Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

bài giảng pháp luật tài chính đầy đủ, dễ hiểu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.1 KB, 34 trang )

Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ
LUẬT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. Những vấn đề lí luận về NSNN
1.1.1. Định nghĩa ngân sách nhà nước về phương diện kinh tế và pháp lý
Ngân sách nhà nước là phạm trù kinh tế thuộc lĩnh vực tài chính. Hiện tượng ngân sách ra
đời và tồn tại từ rất lâu trong lịch sử, trên cơ sở của nền kinh tế hàng hoá và sự hình thành, phát
triển của nhà nước.
Sau 3 lần phân công lao động xã hội đóng vai trò quan trọng trong sự phân hóa các giai cấp
trong xã hội, đặc biệt là phân công lao động xã hội lần thứ ba, kết quả là sự ra đời của giai cấp
thương nhân. Giai cấp thương nhân ra đời dẫn đến các quan hệ trao đổi mua bán cũng phát triển
mạnh mẽ, cùng với nó là sự xuất hiện của tiền tệ. Nhà nước ra đời thúc đẩy mạnh mẽ việc sử dụng
tiền tệ trong lưu thông hàng hóa. Sự ra đời và tồn tại của Nhà nước làm nảy sinh nhu cầu chi tiêu
của Nhà nước. Điều đó đòi hỏi Nhà nước dùng quyền lưc chính trị để tập trung một bộ phận của
cải của xã hội cho mình làm hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước, tham gia
quá trình phân phối của cải với tư cách chủ thể quyền lực chính trị.
Trong thời kỳ đầu của lịch sử Nhà nước, quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước (sau
này được gọi là quỹ NSNN) mặc dù cũng được thiết lập và sử dụng cho nhu cầu của Nhà nước
nhưng không hoàn toàn mang đúng bản chất là NSNN như cách hiểu hiện đại ngày nay, bởi lẽ:
- Việc thiết lập, quản lý và sử dụng hoàn toàn do người đứng đầu Nhà nước quyết định
mà không được kế hoạch hóa, không được xác định niên độ cũng như không được quy định cụ thể
bởi bất kỳ một luật lệ nào.
- Không có sự phân biệt và tách bạch một cách rạch ròi giữa các khoản chi tiêu của Nhà
nước và các khoản chi tiêu của người đứng đầu nhà nước và gia đình của họ. Các khoản thu, chi
của người đứng đầu nhà nước luôn được hiểu đồng nghĩa với các khoản thu, chi của Bộ máy chính
quyền Nhà nước.
Khái niệm ngân sách nhà nước chỉ được bắt đầu sử dụng khi các khoản thu chi của nhà
nước được thể chế hoá bằng pháp luật, tức là, có sự xác định, thừa nhận, công khai hoá bằng luật
pháp đối với những khoản thu chi của nhà nước sử dụng ngân sách nhà nước. Thắng lợi của cuộc
Cách mạng Tư sản và sự ra đời của Quốc hội đầu tiên trong lịch sử gắn liền với sự ra đời của thuật
ngữ NSNN hiện đại. Quốc hội với tư cách là một nhánh quyền lực trong bộ máy nhà nước, đại


diện cho nhân dân đã thực hiện sứ mệnh đoạt từ tay Nhà vua thẩm quyền về tài chính, bao gồm
quyền biểu quyết các khoản thu và chi mà chính quyền được thực hiện trong thời gian nhất định.
Về phương diện kinh tế, ngân sách nhà nước được hiểu là bản dự toán các khoản thu và
chi tiền tệ của một quốc gia, được cơ quan có thẩm quyền của nhà nước quyết định để thực hiện
trong thời hạn nhất định, thường là một năm.
NSNN là một bản kế hoạch tài chính khổng lồ của cả quốc gia, do vậy nó phải được Quốc
hội với tư cách là người đại diện cho toàn thể nhân dân trong quốc gia đó quyết định, và được giao
cho Chính phủ thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định, thường là 01 năm và niên độ được
xác định từ 1/1 – 31/12.
Chính vì vậy mà pháp luật thực định (Đ1 Luật NSNN 2002) đưa ra định nghĩa về ngân
sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước trong dự toán được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền quyết định và thực hiện trong khoảng thời gian là một năm để đảm bảo chức năng,
nhiệm vụ của nhà nước.
Trong khoa học pháp lý, NSNN còn được quan niệm là một đạo luật đặc biệt do quốc hội
ban hành, cho phép chính phủ thực hiện trong một thời hạn xác định.
1.1.2. Các đặc điểm của ngân sách nhà nước
Trang - 1
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
NSNN là một bản kế hoạch tài chính khổng lồ nhất, cần được quốc hội biểu quyết thông
qua trước khi thi hành. Việc thiết lập NSNN không chỉ là vấn đề kỹ thuật nghiệp vụ kinh tế (lập
dự toán các khoản thu chi định thực hiện trong một năm) mà còn là vấn đề mang tính kỹ thuật
pháp lý (phải trải qua giai đoạn xem xét, biểu quyết thông qua tại quốc hội giống như việc ban
hành một đạo luật để làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định cho các chủ thể tham
gia vào hoạt động ngân sách). Việc quốc hội biểu quyết thông qua NSNN thực chất chính là Nhân
dân thông qua cơ quan đại biểu của mình để quyết định các khoản thu và việc sử dụng các khoản
thu đó như thế nào cho nhu cầu công.
Ngân sách nhà nước không chỉ là một bản kế hoạch tài chính thuần túy mà còn là một đạo
luật. NSNN sau khi được soạn thảo bởi cơ quan hành pháp thì được chuyển sang cho cơ quan lập
pháp xem xét và ban bố dưới hình thức một đạo luật để thi hành. Điều này khẳng định vị trí, vai
trò đặc biệt quan trọng của NSNN đối với sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội của một

đất nước.
NSNN là kế hoạch tài chính của toàn thể quốc gia, được trao cho CP tổ chức thực hiện
nhưng phải đặt dưới sự giám sát trực tiếp của Quốc hội. Quốc hội thực hiện việc giám sát trực tiếp
đối với hoạt động thực hành NS của CP nhằm siểm soát nguy cơ lạm quyền của cơ quan hành
pháp trong quá trình thực thi ngân sách.
Ngân sách nhà nước được thiết lập và thực thi hoàn toàn vì mục tiêu mưu cầu lợi ích
chung của toàn thể quốc gia, không phân biệt người thụ hưởng các lợi ích đó là ai, thuộc thành
phần kinh tế nào hay đẳng cấp xã hội nào.
1.1.3. Cơ cấu của ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước được cầu trúc bởi hai phần: các khoản thu và các khoản chi.
a) Cơ cấu các khoản thu của NSNN
- Các khoản thu có tính chất hoa lợi: Là khoản thu làm tăng ngân quỹ khả dụng của ngân
khố nhưng không làm tăng trái cụ của quốc gia; hoặc đó là khoản thu làm giảm trái khoản của
quốc gia nhưng không làm giảm ngân quỹ của quốc khố. Các khoản thu này bao gồm: thu về thuế;
thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân; thu từ viện trợ
không hoàn lại của nước ngoài cho CP; thu tiền phạt vi phạm PL
- Các khoản thu không có tính chất hoa lợi: Là khoản thu làm tăng ngân quỹ khả dụng
của ngân khố nhưng đồng thời cũng làm tăng một số lượng tương ứng các trái vụ của quốc gia.
Những khoản thu này thường không có tác dụng đáng kể đối với việc cải thiện tình trạng thâm hụt
ngân sách. Bởi lẽ CP thu được bao nhiêu tiền vào ngân khố (kho bạc nhà nước) thì sau đó CP cũng
sẽ phải chi ra tương ứng bấy nhiêu tiền khỏi ngân khố để thực hiện các trái vụ đối với các chủ thể
khác. Bao gồm: thu về vay nợ và viện trợ có hoàn lại; thu về lệ phí và phí; thu về tiền bồi thường
thiệt hại cho nhà nước; thu từ bán trái phiếu chính phủ
b) Cơ cấu các khoản chi của NSNN
- Các khoản chi có tính chất phí tổn: Là những khoản chi làm giảm ngân quỹ khả dụng
của ngân khố mà không làm giảm trái vụ của quốc gia. Những khoản chi này có hại ít nhiều cho
NSNN nhưng Nhà nước không thể không chi vì nó thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với xã
hội, vai trò của nhà nước trên trường quốc tế. Bao gồm: chi viện trợ không hoàn lại cho nước
ngoài, chi trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội; chi bù lỗ cho các doanh nghiệp nhà nước;
chi trợ giá theo chính sách của nhà nước; chi hỗ trợ cho các doanh nghiệp và tổ chức đoàn thể xã

hội
- Các khoản chi không có tính chất phí tổn: Là những khoản chi làm giảm ngân quỹ khả
dụng của ngân khố và đồng thời cũng làm giảm tương ứng các trái vụ của quốc gia đối với trái
chủ. Bao gồm: chi trả nợ cho nhà nước
1.1.4. Các nguyên tắc cơ bản của ngân sách nhà nước
Trang - 2
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
Nguyên tắc ngân sách nhất niên
- Mỗi năm Quốc hội sẽ biểu quyết ngân sách một lần theo hạn kỳ do luật định
- Bản dự toán ngân sách nhà nước sau khi đã được Quốc Hội quyết định chỉ có giá trị hiệu
lực thi hành trong một năm và Chính Phủ cũng chỉ được phép thi hành trong năm đó.
- Được quy định tại Đ 1 và Đ 14 Luật NSNN 2002
Nguyên tắc ngân sách đơn nhất
Mọi khoản thu và chi tiền tệ của quốc gia trong một năm chỉ được phép trình bày trong một
văn kiện duy nhất, đó là bản dự toán ngân sách nhà nước sẽ được Chính phủ trình Quốc hội quyết
định để thực hiện
Luật NSNN 2002 không có điều luật nào quy định một cách rõ ràng và chính thức về
nguyên tắc này.
Nguyên tắc ngân sách toàn diện
- Mọi khoản thu và mọi khoản chi đều phải ghi và thể hiện rõ ràng trong bản DTNSNN hàng
năm đã được QH quyết định; không được để ngoài DTNS bất kỳ khoản thu, chi nào dù là nhỏ
nhất.
- Các khoản thu chi không được phép bù trừ cho nhau mà phải thể hiện rõ ràng từng khoản thu
và mỗi khoản chi trong mục lục NSNN được duyệt không được phép dùng riêng một khoản thu
cho một khoản chi cụ thể nào mà mọi khoản thu đều được dùng để tài trợ cho mọi khoản chi
Nguyên tắc ngân sách thăng bằng
Sự thăng bằng NS là sự cân bằng giữa tổng thu hoa lợi ( chủ yếu là thuế) với tổng chi có
tính chất phí tổn
Nếu tổng khoản thu có t/c hoa lợi > tổng chi có tính chất phí tổn: Thặng dư (bội thu)
NSNN

Nếu Ngược lại: Thâm hụt (bội chi) NSNN
Được ghi nhận tại K2Đ 8 Luật NSNN 2002
1.1.5. Vai trò của ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường và sự cần thiết phải điều
chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước giữ vai trò là công cụ phân phối. Điều này được thể hiện thông qua
việc nhà nước huy động nguồn tài chính để đảm bảo cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Thông qua
việc tiến hành cân đối giữa các khoản thu và chi của nhà nước, nhà nước có thể hoạch định chính
sách trong điều tiết thu nhập, giải quyết tốt mối quan hệ giữa thu và chi, giữa tích luỹ tiêu dùng,
đầu tư phát triển, tiết kiệm.
Ngân sách nhà nước giữa vai tró điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua việc điều hoà các
nguồi tài chính giữa các vùng kinh tế, các ngành kinh tế, thông qua việc hướng dẫn, kích thích hay
hạn chế sản xuất, tiêu dùng bằng các chính sách thuế, tài chính, ngân sách nhà nước có thể điều
tiết thu nhập của các chủ thể khác nhau trong xã hội, xử lý mối quan hệ giữa tích luỹ, đầu tư và
tiêu dùng, điều chỉnh giá cả, ổn định thị trường, chống lạm phát.
Ngân sách nhà nước còn giữ vai trò là công cụ thực hiện chính sách và hướng dẫn tiêu
dùng xã hội. Bằng chính sách thuế, nhà nước có thể thông qua hoạt động ngân sách nhà nước để
thực hiện ưu đã cho các đối tượng chính sách, điều tiết thu nhập dân cư, hạn chế sự bất bình đẳng
xã hội. Ngoài ra, ngân sách nhà nước còn cung cấp phương tiện tài chính để nhà nước thực hiện
trợ cấp xã hội, phúc lợi công cộng.
1.2. Tổng quan về luật ngân sách
1.2.1. Khái niệm Luật ngân sách nhà nước
Trang - 3
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
Luật NSNN là tổng thể các QPPL đ/chỉnh các qhệ XH phát sinh trong qt tạo lập, quản lý,
phân phối, SD vốn ttệ của NSNN (các quan hệ phát sinh trong quá trình hoạt động NSNN)
1.2.2. Phạm vi điều chỉnh của Luật ngân sách nhà nước
Luật NSNN điều chỉnh các QHXH phát sinh trong quá trình hoạt động NSNN, là các quan hệ
thuộc 4 nhóm sau:
- QHXH phát sinh trong quá trình lập, phê chuẩn, chấp hành và quyết toán NSNN
- QHXH phát sinh trong quá trình phân cấp quản lý NSNN

