phóng hình lớn từ
các hình minh họa trong sách giáo khoa đợc in cùng với phần lí thuyết (sách
học sinh).
* Đối với việc chuẩn bị phơng pháp giảng dạy của giáo viên: Để
soạn bài và giảng bài tốt, giáo viên tập trung vào những phơng pháp hiệu quả
khi dạy vẽ theo mẫu nh: Phơng pháp trực quan; phơng pháp so sánh; gợi mở;
vấn đáp và luyện tập. Giáo viên phải biết cách kết hợp linh họat giữa các ph-
ơng pháp này với nhau, tạo thành một phơng pháp tổng hợp phù hợp với tất
- -
9
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân
cả các đối tợng, phù hợp với bài giảng, gắn liền với thực tiễn. Để phơng pháp
của mình chuẩn bị có hiệu quả thì giáo viên nhất thiết cần dự kiến đợc các
tình huống dạy học, có những tình huống đơn giản thì giáo viên có thể sử lý
tốt trong bất kì hoàn cảnh nào, nhng cũng có những tình huống khó giáo
viên cần có sự chuẩn bị tốt để sử lí nh: Cách so sánh mẫu, cách vẽ thông qua
quan sát mẫu thực, có thể học sinh không hiểu thế nào là bố cục; không
hiểu thế nào là dựng hình chung; ớc lợng tỷ lệ. Giáo viên cần phải
chuẩn bị những tình huống khi học sinh không hiểu và cần phải đơn giản hoá
những cụm từ mang tính chuyên môn tối thiểu này. Giáo viên có thể chuẩn
bị theo những gợi ý sau: Bố cục nên giải thích đơn giản đó là sự sắp xếp hình
vẽ vào trang giấy, bố cục đẹp là sự sắp xếp hình vẽ cân đối, bố cục lệch, xấu
là sự sắp xếp hình vẽ trên trang giấy cha hợp lý; Tỷ lệ ta có thể hiểu đơn giản
là chiều cao so với chiều ngang, xem các chiều này hơn kém nhau bao nhiêu
lần, từ đó giữ đợc tỷ lệ chuẩn của mẫu khi vẽ sẽ không bị sai lệch. Ví dụ:
Mẫu vẽ cái xô có tỷ lệ chiều cao bằng hai lần chiều ngang, nh vậy hình vẽ có
to bằng bao nhiêu đi nữa thì chúng ta vẫn phải hớng dẫn học sinh vẽ chiều
cao của cái xô bằng hai lần chiều ngang, có nh vậy hình vẽ mới cân đối, cái
xô sẽ không bị thấp quá hay không bị cao quá hay chúng ta nói là tỷ lệ của

bài vẽ cân đối; tơng tự nh vậy hình chung cũng đợc giải thích cho học sinh
hiểu là hình vẽ bên ngoài của vật mẫu, học sinh cần hiểu đơn giản, cụ thể
nh một khối hộp nằm ngoài bao kín vật mẫu tạo thành một khung hình bao
quanh. Khung hình đó đợc gọi là khung hình chung.
Mọi phơng pháp giáo dục của giáo viên tuy cùng nhằm cung cấp kiến
thức và phải theo những qui định chung nhng khi vận dụng, giáo viên không
đòi hỏi, không bắt buộc tất cả học sinh làm bài nh nhau và tuân thủ một cách
máy móc, rập khuôn theo cái chung. Học sinh tuy vẽ cùng một mẫu nhng
sản phẩm sẽ rất khác nhau về nét, về hình, về mầu, về cách bố cục, cách
nhìn, cách hiểu, cách cảm nhận của mỗi học sinh khác nhau sẽ tạo ra những
sản phẩm có nhiều vẻ khác nhau. Vì thế, có thể nói, kết quả học tập của học
sinh phụ thuộc vào sự giàu có kiến thức, vào nghệ thuật truyền đạt của
giáo viên. Nhng quan trọng hơn cả là khả năng cảm nhận của học sinh. Bởi
lẽ học sinh có thích thú thì mới chịu khó suy nghĩ, tìm tòi và thể hiện bằng
cảm xúc của mình. Vẽ có cảm xúc bao giờ cũng có hiệu quả cao. Vì thế dạy
học mĩ thuật nói chung và dạy vẽ theo mẫu nói riêng không đơn giản là dạy
- -
10
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân
và học kĩ thuật vẽ mà còn phải kết hợp với dạy và học cảm thụ thế giới quan
xung quanh. Bắt buộc, gò ép học sinh trong học mĩ thuật sẽ dẫn đến khuôn
mẫu, đồng điệu.
Phơng pháp giảng dạy của giáo viên cần phát huy đợc tính tích cực, sự
độc lập suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo của học sinh và đây cũng là t tởng chủ đạo
của phơng pháp dạy học mĩ thuật nói chung và daỵ vẽ theo mẫu nói riêng.
Kết quả cuối cùng của việc dạy là kiến thức phải đến phải vào ngời
học. Hơn nữa, học sinh phải là ngời chủ động tiếp nhận kiến thức từ giáo
viên. Vì thế khi giảng dạy, giáo viên không chỉ quan tâm đến phơng pháp
dạy của giáo viên mà còn phải chú ý tới phơng pháp học của học sinh. Do

đó, khi Dạy-Học vẽ theo mẫu ở tiểu học giáo viên còn cần phải chú ý những
đặc điểm sau:
+ Tạo đợc không khí học tập tốt để học sinh háo hức chờ đón bài học.
+ Tạo điều kiện cho học sinh suy nghĩ, tìm tòi những vấn đề mà giáo
viên giảng giải.
+ Tổ chức bài học sao cho học sinh tham gia vào quá trình nhận thức
một cách tự giác.
+ Động viên khích lệ nhằm giúp học sinh làm bài bằng khả năng và
cảm xúc riêng.
Việc chuẩn bị phơng pháp tốt cho giáo viên cũng không thể thiếu việc
sắp xếp, tổ chức giờ dạy thông qua giáo án, qua kế họach giảng dạy tiết vẽ
theo mẫu đó một cách rõ ràng, cụ thể. Phơng pháp chủ đạo là lấy học sinh
làm trung tâm và thầy giáo là ngời hớng dẫn cũng đợc thể hiện rõ trên giáo
án. Mọi họat động của giáo viên mang tính chất gợi mở, cũng nh vậy mọi
họat động tích cực của học sinh đợc lập kế họach theo từng bớc của tiến
trình giảng dạy. Và đặc biệt giáo viên cần chú ý tới phần minh họa bảng
cũng cần đợc thể hiện rõ trong giáo án theo một cột riêng (bên phải của phần
kiến thức và diễn biến giờ dạy).
b/. Sự chuẩn bị đối với học sinh.
Học vẽ theo mẫu đối với học sinh tiểu học vốn vẫn là kiến thức trừu t-
ợng nhất trong bộ môn mĩ thuật. Trừu tợng bởi lẽ học sinh bắt đầu dần hình
thành khái niệm về khối, về hình thể. Khi học sinh vẽ vẫn thờng có suy nghĩ
- -
11
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân
vẽ vật đó chứ cha bao giờ có khái niệm về khối của vật đó, mà vẽ theo mẫu
thì yếu tố khối hình mới là trọng tâm. Tuy nhiên vẽ theo mẫu ở tiểu học
không đòi hỏi học sinh diễn tả đợc khối rõ ràng mà chỉ yêu cầu học sinh có
khái niệm về khối mà thôi. Vì lý do này, học sinh cần chuẩn bị tốt điều

