Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ của bệnh newcastle và tình hình sử dụng vacxin phòng bệnh ở gà nuôi tập trung tại huyện đồng hỷ, tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.28 MB, 84 trang )

bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học nông nghiệp hà nội










Nguyễn thị quanh


NGHIấN CU MT S C IM DCH T CA BNH
NEWCASTLE V TèNH HèNH S DNG VACXIN PHềNG
BNH G NUễI TP TRUNG TI HUYN NG H,
TNH THI NGUYấN



Chuyên ngành : thú y
M số : 60.64.04.01


Ngời hớng dẫn khoa học:
Pgs.ts. trơng quang






Hà nội - 2013
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
i

LỜI CAM ðOAN

Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và hoàn toàn chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ để thực hiện luận văn này đã được cảm
ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2013
Tác giả

Nguyễn Thị Quanh










Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
ii


LỜI CẢM ƠN

Trước hết tôi xin cảm ơn tới các Thầy cô giáo trường Đại học Nông nghiệp
Hà Nội nói chung và các Thầy cô trong Khoa Thú Y nói riêng đã giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin cảm ơn PGS.TS Trương Quang - Thầy đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình thực tập và hoàn thành luận văn này.
Đồng thời tôi cũng xin cảm ơn đến các thầy cô Bộ môn Vi sinh vật –Truyền
nhiễm, Khoa Thú Y trường Đại học nông nghiệp Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ và
tạo điều kiện thuận lợi nhất để tôi thực hiện đề tài của mình.
Tôi xin cảm ơn chân thành nhất tới gia đình, anh em, bạn bè và đồng nghiệp
đã động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn này.
.
Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2013
Tác giả

Nguyễn Thị Quanh


Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
iii

MỤC LỤC

Lời cam ñoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục bảng vi
Danh mục chữ viết tắt vii
MỞ ðẦU 1

1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 2
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1. Lịch sử và tình hình nghiên cứu bệnh Newcastle 3
1.1. Lịch sử bệnh 3
1.2. Tình hình nghiên cứu bệnh Newcastle trên thế giới và trong nước. 4
1.2.1. Trên thế giới 4
1.2.2. Trong nước 7
2.1. Virus Newcastle và bệnh do chúng gây ra 10
2.1.1. Virus Newcastle 10
2.2. Bệnh Newcastle 15
2.2.1. Loài vật mắc bệnh 15
2.2.2. Đường truyền lây của virus 15
2.2.3. Cơ chế sinh bệnh 17
2.2.4. Các thể bệnh Newcastle 17
2.2.5. Bài xuất virus 18
2.2.6. Triệu chứng 18
2.2.7. Bệnh tích 20
2.2.8. Chẩn đoán 21
2.2.9. Miễn dịch đối với bệnh Newcastle 22
2.2.10. Phòng bệnh 25
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
iv

CHƯƠNG 2 NỘI DUNG – VẬT LIỆU - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU 29
2. Nội dung 29
2.1. Một số đặc điểm dịch tễ học bệnh Newcastle 29
2.1.1. Tỷ lệ chết ở các giống gà nuôi trên địa bàn nghiên cứu 29

2.1.2. Tỷ lệ chết ở gà các lứa tuổi 29
2.1.3. Các tháng xảy ra bệnh 29
2.1.4. Một số bệnh tích đặc trưng của bệnh Newcastle 29
2.1.5. Xác định sự có mặt của virus trong bệnh phẩm (óc gà) nghi mắc
bệnh Newcastle 29
2.2. Tình hình sử dụng vacxin phòng bệnh Newcastle 29
2.2.1. Lịch sử dụng vacxin cho các đàn gà thịt, gà trứng 29
2.2.2. Kiểm tra hiệu giá kháng thể Newcastle trong huyết của gà ở các đàn
gà xảy ra bệnh 29
2.3. Nguyên liệu 29
2.4. Phương pháp nghiên cứu 30
2.4.1. Lập phiếu điều tra để chủ động thu thập thông tin liên quan 30
2.4.2. Phương pháp xác định sự có mặt của virus Newcastle trong nước
trứng sau khi gây nhiễm huyễn dịch não gà nghi bệnh 30
2.5. Phương pháp kiểm tra hiệu giá kháng thể Newcastle trong huyết
thanh của gà ở đàn xảy ra bệnh 33
2.6. Phương pháp xử lý số liệu 35
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 36
3.1. Một số đặc điểm dịch tễ của bệnh Newcastle 36
3.1.1. Tỷ lệ chết do bệnh Newcastle ở các giống gà nuôi tại huyện
Đồng Hỷ, Thái Nguyên 36
3.1.2. Tỷ lệ chết do bệnh Newcastle ở gà các lứa tuổi 38
3.1.3. Phân bố ổ dịch Newcastle ở các đàn gà trong các tháng nghiên cứu
tại huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên 42
3.1.4. Kết quả mổ khám kiểm tra bệnh tích ở gà trong đàn đang xảy ra
bệnh Newcastle 45
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
v

3.1.5. Kết quả gây nhiễm phôi gà bằng huyễn dịch não của gà trong đàn

đang xảy ra bệnh Newcastle 48
3.2. Tình hình sử dụng vacxin phòng bệnh Newcastle cho những đàn gà
nuôi tập trung tại huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên 51
3.2.1. Đối với các đàn gà thịt 52
3.2.2. Đối với các đàn gà trứng thương phẩm 54
3.2.3. Kiểm tra hiệu giá kháng thể Newcastle trong huyết thanh của gà ở
các đàn xảy ra bệnh 59
KẾT LUẬN VÀ ðỀ NGHỊ 61
1. Kết luận 61
2. Đề nghị 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO 63
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
vi

DANH MỤC BẢNG

STT Tên bảng trang
Bảng 3.1. Tỷ lệ chết do bệnh Newcastle ở các giống gà nuôi tại huyện Đồng
Hỷ, Thái Nguyên. 37
Bảng 3.2a.Tỷ lệ chết do bệnh Newcastle ở gà các lứa tuổi của giống gà thịt
nuôi công nghiệp. 39
Bảng 3.2b.Tỷ lệ chết do bệnh Newcastle ở gà các lứa tuổi của giống gà thả
vườn 40
Bảng 3.2c. Tỷ lệ chết do bệnh Newcastle ở gà các lứa tuổi của giống gà
trứng thương phẩm. 41
Bảng 3.3 Phân bố ổ dịch Newcastle xảy ra ở các đàn gà trong các tháng
nghiên cứu 43
Bảng 3.4. Kết quả mổ khám kiểm tra bệnh tích ở gà trong đàn đang xảy ra
bệnh Newcastle 46
Bảng 3.5. Kết quả gây nhiễm phôi gà bằng huyễn dịch não của gà trong đàn