- QHXH phát sinh trong quá trình tạo lập quỹ NSNN (quá trình thu nộp quỹ NSNN)
- QHXH phát sinh trong quá trình sử dụng quỹ NSNN (quá trình chi tiêu quỹ NSNN)
1.2.3. Quan hệ pháp luật ngân sách
Là những QH phân phối dưới hình thái giá trị, phát sinh trong quá trình hoạt động NSNN,
được các QPPL điều chỉnh, mang lại các quyền và nghĩ vụ pháp lý cho các chủ thể thực hiện khi
tham gia hoạt động NS
Về bản chất thuộc loại QH có t/c hành chính, thể hiện ở những đặc điểm:
+ Có ít nhất 1 bên chủ thể là CQ công quyền (CQNN có thẩm quyền)
+ Được xác lập=quy định PL chặt chẽ cả về điều kiện và cách thức xác lập QH, quyền và
NV của các bên
+ Khách thể là lợi ích KTXH, công cộng (thỏa mãn nhu cầu thực hiện các chức năng cơ
bản của NN)
Chương 2: TỔ CHỨC HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.1. Tổ chức hệ thống NSNN
2.1.1. Khái niệm và mô hình tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước
Hệ thống ngân sách là một thể thống nhất được tạo thành từ các bộ phận cấu thành nên
ngân sách: các khâu ngân sách. Giữa các khâu trong hệ thống ngân sách vừa độc lập, vừa có mối
quan hệ qua lại lẫn nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mình.
Hệ thống ngân sách thường được tổ chức tương ứng với hệ thống chính quyền nhà nước
nhưng không nhất thiết mỗi cấp chính quyền là một cấp ngân sách. Điều kiện cần và đủ để một cấp
chính quyền trở thành cấp ngân sách:
-Nhiệm vụ của cấp chính quyền tương đối toàn diện trên các lĩnh vực phát triển về hành
chính, xã hội kinh tế ở vùng lãnh thổ mà cấp chính quyền đó quản lý.
-Tổng hợp các nguồn thu trên lãnh thổ mà cấp chính quyền đó quản lý có khả năng giải
quyết phần lớn nhu cầu chi tiêu của mình.
Hệ thống ngân sách ở Việt Nam:
-Từ sau Cách mạng tháng 8 đến trước 1967: Việt Nam chỉ tồn tại 1 ngân sách duy nhất
được gọi chung là ngân sách nhà nước, ở đó không có sự phân định thẩm quyền giữa các cấp chính
quyền nhà nước trong quản lý ngân sách nhà nước.
-Từ 1967, khai sinh chế độ phân cấp quản lý ngân sách. Theo đó, phân cấp quản lý ngân

sách nhà nước là khái niệm hàm chỉ mô hình quản lý ngân sách nhà nước mà trong đó Chính quyền
trung ương phân giao cho chính quyền địa phương thực hiện một số nghiệp vụ nhất định trong hoạt
động ngân sách nhà nước.
Trang - 4
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
-Từ sau 1976 đến 1978, hệ thống ngân sách ở Việt Nam được phân định gồm ngân sách
trung ương và ngân sách địa phương, trong đó ngân sách địa phương gồm hai cấp ngân sách cấp
tỉnh và ngân sách cấp huyện.
-1983: hệ thống ngân sách Việt Nam được xây dựng gồm 4 cấp tương đương với 4 cấp
chính quyền trong bộ máy nhà nước: Ngân sách Trung ương, tỉnh, huyện, xã.
-Luật Ngân sách nhà nước 2002 hệ thống ngân sách Việt Nam đuợc thiết lập bao gồm ngân
sách trung ương và ngân sách địa phương. Trong đó, ngân sách địa phương sẽ hàm chứa ngân sách
cấp tỉnh, huyện, xã.
2.1.2. Các nguyên tắc tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước
- Nguyên tắc thống nhất trong t/c NSNN
Nội dung: Các cấp NS là những bp cấu thành của một ht NS thống nhất và duy nhất. Mỗi
cấp NS đều có hoạt động thu, chi của mình nhưng các hđ đó phải nhất quán, cùng dựa trên những
chuẩn mực, định mức nhất định và phải tuẩn thủ cùng 1 c.sách, c.độ về thu, chi NS
Yêu cầu:
- Phải thể chế hóa thành PL mọi chủ trương, cs, t.chuẩn, đ.mức về thu, chi NS
- Phải đảm bảo sự nhất quán trên pv toàn quốc về h.thống và chuẩn mực k.toán, về p.thức
b.cáo, về tr.tự lập, phê chuẩn, chấp hành và q.toán NSNN
-Phải tạo cspl cho việc t.lập mqh giữa NS cấp trên và NS cấp dưới trong việc điều chuyển
nguồn vốn giữa các cấp NS này
-Đảm bảo tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp ngân sách, có cơ chế phân cấp và
quản lý phù hợp để phát huy được tính tự chủ, kích thích khai thác nguồn thu của các cấp ngân sách
địa phương, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của địa phương.
 Nguyên tắc độc lập và t.chủ của các cấp NSNN
Đảm bảo cho các cấp CQ/cấp NS có thể chủ động trong việc t.hiện chức năng của mình
- Cần phân giao các nguồn thu và n.vụ chi cho các cấp NS đồng thời cần cho phép mỗi cấp

NS có quyền qđ NS cấp mình trên cs tuân thủ các c.độ, cs, t.chuẩn, đ.mức về thu , chi NS của NN
- QH có quyền qđ n.vụ thu, chi cho NS TW và NS cấp tỉnh, HĐND cấp tỉnh qđ n.vụ thu, chi
cho NS cấp huyện và xã thuộc địa bàn q.lý
 Nguyên tắc tập trung quyền lực trên c.sở phân định thẩm quyền giữa các cấp CQNN trong
hoạt động NS
Tập trung quyền lực thể hiện ở:
- Quyền qđ của QH và sự điều hành thống nhất của CP đ.với NSNN
- Vai trò chủ đạo của CQ TW trong việc s.d NSTW để t.h những n.vụ chiến lược, q.trọng
của QG, những cs điều tiết kt vĩ mô…
Phân định thẩm quyền là xác định rõ quyền hạn & trách nhiệm của từng cấp Chính quyền trong
việc t.h các hđ thu, chi NS: Xu hướng tăng nguồn thu cho NS đp, thúc đẩy đp ph.đấu để ch.động
cân đối NS; tăng số đp tự c.đối NS và có đ.góp cho NSTW, giảm số đp phải nhận hỗ trợ c.đối từ
NSTW và giảm mức b.sung từ NSTW
2.2. Chế độ phân cấp quản lí NSNN
2.2.1. Khái niệm và sự cần thiết phải phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân
sách nhà nước
Thu NSNN: huy động một bộ phận giá trị SPXH, theo quy định của PL, làm hình thành quỹ
NSNN
Trang - 5
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
Chi NSNN: là hoạt động nhằm sử dụng quỹ NSNN, là quá trình phân phối nguồn tiền tệ nằm
trong quỹ NSNN để chi dùng vào những mục đích khác nhau.
Phân phối thu, chi giữa các cấp NSNN là việc xác định mỗi cấp NS được tập trung những nguồn
thu nào và mức độ tập trung đến đâu đồng thời đề ra nhiệm vụ chi cụ thể cho từng cấp NS
Thực chất của phân cấp ngân sách là việc phân chia quyền hạn và xác định trách nhiệm của
mỗi cấp chính quyền nhà nước đối với ngân sách cấp mình và ngân sách nhà nước nói chung. Phân
cấp quản lý ngân sách sẽ giải quyết được mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính
quyền địa phương trong việc xử lý các vấn đề về hoạt động của ngân sách nhà nước như quan hệ
về mặt chế độ, chính sách, quan hệ vật chất giữa nguồn thu, nhiệm vụ chi, quan hệ về quy trình
ngân sách.

2.2.2. Nguyên tắc phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách nhà nước
- Ngân sách trung ương-ngân sách mỗi cấp chính quyền địa phương được phân định nguồn
thu, nhiệm vụ chi cụ thể. Việc phân định được đảm bảo bằng pháp luật. Các cấp chính quyền
không được phép đặt ra hoặc điều chỉnh khoản thu của ngân sách cấp mình. Mỗi cấp ngân sách chỉ
phải tiến hành nhiệm vụ thu chi trên cơ sở luật định.
- Bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới phải đảm bảo công bằng, đảm bảo
yêu cầu phát triển cân đối giữa các vùng, địa phương. Số bổ sung này là khoản thu của ngân sách
cấp dưới. Việc bổ sung không phải được thực hiện đồng loạt đối với mọi cấp ngân sách mà dựa
trên khả năng thu, nhiệm vụ chi của mỗi cấp ngân sách mà ngân sách cấp trên sẽ thực hiện việc
cấp bổ sung.
- Không được dùng ngân của cấp này để chi cho nhiệm vụ của cấp ngân sách khác. Trường
hợp cơ quan quản lý nhà nước cấp trên ủy quyền cho cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới thực hiện
nhiệm vụ chi thuộc chức năng của mình thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho cấp
ngân sách thực hiện nhiệm vụ đó.
2.2.3. Thẩm quyền quyết định phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách
Luật NSNN 2002 quy định cụ thể nguồn thu và nhiệm vụ chi hai cấp ngân sách TƯ và
ngân sách địa phương đồng thời đề ra các nguyên tắc định hướng việc phân phối thu, chi của cơ
quan quyền lực nhà nước cấp tỉnh khi phân bổ nguồn thu và nhiệm vụ chi cho các cấp ngân sách
huyện và xã trên địa bàn tỉnh quản lý
Quốc hội có thẩm quyền quyết định chi tiết việc phân phối thu, chi cho hai cấp NS là cấp
TƯ và cấp tỉnh.
HĐND tỉnh quyết định việc phân giao nguồn thhu và nhiệm vụ chi cụ thể cho từng cấp
ngân sách huyện và xã thuộc địa bàn của tỉnh phù hợp với đặc thù, khả năng và nhu cầu của địa
phương.
2.2.4. Các khoản thu và chi của các cấp NSNN
a. Các khoản thu của NSTW
* Các khoản thu cố định gồm:
- Thuế GTGT hàng hóa nhập khẩu
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hóa nhập khẩu.