kiện để tham gia vào tiết học một cách tích cực và hiệu quả nh sau:
+ Việc xem bài trớc là công việc đầu tiên của học sinh. Từ đó, học
sinh sẽ tìm hiểu mẫu ở nhà (nếu có) hoặc mẫu tơng tự, sẽ tạo đợc thói quen
chủ động cho học sinh. Cũng có những bài học sinh cần chuẩn bị mẫu cá
nhân để giờ thực hành học sinh làm việc một cách độc lập. Ví dụ nh: bài vẽ
lá cây (MT lớp 2 bài 19 trang 40). Muốn vẽ tốt đợc yêu cầu của bài (vẽ một
lá cây), thì học sinh nên quan sát trớc lá cây ở nhà và chuẩn bị ít nhất một lá
cây để đến lớp làm bài thực hành vẽ lá cây mình đã chuẩn bị. Việc chuẩn bị
này giúp học sinh t duy nhanh hơn, so sánh dễ dàng hơn và đặc biệt tiếp thu
bài cũng nhanh hơn.
+ Việc chuẩn bị đồ dùng học tập cũng là một yếu tố rất cần thiết đối
với học sinh. Bởi vì, cũng nh thầy (T) nếu chuẩn bị thiếu mẫu thì không phải
là dạy vẽ theo mẫu, còn trò (H) nếu thiếu đồ dùng học tập cũng coi nh là
không phải học mĩ thuật. Những đồ dùng của học sinh không thể thiếu đợc
đó là: Vở mĩ thuật (Vở tập vẽ đối với lớp 1,2,3); bút vẽ (bút chì, bút dạ mầu,
bút sáp mầu). Học sinh mà đã chuẩn bị đợc đồ dùng học tập tức là giờ giảng
đã đợc góp một phần lớn vào hiệu quả của giờ dạy.
Nh chúng ta thấy nếu học sinh không có vở dẫn tới học sinh không
làm bài, hoặc làm lấy lệ và chắc chắn phần chuẩn bị ở nhà là học sinh không
hề chú ý, không muốn nói là không cần chuẩn bị, và nếu học thiếu mầu,
hoặc bút chì các em sẽ thực hành một là bằng bút mực, hai là chờ để mợn
của bạn khác. Nh vậy chúng ta thấy rất rõ học sinh không chuẩn bị đồ dùng
học tập dẫn tới hai hiện trạng đó là ở nhà thì không chuẩn bị, ở lớp thì lời
làm bài. Do mợn đồ dùng học tập lớp học sẽ rất mất trật tự và ảnh hởng
không nhỏ tới chất lợng tiết dạy.
* Nh vậy việc chuẩn bị tốt của T và của H cho bài học vẽ theo mẫu sẽ
đem lại hiệu quả cao cho tiết học và khắc phục đợc cách Dạy-Học cũ và lạc
hậu.
- -
12

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân
b/. Vấn đề thứ hai: Hớng dẫn học sinh quan sát, nhận
xét mẫu
Dạy mĩ thuật nói chung và vẽ theo mẫu nói riêng, phải thực hiện theo
hớng để học sinh làm bài thực hành là chính (thời gian khoảng 20 - 25 /40
phút của tiết học).Thế nhng thời gian đầu giờ (10 -15 phút) là thời gian giảng
lý thuyết. Phần này tuy chiếm ít thời gian nhng lại là một việc vô cùng quan
trọng trong quá trình hình thành kiến thức mĩ thuật, kiến thức vẽ theo mẫu
đối với học sinh.
a/. Thực tế:
Lâu nay dạy vẽ theo mẫu thờng là qua loa nhất trong tất cả năm phân
môn của bộ môn mĩ thuật. Bởi một lẽ đồ dùng dạy học thiếu rất nhiều, mẫu
vẽ hầu nh không có trong suốt chơng trình tiểu học. Mà giáo viên thì việc
chuẩn bị mẫu cho học sinh quá nhiều là điều không thể.
Mặt khác học sinh ngồi học 30 - 40 học sinh /lớp, bàn thẳng kê xếp cố
định theo hớng lên bảng. Với điều kiện nh thế thì việc học sinh quan sát mẫu
là một điều tơng đối phức tạp và hiệu quả là cả một vấn đề cần bàn tới. Song
song với hai thực trạng trên thì việc học sinh có cần quan sát mẫu hay không
lại là một vấn đề khác bức xúc không kém. Bởi vì, kết quả của các bài vẽ nh
vậy thờng đơn điệu, cứng nhắc.Từ những thực tế ấy trong lúc ta chuẩn bị
điều kiện cơ sở vật chất cho môn học còn cha đồng nhất thì mỗi ngời giáo
viên chúng ta cần đa ra những phơng pháp cụ thể, một mặt để khắc phục,
một mặt để nâng cao hiệu quả dạy vẽ theo mẫu là tất yếu.
b/. Phơng pháp.
Trong 45 bài vẽ theo mẫu ở tiểu học đợc chia đều cho 5 lớp là những
bài vẽ từ đơn giản và nâng cao dần theo cấu trúc chơng trình đồng tâm. Vì
vậy ở những lớp nhỏ (lớp 1,2,3) thờng là những mẫu vẽ hết sức đơn giản nh:
hình vuông, hình tam giác, hình tròn, cái túi xách, cái cốc, cái xô Còn ở
lớp cao hơn (lớp 4,5) nhìn chung những mẫu vẽ đều là các đồ dùng vật dụng