đang xảy ra bệnh Newcastle 49
Bảng 3.6a. Lịch sử dụng vacxin và đường đưa vacxin đối với các đàn gà thịt 53
Bảng 3.6b. Liên quan giữa việc sử dụng vacxin phòng bệnh Newcastle với tỷ
lệ đàn bị bệnh và tỷ lệ gà chết do bệnh đối với gà thịt 54
Bảng 3.6c. Lịch sử dụng vacxin và đường đưa vacxin đối với gà trứng 55
Bảng 3.6d. Liên quan giữa việc sử dụng vacxin phòng bệnh Newcastle với tỷ
lệ đàn bị bệnh và tỷ lệ gà chết do bệnh đối với các đàn gà trứng 57
Bảng 3.7. Kết quả kiểm tra hiệu gía kháng thể Newcastle trong huyết thanh
của gà trong đàn xảy ra bệnh 59

Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
vii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ILT : Infectious Laryngo Tracheitis – Viêm thanh khí quản truyền nhiễm
ICPI : Intracerebral pathogenicity Index- Chỉ số gây bệnh khi tiêm não gà
con 1 ngày tuổi
IVPI : Intravenous pathogenicity Index- Chỉ số gây bệnh khi tiêm
tĩnh mạch gà 6 tuần tuổi.
HA : Heamagglutination Test – Phản ứng ngưng kết hồng cầu
HI : Heamagglutination Inhibition Test – Phản ứng ngăn trở ngưng
kết hồng cầu.
MDT : Mean Death Time – Thời gian trung bình gây chết phôi
(đơn vị tính bằng giờ) với liều tối thiểu gây chết 100% phôi
IB : Infectious Bronchitis – Bệnh viêm phế quản truyền nhiễm
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
1

MỞ ðẦU


1.1. ðặt vấn ñề
Để nâng cao đời sống cho nhân dân phát triển nông lâm nghiệp, phát triển
xã hội, Đảng và nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến khích nông nghiệp phát
triển như: giao đất, giao rừng, khuyến khích nông dân làm kinh tế VAC, VACR
Nhờ vậy mà nông nghiệp đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Ngành chăn nuôi nói
chung và chăn nuôi gia cầm nói riêng đã chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân. Chăn nuôi gia cầm là nguồn cung cấp thực phẩm cho con
người và cung cấp nguyên liệu cho ngành chế biến.
Trong những năm gần đây, bên cạnh những giống gà địa phương hiện có
như: gà Mía, gà Đông Tảo, gà Hồ, gà Ri…người dân đã tiếp nhận nuôi một số giống
gà cao sản theo phương thức công nghiệp như: Hubbard, Ros308, ISA-Brown,
…cho năng xuất và hiệu quả kinh tế cao
Huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên là một huyện có nhiều điều kiện thuận lợi
để phát triển chăn nuôi gà. Trong những năm qua, nhiều gia trại, trang trại được đầu
tư với quy mô lớn nuôi hàng trăm con. Chăn nuôi gà đã góp phần quan trọng trong
việc xóa đói giảm nghèo cho người dân trong huyện. Nhiều hộ gia đình đã vươn lên
làm giàu từ chăn nuôi gà.
Trên thị trường có rất nhiều giống gà bán ra nhưng không rõ nguồn gốc cơ sở
sản xuất. Trong quá trình chăn nuôi, một tỷ lệ nhất định một số bệnh truyền nhiễm,
trong đó có bệnh Newcastle. Mặc dù gà đã được phòng bệnh bằng các loại vacxin
theo đúng hướng dẫn của nhà sản xuất nhưng bệnh vẫn rải rác xảy ra. Đàn gà bị
bệnh nhưng triệu chứng, bệnh tích không đặc trưng, khó chẩn đoán. Đây chính là
một trong những nguyên nhân quan trọng gây thiệt hại cho người chăn nuôi.
Vì thế để góp phần làm rõ thực trạng tình hình bệnh và tìm ra những tồn tại,
thiếu sót trong quá trình chăm sóc nuôi dưỡng, phòng chống bệnh Newcastle cho gà
ở địa phương, chúng tôi tiến hành đề tài :“Nghiên cứu một số ñặc ñiểm dịch tễ của
bệnh Newcastle và tình hình sử dụng vacxin phòng bệnh ở gà nuôi tập trung tại huyện
ðồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.”
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp

2

1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học của bệnh Newcastle ở gà nuôi tập trung.
Tình hình sử dụng vacxin phòng bệnh cho gà nuôi tại đại phương.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của ñề tài
Góp phần làm rõ thêm đặc điểm dịch tễ học và những tồn tại, thiếu sót trong
việc sử dụng vacxin phòng bệnh Newcastle ở các đàn gà nuôi tập trung trong các gia
đình trên địa bàn huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, giúp người chăn nuôi hiểu rõ hơn về bệnh
Newcastle và khắc phục những tồn tại, những thiếu sót trong việc chăm sóc, nuôi
dưỡng và phòng bệnh để chăn nuôi ổn định, phát triển.
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1. Lịch sử và tình hình nghiên cứu bệnh Newcastle
1.1. Lịch sử bệnh
Bệnh ở gà tại nước Anh xảy ra năm 1926 theo tài liệu ghi chép có liên quan
đến một con tàu vận chuyển thịt đông lạnh mang theo gà nuôi, di chuyển từ
Indonesia, Châu Á đến cảng của Newcastle (Alexander, 1988). Sau một khoảng thời
gian ngắn, bệnh không chỉ xảy ra ở Anh mà còn xuất hiện ở các nước khác như, Hàn
Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản do chủng virus có độc lực cao.
Bệnh Newcastle có thể đã có từ lâu nhưng chưa được nghiên cứu. Cho đến
năm 1926, Kraneveld đã có thông báo đầu tiên về một bệnh truyền nhiễm của gà lây
lan mạnh, tỷ lệ chết cao xảy ra ở Java, Indonesia. Cùng năm này tại thành phố
Newcastle của nước Anh một ổ dịch ở gà tương tự đã xảy ra. (Doyle,1927). Ông
đã phân lập được mầm bệnh và cũng là người đầu tiên bằng phản ứng huyết thanh