- Thuế lợi tức của các đơn vị hạch toán toàn ngành.
- Các khoản thuế và thu khác về dầu khí.
- Thu hồi vốn của NSTW tại các tổ chức kinh tế, lợi tức từ vốn góp của Nhà nước, thu hồi
tiền cho vay, thu từ quỹ dự trữ tài chính của TƯ.
Trang - 6
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
- Các khoản phí và lệ phí quy định nộp vào ngân sách Nhà nước Trung ương.
- Thu kết dư ngân sách TƯ.
- Các khoản thu từ viện trợ không hoàn lại của chính phủ các nước, tổ chức quốc tế, tổ
chức cá nhân nước ngoài cho chính phủ Việt Nam
* Khoản thu điều tiết chuyển về cho ngân sách Nhà nước Trung ương sau khi đã để lại cho
địa phương theo tỷ lệ điều tiết ổn định. :
-Thuế VAT (Trừ thuế VAT đối với hàng hoá nhập khẩu)
-Thuế thu nhập doanh nghiệp (trừ thuế TNDN đối với DN hạch toán toàn ngành)
-Thuế thu nhập cá nhân
-Thuế tiêu thụ đặc biệt từ hàng hoá, dịch vụ trong nước.
-Phí xăng, dầu
* Trong trường hợp cần phải bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước, ngân sách Nhà nước
Trung ương được phép vay trong nước hoặc vay nước ngoài nhưng chỉ nhằm mục đích phục vụ
cho đầu tư nhưng không được sử dụng bất kỳ khoản vay nào nhằm mục đích phục vụ cho các
khoản chi thường xuyên; đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, ngân sách nhà nước thường ưu tiên
chọn giải pháp vay trong nước dưới hình thức các loại giấy tờ có giá ngắn hoặc dài hạn.
b. Các khoản chi của NSTW
* Chi thường xuyên:
+Các hoạt động sự nghiệp GD, dạy nghề, y tế, xã hội, văn hóa thông tin, văn học nghệ
thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, môi trường, các hoạt động sự nghiệp khác do
Trung ương quản lý;
+ Các hoạt động sự nghiệp kinh tế do Trung ương quản lý
+ Về quốc phòng an ninh, trật tự, an toàn xã hội do ngân sách trung ương bảo đảm theo yêu
cầu của Chính phủ;

+Chi thường xuyên cho các hoạt động của các cơ quan nhà nước trung ương, cơ quan Đảng
CSVN và các tổ chức chính trị xã hội.
+Chi trợ giá theo yêu cầu chính sách nhà nước
+Chi thường xuyên dành cho các đối tượng chính sách như thực hiện chế độ đối với những
người về hưu, nghỉ mất sức theo quy định của Luật Lao động, chi cho các đối tượng thương binh,
bệnh binh, liệt sĩ…
+Chi thuờng xuyên hỗ trợ cho các tổ chức chính trị-xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, xã
hội-nghề nghiệp thuộc trung ương.
+Chương trình quốc gia do Trung ương thực hiện.
+Chi hỗ trợ quỹ Bảo hiểm xã hội theo luật định.
* Chi đầu tư phát triển:
+ Đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội không có khả năng thu hồi vốn;
+Đầu tư hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, góp vốn cổ phần, liên doanh
vào các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực quan trọng, cần thiết phải có sự tham gia của Nhà nước.
+Chi bổ sung dự trừ nhà nước dưới dạng bổ sung cho dự phòng ngân sách trung ương.
+Chi hỗ trợ tài chính, bổ sung vốn, hỗ trợ và thưởng xuất khẩu cho các doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế theo quy định của pháp luật.
Trang - 7
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
+Phần chi đầu tư phát triển trong các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án nhà nước do
cơ quan trung ương thực hiện
+Chi hỗ trợ các tổ chức tài chính của nhà nước do trung ương quản lý
- Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính trung ương.
- Chi bổ sung cho ngân sách địa phương
- Chi cho vay theo quy định của pháp luật.
- Chi viện trợ
- Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do Chính phủ vay.
c. Các khoản thu của NS địa phương
* Thu cố định: Khoản thu phát sinh tại địa phương và địa phương được hưởng 100%, bao
gồm:

+Thuế nhà, đất
+Thuế tài nguyên
+Thuế môn bài
+Thuế chuyển quyền sử dụng đất và thuế sử dụng đất nông nghiệp
+Tiền sử dụng đất và tiền cho thuê đất
+Tiền cho thuê và tiền bán nhà thuộc sở hữu nhà nước
+ Lệ phí trước bạ
+Thu hồi vốn của ngân sách địa phương tại các tổ chức kinh tế, thu từ quỹ dự trữ tài chính
của địa phương, thu nhập từ vốn góp của địa phương.
+ Toàn bộ thu từ hoạt động xổ số.
+ Thu kết dư ngân sách Nhà nước.
+ Các khoản viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân trực tiếp cho địa phương.
+ Các khoản thu khác (phí, lệ phí thu từ hoạt động sự nghiệp và các khoản thu khác nộp
vào ngân sách cấp tỉnh)
+ Huy động từ các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật
Thu điều tiết: với NSTW (đã trình bày ở trên)
Thu bổ sung: trong trường hợp thu cố định và thu điều tiết của địa phương không đảm bảo
được yêu cầu chi được phân cấp, sẽ được ngân sách Nhà nước cấp trên bù. Số thu bổ sung được
xác định riêng cho từng cấp ngân sách địa phương dựa trên các tiêu thức dân số, điều kiện tự
nhiên, điều kiện kinh tế xã hội của từng vùng và có chú ý đến vùng sâu, vùng xa.
Số thu bổ sung được ổn định từ 3 – 5 năm và được điều chỉnh hàng năm tùy theo tỷ lệ trượt
giá do Thủ tướng chính phủ công bố. Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định mức bổ sung từ ngân
sách Nhà nước cấp huyện cho ngân sách Nhà nước cấp xã.
Ngoài các khoản thu trên, ngân sách Nhà nước cấp tỉnh được huy động vốn trong nước. Về
nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không vượt quá tổng số thu. vượt
quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh.
d. Các khoản chi của NS địa phương
- Chi thường xuyên: bao gồm
Trang - 8
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh

+Chi cho các hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá thông tin,
văn hoá nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học công nghệ môi trường các hoạt động sự nghiệp
khác do địa phương quản lý.
+Chi cho an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội (phần giao cho địa phương);
+Chi cho hoạt động của cơ quan nhà nước, Đảng Cộng sản, tổ chức chính trị - xã hội ở địa
phương…
+Chi hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp ở địa
phương theo quy định của pháp luật
+Thực hiện các chính sách xã hội đối với các đối tượng do địa phương quản lý
+Chương trình quốc gia do Chính phủ giao cho địa phương quản lý
+Trợ giá theo chính sách của nhà nước
- Chi đầu tư phát triển.
+Đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội do địa phương quản lý
+Đầu tư và hỗ trợ doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính nhà nứoc theo quy định
pháp luật.
+ Các khoản chi khác theo quy định của pháp luât
-Chi trả nợ gốc và lãi những khoản tiền huy động cho đầu tư xây dựng công trình, kết cấu
hạ tầng thông qua việc phát hành trái phiếu chính quyền địa phương.
- Chi bổ sung cho ngân sách Nhà nước cấp dưới.
- Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính.
Chương 3: PHÁP LUẬT VỀ QUÁ TRÌNH NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
3.1. Chế độ lập dự toán NSNN
3.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động lập dự toán ngân sách nhà nước
Lập dự tóan NSNN là công việc khởi đầu có ý nghĩa quyết định đối với tòan bộ các khâu
của quá trình quản lý ngân sách. Lập dự tóan ngân sách là quá trình xây dựng và quyết định kế
họach thu chi của ngân sách nhà nước trong một năm. Và việc phân bổ các nguồn lực phù hợp với
chính sách của nhà nước. Lập dự toán NSNN bao gồm hai loại công việc:
- Xây dựng dự toán NSNN là công việc thuộc trách nhiệm của hệ thống cơ quan quản lý
nhà nước, trong đó cơ quan có trách nhiệm cao nhất trong việc tổ chức chỉ đạo là Chính Phủ. Giúp
CP thực hiện trọng trách này là các bộ, ngành ở TƯ, ủy ban nhân dân các cấp ở địa phương theo

sự phân công, phân cấp trong quản lý NSNN.
- Quyết định dự toán ngân sách NN là công việc thuộc quyền của hệ thống cơ quan quyền
lực nhà nước, bao gồm Quốc hội và HĐND các cấp. QH quyết định dự toán NSNN và dự án phân
bổ NSTW do CP trình còn HĐND cấp tỉnh quyết định dự toán NS và phương án phân bổ NS cấp
mình trên cơ sở định hướng đã được QH quyết định.
Đặc điểm của hoạt động lập dự toán NSNN:
- Được tiến hành hàng năm và vào trước năm ngân sách. Giai đoạn này kéo dài khoảng 6
tháng, thường bắt đầu cuối tháng 5 và kết thúc trước ngày 31 tháng 12 hàng năm, khi toàn bộ dự
toán NS đã được CQ có thẩm quyền quyết định và phân bổ.
- Là giai đoạn thể hiện rõ nhất sự tập trung quyền lực NN vào tay Quốc hội, trên cơ sở có
sự phân công nhiệm vụ giữa hệ thống cơ quan quyền lực và hệ thống cơ quan quản lý trong hoạt
động ngân sách.QH là cơ quan quyết định cuối cùng đảm bảo cho bản NSNN có hiệu lực pháp lý
Trang - 9
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
thi hành. Bản dự toán ngân sách NN đảm bảo thể hiện đầy đủ nhất ý muốn, nguyện vọng và lợi ích
chính đáng của nhân dân.
- Có sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau và giữa các chủ thể đó có sự phân định trách
nhiệm, quyền hạn một cách rõ ràng.
- Được tiến hành theo một quy trình với thủ tục chặt chẽ được luật hóa.
3.1.2. Các căn cứ của việc lập dự toán NSNN
- Nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh; chỉ tiêu, nhiệm vụ
cụ thể của năm kế hoạch và những chỉ tiêu phản ánh quy mô nhiệm vụ, đặc điểm hoạt động, điều
kiện kinh tế - xã hội và tự nhiên của từng vùng như: dân số theo vùng lãnh thổ, các chỉ tiêu về kinh
tế - xã hội do cơ quan có thẩm quyền thông báo đối với từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, từng địa phương và đơn vị;
- Các luật, pháp lệnh thuế, chế độ thu; định mức phân bổ ngân sách; chế độ, tiêu chuẩn,
định mức chi ngân sách do cấp có thẩm quyền quy định; trường hợp cần sửa đổi, bổ sung các văn
bản này thì phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và ban hành trước thời điểm lập dự toán ngân
sách nhà nước hàng năm. Trong đó:
+ Đối với thu ngân sách nhà nước, việc lập dự toán phải căn cứ vào mức tăng trưởng kinh

tế, các chỉ tiêu liên quan và các quy định của pháp luật về thu ngân sách;
+ Đối với chi đầu tư phát triển, việc lập dự toán phải căn cứ vào những dự án đầu tư có đủ
các điều kiện bố trí vốn theo quy định tại Quy chế quản lý vốn đầu tư và xây dựng và phù hợp với
khả năng ngân sách hàng năm, kế hoạch tài chính 5 năm; đồng thời ưu tiên bố trí đủ vốn phù hợp
với tiến độ triển khai của các chương trình, dự án đã được cấp có thẩm quyền quyết định đang thực
hiện;
+ Đối với chi thường xuyên, việc lập dự toán phải tuân theo các chính sách, chế độ, tiêu
chuẩn, định mức do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định;
+ Đối với chi trả nợ, bảo đảm bố trí chi trả đủ các khoản nợ đến hạn (kể cả nợ gốc và trả
lãi) theo đúng nghĩa vụ trả nợ;
+ Đối với vay bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước, việc lập dự toán phải căn cứ vào cân
đối ngân sách, khả năng từng nguồn vay, khả năng trả nợ và mức bội chi ngân sách theo quy định
của cấp có thẩm quyền.
- Những quy định về phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, phân cấp quản lý ngân sách. Đối
với dự toán ngân sách chính quyền địa phương các cấp, việc lập dự toán trong kỳ ổn định ngân
sách căn cứ vào tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu và mức bổ sung cân đối từ ngân sách
cấp trên đã được giao; đối với năm đầu thời kỳ ổn định ngân sách, căn cứ vào chế độ phân cấp
ngân sách và dự toán thu, chi ngân sách của từng địa phương.
- Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và
dự toán ngân sách nhà nước năm sau; Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính về việc lập dự toán
ngân sách; hướng dẫn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh về lập dự toán ngân sách ở các cấp địa
phương.
- Số kiểm tra về dự toán ngân sách do cơ quan có thẩm quyền thông báo.
- Tình hình thực hiện dự toán ngân sách một số năm trước và một số năm gần kề.
3.1.3. Trình tự, thủ tục lập dự toán ngân sách nhà nước
a) Hướng dẫn lập dự toán ngân sách
- Trước ngày 31 tháng 5, Thủ tướng Chính phủ ban hành chỉ thị về việc xây dựng kế họach
phát triển kinh tế xã hội và dự tóan NSNN năm sau.
Trang - 10
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh

- Căn cứ vào Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm sau, Bộ Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn về
yêu cầu, nội dung, thời hạn lập dự toán ngân sách nhà nước và thông báo số kiểm tra về dự toán
ngân sách nhà nước cho các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung
ương và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương căn cứ
vào Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư hướng dẫn, số kiểm tra về dự toán ngân sách của
Bộ Tài chính và căn cứ yêu cầu nhiệm vụ cụ thể của bộ, cơ quan, thông báo số kiểm tra về dự toán
ngân sách cho các đơn vị trực thuộc.
- Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư hướng
dẫn, số kiểm tra về dự toán ngân sách của Bộ Tài chính, căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế -
xã hội, yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể của địa phương, căn cứ khả năng cân đối ngân sách địa
phương, hướng dẫn và thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách cho các đơn vị trực thuộc và
Uỷ ban nhân dân cấp dưới.
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, Uỷ ban
nhân dân các cấp, khi thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách nhà nước cho các đơn vị trực
thuộc và Uỷ ban nhân dân cấp dưới bảo đảm số thu không thấp hơn số kiểm tra về thu, số chi phải
phù hợp với số kiểm tra về tổng mức và cơ cấu.
- Trước ngày 10 tháng 6 năm trước, Bộ Tài chính thông báo số kiểm tra dự toán ngân sách
cho các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương và Uỷ ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nội dung số kiểm tra gồm:
+ Tổng mức và từng lĩnh vực thu, chi ngân sách đối với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ và cơ quan khác ở trung ương.
+ Tổng số thu, chi và một số lĩnh vực chi quan trọng đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương.
b) Lập dự tóan NSNN
Lập dự toán ngân sách địa phương
Sở Tài chính chủ trì phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư xem xét dự toán ngân sách của
các đơn vị thuộc tỉnh, dự toán thu do cơ quan thuế, cơ quan hải quan lập (nếu có), dự toán thu, chi
ngân sách của các huyện; lập dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn, dự toán thu, chi ngân

sách tỉnh (gồm dự toán ngân sách huyện, xã và dự toán ngân sách cấp tỉnh), dự toán chi chương
trình mục tiêu quốc gia, báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh để trình Thường trực Hội đồng nhân dân
tỉnh xem xét trước khi báo cáo Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, bộ quản lý lĩnh vực giáo dục
- đào tạo, khoa học công nghệ (đối với dự toán chi giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ), các cơ
quan Trung ương quản lý chương trình mục tiêu quốc gia (phần dự toán chi chương trình mục tiêu
quốc gia) chậm nhất vào ngày 25 tháng 7 năm trước.
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hướng dẫn cụ thể việc lập dự toán ngân sách các cấp ở địa
phương phù hợp với yêu cầu, nội dung và thời gian lập dự toán ngân sách tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương.
Lập dự toán ngân sách nhà nước và ngân sách trung ương
Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ, cơ quan liên quan,
xem xét dự toán thu, chi ngân sách do các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ
quan khác ở trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương báo cáo, dự toán chi ngân
sách nhà nước theo lĩnh vực (đối với lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ), chi chương
trình mục tiêu quốc gia do các cơ quan quản lý chương trình mục tiêu quốc gia báo cáo, nhu cầu
trả nợ và khả năng vay; tổng hợp và lập dự toán thu, chi ngân sách nhà nước, lập phương án phân
bổ ngân sách trung ương trình Chính phủ.
Trang - 11
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
c) Biểu quyết ngân sách nhà nước
- Dự tóan ngân sách phải được Ủy ban Kinh tế và Ngân sách Quốc hội xem xét, đánh gía và ủy
ban này xẽ có những ý kiến cụ thể báo cáo trước Quốc hội.
- Các báo cáo có liên quan đến dự tóan NS phải được gửi đến đại biểu Quốc hội chậm nhất là 10
ngày trước ngày họp Quốc hội. Quốc hội sẽ thảo luận dự tóan ngân sách. Sau khi thảo luận, Quốc
hội sẽ biểu quyết ngân sách nhà nước. Nếu quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết thông
qua thì Quốc hội sẽ ra Nghị quyết về việc phê chuẩn dự toán NSNN. Như vậy Dự tóan NSNN
được Quốc hội phê chuẩn trở thành một đạo luật của nhà nước mà mọi cá nhân và tổ chức từ trung
ương đến địa phương có nghĩa vụ chấp hành.
- Trường hợp dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương chưa được
Quốc hội quyết định, Chính phủ lập lại dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách

trung ương trình Quốc hội vào thời gian do Quốc hội quyết định.
Trường hợp dự toán ngân sách địa phương chưa được Hội đồng nhân dân quyết định, Uỷ ban nhân
dân lập lại dự toán ngân sách trình Hội đồng nhân dân vào thời gian do Hội đồng nhân dân quyết
định, nhưng không được chậm hơn ngày 10 tháng 01 năm sau đối với ngân sách cấp tỉnh, ngày 20
tháng 01 năm sau đối với ngân sách cấp huyện, ngày 30 tháng 01 năm sau đối với ngân sách cấp

d) Phân bổ ngân sách trung ương, giao dự toán ngân sách nhà nước
1) Sau khi dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương đã được Quốc
hội quyết định, Bộ Tài chính có trách nhiệm:
- Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách trung
ương, đối với năm đầu thời kỳ ổn định ngân sách, trình Chính phủ trình Uỷ ban thường vụ Quốc
hội quyết định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách từng địa
phương đối với các khoản thu phân chia theo quy định
- Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách trung
ương, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu
giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định giao
nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan
khác ở trung ương theo từng lĩnh vực; nhiệm vụ thu, chi, tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản
thu giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, mức bổ sung cân đối (nếu có), mức bổ
sung có mục tiêu từ ngân sách trung ương, dự toán chi từ nguồn kinh phí uỷ quyền của ngân sách
trung ương cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trước ngày 20 tháng 11 năm trước;
- Hướng dẫn nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
cơ quan khác ở trung ương, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trước ngày 25
tháng 11 năm trước.
2) Trên cơ sở quyết định của Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương; Sở Tài chính - Vật giá có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định dự toán thu, chi ngân sách tỉnh, phương án phân
bổ ngân sách cấp tỉnh và mức bổ sung từ ngân sách cấp tỉnh cho ngân sách cấp dưới trước ngày 10
tháng 12 năm trước; Uỷ ban nhân dân tỉnh có trách nhiệm báo cáo Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư dự toán ngân sách tỉnh và kết quả phân bổ dự toán ngân sách cấp tỉnh đã được Hội đồng

nhân dân tỉnh quyết định.
3) Sau khi nhận được quyết định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách của Uỷ ban nhân dân cấp trên;
Uỷ ban nhân dân trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định dự toán thu, chi ngân sách địa
phương và phương án phân bổ dự toán ngân sách cấp mình chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày Hội
đồng nhân dân cấp trên trực tiếp quyết định dự toán và phân bổ ngân sách.
Trang - 12
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
4) Sau khi nhận được dự toán thu, chi ngân sách được cấp có thẩm quyền giao; các đơn vị dự toán
phải tổ chức phân bổ và giao dự toán thu, chi ngân sách cho từng đơn vị trực thuộc, kể cả dự toán
chi từ nguồn kinh phí uỷ quyền (nếu có) trước ngày 31 tháng 12 năm trước.
3.2 Chế độ chấp hành dự toán NSNN
Chấp hành NSNN là quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế, tài chính và hành
chính nhằm biến các chỉ tiêu thu chi trong kế họach NSNN trở thành hiện thực
1
. Chấp hành ngân
sách bao gồm chấp hành thu ngân sách, chấp hành chi ngân sách và họat động điều chỉnh dự tóan
ngân sách.
3.2.1. Chấp hành thu ngân sách
Chấp hành thu ngân sách là quá trình tổ chức thu và quản lý nguồn thu của ngân sách nhà
nước. Hệ thống tổ chức thu ngân sách nhà nước bao gồm các cơ quan thuế, hải quan và các cơ
quan khác được CP cho phép hoặc dược Bộ TC ủy quyền thu. Các cơ quan này phải có trách
nhiệm kiểm sóat các nguồn thu NSNN, xác định và thông báo số phải nộp cho NSNN cho các cá
nhân, tổ chức. Các tổ chức cá nhân có nghĩa vụ nộp đầy đủ, đúng hạn các khoản thuế, phí, lệ phí
và các khoản thu khác vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật. Trường hợp chậm nộp
mà không được phép sẽ bị cưỡng chế nộp theo quy định của pháp luật.
Toàn bộ các khoản thu của ngân sách nhà nước phải nộp trực tiếp vào Kho bạc Nhà nước,
trừ một số khoản cơ quan thu có thể thu trực tiếp song phải định kỳ nộp vào Kho bạc Nhà nước
theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
3.2.2. Chấp hành chi ngân sách
Chấp hành chi NSNN là quá trình tổ chức chi ngân sách nhà nước và quản lý các khỏan chi

của NSNN. Các cơ quan có thẩm quyền quản lý, cấp phát chi NSNN gồm: Cơ quan tài chính, CQ
Kho bạc NN.
Quá trình chi NSNN được qui định như sau:
1) Sau khi được Thủ tướng Chính phủ, Uỷ ban nhân dân giao dự toán ngân sách, các cơ quan nhà
nước ở trung ương và địa phương, các đơn vị dự toán cấp I tiến hành phân bổ và giao dự toán chi
ngân sách cho các đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc.
2) Dự toán chi thường xuyên giao cho đơn vị sử dụng ngân sách được phân bổ theo từng loại của
Mục lục ngân sách nhà nước. Đối với các nhiệm vụ chi về chương trình mục tiêu quốc gia; chi
mua sắm, sửa chữa lớn; chi sự nghiệp kinh tế, dự toán năm giao cho đơn vị sử dụng còn được phân
theo tiến độ thực hiện từng quý.
3) Dự toán chi đầu tư xây dựng cơ bản được phân bổ chi tiết theo từng loại và các mục của Mục
lục ngân sách nhà nước và phân theo tiến độ thực hiện từng quý.
4) Khi phân bổ dự toán ngân sách được giao, cơ quan, đơn vị phân bổ dự toán phải bảo đảm bố trí
vốn, kinh phí cho các dự án, nhiệm vụ đã được chi ứng trước dự toán; đồng thời, phải phân bổ hết
dự toán ngân sách được giao, trường hợp có các nhiệm vụ chi chưa xác định được rõ đơn vị thực
hiện trong dự toán đầu năm thì được giữ lại để phân bổ sau nhưng khi phân bổ phải gửi cơ quan tài
chính cùng cấp để thẩm tra theo quy trình quy định.
5) Phương án phân bổ dự toán ngân sách của cơ quan nhà nước và đơn vị dự toán cấp I cho các
đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc phải gửi cơ quan tài chính cùng cấp để thẩm tra. Qua thẩm
tra, nếu phát hiện phương án phân bổ không đảm bảo các yêu cầu trên thì cơ quan tài chính yêu
cầu cơ quan phân bổ điều chỉnh lại.
6) Trong vòng 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được phương án phân bổ dự toán ngân sách, cơ
quan tài chính phải thẩm tra và có thông báo bằng văn bản về kết quả thẩm tra đến cơ quan, đơn vị
phân bổ ngân sách. Trường hợp các Bộ, Tổng cục được tổ chức theo ngành dọc, chỉ phân bổ và
1
Học Viện Tài chính, Giáo trình Quản lý Tài chính công, Nxb Tài chính 2005, tr. 93
Trang - 13
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
giao dự toán đến đơn vị dự toán cấp II thì vẫn phải tổng hợp toàn bộ phương án phân bổ đến đơn
vị sử dụng ngân sách gửi Bộ Tài chính, Bộ Tài chính thực hiện thẩm tra và thông báo bằng văn