trong gia đình. Cho nên, việc hớng dẫn quan sát mẫu cho học sinh là rất cụ
thể, rất gần gũi, chỉ cần đòi hỏi giáo viên sử dụng phơng pháp phù hợp là sẽ
đạt hiệu quả cao.
- -
13
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân
Hầu hết các mẫu vẽ ở tiểu học đều là những hình vẽ đơn giản, giáo
viên giới thiệu mẫu và hớng dẫn quan sát, so sánh tối đa từ 5 -7 phút thì đòi
hỏi giáo viên phải có lời giảng cũng nh yêu cầu cô đọng, dễ hiểu và phải thự
tế.
Trong phơng pháp giảng dạy cũ: Giáo viên thờng vấn đáp học sinh và
học sinh trả lời câu hỏi máy móc thậm chí vu vơ bởi học sinh thờng không
chú ý tới mẫu. Do đó, việc đầu tiên để dạy tốt và hớng dẫn tốt học sinh quan
sát, nhận xét thì giáo viên cần chủ động khắc phục cách bày mẫu và chuẩn bị
mẫu cũng nh phơng pháp cho học sinh quan sát mẫu.
- Giáo viên bầy mẫu: lớp học thờng đông cho nên giáo viên nên bầy
mẫu vào giữa lớp và kê bàn ghế theo hình chữ u để học sinh nào cũng có cự
ly gần với mẫu, và đảm bảo các em đợc quan sát mẫu 100%, không có hiện
tợng học sinh này quan sát mẫu tại gáy học sinh ngồi trớc mình.
- Giáo viên chuẩn bị mẫu: Nếu là những mẫu nhỏ, nh cái cốc, cái lá,
quả cây Giáo viên nên chuẩn bị nhiều mẫu gống nhau để học sinh quan sát
theo nhóm (số lợng nhóm tuỳ thuộc vào điều kiện thực tế lớp học để giáo
viên quyết định). Khi học sinh quan sát theo nhóm, học sinh sẽ nhận xét, so
sánh mẫu rất hiệu quả, khắc phục đợc việc học sinh không quan sát mẫu, nói
chuyện và đùa nghịch. Nhng cái lớn nhất đạt đợc là học sinh đều nhận xét và
có khả năng mô phỏng lại đợc mẫu gần giống thực.
- Giáo viên chủ động đối với phơng pháp dạy quan sát mẫu: Việc h-
ớng dẫn của giáo viên dạy vẽ theo mẫu là rất khéo léo, học sinh tiểu học do
tâm lý lứa tuổi các em chỉ nhận thức vấn đề từ cảm tính, nhìn thấy thực tế.

Vì lý do này, giáo viên cần hình tợng, cụ thể hoá mẫu vẽ thành những hình
phải đơn giản, cụ thể và dễ mô phỏng. Ví dụ: Vẽ cái cốc trớc hết phải hớng
dẫn học sinh vẽ một hình học giống cái cốc đã, nh hình chữ nhật chẳng hạn.
Vậy để vẽ đợc hình cái cốc cần phải vẽ hình chữ nhật trớc, nh vậy chúng ta
thấy cụ thể hoá hình vẽ rất quan trọng, đó chính là quá trình qui đổi mẫu vẽ
thành một hình học có tên, dễ vẽ, từ đó việc biểu hiện mẫu trên bài vẽ là rất
dễ dàng, đơn giản.
- Trớc đây giáo viên hay cho học sinh nhận xét hay so sánh mẫu bằng
lời không (phơng pháp này cha hợp với học sinh tiểu học chỉ phù hợp với
- -
14
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân
học sinh trình độ cao hơn). Vì các em còn rất nhỏ, khái niệm về mĩ thuật còn
hạn chế nhiều, nên giáo viên cần hớng dẫn học sinh so sánh mẫu ngoài bằng
lời ra còn bằng cả hành động (động tác). VD: Khi hớng dẫn các em quan sát
để tìm ra hình chung của mẫu giống hình gì ? . Nếu giáo viên chỉ sử dụng
câu hỏi không, buộc học sinh phải hình dung khó hơn, lâu hơn, nhng nếu
giáo viên hỏi xong rồi dùng thớc kẻ chặn hai chiều, theo chiều ngang và
chiều dọc. Lúc đó học sinh sẽ đợc cụ thể hoá hình chung của mẫu là hình
học gì? Bằng phơng pháp này học sinh sẽ nhận xét nhanh hơn và hiệu quả
hơn, tỷ lệ hình dễ chuẩn xác hơn.
- Khi đặt câu hỏi quan sát cần sử dụng những cụm từ ít chuyên môn
(từ khó) mà sử dụng những cụm từ đơn giản nhng dễ hiểu nh: Đối với từ khó:
Các em cho biết tỷ lệ của vật mẫu nh thế nào ? ; Thay bằng cụm từ dễ hơn:
Em hãy so sánh xem chiều cao của mẫu với chiều ngang của mẫu nh thế nào
? Khi giáo viên đặt câu hỏi nh vậy thì học sinh sẽ tập trung vào so sánh,
nhận xét và đa ra kết quả ngay, đã giản đơn đợc một bớc phải suy nghĩ tỷ lệ
là gì đối với học sinh.
Căn cứ vào thực tế cùng phơng pháp giảng dạy cải tiến đối với phân

môn vẽ theo mẫu, tôi đa ra một số ví dụ áp dụng nội dung đổi mới cho vấn
đề hớng dẫn quan sát nhận sét.
c/. Một số ví dụ:
+ Bài 4: vẽ hình tam giác - MT 1 Vở tập vẽ trang 9.
Mục tiêu của bài là học sinh biết cách vẽ hình tam giác, và vẽ đợc một
số hình tợng bắt nguồn từ hình tam giác.
Để đa học sinh thực sự vào hoàn cảnh có vấn đề giáo viên hớng dẫn
học sinh quan sát nhận xét theo hớng tích cực của học sinh. Với những yêu
cầu chuẩn bị đối với giáo viên và học sinh, thì học sinh có thể chủ động nêu
đợc đặc điểm của hình tam giác.
- Giáo viên đa một số mẫu giống hình tam giác (cái nón, ê ke, khăn
quàng) rồi giáo viên đặt câu hỏi: Những vật này giống hình gì ? Học sinh
sẽ t duy - so sánh - nhận xét - đa ra kết quả là giống hình tam giác.
- Giáo viên cho học sinh nhận xét, trong gia đình mình còn có những
vật dụng gì giống hình tam giác ?
- -
15
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân
Lúc này do học sinh đợc chuẩn bị kĩ ở nhà và cách gợi tả của giáo
viên qua câu hỏi thứ nhất về các đồ vật, học sinh sẽ nhận biết và kể rất nhiều
thứ ở gia đình mình giống hình tam giác. Với hình học đơn giản này giáo
viên không cần hớng dẫn học sinh vào cấu tạo của tam giác. Bởi vì, hình tam
giác các em đã đợc làm quen và biết rõ từ khi các em học mẫu giáo lớn, và
từ đầu lớp 1 qua môn toán. Vì vậy, giáo viên sẽ tập trung để học sinh hiểu đ-
ợc vẽ một hình tam giác cần vẽ nh thế nào (cách vẽ) và để hiểu đợc thì học
sinh phải biết quan sát và nhận xét hình.
Do yêu cầu của bài đối với phần thực hành (giáo viên hớng dẫn học
sinh vẽ một bức tranh về biển bằng những hình tam giác). Nên ở phần chuẩn
bị giáo viên chú ý tới trực quan của bài (hình vẽ thuyền buồm, núi, các con

