Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

Một số giải pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở công ty cổ phần SX XNK hoàng long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.42 KB, 70 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang đổi
mới toàn diện đẩy mạnh tiến trình CNH – HĐH đất nước. Xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ văn minh” đó là mục tiêu chính của Đảng và nhà nước ta.Việt
Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại quốc tế (WTO), vì
thế mà tất cả những ngành nghề sản xuất kinh doanh đều rất được chú trọng để
nâng cao chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất kinh doanh để hòa nhập vào xu
thế phát triển chung của cơ chế thị trường thế giới và việc xuất khẩu sản phẩm sang
thị trường mới đang là mục tiêu được đặt ra của các doanh nghiệp nói chung, Công
ty cổ phần SX - XNK Hoàng Long, Khu công nghiệp làng nghề huyện Nga Sơn,
tỉnh Thanh Hóa nói riêng. Xuất phát từ lý do trên em đã lựa chọn đề tài: “ Một số
giải pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở
công ty cổ phần SX-XNK Hoàng Long”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
• Mục tiêu chung: Đề xuất các giải pháp mở rộng thị trường nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả xuất khẩu của công ty cổ phần SX-XNK Hoàng Long.
• Mục tiêu cụ thể:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất
khẩu cũng như sự cần thiết phải mở rộng thị trường xuất khẩu của công ty cổ phần
SX-XNK Hoàng Long.
- Nghiên cứu, phân tích thực trạng tình hình sản xuất và kinh doanh xuất
khẩu của công ty cổ phần SX-XNK Hoàng Long trong thời gian qua. Từ đó rút ra
những ưu điểm, tồn tại của công ty.
- Đề xuất những giải pháp giúp công ty có thể mở rộng thị trường xuất khẩu
của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
• Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động mở
rộng thị trường xuất khẩu của công ty Hà Thành.
• Phạm vi nghiên cứu:


- Về không gian: Nghiên cứu hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu gồm
có: thị trường truyền thống, thị trường mới, thị trường tiềm năng của công ty cổ
phần SX-XNK Hoàng Long.
- Về thời gian: Nghiên cứu hoạt động xuất khẩu của công ty cổ phần SX-
XNK Hoàng Long tập trung vào giai đoạn từ năm 2011 tới 2013.
Trong quá trình thực tập tại công ty, chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót vì
thế em rất mong nhận được sự đóng góp và bổ sung ý kiến của cán bộ trong công
ty và thầy hướng dẫn TS,Nguyễn Dụng Tuấn để bài báo cáo của em được hoàn
thiện tốt hơn.
4. Kết cấu của báo cáo
Chương I: Lý luận chung về thị trường và xuất khẩu sản phẩm.
Chương II: Thực trạng về công tác duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng
thủ công mỹ nghệ ở công ty.
Chương III: Một số giải pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng
thủ công mỹ nghệ ở công ty.

CHƯƠNG I
HỆ THỐNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯƠNG
XUẤT KHẨU VÀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT
KHẨU
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG
XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Xuất khẩu và thị trường xuất khẩu
Khái niệm về xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu:
• Khái niệm xuất khẩu:
Khái niệm xuất khẩu không được hiểu theo những cách giống nhau ở mọi nơi,
mọi giai đoạn, mọi thời kì kinh tế.
Những nhà kinh tế học trước kia cho rằng: “ xuất khẩu đơn giản chỉ là việc
hàng hoá hay dịch vụ được sản xuất ở một quốc gia rồi bán sang quốc gia khác”.
Như vậy, có thể thấy đối tượng của xuất khẩu, không thể khác, chính là hàng hoá

và dịch vụ. Tuy nhiên, những nhà kinh tế học thời kì cận đại cho rằng: “hàng hoá
đem xuất khẩu chỉ được sản xuất tại một quốc gia”. Điều này được các nhà quản trị
kinh doanh quốc tế bổ sung.
Những nhà quản trị kinh doanh quốc tế cho rằng: “xuất khẩu là hoạt động đưa
hàng hoá và dịch vụ ra khỏi biên giới một quốc gia sang một quốc gia khác, để đổi
lại một giá trị lợi ích kinh tế nào đó, có thể là tiền, hay cũng có thể là những hàng
hoá, dịch vụ khác. Tất nhiên, sự trao đổi hàng hoá ở đây phải được các bên tham
gia thỏa thuận”.
Như vậy, đối tượng của xuất khẩu theo quan điểm của những nhà kinh doanh
quốc tế vẫn là hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên, phạm vi thời gian và không gian
không còn giới hạn như quan điểm của những nhà kinh tế học cận đại nữa. Hàng
hóa hay dịch vụ đem xuất khẩu không chỉ được sản xuất tại quốc gia xuất khẩu,
mà có thể sản xuất từ một quốc gia khác, sau khi nhập khẩu vào quốc gia của công
ty xuất khẩu, rồi lại được công ty này bán cho một công ty ở một quốc gia thứ ba.
Hình thức này được gọi là tái xuất.
Xuất khẩu là một hình thức xâm nhập thị trường ít rủi ro, không tốn quá nhiều
chi phí, và đó là một trong những hình thức xâm nhập thị trường quốc tế đầu tiên
của các công ty kinh doanh quốc tế, trước khi họ muốn chuyển sang các hình thức
xâm nhập thị trường khác một cách thành công.
• Vai trò của xuất khẩu đối với hoạt động kinh doanh:
Xuất khẩu trước hết là một hình thức tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ của các công
ty, qua đó tạo ra doanh thu, lợi nhuận, góp phần duy trì hoạt động của công ty.
Thêm nữa, xuất khẩu đã tạo ra và duy trì một hoặc nhiều thị trường của các công
ty. Việc duy trì những thị trường này trong một thời gian dài giúp cho các hoạt
động của công ty không bị xáo trộn và được thực hiện một cách ổn định, qua đó
giúp công ty phát triển. Mặt khác, xuất khẩu cũng là một hình thức giúp cho các
công ty kinh doanh quốc tế tìm hiểu được thị trường tiềm năng, qua đó có những
cách xâm nhập thị trường khác phù hợp với điểu kiện hoàn cảnh và thực tế kinh
doanh của công ty.
Đối với các quốc gia, hoạt động xuất khẩu đóng vai trò rất quan trọng. Không