học đã chứng minh mầm bệnh có tính kháng nguyên khác với virus dịch tả gà
trước đó. Để kỷ niệm nơi đã xảy ra bệnh và phân lập đầu tiên được mầm bệnh,
người ta đã gọi bệnh này là bệnh Newcastle.
Năm 1951, bệnh lan tới Hawaii, Canada và tiếp tục lan rộng sang Châu Âu
và nhiều vùng khác nhau của Châu Phi.
Theo Bankowski (1964), trong cùng thời gian đó, các thể bệnh không điển
hình cũng được phát hiện ở nhiều nơi trên thế giới.
Năm 1971, bệnh xảy ra ở California gây thiệt hại lớn về kinh tế. Tính chất
bệnh nghiêm trọng hơn ở Châu Âu và Trung Đông. Các chuyên gia thú y ở Mỹ đặt
tên bệnh: “Velogen Viscerotropic Newcastle Disease”.
Năm 1977, hội nghị gia cầm thế giới tổ chức tại Atlanta (Mỹ) đã làm rõ tính
chất bệnh và kết luận: Tất cả các chủng virus phân lập được ở California, Trung
Đông và Châu Âu có cùng serotype.
Năm 1980, tại hội thảo về bệnh Newcastle có sự tham gia của nhiều nhà
nghiên cứu, theo Hanson (1980) virus Newcastle vẫn tồn tại với bản chất của nó
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
4

nhưng dưới dạng một số chủng khác nhau, và gây ra những biểu hiện lâm sàng
không giống nhau.
Ngày nay cùng với sự phát triển của ngành chăn nuôi gia cầm, đặc biệt là
chăn nuôi gà công nghiệp, sự lưu thông hàng hóa giữa các nước trên thế giới mở
rộng nên bệnh có nhiều cơ hội lây lan. Hiện tại bệnh Newcastle ở gà vẫn là mối đe
dọa lớn cho ngành chăn nuôi gà trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
1.2. Tình hình nghiên cứu bệnh Newcastle trên thế giới và trong nước.
1.2.1. Trên thế giới
Chim hoang dã có khả năng mẫn cảm với bệnh Newcastle và là một trong
những nguồn lây lan dịch bệnh, do vậy trong thời gian dài, chim hoang dã là đối
tượng được nghiên cứu rộng rãi ở khắp các nước trên thế giới. Qua nhiều năm
nghiên cứu, (Luthgen, 1981), đã lập một danh sách gồm 117 loài lông vũ, trong đó

có 17 loài bị nhiễm vius Newcastle và thấy phần lớn là do chim tiếp xúc với gà đã
nhiễm bệnh.
Jumaily, 1989, dùng phản ứng HI kiểm tra 341 mẫu huyết thanh của 5 loài
chim hoang dã đã phát hiện có kháng thể kháng virus Newcastle ở một tỷ lệ mẫu với
hiệu giá từ 1/2 - 1/128, trong đó nhóm chim Columbalivia chiếm 8.0%, nhóm
Strepiopelia Decasoto chiếm 2.5%.
Vindevolgel (1997), nghiên cứu bệnh Newcastle ở chim hoang dã thấy virus
nhiễm ở chim bồ câu hầu hết có tính hướng hệ hô hấp, chim có hoặc không có triệu
chứng bệnh. Tác giả cho rằng những chim di cư bị nhiễm tự nhiên trong quá trình
sinh sản cũng truyền kháng thể cho đời sau qua lòng đỏ trứng.
Estudillo (1972), đã mô tả ổ dịch ở Mehico cho thấy gà lôi Nhật, vẹt, công,
chim yến có khả năng mẫn cảm với bệnh và có triệu chứng thần kinh do lây nhiễm
virus Newcastle từ gà bệnh.
Năm 1987, Pearson J.E, và cộng sự , báo cáo kết quả nghiên cứu chủng vius
PMV – 1 phân lập từ chim bồ câu có triệu chứng liệt, vẹo cổ, run rẩy, mất thăng
bằng, và chết. Tác giả đã dùng kháng thể đơn dòng để xác định vius gây bệnh.
Chủng phân lập được dùng gây bệnh cho bồ câu bằng đường tiêm tĩnh mạch, thấy
chim bồ câu có biểu hiện bệnh như ngoài tự nhiên. Nhưng gây bệnh bằng đường
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
5

mũi chỉ có một bồ câu có biểu hiện bệnh; thời gian chết khoảng từ 4 – 25 ngày,
virus bài xuất đến 20 ngày, có bệnh tích viêm ruột dạ dày và hoại tử tuyến tụy. Nếu
gây bệnh cho gà qua lỗ huyệt, mũi hoặc tiêm vào túi khí ở đốt ngực thì gà vẫn khoẻ
mạnh; tiêm vào não gà con chúng có ICPI giống như ở nhóm Velogen và 4 trong 6
chủng virus phân lập có khả năng gây có tác động tới thần kinh ở gà 6 tuần tuổi.
Theo Alaxander (1986), tỉ lệ mắc bệnh Newcastle ở chim bồ câu chiếm từ
30-70%, tỉ lệ chết thấp, dưới 10% nhưng cũng có trường hợp tới 40%.
Theo Sharaway (1994), chim cút ít mẫn cảm với virus Newcastle hơn gà, thời
gian ủ bệnh từ 2-15 ngày, trung bình 5-6 ngày. Triệu chứng bệnh thay đổi tuỳ theo

độc lực của chủng gây bệnh. Nếu nhiễm virus có độc lực cao, chim cút có biểu hiện
ủ rũ, khó thở, bệnh kéo dài vài ngày rồi chết. Quan sát thấy chim cút có thể bị sưng
mắt và cổ, ỉa phân xanh đôi khi có máu, run rẩy, liệt chân, đôi khi liệt cánh. Tỷ lệ
chết có thể tới 90% ở chim cút hậu bị và 50% ở chim cút trưởng thành.
Bệnh ít nghiêm trọng, với triệu chứng chủ yếu là hô hấp và thần kinh. Bệnh
làm giảm năng xuất trứng, trứng có vỏ mềm, và chất lượng trứng giảm. Bồ câu có
thể liệt 1 hoặc cả 2 chân. Trong ổ dịch quá cấp, tỷ lệ chết cao (Gray,1954).
Gà là loài mẫn cảm nhất với bệnh Newcastle
Tại Newzealand, (Tisdal D.J., 1988) phát hiện được kháng thể ngăn cản sự
ngưng kết với virus Newcastle ở gà, gà lôi và công.
Ở Đài Loan, (LuY.S,1986) cho rằng các yếu tố nghi ngờ gây ra ổ dịch
Newcastl từ tháng 2 – tháng 5 /1984 là do gà bị lây nhiễm virus IBD gây suy giảm
miễn dịch và do dùng vacxin không thích hợp đã làm tăng tính gây bệnh của chúng.
Bell J.G.(1988), đã nghiên cứu sự lưu hành virus Newcastle ở 3 vùng có trại
gà chăn nuôi theo hướng công nghiệp và 3 vùng không có trại gà công nghiệp tại
Moroco vào mùa đông năm 1986-1987, bằng cách thu thập mẫu huyết thanh và dịch
khí quản từ 100 gà ở mỗi vùng để kiểm tra. Kết quả cho thấy sự lưu hành virus ở
các vùng phụ thuộc vào phương thức chăn nuôi tập trung hoặc chăn thả.
Ở Nigeria, (Okoye JOA, 1989) xảy ra 2 ổ dịch Newcastle không điển hình,
gà không có triệu chứng thần kinh, chỉ có các dấu hiệu ủ rũ, ỉa phân xanh, tỷ lệ chết
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
6