cá), những trực quan đều phải bắt nguồn (giống hình tam giác). Tới lúc này,
sau khi giáo viên cho học sinh kể đợc tên của nhiều đồ vật giống hình tam
giác, giáo viên sẽ treo một số tranh gợi ý mà giáo viên đã chuẩn bị nh: Tranh
vẽ một thuyền buồm, học sinh sẽ nhận xét phần nào của thuyền buồm gống
hình tam giác. Tơng tự nh vậy đối với các hình khác giáo viên cũng đa học
sinh vào hoàn cảnh có vấn đề (tức là cho học sinh nhận xét và nêu lên nhận
xét riêng của mình).
Nh vậy đối với tiết học vẽ theo mẫu này mặc dù học sinh đông (35
học sinh/ 1 lớp vẫn ngồi học ở lớp học thông thờng, nhng do mẫu vẽ là hình
tam giác cho nên việc hớng dẫn học sinh không mấy khó khăn gì, chỉ đòi hỏi
giáo viên cần đa học sinh vào hoàn cảnh có vấn đề, để các em chủ động tích
cực quan sát nhận xét mẫu, so sánh và nhận biết nhanh, có nh vậy kiến thức
đến với học sinh không bị áp đặt, không bị gò ép.
+ Bài 24: Vẽ cái ấm tích và cái bát - MT 5 trang 50.
Đối với bài này mục tiêu đặt ra đó là học sinh tập quan sát, so sánh, ớc
lợng tỷ lệ mẫu ghép (hai mẫu) để tìm ra vị trí, kích thớc các bộ phận của
mẫu và biết cách vẽ mẫu ghép. Riêng về kĩ năng yêu cầu học sinh vẽ đợc
gần đúng mẫu (diễn tả đợc đặc điểm, tỷ lệ chính của mẫu).
Bài vẽ theo mẫu này có thể nói là kiến thức cuối của chơng trình mĩ
thuật tiểu học về phân môn vẽ theo mẫu. Bởi vì, vẽ mẫu ghép (hai mẫu) chỉ
đợc áp dụng khi học sinh đã có vốn kiến thức tơng đối hay nói cách khác chỉ
dành cho học sinh cuối cấp. Nh vậy, cũng là bài vẽ theo mẫu ở tiểu học nhng
- -
16
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân
ở mỗi bài, mỗi lớp giáo viên lại chọn phơng pháp riêng sao cho phù hợp, ở
đây ta thấy bài 4 (vẽ hình tam giác) của mĩ thuật lớp 1, chỉ cần chuẩn bị, áp
dụng phơng pháp linh họat là bài dạy đã đạt đợc hiệu quả cao, nhng bài này
đòi hỏi giáo viên phải sử dụng nhiều phơng pháp, đặc biệt là vấn đề quan sát

nhận xét mẫu. Đối tợng học sinh là lớp 5, kiến thức mĩ thuật đang dần hoàn
thiện ở trình độ sơ đẳng (cấp tiểu học). Mẫu vẽ đòi hỏi phải so sánh nhiều,
điều kiện Dạy-Học lại là một vấn đề khó. Vậy, giáo viên (ngời làm nhiệm vụ
dẫn đờng, gợi mở) cần đặc biệt chú trọng, tìm tòi cách chuyển tải bài giảng
theo hớng tích cực:
- Trớc hết là chuẩn bị: Theo phơng pháp mà tôi đã đề cập ở phần trớc
(Vấn đề thứ nhất) giáo viên - học sinh - cơ sở vật chất phải đợc chuẩn bị tốt.
Vẽ mẫu này đòi hỏi học sinh phải đợc ngồi (đứng) vẽ theo hình chữ u. Tức là
mẫu đợc bầy ở giữa phòng, học sinh ngồi (đứng) vẽ ở ba hớng khác nhau: H-
ớng bên trái, hớng bên phải và cuối lớp. Mẫu phải đợc giáo viên bầy không
cao quá đờng tầm mắt (không cao hơn mắt học sinh), mẫu vẽ phải đảm bảo
có mĩ quan, có vải trắng trải bàn để bầy mẫu, chú ý cho học sinh nhỏ đứng
(ngồi) trớc học sinh lớn.
- Trớc khi vào phần hớng dẫn học sinh quan sát nhận xét, giáo viên
đặt câu hỏi: Mẫu hôm nay vẽ có gì khác với mọi khi ?. Mục đích để học sinh
hiểu đợc đây là một mẫu khó, đòi hỏi học bài cần tập trung cao, có t duy so
sánh, tạo không khí thích tìm tòi, khám phá của học sinh, và gây chú ý cho
học sinh đối với mẫu bầy phía trớc.
- Đối với phần quan sát hình chung: Giáo viên nên chuẩn bị hai miếng
bìa: Một miếng đợc đục lỗ hình chữ nhật bao quanh cả hai mẫu, có thể làm
cả ba hớng thì cần ba miếng đục lỗ ca chiều rộng khác nhau; và một miếng
bìa đục thủng hình chữ nhật bao quanh vừa cái bát, hình nhỏ này chỉ cần một
bởi cái bát nhìn ở hớng nào cũng có tỷ lệ giống nhau. Mục đích của sự chuẩn
bị này là khi đặt câu hỏi đối với học sinh về hình chung và hình riêng của vật
mẫu trông giống hình gì?, hình riêng của cái bát nhỏ bằng một phần mấy của
hình chung ? ; hoặc hình riêng của các vật so sánh với nhau. Khi giáo viên
cụ thể hoá bằng cách đục lỗ miếng bìa thì học sinh nhận xét hình rất nhanh
và so sánh rất tốt bởi vì, trẻ ở tiểu học thờng cảm nhận trực quan là chính.
Nếu chúng ta hớng dẫn học sinh bằng cách chỉ vào mẫu và yêu cầu học sinh
- -