một quốc gia nào là không có xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu giúp tạo ra GDP,
làm tăng nguồn ngoại tệ, cân bằng cán cân thanh toán, tăng thu cho ngân sách, thúc
đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường địa vị của quốc gia trên thương
trường quốc tế, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, thúc đẩy sản
xuất phát triển, kích thích đổi mới công nghệ, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, cải
thiện và nâng cao mức sống cho người dân… Như thế, xuất khẩu có vai trò to lớn
đối với việc phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia Đặc biệt, nó còn quan
trọng hơn rất nhiều đối với những quốc gia đang trong thời kì chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường như nước ta. Đối với những nước có nền sản xuất và tiêu dùng
còn chưa thực sự phát triển, cơ sở vật chất kĩ thuật còn lạc hậu, không đồng bộ…
thì xuất khẩu là giải pháp tốt nhất để tiêu thụ sản phẩm, mơ rộng các quan hệ kinh
tế quốc tế, tranh thủ được nguồn tài trợ vốn, tạo ra sự tăng trưởng cho nền kinh tế,
góp phần rút ngắn khoảng cách về kinh tế giữa các quốc gia. Như vậy, chúng ta có
thể nói xuất khẩu hàng hoá dịch vụ là một động lực của sự phát triển kinh tế.
Thị trường xuất khẩu
• Khái niệm thị trường xuất khẩu:
Thị trường xuất khẩu, cũng như xuất khẩu, được hiểu theo nhiều cách khác
nhau. Mỗi một thời kì kinh tế, có một cách hiểu, và mỗi người với những thế giới
quan khác nhau thường đưa ra cách hiểu của riêng mình.
“Thị trường xuất khẩu của một doanh nghiệp là tập hợp các khách hàng nước
ngoài tiềm năng của doanh nghiệp đó” – theo quan điểm hướng marketing.
Thị trường xuất khẩu là tập hợp tất cả các thị trường hiện tại và tiềm năng, tập
hợp tất cả những khách hàng đã, đang và sẽ có nhu cầu đối với sản phẩm, dịch vụ
hoặc các lĩnh vực hoạt động thương mại của doanh nghiệp trong mối quan hệ với
những nhân tố của môi trường kinh doanh và điều kiện cạnh tranh quốc tế.
Có thể thấy thị trường xuất khẩu hàng hoá bao hàm cả thị trường xuất khẩu
hàng hóa trực tiếp (nước tiêu thụ cuối cùng) và thị trường xuất khẩu hàng hoá gián
tiếp (xuất khẩu qua trung gian - uỷ thác). Ngoài ra, thị trường xuất khẩu hàng hoá
không chỉ giới hạn ở những thị trường nước ngoài. Thị trường trong nước trong
nhiều trường hợp là thị trường xuất khẩu hàng hóa tại chỗ (nhất là đối với các

ngành xuất khẩu dịch vụ như du lịch, tài chính – ngân hàng, bảo hiểm…).
Như vậy, có thể thấy chủ thể tham gia thị trường xuất khẩu là các bên tham
gia thị trường, đó là bên xuất khẩu và bên nhập khẩu (có thể là bên uỷ thác), đối
tượng của thị trường xuất khẩu là hàng hoá hữu hình hay dịch vụ vô hình.
• Phân loại thị trường xuất khẩu:
Có nhiều cách để phân loại thị trường xuất khẩu:
- Căn cứ vào vị trí địa lý:
+ Thị trường châu lục như thị trường châu Âu, thị trường châu Mỹ, thị
trường châu Phi
+ Thị trường khu vực như thị trường Đông Nam Á, thị trường Bắc Mỹ…
+ Thị trường trong nước và thị trường nước ngoài.
- Căn cứ vào thời gian thiết lập mối quan hệ kinh doanh xuất khẩu:
+ Thị trường truyền thống
+ Thị trường mới nổi
+ Thị trường tiềm năng
- Căn cứ vào mức độ khó trong việc tiếp cận thị trường:
+ Thị trường khó tính (châu Âu, Bắc Mỹ…)
+ Thị trường dễ tính (châu Á, châu Phi…)
- Căn cứ vào loại hình cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu
+ Thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
+ Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo
+ Thị trường độc quyền.
1.2 Mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp
• Khái niệm mở rộng thị trường xuất khẩu:
Theo quan điểm marketing hiện đại thì: “Mở rộng thị trường xuất khẩu của
doanh nghiệp không chỉ là việc phát triển thêm các thị trường mới bên ngoài lãnh
thổ quốc gia mà cần phải tăng thị phần của sản phẩm đó trong các thị trường quốc
tế đã có sẵn”.
Theo quan điểm của những nhà kinh doanh quốc tế, thì: “Mở rộng thị trường
xuất khẩu là tổng thể các biện pháp, cách thức mà doanh nghiệp thực hiện để có

thể đưa ngày càng nhiều sản phẩm ra thị trường nước ngoài để bán và thu về ngoại
tệ mạnh cho công ty. Mở rộng thị trường xuất khẩu không chỉ là hoạt động phát
triển thêm các thị trường mới mà còn là tăng thêm doanh thu, thêm thị phần ở
những thị trường truyền thống”.
Vậy, đứng trên góc độ doanh nghiệp thì mở rộng thị trường là tổng hợp các
cách thức của doanh nghiệp để tiêu thụ nhiều hơn các loại sản phẩm.
Mở rộng thị trường của doanh nghiệp không chỉ là việc phát triển thêm những
thị trường mới mà còn làm thế nào để tăng thị phần của sản phẩm đó trên các thị
trường đã có sẵn. Như thế, muốn mở rộng thị trường xuất khẩu thì các doanh
nghiệp vừa phải đưa sản phẩm hiện tại của doanh nghiệp thâm nhập những thị
trường mới, đồng thời đưa ra những sản phẩm mới đáp ứng được nhu cầu tại thị
trường hiện tại và thị trường tiềm năng của doanh nghiệp.
Nếu xét dưới góc độ nhà quản lý vĩ mô, mở rộng thị trường xuất khẩu của
một quốc gia là việc quốc gia đó thực hiện một hệ thống các hoạt động, nhằm đưa
sản phẩm của nước mình thâm nhập thị trường quốc tế, phát triển được phạm vi
của thị trường và tăng kim ngạch xuất khẩu của sản phẩm trên thị trường hiện tại
và tiềm năng.
Hoạt động mở rộng thị trường của một quốc gia là sự kết hợp giữa hoạt động
mở rộng thị trường của tất cả các doanh nghiệp, và các hoạt động hỗ trợ của các cơ
quan Nhà nước trong quốc gia đó. Các doanh nghiệp trực tiếp thực hiện hoạt động
mở rộng thị trường xuất khẩu đối với các mặt hàng mà doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh, từ đó góp phần tạo nên thị trường xuất khẩu rộng lớn cho quốc gia đối với
từng sản phẩm, ngành hàng cụ thể. Nếu quốc gia nào làm tốt hoạt động xúc tiến
mở rộng thị trường ở tầm vĩ mô thì các doanh nghiệp của quốc gia này càng có
nhiều cơ hội tiếp cận những thị trường, doanh nghiệp để có thể tiến hành tốt hơn
những hoạt động xuất khẩu của mình.
• Vai trò của việc mở rộng thị trường xuất khẩu:
Thị trường là “nguồn sống” của mọi doanh nghiệp, không chỉ đối với các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.Việc mở rộng thị trường
xuất khẩu góp phần gia tăng cơ hội tiêu thụ sản phẩm của mỗi doanh nghiệp. Một