từ 50-83,6%. Mổ khám thấy dịch thẩm xuất ở niêm mạc khí quản, không xuất huyết
dạ dày tuyến, lách teo, manh tràng xuất huyết có dấu hiệu hoại tử, các tế bào lympho
giảm và đã phân lập được virus Newcastle từ bệnh phẩm.
Arzay G. (1990), nghiên cứu vê cơ chế lây truyền của bệnh Newcastle cho
thấy có vai trò của chim hoang dã, bồ câu, thịt gà, con người, chim cảnh, ruồi, nội
ngoại ký sinh trùng và loài gậm nhấm, thịt gà đông lạnh.
Flanagan M. (1990), gây nhiễm chủng virus Newcastle thuộc nhóm Velogen

cho gà không có miễn dịch, thấy rằng có thể phân lập được virus từ các cơ quan tổ
chức của cơ thể. Ở những gà có kháng thể, virus thường phân lập được từ dạ dày
tuyến, nang lympho manh tràng, não, gà có biểu hiện lâm sàng nhẹ hoặc không và
virus vẫn được nhân lên đến ngày thứ 19 sau khi công cường độc.
Năm 1985, ở Canada (Ide P.R,1987), lần đầu tiên phân lập được virus
Newcastle trong 6 đàn bồ câu vùng Otario, Alberta và British Columbia.
Suarez – Hernandez M, (1987) khảo sát kháng thể kháng virus Newcastle ở
những công nhân chăn nuôi gà. Kết quả cho thấy 26,3% (73/277) người làm việc
trực tiếp ở trại gà và ở 47,8% (110/230) người làm việc gián tiếp, trong huyết thanh
có kháng thể kháng virus Newcastle.
Papacella V và cộng sự (1987) theo dõi ảnh hưởng của bệnh đường hô hấp
gia cầm đối với sức khoẻ của người thấy rằng: không chỉ bệnh cúm gà ảnh hưởng
đến người mà bệnh Newcastle cũng có thể gây bệnh cho người, đầu tiên ở mắt, sau
đó có thể lan sang các tổ chức khác.
Bastami M.A và cộng sự (1986) đã thí nghiệm so sánh đáp ứng miễn dịch của
gà được tiêm các loại vacxin khác nhau: 180 gà được nhỏ mắt bằng vacxin B1 lúc 7
ngày tuổi. Sau đó khi gà được 21 ngày tuổi thì chia thành 5 lô, lô 1 uống vacxin B1, lô
2 uống Lasota, lô 3 uống B1 hấp phụ aluminium hydroxide (AH), lô 4 uốngt Komarrov
và lô 5 tiêm vacxin vô hoạt có bổ trợ dầu. Toàn bộ số gà này được công cường độc lúc
7 tuần tuổi. Kết quả khả năng bảo hộ của vacxin B1 là 87%, vacxin vô hoạt bổ trợ dầu
83%, B1 hấp phụ AH 73%, Lasota 63% và Komarov 60%.
Bassiouni A.A. và cộng sự (1987), nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến
đáp ứng miễn dịch ở gà đối với virus Newcastle: gà 1 ngày tuổi được dung vacxin
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
7

Herpes (vacxin Marek) chủng gà tây, 7 ngày sau dung vacxin B1 hoặc Lasota. Sau
21 ngày chuẩn độ hiệu giá kháng thể thấy thấp hơn gà không dùng chủng Herpes
virus gà tây.
Zheng H.J và cs (1987), dùng vacxin Mukteswar nhỏ mắt hoặc cho gà uống

lúc 16 ngày tuổi, sau 1 tháng được dùng nhắc lại và công cường độc lúc gà 75 ngày
tuổi, kết quả gà có miễn dịch chắc chắn.
Blazin V. (1988), chuẩn độ kháng thể HI ở 8 đàn gà trước và sau khi miễn
dịch bằng khí dung với vacxin B1 và Lasota lúc 4 ngày tuổi và nhắc lại lúc gà 10
hoặc 21 ngày tuổi thì thấy, ở gà 10- 21 ngày tuổi, kháng thể HI không đủ bảo hộ
chống lại các chủng thuộc nhóm Velogen.
Guler E. (1989), kiểm tra kháng thể trong lòng đỏ trứng và huyết thanh của
20 gà 5 tháng tuổi đã được 4-5 lần chủng vacxin B1 và Lasota phòng bệnh
Newcastle. Kết quả thấy kháng thể HI trong lòng đỏ trứng do những gà mẹ đã
phòng vacxin đẻ ra có dao động lên xuống, trong khi đó chuẩn độ huyết thanh vẫn
ổn định và nói chung HI trong lòng đỏ trứng thấp hơn HI trong huyết thanh.
Ở Malaysia, Ibrahim A.L. (1987), thử nghiệm vacxin V4 phòng bệnh
Newcastle cho gà nuôi tại 15 làng, với 2 liều vacxin trong 3 tuần, 60% số gà được
sử dụng vacxin được bảo hộ khi công thử thách virus cường độc. Không có trường
hợp mắc bệnh Newcastle ở đàn gà đã được uống vacxin trong 1 năm sau đó.
1.2.2. Trong nước
Năm 1933 bệnh Newcastle đã được Phạm Văn Huyến phát hiện, gọi là bệnh
dịch tả gà Đông Dương vào năm 1938. Một vụ dịch xảy ra ở gà tại các tỉnh Nam Bộ
được Vitor mô tả có triệu chứng giống bệnh Newcastle đã đề cập.
Năm 1949 tại Nha Trang, Jacottot và Lelouet phân lập được virus Newcastle,
đã dùng chủng này để gây bệnh cho gà và tiêm truyền cho phôi thai gà. Bằng phản
ứng ngưng kết hồng cầu và ức chế ngưng kết hồng cầu, tác giả đã xác định sự có
mặt của virus Newcastle trong bệnh phẩm lấy từ ổ dịch.
Năm 1956, ở Sài Gòn, Nottre và cộng sự đã phân lập được chủng virus
Newcastle. Từ 1955-1957 qua điều tra tình hình dịch bệnh ở 20 tình thành, kiểm tra
189 bệnh phẩm, các tác giả thấy có 58 mẫu có virus Newcastle.
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
8