17
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân
so sánh, cho biết hình chung, hình riêng thì e rằng học sinh ớc lợng, tính
toán rất khó chính xác đợc. Việc đục lỗ miếng bìa làm đơn giản ở chỗ học
sinh sẽ chỉ nhìn thấy một lỗ thủng mà trong nó (phía sau) chứa trọn vẹn mẫu
vẽ, đơng nhiên khái niệm về hình chung, hình riêng hình thành rất nhanh.
- Đối với việc quan sát so sánh từng phần của từng vật mẫu: Do đây là
mẫu ghép (hai mẫu) nên hai đồ vật sẽ có rất nhiều chi tiết: Nh miệng của
tích, vòi tích, quai sách của tích, miệng bát, chôn bát. Và đặc biệt chú ý (học
sinh hay mắc phải) hớng dẫn học sinh quan sát khi ngồi ở những vị trí khác
nhau sẽ thấy mẫu thay đổi rõ rệt. Cái ấm tích ngồi ở vị trí khác nhau sẽ thấy
vòi và quai khác nhau. Có những vị trí không thấy vòi. Do đó, giáo viên sẽ
đặt câu hỏi ở ba vị trí (chủ động chọn theo ý đồ) để có ba hình vẽ tơng ứng:
Thấy vòi ở bên trái tích, thấy vòi ở bên phải tích và thấy vòi ở chính giữa
tích. Tơng tự nh vậy giáo viên cần đặt câu hỏi để học sinh nhận xét cái bát
với cái tích cũng có vị trí thay đổi khi học sinh ngồi ở vị trí khác nhau. Giáo
viên cho học sinh nhận xét theo vị trí nhìn thấy: tích che mất một phần của
bát, và vị trí thấy bát che mất một phần của tích. ở những phơng pháp này
mục đích cho học sinh nhận ra mẫu vẽ sẽ thay đổi khi nhìn ở những vị trí
khác nhau, nhng lại đòi hỏi giáo viên quan sát vị trí học sinh ngồi để học
sinh nhận xét hình nhìn thấy đúng nh ý đồ chuẩn bị của giáo viên, việc này
không khó nếu khi giáo viên bầy mẫu đã đi quan sát trớc một lần.
- Đối với việc quan sát, nhận xét mầu sắc (đậm nhạt) của vật mẫu. Hệ
thống bài vẽ theo mẫu ở tiểu học, về vấn đề quan sát để nhận biết đậm nhạt
cũng rất quan trọng. Khi nhận xét học sinh hiểu đợc đậm nhạt thì sẽ hiểu và
mô phỏng đợc khối. Tuy nhiên đối với những lớp nhỏ nh lớp 1,2,3 việc vẽ
đậm nhạt thực sự cha cần thiết, nhng học sinh cũng phải hình thành đợc khái
niệm đậm và nhạt. Vì thế, ở bài này giáo viên cần hớng dẫn học sinh quan
sát mẫu và nêu nhận xét của mình về đậm nhạt. Bởi vì đối tợng của bài này

đã đợc học và vẽ mĩ thuật trong 4 năm, đặc biệt đây lại là những bài vẽ theo
mẫu cuối cùng của chơng trình tiểu học. Để học sinh nhận biết đợc đậm
nhạt, chúng ta cần chọn một hớng ánh sáng chiếu vào mẫu, giáo viên sẽ
đóng một vế cửa lại chỉ mở một bên để tạo ánh sáng chiếu một chiều vào vật
mẫu. Lúc đó học sinh quan sát mẫu sẽ nhận dạng đợc tối thiểu 3 sắc độ. Một
số giáo viên hớng dẫn quan sát đậm nhạt lại đặt câu hỏi: Em cho biết nhìn
- -
18
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân
mẫu vẽ thấy mấy độ đậm nhạt ? Nh vậy khái niệm của thầy cha cụ thể khiến
nhiều học sinh cha thể hình dung đợc sắc độ là gì. Ngợc lại, nếu giáo viên
thay bằng: Em nhìn lên mẫu thấy phần bên nào là đậm nhất ? Tơng tự nh vậy
đặt câu hỏi với phần sáng nhất. Còn ở giữa em thấy độ đậm nhạt nh thế nào ?
(* ở giữa là độ sáng trung gian). Nếu mẫu đợc chuẩn bị là hai vật có mầu
đậm nhạt khác nhau thì giáo viên cũng cần gợi ý sự quan sát của học sinh
theo cách tơng tự.
* Qua hai ví dụ cụ thể trên chúng ta thấy để bắt đầu học vẽ nói chung
và vẽ theo mẫu nói riêng thì việc quan trọng đó là phải quan sát, nhận xét.
Khi quan sát nhận xét đầy đủ mẫu việc tiến hành vẽ của học sinh sẽ dễ dàng
và ít mắc phải lỗi sai lớn về tỷ lệ, hình dáng. Có thể nói phần hớng dẫn quan
sát nhận xét là điều kiện bất biến để hớng dẫn tiếp học sinh cách vẽ.
c/. Vấn đề thứ ba: Hớng dẫn học sinh cách vẽ.
Cấu tạo của tiết vẽ theo mẫu đợc chia làm hai phần: Phần một là hớng
dẫn; phần hai là thực hành. Thời gian cho hai phần này cũng khác nhau:
Phần hớng dẫn rất quan trọng nhng giáo viên lại không đợc giảng quá nhiều
chỉ nên chiếm 1/4 hoặc 1/3 tiết học (khoảng 10 - 15 phút) trong đó lại gồm 2
phần hớng dẫn đó là: hớng dẫn quan sát, hớng dẫn cách vẽ. Phần quan sát
chúng ta vừa đợc tìm hiểu xong. Riêng phần cách vẽ giáo viên cũng nên h-
ớng dẫn học sinh cụ thể và đơn giản theo một số nội dung sau:

a/. Hớng dẫn về bố cục (cách sắp xếp): Trớc hết bài vẽ bao giờ giáo
viên cũng cần phải hớng dẫn học sinh xây dựng ý đồ với một bố cục đẹp, tức
là sắp xếp phải cân đối, thuận mắt. ở phần hớng dẫn này giáo viên vẫn thờng
xuyên không chú ý tới vai trò của nó, mà thờng hớng dẫn qua loa, không cơ
bản và nhất quán khiến cho các em hay vẽ nhỏ quá (phổ biến) và vẽ lệch
trang giấy. Nh vậy kết quả bài vẽ cha đẹp mắt không dám nói nhiều bài còn
thấy khó chịu. Vì vậy, tôi đa ra một phơng pháp để thay đổi cách tiếp nhận
kiến thức của học sinh. Nhằm khắc phục một số yếu điểm của phơng pháp
cũ. Nếu trớc đây giáo viên thờng chỉ nói áp đặt cho học sinh các em không
đợc vẽ nhỏ quá, to quá hoặc lệch trái, lệch phải. Nh vậy học sinh sẽ không
khắc sâu, thậm chí nhiều em không chú ý, dẫn đến tác dụng của lời nhắc
đó ít hiệu quả. Còn theo tôi để hớng dẫn học sinh vào vấn đề thì nên đặt học
sinh trong hoàn cảnh đó: Giáo viên treo trực quan bao gồm 4 hình vẽ vật
- -
19
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân
mẫu trong đó có: một hình đợc vẽ rất nhỏ ở giữa trang giấy; một hình có
hình vẽ lệch sát sang một mép của trang giấy; một hình vẽ thật lớn kín hết cả
chiều cao giấy và cuối cùng một hình vẽ cân đối đẹp mắt. Sau đó cho học
sinh tự chọn và nhận xét bài đẹp nhất (các bài đợc đánh số từ 1 - 4 theo thứ
tự nh trên). Khi học sinh đợc quan sát, nhận xét thì việc tìm ra bài vẽ thứ 4
đẹp là điều rất dễ dàng. Qua đó giáo viên đặt câu hỏi ngợc lại: Tại sao hình
1,2,3 lại là hình cha đẹp ?. Và tất cả những lý do ấy đợc học sinh nêu ra một
cách rõ ràng, nếu trả lời cha đầy đủ giáo viên có thể bổ sung (vẫn theo hớng
gợi ý) nhằm phát huy tính tích cực ở học sinh.
Nh vậy cái hình ảnh gọi là, không đẹp, cha đẹp ấy (hình 1,2,3) sẽ đợc
học sinh ghi đậm trong trí nhớ của mình, thờng thì tâm lý trẻ hình tợng bao
giờ cũng dễ nhớ hơn và nhớ lâu hơn. Điều đó sẽ dẫn đến kết quả học sinh khi
vẽ phải nghĩ ngay tới bài đẹp nhất để bắt trớc hay làm theo. Nh vậy, tránh đ-