sản phẩm có thể không còn phù hợp với thị trường này, nhưng đối với những thị
trường khác, chúng vẫn còn nguyên sức sống, và đó là lý do mà mọi doanh nghiệp
luôn phải tìm ra cách tốt nhất, con đường ngắn nhất để mở rộng thị trường hiệu
quả. Nhất là đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, thì việc mở rộng thị trường
xuất khẩu là một việc làm thường xuyên, hàng ngày. Chỉ có mở rộng thị trường,
các doanh nghiệp mới có thể tăng doanh thu, tăng lợi nhuận và qua đó bảo đảm sự
tồn tại và phát triển bền vững cho doanh nghiệp mình.
Mở rộng thị trường xuất khẩu cũng đồng nghĩa với việc mở rộng phạm vi và
cường độ cạnh tranh. Và bài toán đặt ra đối với các doanh nghiệp này là tìm ra biện
pháp để có thể đứng vững và cạnh tranh với các đối thủ khác, đến từ những quốc
gia xuất khẩu khác nhau. Chính điều đó làm cho các doanh nghiệp luôn nỗ lực
không ngừng để cải thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, cải tiến
phương pháp quản lý sao cho đạt hiệu quả cao nhất, và chính những điều này đến
lượt nó lại nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế, nơi có doanh nghiệp tham gia vào
việc xuất khẩu
• Phương thức mở rộng thị trường xuất khẩu:
Một là: Mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều rộng. Khi áp dụng phương
thức mở rộng thị trường này, các doanh nghiệp muốn mở rộng thị trường theo
phạm vi khu vực địa lý, đa dạng hoá các sản phẩm và muốn tăng thêm lượng khách
hàng tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp mình. Lý do mà các doanh nghiệp áp
dụng phương thức mở rộng thị trường theo chiều rộng là vì doanh nghiệp không
thể cạnh tranh trên các thị trường xuất khẩu truyền thống nữa, hoặc xuất hiện
những trở ngại về chính trị - xã hội - pháp luật ở các thị trường xuất khẩu hiện tại
của doanh nghiệp, hoặc các sản phẩm của doanh nghiệp đã trở nên bão hoà ở
những thị trường hiện tại của doanh nghiệp đó. Tất nhiên, doanh nghiệp xuất khẩu
chỉ có thể mở rộng thị trường của mình nếu có đủ khả năng, và có những mục tiêu
hợp lý.
Hai là: Mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều sâu. Các doanh nghiệp sẽ
áp dụng phương thức mở rộng thị trường này khi doanh nghiệp muốn gia tăng kim
ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp mình sang các thi trường mà doanh nghiệp đã

thâm nhập được. Các doanh nghiệp thường áp dụng phương thức mở rộng thị
trường này khi mà vòng đời sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ của doanh nghiệp vẫn
còn đang trong giai đoạn phát triển trong những thị trường đó, hoặc khi nhu cầu về
sản phẩm của công ty tại các thị trường hiện tại của công ty vẫn còn lớn và ổn
định.
• Chỉ tiêu đánh giá hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu.
- Số lượng thị trường xuất khẩu mới hàng năm.
Công thức: T = T
n
– T
m
(*)
Trong đó:
T: số thị trường thực mới
T
n
: số thị trường mới mở
T
m
: số thị trường thực mất đi
Khi t < 0: Hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp đang
trong tình trạng xấu. Số thị trường mới mở nhỏ hơn số thị trường mất đi làm cho
phạm vi thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp bị thu hẹp so với năm trước.
Khi t = 0: doanh nghiệp mới duy trì được thị trường của mình, số thị trường
mới mở bằng số thị trường mất đi. Như vậy hoạt động mở rộng thị trường xuất
khẩu của doanh nghiệp chưa hiệu quả.
Chỉ tiêu này là một chỉ tiêu rất quan trọng giúp các nhà quản trị có thể đánh
giá một phần hoạt đồng mở rộng thị trường của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này dùng
để đánh giá hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp theo chiều
rộng. Một ưu điểm rất lớn của chỉ tiêu này là nó có thể được tính toán cho mọi sản

phẩm xuất khẩu, từ đó nhằm đánh giá tiềm năng của từng loại mặt hàng; trên cơ sở
đó đề ra chính sách về sản phẩm sản xuất của doanh nghiệp.
- Tốc độ tăng số lượng thị trường xuất khẩu bình quân:
+ Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân (K).
K = n –
knkk ××× 21
Trong đó:
K: Tốc độ phát triển kim ngạch xuất khẩu bình quân.
k
1
, k
2,
, k
n
: Là tốc độ tăng kim ngạch liên hoàn (tốc độ tăng kim ngạch năm
sau so với năm trước), được tính bằng kim ngạch năm sau chia cho năm trước.
Nếu K >1 có nghĩa là hàng hoá xuất khẩu đã khai thác và đáp ứng tốt nhu cầu
của thị trường hiện tại.
Nếu K < = 1 cho thấy tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu đang chững lại hoặc
có xu hướng giảm. Điều này có thể do: Hoặc là hoạt động mở rộng thị trường xuất
khẩu chưa hiệu quả, chưa tăng được số lượng và giá trị hàng xuất khẩu vào thị
trường hiện tại, hoặc là nhu cầu của thị trường hiện tại đã ở mức bão hoà đòi hỏi
phải phát triển thị trường xuất khẩu sang các khu vực mới.
Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng trong việc đánh giá hoạt động mở rộng
xuất khẩu của doanh nghiệp theo chiều sâu.
+ Tốc độ tăng số lượng sản phẩm mới bình quân:
Công thức: S =
n
sss
n