Trần Đình Từ và cộng sự (1979-1984), xác định độc lực của các chủng virus

vacxin Newcastle đang sử dụng ở Việt Nam bằng phương pháp đã chuẩn hóa của
FAO. Độc lực được xác định dựa trên 3 chỉ số MDT, ICPI và IVPI. Kết quả thấy 3
chủng virus Newcastle đang sử dụng hiện nay có độc lực ổn định. Chủng hệ I thuộc
nhóm Mesogen, cùng loại với chủng H nhưng có độc lực cao hơn và đặc tính gây
bệnh khác với chủng H, do đó Hệ 1 có thể có nguồn gốc từ chủng Mukteswar.
Phan Văn Lục và cộng sự (1996), theo dõi 6 cơ sở nuôi gà ở các tỉnh phía
Bắc, từ năm 1980-1991. Tác giả đã đề xuất lịch sử dụng vacxin thích hợp là: 7 ngày,
21- 28 ngày, 50- 58 ngày và 133 -140 ngày; vacxin sử dụng là Lasota và Hệ I, bằng
phương pháp nhỏ mũi và tiêm dưới da tùy từng loại vacxin. Đồng thời tác giả cùng
cộng sự, đã nghiên cứu mối tương quan giữa hàm lượng kháng thể lưu hành và khả
năng bảo hộ chống lại virus cường độc Newcastle. Kết quả cho thấy: hàm lượng
kháng thể lưu hành nhỏ hơn 2log2 thì gà không có khả năng bảo hộ, do đó cần tiêm
chủng lại. Hàm lượng kháng thể lớn hơn 2log2 và nhỏ hơn 3 log2 thì 1 tháng sau khi
kiểm tra lại kháng thể, nếu hàm lượng kháng thể giữ nguyên hoặc giảm đi thì đàn gà
phải được dùng lại vacxin. Hàm lượng kháng thể lớn hơn 3log2, tỷ lệ chuyển dương
90% thì gà có khả năng chống virus cường độc.
Trong nước cũng đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về vacxin: theo
Nguyễn Thu Hồng (1993), nếu uống vacxin Lasota để phòng bệnh Newcastle với
liều 10-
3
, từ 3– 4 ml/con lúc gà 1 tuần tuổi thì đến 2 tháng rưỡi tuổi còn khả năng
bảo hộ là 63%, nếu cho uống lúc 2 tuần tuổi thì đến 2 tháng rưỡi tuổi vẫn còn bảo
hộ được 100%.
Nguyễn Thu Hồng và cộng sự (1993), thử nghiệm vacxin chịu nhiệt V4
phòng bệnh cho gà ở Việt Nam. Kết quả cho thấy vacxin V4 có ưu điểm hơn Lasota
về tính chịu nhiệt và thời gian bảo quản, ở nhiệt độ thường bảo quản được 1 tháng.
Mặt khác, vacxin có đặc tính gây miễn dịch qua tiếp xúc.
Nguyễn Tiến Dũng và cộng sự (1993), đã nghiên cứu biến chủng của Lasota
có tính chịu nhiệt cao, gây miễn dịch tốt, bảo quản ðýợc ở nhiệt độ 37
o

C.
Vũ Đạt và cộng sự (1989) nghiên cứu những tác nhân gây ảnh hưởng đến quá
trình đáp ứng miễn dịch chống bệnh Newcastle ,cho thấy kháng thể thụ động và
kháng sinh dùng trước hoặc sau khi sử dụng vacxin đều ảnh hưởng đến quá trình
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
9

hình thành kháng thể.
Trần Đình Từ và cộng sự (1994-1995), đã công bố kết quả nghiên cứu vacxin
chịu nhiệt chủng V4 có tên HR-NDV: vacxin thích hợp cho gà chăn thả. Vacxin có
hiệu lực miễn dịch ít nhất là ngang với vacxin Lasota.
Phạm Xuân Tý và cộng sự (2000) đã nghiên cứu sản xuất chế phẩm sinh học
phòng, trị bênh Gumboro và Newcastle cho gà, trong đó:hiệu giá kháng thể kháng
Gumboro (ELISA) trung bình 1/11.755,1 +965,12, hiệu giá kháng thể kháng
Newcastle trung bình 10,37log2+0,69. Chế phẩm đã được đưa vào sử dụng trong
sản xuất, bước đầu cho kết quả tốt.
Nguyễn Thu Hà (2000), bằng phản ứng HI đã xác định tỷ lệ nhiễm virus
Newcastle ở đàn chim cút đã tưng có bệnh là 60%, chưa từng có bệnh là 1,7% và
phương pháp dự báo đã xác định tỷ lệ nhiễm virus Newcastle thực tế của đàn chim
cút kiểm tra là 2,13%.
Chủng virus Newcastle phân lập trên chim cút (CT
2
) và trên gà (VN91) đều
gây bệnh giống nhau ở chim cút.
Có thể dùng vacxin Lasota phòng bệnh cho chim cút bước đầu cho kết quả
tốt
Trần Thị Lan Hương (2001), nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến đáp
ứng miễn dịch chống bệnh Newcastle của đàn gà công nghiệp. Tác giả nhận thấy,
liều lượng vacxin có ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch chống bệnh Newcastle.
Lượng virus trong vacxin thấp thì hàm lượng kháng thể sinh ra thấp và thời gian

bảo hộ ngắn.
Nguyễn Huy Phương (2001), nghiên cứu lịch sử dụng vacxin cho đàn gà thịt
đã khuyến cáo người chăn nuôi nên sử dụng vacxin 3 lần vào các ngày 7, 21, 35
ngày tuổi.
Trương Quang và cộng sự (2005) cho biết những năm gần đây bệnh
Newcastle xảy ra ở các đàn gà nuôi tập trung trong các hộ gia đình thường ở thể
không điển hình. Các nguyên nhân dẫn đến tình trạng bệnh trên là do:
-Lịch sử dụng vacxin không thích hợp.
-Một tỉ lệ nhất định (7,59 -13,15%) gà sau khi uống vacxin có hàm lượng
kháng thể thấp ( <3log2)
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
10

-Con giống không rõ nguồn gốc.
-Đồng thời tác giả khuyến cáo những đàn gà nuôi trên ba tháng tuổi nên cho
uống vacxin Lasota 3 lần lúc gà 7,21 và 35 ngày tuổi sẽ an toàn bệnh Newcastle.
Nguyễn Hồng Minh (2012) đã nghiên cứu sản xuất và thử nghiệm vacxin
nhược độc đông khô đa giá phòng ba bệnh Newcastle, Gumboro và viêm phế quản
truyền nhiễm ở gà. Kết quả cho biết gà sau khi tiêm vacxin vào lúc 7 và 14 ngày
tuổi đều có hiệu giá kháng thể đạt tiêu chuẩn bảo hộ cả ba bệnh theo tiêu chuẩn
ngành và khuyến cáo của OIE, 2008.
Vũ Văn Mong (2012), nghiên cứu thực trạng bệnh Newcastle và tình hình sử
dụng vacxin ở đàn gà nuôi tại Vụ Bản , Nam Định. Kết quả cho biết tỷ lệ chết do
bệnh Newcastle các đàn gà mua con giống từ các cơ sở sản xuất tư nhân luôn cao
hơn so với các đàn mua con giống từ các cơ sở tập trung.
2.1. Virus Newcastle và bệnh do chúng gây ra
2.1.1. Virus Newcastle
2.1.1.1. Hình thái và cấu trúc
Virus Newcastle thuộc họ Paramyxoviridae, phân nhóm PMV – 1 (Tumova,
1979), là virus ARN đa hình thái: hình tròn, hình trụ, hình sợi. Virus có vỏ bọc lipit,