ợc hiện tợng học sinh vẽ theo sự sắp xếp tự do không có chuẩn mực nào cả.
b/. Hớng dẫn học sinh vẽ hình chung của mẫu.
Vẽ theo mẫu, tức là nhìn mẫu rồi mô phỏng lại mẫu, mà muốn mô
phỏng đợc mẫu học sinh cần có khái niệm vẽ, hình thành đợc các bớc vẽ
trong đó bớc vẽ hình chung cho mẫu đợc ví nh thợ xây dựng muốn xây đợc
cái nhà thì phải cần xây cái móng, cũng nh vậy muốn vẽ đợc theo mẫu thì
dựng hình chung cũng là nền tảng cho bài vẽ. Khung hình chung có nghĩa là
hình của mẫu vẽ đợc chứa chọn vẹn bên trong khung hình ấy. Khi xác định
bố cục của bài vẽ chiếm bao nhiêu giấy tức là khung hình chung sẽ chiếm
từng ấy. Khi vẽ khung hình chung học sinh chủ động đợc tỷ lệ với trang giấy
là điều mà mỗi giáo viên chúng ta ai cũng rất cần.
Việc hớng dẫn vẽ khung hình chung này đợc đơn giản và hiệu quả thì
phần quan sát nhận xét sẽ đóng một vai trò tơng đối quan trọng. VD nh trong
phần vẽ khung hình chung này đã đợc giáo viên hớng dẫn học sinh quan sát
bằng cách đục lỗ trên tấm bìa. Do đó, khái niệm hình chung đến với học sinh
sẽ dễ dàng hơn. Nếu ở phần hớng dẫn quan sát nhận xét giáo viên không sử
dụng phong pháp đó. Khi giáo viên hớng dẫn học sinh vẽ khung hình chung
cần đặc biệt chú ý tới tỷ lệ (tức là chiều rộng so với chiều cao). Nếu khung
hình có tỷ lệ chuẩn thì việc mô phỏng mẫu sẽ khó giống thực.
- -
20
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân
Ngay từ đầu, khi giáo viên hớng dẫn học sinh vẽ hình chung cần phải
yêu cầu học sinh không đợc dùng thớc kẻ để kẻ hình chung. Thông thờng
khi giáo viên minh họa trên bảng học sinh thấy hình chung vốn thờng là hình
chữ nhật hay hình vuông cho nên tiện thể dùng thớc kẻ để kẻ cho thẳng, đó
thực sự là một thói quen cần phải định hớng lại ngay từ bây giờ bởi lúc này
các em mới đang bắt đầu làm quen với mĩ thuật. Vẽ theo mẫu trong chơng
trình mĩ thuật tiểu học còn có rất nhiều bài có dáng hình dạng nét thẳng cho

nên giáo viên không uốn nắn ngay từ bây gì thì các em sẽ tạo thành thói
quen, lối mòn khó gỡ bỏ. Phân môn vẽ theo mẫu luyện tập khả năng vẽ nét
và đậm nhạt, trong đó vẽ nét là yếu tố rất quan trọng. Khi tay đã vẽ luyện nét
thuần thục rồi thì việc vẽ các phân môn khác là rất khả dĩ. Chính vì vậy , mà
giáo viên không đợc để các em (học sinh) dùng thớc kẻ hoặc compa để vẽ
theo mẫu nếu vẽ nh vậy thì nét vẽ của học sinh không mềm mại, thay vào đó
là nét vẽ cứng nhắc, đơn điệu, việc tạo nên nét vẽ đơn điệu và cứng nhắc là
điều gây cản trở lớn khi học sinh học cao lên, đòi hỏi vẽ mẫu khó hơn.
c/.Tìm và xác định vị trí của các bộ phận chi tiết trên mẫu vẽ.
Khi hoàn thành đợc hình chung của mẫu rồi, việc tiếp theo của giáo
viên trong phần hớng dẫn cách vẽ là hớng dẫn học sinh xác định một số bộ
phận chi tiết. VD nh: Đối với các khối cơ bản cần xác định các mặt, đối với
các vật dụng thì cần xác định các bộ phận chi tiết trên vật dụng đó. Phần này
học sinh sẽ làm tơng đối nhanh, giáo viên cũng không nên hớng dẫn nhiều
bởi nó sẽ thừa vì phần hớng dẫn quan sát nhận xét giáo viên đã cụ thể rõ
ràng. Nh vậy, giáo viên cần tập trung hớng dẫn học sinh một số thao tác vẽ
(cách dựng hình cơ bản), những thao tác này vẫn còn nhiều giáo viên bỏ qua,
hoặc xem nhẹ dẫn đến học sinh cũng vẽ đại khái.
Trớc hết giáo viên cần hớng dãn học sinh vẽ đợc trục đối xứng cho bài
vẽ có mẫu cân đối, đối xứng, có chiều đứng nh một số mẫu: Cái cốc, khối
hộp, cái phích, cái bát khi học sinh xác định đợc trục đối xứng thì việc vẽ
mẫu sẽ không bị đổ ngả đổ nghiêng.
Tiếp theo giáo viên yêu cầu học sinh nêu lại những gì ở phần quan sát
nhận xét tìm ra và cho một học sinh lên bảng đánh dấu vị trí các bộ phận
riêng lẻ của mẫu. Lúc này cái mới ở đây là đã đa học sinh thực sự vào hoàn
cảnh có vấn đề. Với khung hình chung và trục đối xứng (nếu có) giáo viên
- -
21
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân

đã minh họa xong qua từng bớc hớng dẫn, thì việc học sinh đánh dấu vị trí
của các bộ phận theo nhận xét của chính mình và của các bạn khác là điều
hoàn toàn có thể. Làm nh vậy vừa tạo đợc không khí học tập sôi nổi, vừa tập
trung đợc nhiều ý kiến của học sinh, và giáo viên quan sát lớp học dễ hơn,
kịp thời nhắc nhở những em dới lớp.
d/. Hớng dẫn học sinh vẽ phác bằng nét thẳng:
Tới phần này thì bài vẽ đã đang dần hiện bộ khung của bài. Để vẽ đợc
bài giáo viên không nên cho học sinh vẽ nét cong giống thực luôn mà phải
vẽ phác bằng nét thẳng trớc. ở bớc này giáo viên cũng yêu cầu học sinh
luôn: khi phác hình phải dùng bút chì, nhng vẽ nhẹ tay để tạo thành nét mờ.
Một lần nữa giáo viên nhắc lại vẽ phác bằng nét thẳng chứ không phải kẻ nét
thẳng bằng thớc kẻ.
Phần này việc quan trọng là làm thế nào để cho học sinh hiểu có bớc
vẽ nét thẳng thì hình vẽ sẽ chuẩn và dễ đẹp hơn là chúng ta vẽ nét cong ngay.
Lúc đó giáo viên sẽ sử dụng phơng pháp trực quan bằng thị phạm, giáo viên
vẽ minh họa hai kiểu vẽ cùng thể hiện một hình tròn: kiểu thứ nhất lấy tay
ngoáy luôn hình tròn tất nhiên giáo viên phải ngoáy hơi méo, hơi vẹo (bởi lẽ
học sinh khó có thể vẽ đợc tròn bằng cách này, còn giáo viên minh họa
nhiều thì có thể vẽ đơn giản); kiểu thứ hai, cũng vẽ hình tròn nhng giáo viên
vẽ một hình vuông trớc sau đó vát cạnh, góc vuông dần dần cuối cùng tạo đ-
ợc hình tròn đúng với khung hình và hình tròn sẽ chuẩn và đẹp. Mục đích
của cách minh họa này là học sinh so sánh đợc 2 cách vẽ: một cách có
khung hình chung và một cách không có khung hình chung và để học sinh
thấy cách thứ hai là cách nên làm theo. Lúc này giáo viên cho học sinh trả
lời câu hỏi: Nếu ta vẽ theo mãu nếu cứ vẽ hình luôn vào vở không cần xác
định khung hình gì thì kết quả theo em sẽ nh thế nào ?. Giáo viên sẽ để cho
học sinh thoả mái trả lời theo suy nghĩ của mình, sau nhiều ý kiến giáo viên
sẽ giải thích thêm và hớng dẫn các em vẽ phác nét thẳng theo mẫu bầy trên
bảng. Việc giáo viên vẽ phác sẽ tác động trực tiếp tới ý thức của học sinh
cũng có khi là tích cực cũng có khi là không tích cực: VD nh: Nhiều em thấy

giáo viên vẽ phác nét thẳng thì mình cũng bắt trớc vẽ nét thẳng nhng bằng
bút mực, khiến hình vẽ bị bẩn và rất rối mắt nếu vẽ tiếp các bớc khác. Điều
- -
22
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân
đó chứng tỏ học sinh vẫn cha hiểu thật sâu là nét thẳng chỉ để làm khung x-
ơng sau lại tẩy đi ngay.
Vì vậy, mà giáo viên nên cho học học sinh đợc trả lời vấn đáp nhiều
giúp các em hiểu rõ tác dụng cũng nh hiệu quả của vẽ phác nét thẳng, để
tránh tình trạng học sinh vẽ vu vơ, hay vẽ nét tự do.
e/. Hớng dẫn vẽ chi tiết (vẽ mô phỏng giống mẫu):
Bớc vẽ này có thể coi là bớc cuối (hoàn thiện hình) đối với các lớp nhỏ
(1,2,3), còn đối với các lớp lớn (4,5) chúng tta sẽ hớng dẫn thêm một bớc
nữa (vẽ đậm nhạt). Vẽ chi tiết tức là học sinh sẽ vẽ những gì các em quan
sát, so sánh, nhận xét và nhìn thấy trên vật mẫu. Đích cuối cùng của bài vẽ
theo mẫu đối với học sinh tiểu học là mô phỏng đợc mẫu. Sau các bớc quan
sát, dựng hình, phác hình thì bớc này có thể nói là bớc hoàn thiện. Từ những
nét vẽ phác trông bản thân nó đã gần giống mẫu, giáo viên chỉ cần hớng dẫn
học sinh vẽ bám theo các nét thẳng để hoàn thiện. Việc hớng dẫn học sinh,
giáo viên cần chú ý tới đối tợng của mình dới lớp. Cũng có nhiều em có năng
khiếu hoặc tiếp thu nhanh và dễ dàng vẽ bài, nhng cũng có nhiều em do khả
năng của bản thân và yêu cầu của bộ môn vẫn cha đáp ứng đợc hay vẽ còn
lúng túng, thao tác còn vụng về. Chính vì điều đó mà giáo viên phải sử dụng
những phơng pháp phù hợp để các em giỏi, có năng khiếu vẫn thích thú, các
em yếu lấy đó làm lời động viên, khích lệ và có hứng thú học tập hơn. Phần
này giáo viên không nên giảng áp đặt: Giả dụ các bớc trớc giáo viên đã minh
họa xong (đã vẽ bằng nét thẳng rồi). Trên cơ sở mẫu, giáo viên đặt câu hỏi
tập trung vào các bộ phận chi tiết của mẫu. VD: bài vẽ cái cốc (bài 13 MT2
trang 28) khi phác nét thẳng xong giáo viên đặt câu hỏi: Phần miệng của cốc