+++
21
Trong đó:
S: tốc độ tăng số lượng sản phẩm mới bình quân
s
1,
s
2, ,
s
n:
số lượng sản phẩm mới hàng năm, s được tính bằng số sản phẩm mới
đưa ra thị trường trừ đi số sản phẩm dừng không xuất khẩu nữa (số sản phẩm bị
mất).
n: số năm trong giai đoạn.
-S < 0: Tức là số sản phẩm xuất khẩu mới của doanh nghiệp không bù đắp
được số sản phẩm phải dừng không xuất khẩu nữa. Chứng tỏ rằng hoạt động xuất
khẩu sản phẩm của công ty đang gặp khó khăn. Công ty cần phải có những biện
pháp để khắc phục tình trạng này.
-S = 0: Một là công ty không đưa ra được sản phẩm mới nào, hoặc số sản
phẩm mới đưa ra đúng bằng số sản phẩm bị mất đi.
-S > 0: Hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu có hiệu quả.
Đây là chỉ tiêu đánh giá về hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu theo
chiều rộng. Nó có thể tính cho toàn thị trường xuất khẩu của công ty hoặc có thể
tính trên từng thị trường. Qua việc tính toán chỉ tiêu này cho phép chúng ta đánh
giá về:
+ Thứ nhất: Tốc độ bao phủ hay bành trướng của doanh nghiệp trên thị
trường quốc tế. Nếu như tốc độ tăng số lượng sản phẩm xuất khẩu càng cao cho
thấy thị trường của doanh nghiệp đang mở rộng phạm vi càng lớn.
+ Thứ hai: Khả năng xâm nhập thị trường của doanh nghiệp. Nếu tốc độ
tăng số lượng sản phẩm xuất khẩu cao có nghĩa là doanh nghiệp thích nghi được

với nhiều thị trường hay khả năng thâm nhập thị trường mới càng cao.
+ Thứ ba: Tiềm năng phát triển của doanh nghiệp. Để có thể đưa ra được
một sản phẩm mới là cả một quá trình nghiên cứu tìm tòi của cán bộ công nhân của
công ty, cùng với nỗ lực về tài chính. Khi công ty càng đưa ra nhiều loại sản phẩm
xuất khẩu mới điều đó chứng tỏ công ty có khả năng phát triển mạnh, có uy tín lớn.
-Tốc độ tăng số lượng khách mới bình quân
Công thức: H=
n
hhh
n
+++
21
Trong đó:
H: tốc độ tăng số lượng khách hàng mới bình quân.
h
1,
h
2
, , h
n
: số lượng khách hàng mới hàng năm.
H được tính bằng số khách hàng mới của doanh nghiệp trừ đi số khách
hàng bị mất.
N: số năm trong giai đoạn.
-H > 0: Điều này chứng tỏ rằng doanh nghiệp ngày càng tạo dựng dược
nhiều mối quan hệ bạn hàng. Nó giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu
của mình mà còn giúp doanh nghiệp tránh được sự phụ thuộc vào một số ít khách
hàng.
-H < 0: số khách hàng bị mất đi lớn hơn số khách hàng mới tạo dựng được.
Điều này chứng tỏ rằng hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp

đang gặp khó khăn. Doanh nghiệp cần tìm ra nguyên nhân, từ đó có thể đưa ra
những giải pháp để khắc phục tình trạng trên.
Tốc độ tăng số lượng khách hàng mới bình quân là chỉ tiêu đánh giá về hoạt
động mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều rộng. Chỉ tiêu này có thể được tính
cho toàn thị trường xuất khẩu của công ty hoặc có thể tính trên từng thị trường. Từ
kết quả của chỉ tiêu này cho chúng ta đánh giá về uy tín của doanh nghiệp. Nếu
như doanh nghiệp càng thiết lập được nhiều hàng đặc biệt là những bạn hàng lớn
có uy tín trên thị trường, điều này sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị
trường. Đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp trong
quá trình mở rộng thị trường xuất khẩu.
Trong quá trình nghiên cứu chúng ta nên kết hợp các chỉ tiêu này với nhau
để có thể đưa ra được những đánh giá xác đáng nhất về sản phẩm cũng như thị
trường của mình. Từ đó giúp cho doanh nghiệp biết đâu là sản phẩm tiềm năng,
đâu là thị trường tiềm năng mà doanh nghiệp cần phải khai thác trong tương lai,
điều này làm tiền đề cho việc đẩy mạnh thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp.
• Nội dung hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp.
- Nghiên cứu thị trường quốc tế:
Dù là thị trường quốc tế hay thị trường nội địa thì việc nghiên cứu chúng trước
khi xâm nhập là một việc làm cực kì quan trọng, quyết định hầu như mọi sự thành
bại của doanh nghiệp trong việc xúc tiến xuất khẩu và các hoạt động kí kết hợp
đồng giao dịch sau này. Tuy nhiên, thị trường quốc tế không giống như thị trường
nội địa. Thị trường quốc tế chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau. Các
doanh nghiệp cần phải có những biện pháp để định rõ các yếu tố này để xác định
được những nội dung cần được tiến hành để nghiên cứu thị trường quốc tế. Và đó
cũng là những căn cứ để lựa chọn thị trường, các cách thức xâp nhập thị trường và
các chính sách marketing cấn áp dụng. Từ đó có thể lập lên những kế hoạch, những
chiến lược tốt nhất để kinh doanh trên thị trường quốc tế một cách tốt nhất. Những
yếu tố quan trọng cần phải được kể đến, đó là:
+ Nghiên cứu nhu cầu của thị trường quốc tế. Đây là nhân tố mà các doanh
nghiệp phải nghiên cứu đầu tiên, bởi chính nhân tố này mới đảm bảo cho hoạt