bản đến cơ quan, đơn vị phân bổ ngân sách.
7). Sau khi phương án phân bổ ngân sách được cơ quan tài chính thống nhất, thủ trưởng cơ quan,
đơn vị phân bổ ngân sách quyết định giao dự toán ngân sách cho các đơn vị trực thuộc; đồng gửi
cơ quan tài chính, Kho bạc Nhà nước cùng cấp và Kho bạc Nhà nước nơi giao dịch để phối hợp
thực hiện.
8) Trường hợp chậm phân bổ hoặc kết quả phân bổ chưa được cơ quan tài chính thống nhất thì cơ
quan tài chính, Kho bạc Nhà nước tạm cấp kinh phí theo quy định .
9) Khi cần điều chỉnh dự toán ngân sách giữa các đơn vị trực thuộc mà không làm thay đổi tổng
mức và chi tiết dự toán được giao, thủ trưởng cơ quan, đơn vị phân bổ ngân sách lập giấy đề nghị
điều chỉnh phân bổ dự toán, gửi cơ quan tài chính và Kho bạc Nhà nước cùng cấp.
10) Trường hợp đơn vị dự toán cấp I cần phải điều chỉnh dự toán đã giao cho các đơn vị trực thuộc
song không làm thay đổi tổng mức dự toán Thủ tướng Chính phủ hoặc Uỷ ban nhân dân đã giao
cho đơn vị thì phải có sự thống nhất của cơ quan tài chính cùng cấp.
11). Trường hợp cơ quan tài chính phát hiện việc chấp hành dự toán ngân sách của đơn vị sử dụng
ngân sách chậm, có khả năng không hoàn thành được mục tiêu hoặc chi không hết dự toán được
giao thì có quyền yêu cầu cơ quan, đơn vị phân bổ ngân sách, hoặc đề nghị Thủ tướng Chính phủ,
Uỷ ban nhân dân có giải pháp kịp thời hoặc điều chỉnh nhiệm vụ, dự toán để bảo đảm sử dụng
ngân sách đúng theo mục tiêu, chế độ quy định, tiết kiệm, có hiệu quả ngân sách nhà nước.
12) Trường hợp được bổ sung dự toán từ nguồn dự phòng ngân sách hoặc tăng thu ngân sách theo
quyết định của cấp có thẩm quyền, đơn vị dự toán cấp I phải phân bổ cho đơn vị sử dụng theo
đúng mục tiêu được giao gửi cơ quan tài chính, Kho bạc Nhà nước cùng cấp và Kho bạc Nhà nước
nơi giao dịch.
3.2.3. Điều chỉnh dự tóan NSNN
Trong quá trình chấp hành ngân sách, dự tóan NSNN sẽ đượ điều chỉnh trong các trường hợp sau:
1) Điều chỉnh dự toán ngân sách của chính quyền địa phương cấp dưới trong trường hợp dự toán
ngân sách của các cấp chính quyền địa phương chưa phù hợp với dự toán ngân sách nhà nước,
hoặc chưa phù hợp với dự toán ngân sách cấp trên, thực hiện như sau:
Bộ Tài chính báo cáo Thủ tướng Chính phủ, cơ quan tài chính báo cáo Uỷ ban nhân dân yêu cầu
Hội đồng nhân dân cấp dưới điều chỉnh dự toán ngân sách sau khi nhận được báo cáo quyết định
dự toán ngân sách của Hội đồng nhân dân cấp dưới.

Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm báo cáo Chính phủ, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và
Đầu tư dự toán ngân sách điều chỉnh đã được Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định. Uỷ ban
nhân dân cấp dưới có trách nhiệm báo cáo Uỷ ban nhân dân, cơ quan tài chính cấp trên dự toán
ngân sách điều chỉnh đã được Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định.
2) Trường hợp có biến động lớn về ngân sách nhà nước cần phải điều chỉnh tổng thể, Chính phủ
lập dự toán điều chỉnh ngân sách ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương
trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất.
3) Trường hợp có yêu cầu cấp bách về quốc phòng, an ninh hoặc vì lý do khách quan cần phải điều
chỉnh nhiệm vụ thu, chi của một số cơ quan, đơn vị, địa phương, song không làm biến động đến
tổng thể và cơ cấu ngân sách, Chính phủ trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định và báo cáo
Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
4) Trường hợp có biến động lớn về ngân sách địa phương cần phải điều chỉnh tổng thể, Uỷ ban
nhân dân lập dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương, phương án phân bổ ngân sách cấp mình
trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định.
Trang - 14
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
5) Trường hợp có yêu cầu cấp bách về quốc phòng, an ninh hoặc do lý do khách quan cần điều
chỉnh nhiệm vụ thu, chi của một vài cơ quan trực thuộc hoặc của ngân sách cấp dưới, nhưng không
làm biến động đến tổng thể ngân sách địa phương, Uỷ ban nhân dân trình Hội đồng nhân dân cùng
cấp quyết định.
6) Các cơ quan nhà nước điều chỉnh dự toán ngân sách của các đơn vị trực thuộc trong các trường
hợp sau:
- Khi Thủ tướng Chính phủ, Uỷ ban nhân dân quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách của cơ
quan đó;
- Cần phân bổ lại ngân sách cho các đơn vị trực thuộc.
3.3. Quyết toán NSNN
Quyết tóan NSNN là phản ánh, đánh giá và kiểm tra lại quá trình lập và chấp hành NSNN.
Quyết tóan NSNN được thực hiện tốt có ý nghĩa quan trọng trong việc nhìn nhận lại quá trình chấp
hành ngân sách qua một năm, rút ra những bài học kinh nghiệm thiết thực bổ sung cho công tác
lập ngân sách cũng như chấp hành ngân sách ở những chu trình tiếp theo

1
.
3.3.1.Về mặt số liệu
Số liệu báo cáo quyết toán phải chính xác, trung thực, đầy đủ. Nội dung báo cáo quyết toán ngân
sách phải theo đúng các nội dung ghi trong dự toán được giao (hoặc được cơ quan có thẩm quyền
cho phép) và chi tiết theo Mục lục ngân sách nhà nước. Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ; chịu trách nhiệm về những
khoản thu, chi, hạch toán, quyết toán ngân sách sai chế độ.
Báo cáo quyết toán năm của đơn vị dự toán cấp dưới gửi đơn vị dự toán cấp trên, đơn vị dự toán
cấp I gửi cơ quan tài chính cùng cấp phải gửi kèm các báo cáo sau đây:
1) Bảng cân đối tài khoản cuối ngày 31 tháng 12 và bảng cân đối tài khoản sau khi kết thúc thời
gian chỉnh lý quyết toán.
2) Báo cáo thuyết minh quyết toán năm; thuyết minh quyết toán phải giải trình rõ nguyên nhân đạt,
không đạt hoặc vượt dự toán được giao theo từng chỉ tiêu và những kiến nghị nếu có.
Báo cáo quyết toán năm, gửi các cấp có thẩm quyền để thẩm định, phê duyệt phải có xác nhận của
Kho bạc Nhà nước cùng cấp về tổng số và chi tiết.
3.3.2. Về mặt nội dung
Báo cáo quyết toán ngân sách của các đơn vị dự toán và của các cấp chính quyền địa phương
không được quyết toán chi lớn hơn thu. Cấp dưới không quyết toán các khoản kinh phí uỷ quyền
của ngân sách cấp trên vào báo cáo quyết toán ngân sách cấp mình.
3.3.3. Về trình tự
3.3.3.1. Về trình tự lập, gửi, xét duyệt báo cáo thu, chi ngân sách nhà nước năm đối với đơn vị dự
toán
1) Sau khi kết thúc công tác khóa sổ kế toán cuối ngày 31 tháng 12, số liệu trên sổ sách kế toán
của đơn vị phải bảo đảm cân đối và khớp đúng với chứng từ thu, chi ngân sách của đơn vị và số
liệu của cơ quan tài chính, Kho bạc Nhà nước về tổng số và chi tiết; trên cơ sở đó đơn vị dự toán
tiến hành lập báo cáo quyết toán năm.
2) Ngoài mẫu biểu báo cáo quyết toán năm theo qui định của Bộ trưởng Bộ Tài chính, đơn vị dự
toán còn phải gửi kèm báo cáo giải trình chi tiết các loại hàng hóa, vật tư tồn kho, các khoản nợ,
vay và tạm ứng, tạm thu, tạm giữ, tồn quỹ tiền mặt, số dư tài khoản tiền gửi của đơn vị dự toán để

cơ quan chủ quản cấp trên (hoặc cơ quan tài chính cùng cấp) xem xét trước khi ra thông báo duyệt
1
Học viện Tài chính, Giáo trình Quản lý Tài chính công , nxb Tài chính 2005, tr. 98
Trang - 15
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
(hoặc thẩm định) quyết toán năm cho đơn vị. Việc xét duyệt và thẩm định quyết toán năm thực
hiện theo đúng quy định của pháp luật
3) Sau khi nhận được báo cáo quyết toán của đơn vị dự toán cấp dưới, thủ trưởng đơn vị dự toán
cấp trên có trách nhiệm xét duyệt quyết toán và thông báo kết quả xét duyệt quyết toán cho đơn vị
dự toán cấp dưới.
4) Đơn vị dự toán cấp I có trách nhiệm duyệt báo cáo quyết toán của các đơn vị trực thuộc, tổng
hợp và lập báo cáo quyết toán năm (gồm báo cáo quyết toán của đơn vị mình và báo cáo quyết
toán của đơn vị dự toán cấp dưới trực thuộc), gửi cơ quan tài chính đồng cấp.
5) Trường hợp đơn vị dự toán cấp I đồng thời là đơn vị sử dụng ngân sách, cơ quan tài chính duyệt
quyết toán và thông báo kết quả xét duyệt quyết toán cho đơn vị dự toán cấp I.
6) Đối với các công trình xây dựng cơ bản, các chương trình dự án quốc gia, kết thúc năm ngân
sách chủ đầu tư lập báo quyết toán thực hiện vốn đầu tư trong năm theo từng công trình, dự án gửi
Kho bạc Nhà nước và cơ quan tài chính đồng cấp. Việc duyệt, thẩm định quyết toán vốn đầu tư
xây dựng cơ bản theo quy định riêng của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
3.3.3.2.Trình tự lập, thẩm định, phê chuẩn và gửi báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách nhà nước
hàng năm của ngân sách các cấp chính quyền
1) Mẫu biểu báo cáo quyết toán năm của ngân sách cấp dưới lập gửi cơ quan tài chính cấp trên
theo hệ thống mẫu biểu quyết toán qui định.
2) Ban Tài chính xã có trách nhiệm lập báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách cấp xã (theo hệ
thống mẫu biểu quy định tại Thông tư của Bộ Tài chính về quản lý thu, chi ngân sách xã và các
hoạt động tài chính khác của xã, phường, thị trấn) trình Uỷ ban nhân dân xã xem xét gửi Phòng tài
chính huyện đồng thời trình Hội đồng nhân dân xã phê chuẩn. Trường hợp báo cáo quyết toán năm
của xã do Hội đồng nhân dân xã phê chuẩn có thay đổi so với báo cáo quyết toán năm do Uỷ ban
nhân dân xã đã gửi Phòng Tài chính huyện, thì Uỷ ban nhân dân xã báo cáo bổ sung, gửi Phòng
Tài chính huyện.

3) Phòng Tài chính huyện có trách nhiệm thẩm định quyết toán thu, chi ngân sách xã; lập quyết
toán thu, chi ngân sách cấp huyện; tổng hợp, lập báo cáo thu ngân sách nhà nước trên địa bàn
huyện và quyết toán thu, chi ngân sách huyện bao gồm quyết toán thu, chi ngân sách cấp huyện và
quyết toán thu, chi ngân sách cấp xã trình Uỷ ban nhân dân huyện xem xét gửi Sở tài chính, đồng
thời trình Hội đồng nhân dân huyện phê chuẩn.
4) Sở tài chính có trách nhiệm thẩm định quyết toán thu ngân sách nhà nước phát sinh trên địa bàn
huyện, quyết toán thu, chi ngân sách huyện; lập quyết toán thu, chi ngân sách cấp tỉnh; tổng hợp
lập quyết toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh và báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách
địa phương bao gồm: quyết toán thu, chi ngân sách cấp tỉnh; quyết toán thu, chi ngân sách cấp
huyện và quyết toán thu chi ngân sách cấp xã trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét gửi Bộ Tài
chính, đồng thời trình Hội đồng nhân dân tỉnh phê chuẩn.
5) Bộ Tài chính có trách nhiệm thẩm định quyết toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh,
quyết toán thu, chi ngân sách địa phương và quyết toán thu, chi ngân sách của các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan khác ở trung ương; lập báo cáo quyết toán thu, chi
ngân sách trung ương;
6) Cơ quan thu có trách nhiệm tổ chức, hướng dẫn các đơn vị, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ nộp
ngân sách nhà nước lập các chứng từ thu ngân sách nhà nước theo đúng mẫu quy định và đúng
Mục lục ngân sách nhà nước; lập, báo cáo thu ngân sách nhà nước tháng, quý và báo cáo quyết
toán thu ngân sách nhà nước năm theo chế độ quy định.
7) Kho bạc Nhà nước có trách nhiệm tổ chức hạch toán kế toán thu, chi ngân sách nhà nước theo
Mục lục ngân sách nhà nước. Định kỳ tháng, quý, năm lập báo cáo việc thực hiện dự toán thu, chi
ngân sách cho cơ quan tài chính và các cơ quan hữu quan theo quy định của Bộ Tài chính.
Trang - 16
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
8) Việc thẩm định báo cáo quyết toán năm thực hiện theo quy định tại Điều 74 của Nghị định số
60/2003/NĐ-CP ngày 6 tháng 6 năm 2003 của Chính phủ.
3.3.3.3. Thời gian gửi báo cáo quyết toán năm và thời gian thẩm định quyết toán năm
1) Đối với đơn vị dự toán: đơn vị dự toán cấp I của ngân sách trung ương tổng hợp gửi Bộ Tài
chính chậm nhất trước ngày 1 tháng 10 năm sau,
2) Đối với ngân sách các cấp chính quyền địa phương: Sở Tài chính tổng hợp trình Uỷ ban nhân