và đáy của cốc là những nét gì ? (*Miệng và đáy là nét cong đều). Giáo viên
?: Tại sao ta không để miệng cốc và đáy cốc là những nét thẳng ? (*nét vẽ
cha giống thực). Giáo viên sẽ giảng giải thêm nét thẳng chỉ là nét mà chúng
ta làm cơ sở để vẽ nét cong, hay nói khác đi là vẽ nét cong phải dựa, bám sát
vào những nét thẳng, có nh vậy hình vẽ sẽ không bị méo hay lệch lạc.
Trong lúc vấn đáp học sinh thì giáo viên vừa giảng vừa nhận xét và
vừa minh họa bảng. Vì nét vẽ bằng phấn của giáo viên ở bớc vẽ phác nét
thẳng vẫn còn mờ, khiến hình vẽ minh họa bảng sẽ bị nét chồng. Giáo viên
- -
23
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân
sẽ hớng dẫn học sinh vẽ nét chi tiết xong cần phải tẩy bỏ các nét chờm ra
ngoài (nét phác) để hình vẽ gọn gàng hơn.
Phần cuối của bớc này giáo viên cần cho học sinh xem minh họa trên
giấy khổ lớn, giáo viên sẽ vẽ hai hình trên 1/2 tờ giấy A
0
(khổ 60 x 80 cm).
Một hình vẽ phác nét thẳng, một hình vẽ chi tiết tất nhiên là phải theo mẫu
bài vẽ cụ thể của bài dạy. Khi học sinh xem tranh các em sẽ có khái niệm
hình vẽ trên giấy một cách rõ ràng hơn.
g/. Hớng dẫn học sinh vẽ đậm nhạt:
Riêng phần này chỉ cần áp dụng cho đối tợng là học sinh thuộc lớp
cuối cấp nh lớp 4,5. Tuy nhiên đối với lớp nhỏ (1,2,3) cũng cần phải nói qua
để các em dần hiểu. Bởi vì, vẽ đậm nhạt đòi hỏi học sinh phải có kiến thức
vững về hình rồi thì mới vẽ đợc đậm nhạt, nó còn thể hiện cả tình cảm cảm
thụ mẫu, cảm thụ cái đẹp. Khi tới phần hớng dẫn này giáo viên cần chú ý
ngay từ đầu tiết học để bầy mẫu sao cho hợp với hớng ánh sáng, đảm bảo đ-
ợc một bên mẫu sẽ tối, một bên sẽ sáng để học sinh quan sát sẽ thấy độ đậm
độ nhạt trên mẫu ngay.

Đậm nhạt là một khái niệm tơng đối trừu tợng đối với học sinh mới
học mĩ thuật. Vả lại, vẽ theo mẫu về sau này (các cấp học cao hơn) thì không
thể thiếu đợc vẽ đậm nhạt. Do đặc diểm đó, giáo viên cũng không nên đòi
hỏi quá cao ở học sinh và cũng không nên quá coi nhẹ vấn đề này. ở tiểu
học yêu cầu học sinh bớc đầu nhận biết đợc đậm nhạt khi vẽ theo mẫu tức là
cần vẽ đợc ba độ đậm nhạt: Sáng, tối, trung gian. Nhng vấn đề ở đây là giáo
viên làm thế nào để hớng dẫn học sinh hiểu đợc ba sắc độ tối thiểu ấy.
Cũng nh nhiều phần hớng dẫn trớc giáo viên sẽ sử dụng một số phơng
pháp tích cực rất đặc thù của bộ môn để các em tiếp thu bài một cách hiệu
quả. Giáo viên vẫn sử dụng phơng pháp trực quan, vấn đáp, nhng vấn đáp
nên hỏi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Cụ thể ở phần này giáo viên
nên đặt câu hỏi để học sinh tìm đợc phần nào là phần đậm nhất, phần nào là
phần sáng nhất, giữa đậm và nhạt (sáng) là độ đậm gì? Nó không phải là
đậm và cũng không phải là nhạt vậy sẽ là độ đậm trung gian của sáng - tối.
Khi giáo viên đặt câu hỏi tìm độ đậm nhất: VD: Em hãy tìm trên mẫu phần
nào trông đậm nhất ?. Nh vậy, học sinh sẽ quan sát và nhận xét sau đó đa ra
- -
24
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Nguyễn
Phi Lân
kết quả ngay. Tơng tự nh vậy, giáo viên hỏi các độ đậm nhạt khác học sinh
cũng sẽ tìm ra dễ dàng. Tới lúc đó giáo viên sẽ giảng giải độ đậm nhạt có do
đâu? và tại sao lại cần độ đậm nhạt?: Giáo viên treo bài mẫu (đã chuẩn bị)
hoàn thiện có đậm nhạt lên bảng để học sinh quan sát.
Trớc khi giảng giáo viên nên đặt câu hỏi gợi t duy của học sinh: Em
biết độ đậm nhạt trên mẫu do đâu mà có không? (*do ánh sáng chiếu vào
mẫu). Câu hỏi này nếu học sinh chú ý nghe giảng và t duy một chút các em
sẽ hiểu đợc ngay. Khi học sinh trả lời xong giáo viên tiếp tục giảng cho học
sinh hiểu hơn về đậm nhạt: Đậm nhạt do ánh sáng chiếu vào mẫu, có chỗ
ánh sáng chiếu đợc vào có chỗ không chiếu vào đợc và tạo ra ranh giới sáng

(có ánh sáng chiếu trực tiếp), tối (không có ánh sáng chiếu trực tiếp), trung
gian (có ánh sáng ít, chiếu gián tiếp). Và giáo viên cần giải thích vẽ đậm
nhạt cần cho vẽ theo mẫu là sẽ diễn tả đợc không gian của mẫu, biểu đạt đợc
khối của vật mẫu. Nếu chỉ vẽ nét không thì trông bài vẽ giống hình học
phẳng, còn nếu vẽ đậm nhạt trông bài vẽ sẽ nổi khối tức là trông giống nh ở
ngoài thực, tạo cảm giác nh có thể cầm, lấy và luồn tay vào mẫu vẽ của bài
vẽ.
* Toàn bộ các bớc hớng dẫn này nó có một vai trò rất quan trọng, tuy
là rất dài, nhng chúng ta cũng chỉ đợc hớng dẫn cho các em trong vòng 5 - 7
phút mà thôi. Trong thực tế giảng dạy giáo viên vận dụng linh họat các bớc:
Có thể gộp 2 bớc làm một hoặc cũng có thể lợc bỏ bớt bớc. VD: bớc 5 đối
với học sinh lớp 1 nếu giáo viên hớng dẫn học sinh bớc này thì bất khả dụng,
bởi vì các em cha đủ kiến thức về hình thì làm sao vẽ đợc đậm nhạt. Do vậy,
đối với đối tợng này giáo viên có thể bỏ qua bớc này. Để áp dụng phơng
pháp tôi đề ra, dới đây là một ví dụ về cách hớng dẫn học sinh vẽ theo mẫu.
Bài vẽ cái xô: (bài 9 MT lớp 5 trang 20).
* Cách dạy cũ: Thờng giáo viên không chuẩn bị đợc mẫu mà vẽ hình
cái xô lên bảng rồi hớng dẫn các em cách vẽ, theo các bớc:
+ Ước lợng chiều cao (cả miệng xô) và chiều ngang, em vẽ khung
hình chữ nhật trớc (nhớ để giấy để vẽ quai xô).
+ Tìm phần miệng xô và xác định các điểm chính của miệng.
+ Ước lợng chiều ngang đáy xô.
- -
25

×