động mở rộng thị trường của công ty được đảm bảo. Khi nghiên cứu các nhân tố
này tức là nghiên cứu về nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường này, mức độ
biến động giá cả, tình hình cung cầu của các sản phẩm trên thị trường quốc tế…
Những yếu tố này có tác động mạnh mẽ đến sản lượng mà công ty có thể xuất khẩu
sang thị trường quốc tế.
+ Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh. Cũng như mọi doanh nghiệp khác khi đã
quyết định thâm nhập vào một thị trường nào đó, thì các doanh nghiệp nhất thiết
phải tìm hiểu xem ở thị trường đó đã có doanh nghiệp nào hoạt động hay chưa, nếu
có thì tất cả điểm mạnh, điểm yếu của họ là gì, hay tiềm năng và sức cạnh tranh
của các doanh nghiệp này ra sao, liệu doanh nghiệp mình có thể làm những gì để
có thể cạnh tranh một cách thành công trên thị trường đó với những doanh nghiệp
đối thủ như vậy. Những câu hỏi này cần được làm sáng tỏ một cách rõ ràng nhất,
để doanh nghiệp có thể đưa ra những đối sách sao cho phù hợp với điều kiện của
doanh nghiệp.
+ Nghiên cứu về sở thích, thị hiếu của người tiêu dùng. Khi nghiên cứu về
nhân tố này, tức là nghiên cứu về văn hoá của họ. Từ đó có thể đưa ra những sản
phẩm phù hợp với văn hoá tiêu dùng của họ, tránh tình trạng sản phẩm của doanh
nghiệp bị tẩy chay, dẫn đến những thất bại không đáng có trong hoạt động mở rộng
thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp.
Việc nghiên cứu thị trường quốc tế, như đã nhấn mạnh, là vô cùng quan trọng.
Việc nghiên cứu thị trường sẽ giúp doanh nghiệp có thể dự báo nhu cầu về sản
phẩm của thị trường này, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định kinh doanh
của doanh nghiệp. Khi nghiên cứu thấy thị trường quốc tế nào đó có nhu cầu về
sản phẩm của doanh nghiệp cao thì doanh nghiệp sẽ lên kế hoạch để có những hình
thức thâm nhập thị trường này trong tương lai, còn nếu thị trường đó không có nhu
cầu , hoặc nhu cầu ở mức độ thấp thì doanh nghiệp sẽ quyết định không mở rộng
việc xuất khẩu sang thị trường này nữa. Hiện nay, có nhiều phương pháp nghiên
cứu trường đang được áp dụng ở các doanh nghiệp xuất khẩu, như: phương pháp
nghiên cứu thông qua sách, báo, internet… (các nguồn thông tin thứ cấp), hoặc các
phương tiện nghiên cứu trực tiếp… Doanh nghiệp cũng có thể bán thử sản phẩm

rồi xem những phản ứng của thị trường đó đối với các sản phẩm của mình… Mỗi
phương pháp nghiên cứu thị truờng quốc tế có những ưu điểm hay nhược điểm
không giống nhau, có thể doanh nghiệp này sẽ thành công với phương pháp nghiên
cứu này, nhưng doanh nghiệp khác thì không, và phải áp dụng phương pháp khác.
- Xúc tiến xuất khẩu
Xúc tiến xuất khẩu là nội dung quan trọng hàng đầu của việc mở rộng thị
trường xuất khẩu. Sau khi đã nắm rõ những thông tin về thị trường xuất khẩu của
công ty, các doanh nghiệp cần có thêm thông tin về cách tiếp cận thị trường đó,
cũng như những thông tin về người tiêu dùng, về đối tác sẵn sàng mua (nhập khẩu)
hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp.
Theo cách hiểu truyền thống, xúc tiến xuất khẩu bao gồm các hoạt động trao
đổi và hỗ trợ trao đổi thông tin thương mại giữa bên xuất khẩu và bên nhập khẩu
hoặc trung gian nhằm tác động tới thái độ và hành vi mua hoặc bán qua đó thúc
đẩy việc xuất khẩu hàng hoá. Đây là một biện pháp rất quan trọng để thúc đẩy việc
xuất khẩu hàng hoá. Do vậy, bất kì công ty nào có quyết định mở rộng thị trường
xuất khẩu của mình thì bắt buộc phải quan tâm đến hoạt động xúc tiến thương mại.
Xúc tiến xuất khẩu bao gồm các hoạt động chủ yếu sau đây:
+ Tham gia hội chợ triển lãm: Đây là cơ hội rất lớn để doanh nghiệp giới thiệu
sản phẩm của mình, đồng thời có thể quan sát trực tiếp những mặt hàng của các đối
thủ cạnh tranh. Từ đó có thể tìm hiểu xu thế và thị hiếu tiêu dùng của người tiêu
dùng ở địa phương, qua đó sẽ có những chính sách kinh doanh hợp lý hơn trong
thời gian tới. Đây là một biện pháp xúc tiến vô cùng quan trọng để thúc đẩy hoạt
động xuất khẩu của doanh nghiệp tại thời điểm hiện tại và còn giúp doanh nghiệp
đưa ra những chính sách thương mại trong tương lai.
+ Các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, quảng bá, khuyến mại: Đây là
những công cụ marketing cơ bản để những đối tác và người tiêu dùng biết đến sản
phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
những phương tiện truyền thông, thì các hình thức quảng cáo, tuyên truyền ngày
càng trở nên đa dạng.
+ Thiết lập các văn phòng đại diện thương mại ở các thị trường xuất khẩu. Đại