kích thước virion từ 100 – 300nm. Virus có cấu trúc nucleocapsid dạng xoắn ốc dài
1000mm, đường kính 17 – 18nm. Vỏ bọc được phủ các gai glycoprotein (HN – F)
dài 8 – 12nm.
Hệ gen của virus Newcastle là chuỗi đơn ARN có 15.186 Nucleotit để truyền
thông tin ARN và mật mã di truyền các protein của virus. Virus có trọng lượng phân
tử ARN nặng 5,2 – 5,7 x10
6
dalton, khoảng 15 kilobase (Kb) (Kolakofsky, 1974).
Mật mã di truyền của ARN virus chứa 6 gen mã hóa các thông tin di truyền tổng
hợp các protein cấu trúc:
-Haemagglutinin – Neuraminidase (HN) gây ngưng kết hồng cầu có đặc tính
của enzym Neuraminidase, tạo các gai trên bề mặt virus.
-Fusion protein (F) liên kết các tế bào bị nhiễm tạo thành hợp bào Xincitium,
tạo các gai trên bề mặt hạt virus.
-Nucleoprotein (N) (giống Histin) là một protein kiềm bảo vệ ARN của virus.
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
11

-Matriprotein (M) có tác dụng gắn ARN virus với vỏ bọc.
-Large protein (L) là một ARN polymerazase liên kết với Nucleocapsid.
-Protein P gốc phosphoryl hóa liên kết với nucleocapsid.
Trong số những protein này, có 2 protein tham gia vào hoạt động của virus,
liên quan đến vỏ bọc lipit, đó là: Haemagglutinin protein gây ngưng kết hồng cầu,
men Neuraminidaza cắt đứt thụ thể hồng cầu và Fusion protein gây liên kết các tế
bào bị nhiễm virus thành tế bào đa nhân khổng lồ. Những protein này liên quan đến
hoạt động của virus đối với tế bào và trung hòa kháng thể (Spradbrow P.B và cộng
sự, 1988).
2.1.1.2. ðặc tính sinh học
Virus Newcastle là virus có vỏ bọc, có hoạt tính bề mặt nên nó có một số đặc
tính sinh học đặc trưng

* Khả năng ngưng kết hồng cầu
Burnet (1942), là người đầu tiên phát hiện đặc tính của virut Newcastle đó là:
Có khả năng làm ngưng kết hồng cầu một số loài như gà, người, chuột lang,
chuột bạch.
Chỉ một vài chủng virus làm ngưng kết hồng cầu bò, dê, cừu, lợn và ngựa.
Hồng cầu loài lưỡng thê, bò sát và loài chim bị ngưng kết bởi virus
Newcastle ở các mức độ khác nhau.
Hiện tượng ngưng kết hồng cầu là do hồng cầu gắn kết với điểm quyết định
kháng trên bề mặt của virus (Rott, 1964). Quá trình ngưng kết xảy ra qua 2 giai đoạn
(Trần Minh Châu và Hồ Đình Chúc, 1988):
Giai đoạn1: Virus tìm điểm thụ cảm trên bề mặt của hồng cầu Haemagglutinin
làm ngưng kết hồng cầu.
Giai đoạn1: Virus tách khỏi bề mặt tế bào do men Neuraminidaza phá hủy
thể thụ cảm trên bề mặt hồng cầu.
Theo Tolba và Eskarous (1962), hoạt tính ngưng kết hồng cầu tùy vào từng
chủng virus, không nhất thiết bị vô hoạt cùng thời gian với hoạt tính gây nhiễm. Một
vài chủng virus khi xử lý ở nhiệt độ 56
0
C trong 5 phút thì hoạt tính ngưng kết hồng
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
12

cầu bị phá hủy nhưng vẫn còn khả năng gây nhiễm phôi hoặc vật chủ khác. Ngược
lại có một số chủng được xử lý 56
0
C với thời gian 25 phút vẫn còn khả năng gây
nhiễm và gây ngưng kết hồng cầu (Hanson R.P.Spalatin.J,1978).
Đặc tính này dùng để phân biệt giữa các chủng virus Newcastle với nhau và
cũng là điểm khác nhau giữa virus Newcastle với virus cúm.
* Hoạt tính men Neuraminidaza:

Men Neuraminidaza có đặc tính phá hủy điểm thụ cảm và làm virus tách khỏi
bề mặt tế bào. Theo Samsom (1988), những thụ thể có men Neuraminidaza khi hoạt
động được giải phóng khỏi bề mặt của virion, sẽ phá hủy thể thụ cảm và tách khỏi
sự ngưng kết hồng cầu, ngăn cản virion khỏi sự hút bám để thành một dạng khác (
đám, cụm). Tùy từng chủng virut mà thời gian phá hủy liên kết khác nhau từ 30 phút
đến 24 giờ (Hanson, 1980).
* Dung giải hồng cầu:
Virus Newcastle có khả năng dung giải hồng cầu ngưng kết bằng cách hình
thành dung huyết tố. Đặc tính này bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ, nồng độ muối của
dung dịch hoặc khi làm đông tan, siêu âm, chiết rút sẽ làm hoạt tính dung huyết tăng
lên (Brandly C.A, Hanson R.P, 1965).
* Ức chế ngưng kết hồng cầu (Haemagglutination Inhibiton)
Virus Newcastle bị trung hòa bởi huyết thanh dương tính Newcastle. Khi bị
trung hòa, virus không còn khả năng gây ngưng kết hồng cầu. Bằng phản ứng HI sẽ
phát hiện được kháng thể gây ngăn trở ngưng kết hồng cầu gà. Dựa vào đặc tính này
để phát hiện gián tiếp sự nhiễm virus Newcastle đàn gà, xác định mức độ đáp ứng
miễn dịch chống Newcastle sau khi gà được sử dụng vacxin và để phân biệt các
chủng virus Newcastle. Sự khác nhau giữa các chủng virus phụ thuộc vào nguồn
gốc phát sinh bệnh.
Phản ứng ngưng kết hồng cầu gà (HA) và phản ứng ức chế ngưng kết hồng cầu
gà (HI) được sử dụng để phát hiện kháng nguyên và kháng thể Newcastle. Phản ứng có
thể được thực hiện trong ống nghiệm hoặc khay ngưng kết 96 lỗ có đáy chữ U.
* Hấp phụ hồng cầu lên tế bào ( Hemadsorption)
Hiện tượng những tế bào bị nhiễm virus Newcastle có thể hấp thụ hông cầu
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
13