dân cấp tỉnh để trình Hội đồng nhân dân đồng cấp đồng thời gửi Bộ Tài chính chậm nhất trước
ngày 1 tháng 10 năm sau;
3) Thẩm định báo cáo quyết toán năm: Trong thời hạn không quá 30 ngày, Bộ Tài chính thực hiện
thẩm định và có ý kiến nhận xét quyết toán gửi địa hương, đơn vị dự toán cấp I thuộc ngân sách
trung ương.
3.3.4. Xử lý kết dư ngân sách.
Kết dư ngân sách trung ương là số chênh lệch giữa tổng số thu ngân sách trung ương và vay bù
đắp bội chi lớn hơn tổng số chi ngân sách trung ương, kết dư ngân sách địa phương là chênh lệch
giữa tổng số thu ngân sách địa phương lớn hơn tổng số chi ngân sách địa phương; chi ngân sách
bao gồm cả những khoản thanh toán trong thời gian chỉnh lý quyết toán, các khoản chi chuyển
nguồn sang năm sau để thực hiện những nhiệm vụ chi được cấp có thẩm quyền quyết định tiếp tục
được thực hiện trong năm sau.
CHƯƠNG IV
PHÁP LUẬT VỀ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
4.1. Khái niệm và phân loại thu ngân sách Nhà nước:
4.1.1. Khái niệm thu NSNN và pháp luật thu NSNN
Thu ngân sách Nhà nước là hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm tập
trung một bộ phận của cải xã hội dưới hình thức giá trị theo những hình thức và biện pháp phù
hợp để hình thành nên quỹ ngân sách Nhà nước.
Thu ngân sách nhà nước có những đặc điểm sau:
-Thu ngân sách nhà nước không thể được tiến hành tùy tiện mà phải thực hiện trong khuôn
khổ pháp luật. Để thực hiện hoạt động thu NS, NN phải ban hành các văn bản Pl quy định về hình
thức cũng như nội dung thu. Mỗi khi cần đưa một khoản thu mới vào áp dụng trong thực tiễn NN
đều phải luật hóa khoản thu đó. Các VBPL này một mặt sẽ tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho
hoạt động thu NSNN, mặt khác giới hạn quyền thu của NN. NN chỉ được phép thu những khoản
thu đã được luật hóa và chỉ thực hiện quyền thu đó trong khuôn khổ pháp luật; các cấp, các ngành
không được tự ý đặt ra các khoản thu trái PL.
-Các khoản thu ngân sách nhà nước bắt nguồn và gắn liền với thực trang kinh tế của đất
nước và mức độ phát triển của nền kinh tế quốc dân. Cơ sở chủ yếu của hoạt động thu NSNN là
giá trị các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ được sáng tạo ra từ các khu vực kinh tế. Chỉ tiêu tổng sản

phẩm quốc nội và chỉ số tăng trưởng kinh tế là những chỉ tiêu chủ yếu chi phối tỷ lệ giá trị sản
phẩm xã hội mà NN có thể tập trung vào quỹ NSNN. Bên cạnh đó, những yếu tố khác cũng có ảnh
hưởng nhất định tới mức độ tập trung các nguồn thu vào NSNN, bao gồm: tiềm năng và thực tế
khai thức TNTN, chính sách chi tiêu của CP, quan hệ đối ngoại của NN và bộ máy tổ chức hành
thu.
- Thu NSNN được thực hiện thông qua hai cơ chế pháp lý điển hình là bắt buộc và tự
nguyện, tong đó cơ chế bắt buộc được xem là chủ yếu.
Trang - 17
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
- Chủ thể tham gia vào hoạt động thu NSNN gồm hai nhóm: Chủ thể đaị diện cho NN
trong việc thực hiện quyền thu (CQNN: CQ tài chính, Cơ quan thuế, CQ hải quan, các CQ khác
được BTC ủy quyền và kho bạc NN) và chủ thể đóng góp khoản thu NS theo nghĩa vụ hoặc dựa
trên tinh thần tự nguyện
Pháp luật về thu ngân sách Nhà nước là một hệ thống các văn bản pháp luật do Nhà nước
ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ thu ngân sách Nhà nước và các quan hệ xã hội phát sinh
liên quan trực tiếp đến hoạt động thu ngân sách Nhà nước trong quá trình Nhà nước thực hiện
các hoạt động thu ngân sách Nhà nước.
Căn cứ vào nội dung của các quy phạm pháp luật, pháp luật về thu ngân sách Nhà nước
bao gồm các bộ phận sau:
- Pháp luật về thu ngân sách Nhà nước từ thuế.
- Pháp luật về thu ngân sách Nhà nước từ phí, lệ phí.
- Pháp luật về các khoản thu khác của ngân sách Nhà nước như vay nợ, tiền viện trợ
4.1.2. Phân loại các khoản thu của ngân sách Nhà nước:
Căn cứ vào nội dung kinh tế, các khoản thu ngân sách Nhà nước được chia thành 02 loại:
Nhóm I: Thu từ thuế, phí, lệ phí có tính chất thuế.
Nhóm II: Thu không mang tính chất thuế, bao gồm một số nhóm tiêu biểu như sau:
- Lợi tức của Nhà nước thu được từ hoạt động góp vốn tại các tổ chức kinh tế.
- Tiền bán và cho thuê tài sản của Nhà nước; tiền thu hồi vốn của nhà nước từ các cơ sở
kinh tế.
- Viện trợ không hoàn lại và vay của các tổ chức Chính phủ, phi chính phủ ở nước ngoài.

- Thu khác (thu từ hoạt động sự nghiệp có thu, các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ
chức cá nhân để xây dựng các công trình kết cấu cơ sở hạ tầng, các khoản di sản nhà nước được
hưởng…)
Nếu chúng ta dựa vào tính pháp lý để phân loại, các khoản thu của ngân sách Nhà nước
được chia thành các nhóm sau:
-Các khoản thu mang tính bắt buộc: bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí.
-Các khoản thu mang tính chất tự nguyện: bao gồm các khoản thu tự viện trợ, vay nợ, tặng,
cho…
Dựa trên nguyên tắc thăng bằng ngân sách, người ta có thể phân biệt các khoản thu ngân
sách nhà nước thành 2 loại chủ yếu sau đây, tuỳ thuộc vào tác dụng của nó đối với sự thăng bằng
ngân sách:
- Các khoản thu có tính chất hoa lợi.
-Các khoản thu không có tính chất hoa lợi.
4.2. Nội dung pháp lý các khoản thu ngân sách Nhà nước:
4.2.1 Các khoản thu từ thuế, lệ phí, phí.
4.2.1.1 Các khoản thu từ thuế:
Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải thực hiện
đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang
tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế.
Thuế là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước. Các quốc gia đều mong muốn thuế
trở thành nguồn thu chính của ngân sách nhà nước vì nguồn thu từ thuế phản ánh được tình hình
Trang - 18
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
phát triển kinh tế của quốc gia và thu nhập của người dân. Thông thường, các quốc gia chỉ đặt chỉ
tiêu thu thuế bằng tỉ lệ tương ứng với tổng sản phẩm quốc dân (GDP).
Hệ thống pháp luật thuế của Nhà nước ta hiện nay bao gồm các loại thuế chủ yếu như sau:
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp.
- Thuế giá trị gia tăng.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Thuế thu nhập doanh nghiệp.

- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
- Thuế thu nhập cá nhân
- Thuế nhà đất.
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất.
4.2.1.2 Các khoản thu từ phí, lệ phí:
- Phí là khỏan thu nhằm thu hồi chi phí đầu tư cung cấp các dịch vụ công cộng thuần túy
theo quy định của pháp luật và là khỏan tiền mà các tổ chức, cá nhân phải trả khi sử dụng các dịch
vụ công cộng đó.
Dịch vụ công cộng thuần túy là những dịch vụ mà nhà nước có thể lượng hóa được mức độ
sử dụng của từng cá nhân tổ chức vì vậy mà nhà nước có thể thu lại một phần hoặc tòan bộ chi phí
đã bỏ ra để cung cấp dịch vụ cho các đối tượng này thông qua chế độ thu phí.
- Lệ phí là những khỏan thu gắn liền với việc cung cấp các dịch vụ hành chính pháp lý của
nhà nước cho các cá nhân và tổ chức nhằm phục vụ cho công việc quản lý hành chính nhà nước
theo qui định của pháp luật. Cần lưu ý là khỏan tiền đó không phải là giá của dịch vụ mà là khỏan
thu phục vụ cho yêu cầu quản lý của nhà nước.
Phân cấp thẩm quyền quy định về phí và lệ phí
1) Đối với phí
Chính phủ quy định đối với một số phí quan trọng, có số thu lớn, liên quan đến nhiều
chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước. Trong từng loại phí do Chính phủ quy định, Chính phủ
có thể ủy quyền cho Bộ, cơ quan ngang Bộ quy định mức thu đối với từng trường hợp cụ thể cho
phù hợp với tình hình thực tế.
- Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định đối với một số khoản phí về quản lý đất đai, tài
nguyên thiên nhiên; một số khoản phí gắn với chức năng quản lý hành chính nhà nước của chính
quyền địa phương.
- Bộ Tài chính quy định đối với các khoản phí còn lại để áp dụng thống nhất trong cả nước.
- Thẩm quyền quy định đối với phí được quy định cụ thể trong Danh mục chi tiết phí, lệ
phí ban hành kèm theo Nghị định 24/CP ngày 06 tháng 03 năm 2006 Sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 57/2002/NĐ-CP ngày 03 tháng 6 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành Pháp lệnh Phí và Lệ phí. Thẩm quyền quy định đối với phí bao gồm việc quy định mức thu,
chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng đối với từng phí cụ thể.

2) Đối với lệ phí. Việc phân cấp thẩm quyền quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và
sử dụng đối với lệ phí như sau:
- Chính phủ quy định đối với một số lệ phí quan trọng, có số thu lớn, có ý nghĩa pháp lý
quốc tế;
- Bộ Tài chính quy định đối với những lệ phí còn lại.
Trang - 19
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
Nguyên tắc xác định mức thu phí, lệ phí
*Đối với phí
- Mức thu phí đối với các dịch vụ do Nhà nước đầu tư hoặc do tổ chức, cá nhân đầu tư vốn
đều phải trên cơ sở bảo đảm thu hồi vốn trong thời gian hợp lý; phù hợp với khả năng đóng góp
của người nộp; thuận tiện cho cả người thu phí và người nộp phí. Ngoài ra, mức thu đối với các
dịch vụ do Nhà nước đầu tư còn phải bảo đảm thi hành các chính sách phát triển kinh tế – xã hội
của Đảng, Nhà nước trong từng thời kỳ và phù hợp với tình hình thực tế.
- Các khoản chi phí để thực hiện các dịch vụ thu phí, phục vụ cho việc xác định mức thu
phí bao gồm:
+ Chi phí xây dựng, mua sắm, duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên và định kỳ máy
móc, thiết bị, phương tiện làm việc, hoặc thuê ngoài tài sản trực tiếp phục vụ công việc thu phí.
Chi phí này được phân bổ theo mức độ hao mòn của những tài sản trực tiếp phục vụ công việc thu
phí;
+ Chi phí vật tư, nguyên, nhiên, vật liệu sử dụng trong quá trình thực hiện công việc thu phí;
+ Chi trả các khoản tiền lương hoặc tiền công, các khoản phụ cấp, các khoản đóng góp theo
tiền lương, tiền công, theo chế độ hiện hành cho lao động trực tiếp thu phí, lệ phí;
- Mức thu đối với những loại phí thuộc thẩm quyền của Chính phủ quy định thì thực hiện
theo quy định của Chính phủ đối với từng loại phí cụ thể.
- Mức thu đối với những loại phí thuộc thẩm quyền Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định
do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trình theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
- Thời gian hợp lý để thu hồi vốn đầu tư thực hiện các dịch vụ thu phí căn cứ vào đánh giá
khả năng thu phí, hiệu quả thu phí, vốn đầu tư và nhu cầu cần thu hồi vốn đầu tư để thực hiện dịch
vụ thu phí, được xác định (dự kiến) trong đề án thu phí.