diện thương mại ở nước ngoài có thể coi là chiếc cầu nối giữa doanh nghiệp xuất
khẩu với thị trường và bạn hàng quốc tế. Thông qua đại diện thương mại, các
doanh nghiệp xuất khẩu có thể nắm bắt thông tin về thị trường quốc tế một cách
cập nhật và kịp thời, cơ hội tiếp xúc với bạn hàng và kí kết các hợp đồng kinh
doanh từ đó cũng tăng lên.
- Các lựa chọn đối với việc xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp
+ Lựa chọn thị trường xuất khẩu:
Sau khi đã tiến hành các hoạt động nghiên cứu kĩ thị trường, đồng thời đã
tiến hành những hoạt động xúc tiến xuất khẩu, doanh nghiệp cần đưa ra quyết định
xem nên xâm nhập thị trường nào, hay xâm nhập thị trường nào trước, thị trường
nào sau. Xem xét xem thị trường nào là thị trường chủ lực sẽ mang lại hiệu quả
kinh doanh tốt nhất cho doanh nghiệp, coi thị trường nào là thị trường phụ để tránh
những biến động bất thường có thể xẩy ra trên thị trường chủ lực của doanh
nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp cũng nên xác định xem đâu là những thị trường
tiềm năng mà doanh nghiệp cần khai thác trong thời gian tới.
+ Lập phương án kinh doanh:
Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu thị trường,
doanh nghiệp cần phải thiết lập được những phương án kinh doanh cho riêng mình.
Việc xây dựng phương án kinh doanh bao gồm các hoạt động: Đánh giá tình hình
thị trường và khả năng của mình, trên cơ sở đó đề ra những kế hoạch và chương
trình cụ thể nhằm thực hiện mục tiêu đã đề ra của doanh nghiệp.
+ Lựa chọn đối tác xuất khẩu:
Đối với các giao dịch trong nước cũng như quốc tế, lựa chọn đối tác là một
trong những khâu quan trọng quyết định tới sự sống còn của doanh nghiệp. Vì vậy,
cần phải tìm hiểu kĩ về quan điểm kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, khả năng thanh
toán và cơ sở vật chất của đối tác… Những điều này là vô cùng quan trọng trong
hoạt động thương mại quốc tế, nếu một doanh nghiệp mà lựa chọn sai đối tác thì
công việc kinh doanh có thể trở nên vô cùng khó khăn.
+ Lựa chọn kênh phân phối:
Song song với các hoạt động nghiên cứu thị trường, xúc tiến xuất khẩu, lựa

chọn phương án kinh doanh và đối tác xuất khẩu, thì việc lựa chọn kênh phân phối
tối ưu cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất
khẩu. Việc lựa chọn kênh phân phối phải được tiến hành đồng thời với hoạt động
xúc tiến thương mại nhằm thu được hiệu quả cao nhất trong quá trình xuất khẩu
hàng hoá và dịch vụ. Trong một số ngành, kênh phân phối đã hình thành, phát triển
qua nhiều năm và trở thành kênh phân phối truyền thống. Tuy nhiên, không phải
lúc nào kênh phân phối truyền thống cũng luôn hiệu quả, trong nhiều trường hợp
phải lựa chọn những kênh phân phối mới hiệu quả hơn. Trong trường hợp chưa có
bất kì kênh phân phối nào, có thể căn cứ vào mục tiêu của kênh, đặc điểm của
khách hàng tiềm năng, đặc điểm của hàng hoá, đìều kiện của doanh nghiệp, hay
kênh phân phối của đối thủ cạnh tranh để đưa ra những lựa chọn kênh phân phối
của riêng doanh nghiệp sao cho phù hợp nhất.
+ Xây dựng, quảng bá thương hiệu:
Không thể thiếu hoạt động xây dựng và quảng bá thương hiệu, nếu muốn
duy trì và phát triển thị trường cho hàng hoá, đặc biệt là hàng hoá xuất khẩu. Hoạt
đông xây dựng và quảng bá thương hiệu phải diễn ra một cách thường xuyên kể từ
lúc doanh nghiệp xác định cho mình thị trường nào cần xâm nhập thông qua con
đường xuất khẩu. Hoạt động này đóng góp rất lớn vào việc duy trì uy tín cho công
ty khi tham gia vào thị trường quốc tế. Hoạt động này cũng giúp cho doanh nghiệp
tránh khỏi những rủi ro trong việc bị kiện vì những vi phạm luật sở hữu trí tuệ, luật
bản quyền ở thị trường sở tại.
+ Giao dịch, đàm phán, kí kết hợp đồng xuất nhập khẩu:
Tất cả các hoạt động nói trên chỉ nhằm một mục đích: hỗ trợ cho việc giao
dịch, kí kết và thực hiện các hợp đồng xuất khẩu.
Giao dịch, là hoạt động trao đổi qua lại những thông tin liên quan đến hàng
hoá, dịch vụ, qua đó hỗ trợ các bên đưa ra quyết định mua hay bán một sản phẩm,
dịch vụ của mình. Có rất nhiều cách giao dịch khác nhau, và chúng được dùng tuỳ
thuộc vào từng điều kiện, hoàn cảnh của doanh nghiệp. Có những cách giao dịch
chính như: giao dịch trực tiếp, giao dịch qua thư, giao dịch qua điện thoại, fax…
Đàm phán, là một nghệ thuật. Trong kinh doanh, bất kì một doanh nghiệp nào

khi giao dịch với các đối tác của mình đều phải trải qua quá trình đàm phán. Đó là
quá trình quan trọng để hai bên đi đến thống nhất và ký kết hợp đồng cộng tác
cùng nhau. Nhưng trong thương mại và đặc biệt là trong thưong mại quốc tế thì
vấn đề đàm phán lại trở nên rất phức tạp bởi nó liên quan đến nhiều khía cạnh như
là bất đồng về ngôn ngữ, sự không hiểu biết về nền văn hoá của nhau… Do đó, có
thể xuất hiện những hành động, lời nói vô tình động chạm đến những điều tối kị
của đối tác, dẫn đến cuộc đàm phán bị đổ bể và không thể đi đến kí kết hợp đồng.
Bên cạnh đó, việc đàm phán không chính xác và chặt chẽ làm xuất hiện những
tranh chấp trong thương mại quốc tế. Khi đó thì việc giải quyết những tranh chấp
này sẽ trở nên vô cùng tốn kém. Chính vì vậy, người đàm phán trong kinh doanh
xuất khẩu càng đòi hỏi phải nhạy bén, tinh tế và khéo léo.
Lập và kí kết hợp đồng xuất khẩu, đối với quan hệ buôn bán hàng hoá, sau khi
giữa bên mua và bên bán tiến hành giao dịch, đàm phán có kết quả thì công việc
tiếp theo là thực hiện lập và kí kết hợp đồng xuất khẩu.
Hợp đồng xuất khẩu thường được thể hiện bằng văn bản. Đây là hình thức tốt
nhất để đảm bảo quyền và lợi ích của những bên tham gia vào hợp đồng. Hợp
đồng xuất khẩu hợp pháp phải tuân thủ những quy định về nội dung và hình thức
cho hợp đồng, khi đó, chúng mới có giá trị pháp lý.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng thị trường xuất khẩu.
2.1 Các nhân tố khách quan
Yếu tố nằm bên ngoài doanh nghiệp, doanh nghiệp không có cách nào tránh
được hay hạn chế những yếu tố này. Để có thể thâm nhập thành công vào một thị
trường nào đó thì doanh nghiệp chỉ có cách là tìm ra những biện pháp để thích nghi
với những thay đổi và tác động đó. Những nhân tố này thuộc về môi trường quốc
gia của doanh nghiệp và môi trường quốc gia mà dôanh nghiệp dự định xuất khẩu.
Ngoài ra, những nhân tố khác của môi trường kinh tế, xã hội, chính trị trên thế giới
cũng ảnh hưởng đến hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của các doanh
nghiệp.
Các nhân tố bên ngoài quốc gia xuất khẩu:
- Hệ thống rào cản thương mại:

Hệ thống rào cản thương mại bao gồm các rào cản thuế quan và rào cản phi
thuế quan, đây là các biện pháp nhằm bảo hộ nền kinh tế trong nước tránh khỏi hay
giảm thiểu sự cạnh tranh với hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài của một quốc gia,
vùng lãnh thổ.
Hiện nay, tất cả các nước trên thế giới đều đưa ra quan điểm chung là tự do
mậu dịch và cùng phối hợp với nhau để dần dần giảm bớt các rào cản đối với hàng
hoá của nước này khi thâm nhập sang thị trường khác.Nhưng không có nghĩa là
các nhà kinh doanh quốc tế rất thuận lợi trong việc thâm nhập thị trường quốc tế.
Mặt khác, các rào cản đối với hàng hoá xuất khẩu còn phụ thuộc vào việc sản
phẩm đó là sản phẩm gì? Nó có thuộc diện những mặt hàng được hưởng ưu đãi
thuế hay không? Vì sự chênh lệch giữa mức thuế nhập khẩu thông thường với mức
thuế ưu đãi là rất lớn. Do vậy, các doanh nghiệp luôn tìm cách đẩy mạnh hoạt động
mở rộng thị trường vào những thị trường có mức thuế thấp để tăng sức cạnh tranh
về giá cho sản phẩm. Mà hiện nay đang nổi lên một biện pháp mà các chính phủ
nước nhập khẩu thường dùng để hạn chế sự nhập khẩu hàng hóa vào nước mình đó
là các rào cản phi thuế quan. Đây là một hình thức bảo hộ rất tinh xảo, đó là các
điều kiện về vệ sinh, các thông số kĩ thuật… đặc biệt là mức giá bán trên thị trường
nước nhập khẩu. Ngày nay, các nước trên thế giới luôn nỗ lực để khuyến khích
thương mại tự do giữa các nước. Một số tổ chức mà mọi người đều biết đến đó là
tổ chức thương mại thế giới (WTO) - tổ chức thương mại lớn nhất thế giới mà
hiện nay Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức.
Cùng với tổ chức thương mại thế giới, thì trên khắp thế giới cũng hình thành
các liên minh kinh tế ở các mức độ khác nhau. Sự phát triển của các liên minh kinh
tế đó có tác động trên hai mặt đến các nhà kinh doanh quốc tế. Một mặt, gây khó
khăn trong quá trình xâm nhập thị trường cho các nhà kinh doanh quốc tế nằm
ngoài liên doanh liên kết, nhưng mặt khác nó tạo ra một môi trường kinh doanh
rộng lớn và thuần khiết hơn. Khi đã thâm nhập được vào thị trường này thì doanh
nghiệp có thể được bù đắp bằng doanh số bán hàng và lợi nhuận thu được từ thị
trường này mang lại. Như vậy, các liên kết kinh tế vừa tạo nên các cơ hội cho các
doanh nghiệp đồng thời cũng tạo ra những thách thức đối với các doanh nghiệp

nước ngoài đinh thâm nhập vào thị trường đó.
- Thị trường
Đây là nhân tố quan trọng quyết định đến khả năng tiêu thụ sản phẩm đó
trên thị trường xuất khẩu. Thị trường sản phẩm tại quốc gia nhập khẩu bao gồm
các nhân tố như dung lượng thị trường, mức độ cạnh tranh, xu hướng biến động
của thị trường, tình hình cung cầu, mức độ cạnh tranh. Do vậy, những yếu tố này
ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động mở rộng thị trường của doanh nghiệp.
Nhân tố đầu tiên phải kể đến đó là thị trường đó phải có nhu cầu về sản phẩm
thị doanh nghiệp mới có khả năng thâm nhập thành công. Trên thế giới mỗi một
khu vực, mỗi một đất nước đều có một thị hiếu tiêu dùng riêng. Do vậy, trên một
số thị trường thì sản phẩm của doanh nghiệp có nhu cầu tiêu dùng lớn, nên đây là
một trong những thị trường chiến lược trong tương lai. Nhưng có những đoạn thị
trường sản phẩm của doanh nghiệp bị tẩy chay, do đó nhu cầu của người tiêu dùng
với sản phẩm này gần như không có. Doanh nghiệp cần xác định rõ đâu là thị
trường trọng tâm của mình, cần tập trung khai thác.
- Các nhân tố khác:
Ngoài những nhân tố kể trên thuộc thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp ảnh
hưởng đến hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp, thì còn
những nhân tố khác mà tầm ảnh hưởng của nó cũng rất quan trọng: Những nhân tố
đó là:
+ Nhân tố văn hoá: Mỗi một quốc gia trên thế giới đếu có những nét văn hoá
riêng, có khi còn trái ngược nhau hoàn toàn. Nhân tố này rất quan trọng, nó có tác
động đến nhu cầu tiêu dùng của sản phẩm đó trên thị trường. Điều này sẽ ảnh
hưởng đến quyết định có mở rộng thị trường xuất khẩu hay không của doanh
nghiệp. Để có thể thâm nhập thành công thì doanh nghiệp phải cố gắng làm cho
sản phẩm của mình phù hợp với những nét văn hoá của thị trường đó.
+ Nhân tố về kinh tế: Các nhân tố về kinh tế cũng có ảnh hưởng rất lớn đến
việc mở rộng thị trường của doanh nghiệp, các nhân tố đó có thể là thu nhập bình
quân đầu người, tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát, thất nghiệp…
+ Các nhân tố chính trị – pháp luật – xã hội. Hoạt động mở rộng thị trường