gà trên bề mặt tế bào gọi là Hemadsorption. Khả năng hấp phụ hồng cầu được đánh
giá bằng số lượng hồng cầu hấp thụ trên tế bào. Thời gian xuất hiện hiện tượng hấp
phụ hồng cầu khoảng 4 giờ sau khi virus nhiễm vào tế bào. Bankowski (1964), đã

chứng minh ở những chủng virus độc lực cao, việc hấp phụ hồng cầu sẽ xuất hiện
sớm hơn trên tế bào.
*Hiện tượng cản nhiễm (Interference)
Virus Newcastle có khả năng cản trở sự nhân lên của virus khác hoặc ngược
lại bị một số virus khác cản trở sự nhân lên của chúng trong cơ thể vật chủ, như
virus viêm phế quản truyền nhiễm (Infection bronchitis virus). Cho nên khi gà bị
nhiễm virus Newcastle kết hợp với các loại virus khác, bệnh không biểu hiện rõ rệt,
đồng thời làm giảm phản ứng miễn dịch (Hanson R.P, 1972).
2.1.1.3. Nuôi cấy virus Newcastle
* Gây nhiễm cho phôi gà
Virus Newcastle có thể nhân lên trong xoang niệu mô của trứng gà ấp 9-10
ngày tuổi. Đặc tính này được ứng dụng để nuôi cấy và phân lập virus từ bệnh phẩm.
Khi nuôi cấy trong phôi gà, những củng virus Newcastle có độc lực mạnh gây chết
phôi từ 20-48 giờ kể từ khi gây nhiễm, những chủng độc lực trung bình và yếu thời
gian gây chết phôi trên 60 giờ. Mổ khám những phôi chết thấy bệnh tích xuất huyết
dưới da, nhất là da vùng đầu, ngực, bụng và chân.
Khả năng gây chết phôi của virus Newcastle còn phụ thuộc vào lượng kháng
thể Newcastle có trong lòng đỏ trứng do mẹ truyền qua.
* Gây nhiễm vào môi trường tế bào xơ phôi gà một lớp:
Những chủng virus Newcastle đều phát triển trong môi trường tế bào và gây
hiện tượng bệnh lý tế bào (CPE- Cyto Pathogen Effective). Hệ thống tế bào thường
dùng để chế môi trường là tế bào xơ phôi gà, tế bào thận gà một lớp (Beach, 1984).
Trong môi trường tế bào nuôi cấy, sau 24-72 giờ, virus gây hủy hoại tế bào, làm cho
tế bào bị biến đổi hình thái, tế bào co lại hoặc vỡ ra tạo thành tế bào khổng lồ
(Nguyễn Như Thanh, 1997).
* Gây nhiễm cho gà:
Có thể dùng gà giò 2-3 tháng tuổi để tiêm truyền, virus sẽ phát triển và gây
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
14


bệnh cho gà giống như gà mắc bệnh tự nhiên. Với điều kiện bắt buộc là gà chưa
được 1 lần sử dụng vacxin phòng bệnh và không nằm trong ổ dịch Newcastle.
2.1.1.4. Sức ñề kháng của virus
Virus Newcastle và các Avian Paramyxovirus khác có thể bị phá hủy bởi các
tác nhân vật lý, hóa học như nhiệt độ, ánh sáng (ánh sáng mặt trời và tia cực tím), sự
oxy hóa, độ pH và các hóa chất. Mức độ ảnh hưởng tùy thuộc vào chủng virus.
Do virus có cấu tạo vỏ bọc ngoài là lipit nên rất mẫn cảm với các chất hóa học
như ether, chloroform, formol và phenol. Các chất này làm mất khả năng gây nhiễm
nhưng không ảnh hưởng tới khả năng sinh miễn dịch của virus. Virus bị tiêu diệt ở 60
0
C
trong 30 phút, 100
0
C trong 1 phút. Ở 4-20
0
C virus có thể tồn tại hàng tháng.Ở nhiệt
độ âm virus tồn tại hàng năm. pH < 2 hoặc pH > 10 làm virus mất khả năng gây
nhiễm. Virus dễ bị tiêu diệt bởi tia tử ngoại. Dung dịch glyxerin 50% có thể giữ
virus trong 7 ngày ở 37
0
C.
Khả năng chịu nhiệt của virus mang đặc tính di truyền, cá biệt có chủng chịu
được nhiệt độ 56
0
C trong 6 giờ mà vẫn còn khả năng gây nhiễm. Có thể ứng dụng
đặc tính này của virus để chế vacxin chịu nhiệt (chủng V4 phân lập từ Úc).
2.1.1.5. ðộc lực của virus
Virus Newcastle được phân lập ở nhiều nước trên thế giới, chủng có mức độ
độc lực và tính gây bệnh khác nhau. Để thống nhất cách đánh giá độc lực của các
chủng virus phân lập, tổ chức FAO (Allan. H, Lancaster. JE và Toth B, 1978), đã

chuẩn hóa cách đánh giá theo mức độ độc lực và phân virus thành 3 nhóm:
Nhóm Velogen: Độc lực mạnh
-Nhóm Mesogen: Độc lực trung bình
-Nhóm Lentogen: Độc lực yếu
Mức độ độc lực và khả năng gây bệnh của các chủng virus ở mỗi nhóm được
đánh giá bằng các chỉ số sinh học.



Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
15

Phân nhóm ñộc lực của virus Newcastle
Nhóm virus MDT (giờ) ICPI IVPI
Lentogen = 90 = 0,5 Có giá trị gần 0
Mesogen 61 – 90 0,6 – 1,5 Có giá trị gần 0
Velogen 40 – 60 = 1,6 Có giá trị gần đến 3

MDT (Mean death time): Thời gian trung bình gây chết phôi (đơn vị tính
bằng giờ) với liều tối thiểu gây chết 100% phôi.
ICPI (Intracerebral Pathogenicity Index): Chỉ số gây bệnh khi tiêm não gà
con 1 ngày tuổi.
IVPI (Intravenous Pathogenicity Index): Chỉ số gây bệnh khi tiêm tĩnh mạch
gà 6 tuần tuổi
2.2. Bệnh Newcastle
2.2.1. Loài vật mắc bệnh
Trong thiên nhiên, gà cảm thụ nhất đối với bệnh. Gà mọi nòi giống, mọi lứa
tuổi đều mắc bệnh. Bồ câu, chim sẻ, chim cút và một số loại chim trời cũng cảm
thụ với bệnh.
Khả năng gây bệnh cho gà của virus Newcastle tùy thuộc vào chủng virus,