- Căn cứ vào quy định của pháp luật, tổ chức, cá nhân được thu phí có trách nhiệm xây dựng
mức thu kèm theo đề án thu phí (gồm: phương thức đầu tư, thời gian đầu tư hoàn thành, thời gian
đưa dự án đầu tư vào sử dụng, thời gian dự kiến bắt đầu thu phí, dự kiến mức thu và căn cứ xây
dựng mức thu, đánh giá khả năng đóng góp của đối tượng nộp phí, hiệu quả thu phí và khả năng
thu hồi vốn) để trình cơ quan có thẩm quyền quy định về phí (Chính phủ, Bộ Tài chính hoặc Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh) xem xét, quyết định.
Mức thu phí trước khi trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung cần có
ý kiến của cơ quan tài chính cùng cấp, trừ trường hợp cơ quan xây dựng mức thu là cơ quan tài
chính. Ý kiến bằng văn bản của cơ quan tài chính phải được gửi kèm trong hồ sơ và là một căn cứ
pháp lý để cơ quan có thẩm quyền quy định về phí xem xét, quyết định.
* Đối với lệ phí
Mức thu lệ phí được ấn định trước bằng một số tiền nhất định đối với từng công việc quản
lý nhà nước được thu lệ phí, không nhằm mục đích bù đắp chi phí để thực hiện công việc thu lệ
phí. Riêng đối với lệ phí trước bạ, mức thu được tính bằng tỷ lệ phần trăm (%) trên giá trị tài sản
trước bạ theo quy định của Chính phủ.
Bộ Tài chính hướng dẫn việc xác định mức thu đối với những lệ phí thuộc thẩm quyền của
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định, để bảo đảm việc thi hành thống nhất trong cả nước.
4.2.2 Các khoản thu khác ngoài thuế, phí, lệ phí.
4.2.2.1 Các khoản thu ngân sách NN từ tài sản do nhà nước quản lý
Đây là những nguồn thu NS từ hoạt động kinh tế của NN thông qua việc NN đầu tư vốn để
thành lập, góp vốn mua cổ phần của DN. Bên cạnh đó với tư cách là người đại diện cho nhân dân
Trang - 20
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
thực hiện quản lý TS chung, NN tiến hành thu về NS từ các chủ thể nắm giữ, quản lý và được đầu
tư từ TS NN
Các khoản thu từ TS do NN quản lý bao gồm:
- Thu từ các khoản do NN đầu tư: Thu hồi vốn của NN từ các cơ sở kinh tế và thu nhập
và lợi nhuận từ vốn góp của NN ở các tổ chức kinh tế.
- Thu từ hoạt động sự nghiệp như GD, NCKH, phát thanh truyền hình
- Thu từ tiền bán, cho thuê các loại TS của NN (kể cả cho thuê mặt đất, mặt nước, vùng

trời), tiền sử dụng đất
- Thu từ các TS khác
4.2.2.2 Chế độ thu ngân sách Nhà nước về vay nợ
- Vay trong nước. Các khoản vay trong nước đều được thực hiện thông qua việc Chính phủ
phát hành các loại giấy tờ có giá như trái phiếu, công trái, trái phiếu kho bạc, tín phiếu kho bạc.
Toàn bộ nguồn vốn thu được từ việc phát hành các loại giấy tờ có giá đều phải được tập trung vào
ngân sách nhà nước để sử dụng cho các nhu cầu chi đầu tư phát triển kinh tế theo kế hoạch và mục
tiêu đã đựoc Chính phủ đề ra.
- Vay nước ngoài. Đó là các khoản vay do Chính phủ vay và cam kết thực hiện nghĩa vụ
với nước ngoài. Đó cũng có thể là những khoản vay do Chính phủ uỷ quyền cho các doanh nghiệp
vay được Bộ Tài chính hoặc Ngân hàng nhà nước Việt Nam đứng ra bảo lãnh. Toàn bộ vốn vay
nước ngoài của Chính phủ đều phải được cân đối vào ghi vào ngân sách.
2.2.3 Các khoản viện trợ:
Viện trợ là nguồn vốn thuộc chương trình hợp tác của chính phủ các nước, các tổ chức
nước ngoài dành cho 1 quốc gia. Viện trợ nước ngoài là nguồn quan trọng để bổ sung cho ngân
sách nhà nước, góp phần hỗ trợ nhà nước thực hiện các khoản chi phát triển, cải cách kinh tế, xã
hội, nâng cao đời sống của người dân.
Viện trợ có thể là song phương hoặc đa phương. Viện trợ có thể dưới hình thức có hoàn lại
hoặc không hoàn lại. Thông thường, các khoản viện trợ có hoàn lại sẽ được thể hiện dưới dạng cho
vay ưu đãi, lãi suất thấp, thời hạn hoàn trả gốc dài và có thể được ân hạn
Ngoài ra, thu ngân sách nhà nước còn có thể bao gồm các khoản đóng góp tự nguyện của
các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
4.3. Quy trình thu NSNN
4.3.1. Chủ thể tham gia họat động thu ngân sách nhà nước:
 Các chủ thể có trách nhiệm thu ngân sách:
 Hải quan: Là cơ quan có trách nhiệm thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu, thuế VAT đối với
hàng nhập khẩu, thế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng nhập khẩu và các khoản thu khác thuộc phạm vi
qui định của pháp luật.
 Cơ quan thuế: Có trách nhiệm thu thuế, phí, lệ phí, và các khoản thu khác theo quy định
của pháp luật trừ các khoản thuế mà hải quan đã thu.

 Cơ quan tài chính và các cơ quan khác: sẽ tiến hành thu các khoản thu còn lại cho ngân
sách nhà nước theo sự cho phép của Chính phủ hay được Bộ tài chính ủy quyền ( Tòa án thu án
phí, Bệnh viện thu viện phí, Phòng chông chứng thu phí công chứng…).
 Các chủ thể đóng góp vào ngân sách nhà nước: Các chủ thể có nghĩa vụ tài chính đối
với nhà nước hoặc thực hiện các khoản đóng góp tự nguyện vào NSNN
4.3.2. Các phương thức thu ngân sách nhà nước
 Thu trực tiếp vào Kho bạc Nhà nước:
Trang - 21
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
 Đối tượng áp dụng: Tổ chức, cá nhân có địa điểm kinh doanh cố định, những đối tượng
mà có thể quản lý đươc trên giấy tờ.
 Qui trình thu:
- Cơ quan thu sẽ gửi thông báo thu đến đối tượng nộp. Thông báo nêu rõ ai nộp, lý do, số
tiền, thời gian nộp hoặc chủ thể nộp thuế tự kê khai, tính số thuế phải nộp và gửi cho cơ quan có
thẩm quyền thu (đối với các chủ thể theo chế độ tự kê khai)
- Dựa trên thông báo của cơ quan thu, đối tượng nộp đến nộp trực tiếp tại Kho bạc Nhà
nước theo yêu cầu. Kho bạc Nhà nước sau khi thu đủ tiền phải giao 2 biên lai thu tiền cho đối
tượng nộp.
- Đối tượng nộp lại 1 biên lai cho cơ quan thu và tự quản lý biên lai còn lại để chứng minh
việc hòan thành nghĩa vụ của mình.
 Thu thông qua cơ quan thu:
 Đối tương áp dụng: Đối tượng không có địa điểm kinh doanh cố định, hộ tiểu thương có
mức thu nhập nhỏ, tiền thu thuế sử dụng đất nông nghiệp thuế nhà đất, các khoản thu khác ở các
địa bàn cửa khẩu, nơi không tổ chức được điểm thu của Kho bạc Nhà nước.
 Qui trình thu:
- Thông báo như trên
- Đối tượng nộp theo thông báo thu sẽ đến nộp tiền trực tiếp tại cơ quan thu. Cơ quan thu
có nghĩa vụ bố trí cán bộ thu. Sau khi thu tiền cán bộ thu có nghĩa vụ xuất biên lại cho đối tượng
nộp.
- Cơ quan thu có nghĩa vụ nộp tòan bộ số tiền thu được cho Kho bạc Nhà nước theo định

kỳ.
Chương 5: PHÁP LUẬT VỀ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
5.1. Khái niệm và phân loại chi NSNN
5.1.1. Khái niệm và đặc điểm chi ngân sách nhà nước:
Chi ngân sách Nhà nước là hoạt động của Nhà nước nhằm mục đích phân tích và sử dụng
quỹ ngân sách Nhà nước theo dự toán ngân sách Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền quyết định. Có thể nói, đó chính là quá trình phân phối và sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
Do vậy, thực hiện các khoản chi ngân sách nhà nước luôn gắn liền với các quan hệ tiền tệ trong
phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước là quỹ ngân sách nhà nước.
Về phương diện vật chất, các khoản chi ngân sách nhà nước bao gồm toàn bộ số tiền từ
ngân quỹ mà nhà nước sử dụng để đảm bảo cho chức năng, nhiệm vụ của mình. Về phương diện
kinh tế, chi ngân sách nhà nước là tổng thể các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối,
sử dụng quỹ ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ kinh tế xã hội mà nhà
nước phải thực hiện. Do vậy, các khoản chi ngân sách nhà nước có ý nghĩa quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế-xã hội của một quốc gia.
Chi ngân sách nhà nước có những đặc điểm sau đây:
-Chi ngân sách nhà nước chỉ được tiến hành trên cơ sở pháp luật và theo kế hoạch chi ngân
sách cũng như phân bổ ngân sách do cơ quan quyền lực nhà nước quyết định.
- Chi NSNN nhằm vào mục tiêu thỏa mãn nhu cầu về tài chính cho sự vận hành của bộ
máy NN, bảo đảm cho NN thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ của mình.
- Chi ngân sách nhà nước là hoạt động được tiến hành bởi hai nhóm chủ thể: nhóm chủ thể
đại diện cho NN thực hiện việc quản lý, cấp phát, thanh toán các khoản chi NSNN; nhóm chủ thể
sử dụng NS .
Trang - 22
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
5.1.2 Cơ cấu các khoản chi ngân sách nhà nước
5.1.2.1 Chi đầu tư phát triển kinh tế - xã hội
Việc phân biệt chi đầu tư phát triển trong cơ cấu các khoản chi ngân sách nhà nước là căn
cứ vào mục đích kinh tế-xã hội của việc sử dụng các khoản chi ngân sách nhà nước. Theo đó, các
khoản chi ngân sách nhà nước được phân biệt thành 2 nhóm lớn: chi đầu tư phát triển và chi

thường xuyên. Trong đó, chi đầu tư phát triển mang tính chất của khoản chi tích luỹ. Chi thường
xuyên còn được hiểu là chi có tính chất tiêu dùng.
Chi có tính chất tích lũy hay còn gọi là chi đầu tư phát triển bao gồm những khoản chi
phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng, gắn liền với việc xây dựng, mở rộng cơ sở hạ tầng
kinh tế. Có thể nói, chi đầu tư phát triển là khoản chi tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, nhằm phát triển
năng lực sản xuất, tăng tích luỹ tài sản của nền kinh tế quốc dân. Việc nhà nước thực hiện chi đầu
tư phát triển chính là việc ngân sách nhà nước bỏ vốn vào các hoạt động kinh tế xã hội để hướng
đến những lợi ích kinh tế xã hội lớn hơn trong tương lai. Đây là những khoản chi chiếm tỷ trọng
lớn nhưng ít phát sinh lợi ích ngay lập tức. Điều này làm cho các khoản chi đầu tư phát triển ít thu
hút tư nhân tham gia đầu tư. Chính vì vậy mà vai trò của nhà nước rất quan trọng trong việc thực
hiện các khoản chi này. Nếu căn cứ vào mục đích sử dụng, chi đầu tư phát triển thường có những
khoản chi lớn hay được kể đến là:
-Chi đầu tư xây dựng cơ bản. Khoản chi này được ngân sách nhà nước dùng để chi cho
việc đầu tư, xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội mà không có khả năng thu hồi
vốn. Khoản chi này nhằm đảm bảo các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các nhiệm vụ phát
triển kinh tế xã hội.
-Chi đầu tư, hỗ trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, lĩnh vực quan trọng mà
cần thiết phải có sự tham gia của nhà nước Nhà nước. Những khoản chi này góp phần quan trọng
để nhà nước thực hiện vai trò định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế xã hội theo đúng múc
tiêu đã đề ra trong từng thời kỳ.
-Chi dự trữ Nhà nước là khoản chi để mua hàng hoá, vật tư dự trữ nhà nước có tính chiến
lược của quốc gia hoặc hàng hoá, vật tư dự trữ mang tính chuyên ngành.
-Chi đầu tư phát triển thuộc các chương trình, mục tiêu quốc gia, dự án nhà nước chẳng hạn
như cho chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, chương trình nước sạch nông
thôn, phủ xanh đồi trọc…
Chi đầu tư phát triển có những đặc điểm như sau:
-Chi đầu tư phát triển là khoản chi lớn như không có tính ổn định do thứ tự và tỉ trọng ưu
tiên trong chi đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước cho từng nội dung chi, từng lĩnh vực kinh
tế xã hội ở mỗi giai đoạn là khác nhau.
-Phạm vi và mức độ chi đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước luôn gắn liền với việc