xuất khẩu của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng rất nhiều bởi nhân tố này.
+ Các nhân tố về điều kiện tự nhiên, và các nhân tố thuộc môi trường cạnh
tranh.
Nhân tố bên trong:
- Chiến lược phát triển sản phẩm
Một doanh nghiệp có thể tham gia xuất khẩu nhiều sản phẩm khác nhau. Việc
sản phẩm đó chiếm một vị trí như thế nào trong chiến lược phát triển sản phẩm của
quốc gia, của ngành có ảnh hưởng rất lớn đến việc mở rộng thị trường xuất khẩu
của doanh nghiệp. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp là một trong những sản phẩm
xuất khẩu chiến lược của quốc gia, thì doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn trong việc tiếp
cận những thông tin về thị trường, và sẽ nhận được nhiều sự hỗ trợ của Chính phủ
trong hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của mình.
- Các quy định có liên quan của Chính phủ.
Đây là những quy định thuộc về chính sách của Nhà nước, những chính sách
này có tác động đến những doanh nghiệp theo những chiều hướng khác nhau,
nhưng nó tạo nên môi trường pháp lý đối với hoạt động của doanh nghiệp. Nếu
những quy định pháp luật quá phức tạp, rườm rà, sẽ rất dễ gây ra hiện tượng chồng
chéo, làm cho doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thông tin về
mở rộng thị trường và các hoạt động mở rộng thị trường.
Các quy định của pháp luật liên quan đến việc mở rộng thị trường xuất khẩu
của doanh nghiệp gồm có: các quy định về thuế xuất khẩu, các quy định về tài
chính, về vay tín dụng, ngân hàng, các quy định liên quan đến sử dụng lao động…
2.2 Các nhân tố chủ quan
- Chiến lược của doanh nghiệp:
Chiến lược của doanh nghiệp là kế hoạch hoạt động dài hạn của doanh
nghiệp. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung thì việc chú trọng đến việc
mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá là một việc hết sức cần thiết. Nếu trong
chiến lược của doanh nghiệp đề cập đến vấn đề này thì doanh nghiệp cần tìm mọi
cách để hiện thực hoá chiến lược này.
- Tiềm lực của doanh nghiệp:

Tiềm lực của doanh nghiệp ảnh hưởng rất lớn đến việc mở rộng thị trường
của doanh nghiệp. Khi tiềm lực kinh tế lớn thì việc mở rộng thị trường của doanh
nghiệp diễn ra đồng bộ hơn, quy mô hơn, và có khả năng đạt hiệu quả cao.
- Chiến lược marketing của doanh nghiệp:
Thực hiện chiến lược marketing tốt là một nhân tố quan trọng giúp cho hoạt
động mở rộng thị trường của doanh nghiệp được thực hiện tốt hơn. Việc đề ra
chiến lược marketing không chỉ đưa ra một hệ thống biện pháp tác động một cách
toàn diện tới hoạt động xuất khẩu, bên cạnh đó nó còn đảm bảo cho hoạt động xuất
khẩu của doanh nghiệp có thể phản ứng một cách linh hoạt trước những biến động
của thị trường.
- Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế:
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến việc hoạt động
mở rộng thị trường của doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được
cấu tạo nên bởi các yếu tố sau:
+ Tiềm lực của doanh nghiệp.
+ Trình độ công nghệ.
+ Chất lượng nguồn nhân lực.
+ Vị thế của công ty trên thị trường quốc tế cũng như nội địa.
- Khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp không giống với khả năng cạnh
tranh của các sản phẩm của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có một danh mục các
sản phẩm khác nhau, và khả năng cạnh tranh của chúng cũng không giống nhau
đối với từng doanh nghiệp. Khả năng này được cấu tạo bởi những yếu tố sau:
+ Khả năng cạnh tranh về chất lượng và giá cả.
+ Mức độ thích ứng của sản phẩm với thị trường xuất khẩu.
+ Uy tín về sản phẩm của doanh nghiệp tại thị trường xuất khẩu.
3. Sự cần thiết của việc phải mở rộng thị trường xuất khẩu.
Nói đến thị trường xuất khẩu là nói đến khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, thị
trường xuất khẩu là yếu tố sống còn. Phạm vi thị trường rộng lớn, đồng đều đem

lại cho doanh nghiệp những cơ hội lớn trong việc tiếp cận với những khách hàng
tiềm năng tại những thị trường đó. Một thị trường xuất khẩu rộng lớn ngoài việc
đem lại một doanh thu xuất khẩu lớn cho doanh nghiệp, qua đó giảm tỷ lệ nhập
siêu của cả doanh nghiệp lẫn quốc gia có doanh nghiệp xuất khẩu, còn đem đến
cho doanh nghiệp rất nhiều các lợi thế khác. Khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp cũng theo đó mà tăng lên, thị phần đối với các sản phẩm xuất khẩu được
đảm bảo.
Việc thị trường xuất khẩu được mở rộng cũng giúp tạo ra nhiều công ăn việc
làm hơn cho người lao động tại quốc gia xuất khẩu. Mặt khác, giá trị xuất khẩu
đóng góp trực tiếp vào GDP của quốc gia, việc tăng kim ngạch xuất khẩu sẽ đóng
góp vào việc tăng GDP, và qua đó tăng thu nhập bình quân đầu người của quốc gia
đó. Rõ ràng có rất nhiều lợi ích từ việc tăng giá trị xuất khẩu, mà việc mở rộng thị
trường xuất khẩu đã trực tiếp mang lại.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC DUY TRÌ VÀ MỞ RỘNG
THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ
NGHỆ Ở CÔNG TY CỔ PHẦN SX-XNK HOÀNG LONG

×