đường xâm nhập, số lượng virus, điều kiện môi trường. Thường gà con mắc bệnh
cấp tính hơn gà trưởng thành.
Người và một số động vật có vú như chó, chuột cũng có thể mắc bệnh.
Quá trình viêm chỉ có tính nhất thời, giác mạc ít khi bị ảnh hưởng. Ngoài ra, người
bệnh còn có biểu hiện sốt, đau đầu, cảm giác ớn lạnh. Các bằng chứng cho thấy các
chủng virus có độc lực cho gà và cả chủng virus vacxin đều có thể gây bệnh cho
người. Người mắc bệnh do tiếp xúc trực tiếp với virus như bị bắn virus vào mắt khi
tiêm gây bệnh cho phôi gà trong phòng thí nghiệm, dụi tay vào mắt sau khi bắt gà
ốm và chết vì bệnh, hoặc bị nhiễm trong quá trình sử dụng vacxin bằng khí dung.
Bệnh không lây từ người sang người. (Nguyễn Bá Hiên và cộng sự 2011)
2.2.2. ðường truyền lây của virus
Theo Alexander (1988) virus Newcastle có trong thức ăn, nước uống, phân
theo đường tiêu hóa (miệng, hầu, thực quản) hoặc qua không khí theo đường hô hấp
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
16

khi gà hít thở sẽ xâm nhập vào cơ thể và gây bệnh.
Mức độ truyền lây phụ thuộc vào độc lực của virus, đường xâm nhập, liều
lượng lây nhiễm và sức đề kháng của gà.
Việc lây lan bệnh còn qua đường vận chuyển các sản phẩm chế biến từ gà,
xác chết, phân, chất thải, thức ăn thừa hoặc qua tiếp xúc giữa gà nuôi với chim
hoang dã.
Ở gà công nghiệp, đường truyền lây chủ yếu là đường hô hấp (mũi, miệng)
và niêm mạc mắt (Beard và Hanson, 1984). Virus Newcastle cư trú tại niêm mạc
đường hô hấp của gà cảm nhiễm, khi phát bệnh, virus được thải ra ngoài qua hơi thở
của gà vào không khí, vì vậy gà thường mắc thể hô hấp (Beard và Easterday, 1967).
Khi gà bị bệnh có triệu chứng ho và hắt hơi, vẩy mỏ thì bệnh lây lan càng nhanh.
Thời gian lây bệnh qua đường tiêu hóa chậm hơn đường hô hấp. Gà nhiễm
bệnh sẽ thải virus qua phân và bệnh xuất hiện khi gà ăn phải mầm bệnh. Đường
truyền lây này thường xảy ra đối với những chủng có độc lực thấp hướng nội tạng

(Alexander, 1988)
Khả năng truyền dọc từ trứng nhiễm mầm bệnh ở đường sinh dục gà mẹ chưa
rõ ràng (Beard và Hanson, 1984). Gà mái nhiễm virus Newcastle các chủng thuộc
nhóm Velogen có thể ngừng đẻ nhưng nhiễm các chủng thuộc nhóm Lentogen sẽ
có miễn dịch và vẫn tiếp tục đẻ. Phôi nhiễm virus trước khi nở thường bị chết,
nhưng vẫn có thể nở khi virus không có độc lực (French và cộng sự, 1967).
Trên bề mặt vỏ trứng bị nhiễm virus Newcastle từ phân thì sau khi nở, gà có thể
mắc bệnh do virus trong phân bám vào vỏ trứng và sống trong thời gian ấp trứng.
Phôi gà chết do nhiễm mầm bệnh là môi trường tốt cho virus tồn tại.
Virus Newcastle có thể tồn tại trong nước trứng ở nhiệt độ 37
0
C trên 3 tháng
(Lancaster, 1966)
Ngoại ký sinh trùng có thể làm lây lan virus Newcastle nhưng không quan
trọng (Lancaster,1966). Muỗi cũng có thể truyền virus Newcastle (Beard và Hanson,
1984)


Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
17

2.2.3. Cơ chế sinh bệnh
Virus có thể xâm nhập vào cơ thể qua đường tiêu hóa, qua niêm mạc hầu,
họng sau đó vào máu gây nhiễm trùng huyết và gây viêm hoại tử nội mô huyết
quản, gây xuất huyết do thành huyết quản bị phá hủy và xuất dịch vào các xoang
trong cơ thể.
Virus không tác động trục tiếp lên phổi nhưng thường gây khó thở do tác
động của virus làm rối loạn hệ thống tuần hoàn và trung khu hô hấp của hệ thần
kinh trung ương.
Theo Hanson (1975), sau khoảng 24 giờ virus bắt đầu nhân lên tại vị trí xâm

nhập rồi đi vào máu trong khoảng thời gian 36 giờ. Ít giờ sau, virus xâm nhập vào
hệ thống thần kinh trung ương và một số tế bào có nguồn gốc tế bào ngoại mô và tế
bào lưới nội mô.
Virus vào cơ thể sau khi được nhân lên sẽ gây tổn thương thực thể tế bào rồi
bị thải ra ngoài và được phát hiện trong phân vào ngày thứ 3-5 sau khi nhiễm bệnh
(Nguyễn Vĩnh Phước, 1978; Nguyễn Thát, 1976)
2.2.4. Các thể bệnh Newcastle
* Dựa vào đặc tính sinh học và đặc điểm gây bệnh của mỗi chủng,
bệnh được chia thành 5 thể khác nhau (Beard and Hanson, 1984).
-Thể Doyle (Viscertropic Velogen): Là thể được Doyle nhận biết đầu tiên vào
năm 1927, gây ra bởi các chủng virus thuộc nhóm Velogen. Bệnh tiến triển ở thể
cấp tính, tỷ lệ chết cao 90-100%. Bệnh xảy ra ở gà mọi lứa tuổi. Bệnh tích đặc trưng
là xuất huyết niêm mạc đường tiêu hóa.
-Thể Beach (Neurotropic Velogenic): Là thể bệnh được Beach mô tả vào năm
1942, gây ra bởi chủng virus thuộc nhóm Velogen. Bệnh tiến triển ở thể cấp tính,
gây chết nhanh gà mọi lứa tuổi, gây bệnh tích ở bộ máy hô hấp và thần kinh mà
không gây bệnh tích ở hệ tiêu hóa. Thể bệnh này được gọi là bệnh hô hấp thần kinh
hoặc Pneumoencephatitis.
-Thể Beaudette (Mesogenic): Là thể bệnh được Beaudette mô tả vào năm
1948. Bệnh biểu hiện triệu chứng hô hấp cấp tính, triệu chứng thần kinh đối với gà
con và gây chết, nhưng ít gây chết đối với gà trưởng thành. Virus gây ra thể bệnh

×