thực hiện mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
5.1.2.2 Chi thường xuyên:
So với nhóm các khoản chi có tính chất tích lũy hay còn gọi là chi đầu tư phát triển, nhóm
các khoản chi có tính chất tiêu dùng đa dạng và phức tạp hơn. Chi thường xuyên của ngân sách
nhà nước thể hiện quá trình phân phối, sử dụng vốn từ quỹ ngân sách nhà nước để đáp ứng cho các
nhu cầu gắn liền với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước. Chi thường xuyên
bao gồm 4 nhóm chi chủ yếu được xác định:
- Chi cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước, cơ quan Đảng: bao gồm chi quản lý hành
chính của các cơ quan Nhà nước ở các cấp. Nhà nước ngày càng có xu hướng giảm thiểu đến mức
tối đa có thể được các khoản chi năm trong nhóm này, nhằm mục đích tăng thu và tiết kiệm chi
cho ngân sách nhà nước, tiến đến tinh gọn bộ máy quản lý hành chính nhà nước các cấp sao cho
hiệu suất làm việc đạt mức cao nhất.
Trang - 23
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
- Chi cho các hoạt động sự nghiệp: Bao gồm chi cho các hoạt động kinh tế, giáo dục, y tế,
nghiên cứu khoa học, đào tạo, văn hóa, thông tin, thể dục thể thao, trợ cấp chính sách xã hội và
bảo hiểm xã hội… Chi hỗ trợ cho hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội, chính trị xã hội nghề
nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp Đây là nhóm chi chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng số chi có
tính chất tiêu dùng của ngân sách Nhà nước.
- Chi cho quốc phòng và an ninh: Là khoản chi hết sức cần thiết của quốc gia, nhăm bảo
đảm điều kiện vật chất cho sự nghiệp quốc phòng, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
- Chi khác: bao gồm chi trợ giá theo chính sách của nhà nước, phần chi thường xuyên trong
các chương trình, mục tiêu quốc gia.
Chi thường xuyên có đặc điểm sau:
-Những khoản chi thường xuyên có tính chất ổn định, bởi vì, có nhiều chức năng của nhà
nước là không thay đổi như chức năng bảo vệ công dân, chức năng quản lý kinh tế. Mặt khác, nhà
nước luôn phải đảm bảo những khoản chi mang tính chất ổn định mà không phụ thuộc vào tình
hình kinh tế xã hội thay đổi, chẳng hạn như khoản chi lương của công chức, viên chức.
-Các khoản chi thường xuyên có hiệu lực tác động trong thời gian ngắn và mang tính tiêu
dùng xã hội. Chi thường xuyên chủ yếu đáp ứng cho các nhu cầu chi để thực hiện các nhiệm vụ

của nhà nước về quản lý kinh tế xã hội trong từng năm ngân sách. Đây là khoản chi chủ yếu nhằm
trang trải cho các nhu cầu về quản lý hành chính nhà nước, quốc phòng an ninh, các hoạt động sự
nghiệp
-Phạm vi, mức độ chi thường xuyên của ngân sách nhà nước gắn liền với cơ cấu tổ chức
của bộ máy nhà nước và sự lựa chọn của nhà nước trong việc cung ứng các hàng hoá công cộng.
Một quốc gia với cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước càng gọn nhẹ, hoạt động hiệu quả thì khoản chi
thường xuyên càng được tiết kiệm và ngược lại.
-Chi thường xuyên cần được quản lý theo dự toán và được sử dụng theo nguyên tắc tiết
kiệm hiệu quả. Trong quá trình phân bổ và lập kế họach chi để đưa vào trong dự toán phải luôn
tính toán sao cho chi phí ít nhất nhưng vẫn đạt hiệu quả tốt nhất Những khoản chi thường xuyên
một khi đã được ghi nhận vào dự toán và được cơ quan quyền lực nhà nước thông qua sẽ được
xem là chỉ tiêu pháp lệnh. Các đơn vị quản lý tài chính và chủ thể thụ hưởng ngân sách nhà nước
có nghĩa vụ chấp hành tuyệt đối. Yêu cầu này nhằm hướng đến việc đảm bảo mục tiêu cân đối
ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, chi ngân sách nhà nước còn bao gồm chi trả gốc, lãi tiền huy động cho đầu
tư, chi bổ sung Quỹ dự trữ tài chính và chi bổ sung cho ngân sách nhà nước cấp dưới.
5.1.2.3 Chi trả gốc, lãi tiền huy động cho đầu tư:
Khoản nợ gốc thực chất đó là số tiền nhà nước đã vay của các chủ nợ trong và ngoài nước
đến hạn phải thanh toán. Chi trả nợ bao gồm:
-Trả nợ trong nước: đây là những khoản nợ mà nhà nước đã vay của các tầng lớp dân cư,
đoàn thể xã hội, tổ chức thông qua hình thức phát hành giấy tờ có giá (trái phiếu, công trái…). Ở
đây, Chính phủ là chủ thể đứng ra vay và phải đảm bảo thanh toán đầy đủ, đúng hạn cả gốc, lãi
cho người chủ sở hữu công trái, trái phiếu của Chính phủ. Việc thanh toán chi trả sẽ đựoc thực
hiện tại kho bạc nhà nước. Nguồn vốn thanh toán sẽ do ngân sách nhà nước đảm nhận. Cụ thể là,
ngân sách nhà nước ở trung ương có trách nhiệm chi trả các loại giấy tờ có giá phát hành phục vụ
cho các công trình trung ương. Hàng năm, Bộ Tài chính có trách nhiệm lập kế hoạch thanh toán
trái phiếu trình Chính phủ phê duyệt và đưa vào dự toán ngân sách nhà nước. Căn cứ vào kế hoạch
được duyệt, cơ quan tài chính chuẩn bị nguồn vốn để kho bạc nhà nước thanh toán trái phiếu, công
trái đến hạn. Trường hợp công trái, trái phiếu đã đến hạn thanh toán mà chủ sở hữu chưa đến thanh
toán thì trái phiếu, công trái đó sẽ được bảo lưu cả gốc lẫn lãi trong thời gian phát hành và được

hưởng lãi suất ngang bằng lãi suất gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Trang - 24
Biên soạn: ThS. Trần Thùy Linh
-Trả nợ nước ngoài: đây là những khoản nợ nước ngoài mà nhà nước đã vay của chính phủ
các nước, các doanh nghiệp hoặc các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế. Chính phủ sẽ lập kế hoạch
trả nợ theo hàng năm và kế hoạch trả nợ 5 năm. Hàng năm, Bộ Tài chính có trách nhiệm lập kế
hoạch tổng hạn mức trả nợ nước ngoài của Chính phủ trình lên cho Chính phủ duyệt. Thủ tướng
Chính phủ sẽ uỷ quyền cho Bộ Tài chính thay mặt Chính phủ theo hạn mức được duyệt. Nguồn
vốn để thanh toán nợ nước ngoài do ngân sách trung ương đảm nhận. Bộ Tài chính chịu trách
nhiệm bố trí nguồn vốn hàng năm theo kế hoạch được duyệt để trả nợ nước ngoài khi đến hạn.
Việc trả nợ theo kế hoạch có thể được tiến hành theo phương thức trả nợ thông qua hàng hoá hoặc
bằng tiền.
5.1.2.4 Chi lập dự phòng NSNN
Dự phòng NSNN là khoản kinh phí hình thành ở mỗi cấp NS và được sử dụng phục vụ cho
các nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, phát sinh ngoài dự toán của NSNN. Trên cơ sở dự phòng
(chiếm từ 2-5 % tổng chi NSNN), thẩm quyền quyết định chi được xác định cụ thể cho mỗi cấp
NS:
- Dự phòng NSTW: Thủ tướng CP quyết định những khoản chi trên 1 tỷ đồng, dưới giới
hạn này thẩm quyền thuộc về BT Bộ TC.
- Dự phòng các cấp NS địa phương: UBND
5.1.2.5. Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính:
Quỹ dự trữ tài chính của quốc gia là khoản tích luỹ từ ngân sách nhà nước, hình thành nên
nguồn dự trữ chiến lược do nhà nước thống nhất quản lý và sử dụng. Quỹ dự trữ quốc gia được sử
dụng với 2 mục đích:
-Nhằm tạm ứng cho ngân sách nhà nước trong trường hợp ngân sách nhà nước cần thực
hiện nhu cầu chi để đảm bảo nhiệm vụ, yêu cầu kinh tế xã hội của quốc gia nhưng nguồn thu cho
ngân sách nhà nước chưa tập trung kịp. Trường hợp quỹ dự trữ tài chính tạm ứng cho ngân sách
nhà nước thì ngân sách nhà nước phải hoàn trả trong năm ngân sách.
-Nhằm xử lý cân đối ngân sách nhà nước. Việc sử dụng quỹ dự trữ tài chính cho mục đích
xử lý cân đối ngân sách được thể hiện trong các trường hợp như: cần nguồn ngân sách nhà nước để

phòng chống, khắc phục hậu quả của thiên tai, tai nạn trên diện rộng, thực hiện các nhiệm vụ quan
trọng về quốc phòng an ninh, hoặc các nhiệm vụ cần thiết, cấp bách khác phát sinh ngoài dự toán
để tránh không làm ảnh hưởng, xáo trộn đến sản xuất, đời sống xã hội. Ngoài ra, nếu nguồn thu
ngân sách nhà nước, kể cả từ vay nợ nhằm mục đích bù đắp bội chi cho ngân sách nhà nước không
đạt mức bội chi mà dự toán ngân sách nhà nước đã tiên liệu theo quyết định của cơ quan quyền lực
ở trung ương và địa phương, trường hợp này quỹ dự trữ tài chính sẽ được sử dụng nhằm đảm bảo
yêu cầu cân đối ngân sách trong năm ngân sách.
Về thẩm quyền quyết định sử dụng quỹ dự trữ tài chính, Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ quyết định đối với việc tạm ứng cho ngân sách nhà nước từ quỹ
dự trữ tài chính. Trường hợp xử lý cân đối ngân sách, đối với quỹ dự trữ tài chính ở trung ương,
Thủ tướng Chính phủ sẽ có thẩm quyền quyết định. Đối với quỹ dự trữ tài chính ở địa phương sẽ
do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định. Nếu không xét đến trường hợp tạm ứng từ quỹ dự trữ tài
chính phải được hoàn trả ngay trong năn ngân sách, việc sử dụng quỹ dự trữ tài chính cho các mục
đích khác cần phải đảm bảo yêu không bảo toàn số dư của quỹ dự trữ tài chính. Theo đó, không
được sử dụng vượt quá 30% số dư của Quỹ dự trữ tài chính tại thời điểm bắt đầu năm ngân sách.
Ngoài ra, quỹ dự trữ tài chính phân biệt với quỹ dự phòng ngân sách-một khoản chi được
bố trí từ nội dung chi đầu tư phát triển.
5.1.2.5 Chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới:
Mục đích của khoản chi này nhằm đảm bảo tính công bằng, yêu cầu phát triển cân đối giữa
các vùng địa phương. Luật Ngân sách nhà nước 2002 đã có sự mở rộng hơn so với trước đây.
Trang - 25

×