PHẦN MỞ ĐẦU
1.tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của du lịch thế giới, trong những năm qua, du lịch
Việt Nam đã có những bước phát triển mới đạt được những thành quả rất đáng tự
hào. Nhờ có những chính sách mở cửa giao lưu kinh tế của Đảng và nhà nước nên
đã tạo điều kiện thuận lợi cho ngành du lịch phát triển và càng đóng vai trò quan
trọng trong sự phát triển của đất nước.
Phú thọ là một tỉnh trung du miền núi, cách Hà Nội 80 km về phía Bắc.là
mảnh đất cội nguồn, cái nôi của dân tộc Việt Nam. Mỗi tấc đất đều thấm đậm biết
bao dấu tích lịch sử về thời kỳ dựng nước, xây đô để lập nên nước Văn Lang, hình
ảnh sơ khai của Tổ quốc Việt Nam. Ngày nay Phú Thọ có một tiềm năng du lịch
rất lớn với lịch tài nguyên phong phú. Khu di tích lịch sử quốc gia Đền Hùng là
một không gian văn hóa có một không hai vô cùng thiêng liêng của dân tộc Việt
Nam. Nơi đây thu hút rất đông khách du lịch nội địa và khách du lịch nước ngoài.
Nói đến Phú Thọ là nói ngay đến Đền Hùng, hình ảnh đó đã in sâu trong tâm trí
của mỗi người dân Việt Nam và đặc biệt là người dân vùng đất tổ.
Song đến nay việc khai thác các tài nguyên du lịch nói chùng và khu di tích
Đền Hùng nói riêng vẫn chưa thật sự hiệu quả. Điều đó đặt ra cho các nhà quản lý
du lịch Phú Thọ có những giải pháp đúng hướng, khai thác sao cho hợp lý những
tài nguyên du lịch sẵn có, phải đánh giá đúng được thực trạng của ngành và xây
dựng chiến lược phát triển sao cho phù hợp với tình hình phát triển của nền kinh tế
nhằm thúc đẩy ngành du lịch bền vững.Thực hiện đúng vai trò của ngành du lịch
trong xây dựng và phát triển đưa Phú Thọ trở thành một Tỉnh văn minh giàu đẹp.
Chính vì thế mà đề tài về “Nghiên cứu hiên trạng và giải pháp phát triển
du lịch bền vững tại khu di tích lịch sử Đền Hùng, Phú Thọ” được đánh giá cao.
Đây là khóa luận tốt nghiệp rất mong muốn đóng góp những ý tưởng nhỏ vào việc
xây dựng Phú Thọ trở nên giàu đẹp văn minh hơn.
1
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục đích
Đề xuất những giải pháp phát triển du lịch bền vững ở Đền Hùng.
Để thực hiện được mục đích này thì đề tài cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
2.2. Nhiệm vụ
- Tổng quan cơ sở lý luận về phát triển du lịch bền vững
- Phân tích, đánh giá thực trạng, tiềm năng hoạt động du lịch ở Đền Hùng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung vào nghiên cứu các hoạt động du lịch tại khu di tích lịch
sử Đền Hùng, dưới góc độ là một sinh viên du lịch muốn hiểu rõ hơn những tiềm
năng vón có về điểm du lịch ,qua đó tìm hiểu một số hiện trạng còn tồn tại,để từ đó
đề ra một số giải pháp tiếp tục phát triển hơn nữa tiềm năng đó nhằm thu hút ngày
càng đông lượng khách du lịch tham quan
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu hiện trạng, hoạt động khai thác và giải pháp nâng cao
chất lượng một số diểm du lịch xung quanh khu di tích Đền Hùng và đặc biệt la tại
khu di tích Đền Hùng.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện được nhiệm vụ của đề tài, có một số phương pháp chủ yếu sau đây:
Phương pháp khảo sát, điều tra thực địa: Phương phát này có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong việc đánh giá một cách khách quan về tài nguyên du
lịch,việc khảo sát giúp em có cái nhìn thực tế và tổng quát hơn về tài nguyên du
lịch mà trước đó em vốn chỉ biết qua sách vở ,báo chí ,mặt khác nó giúp người
nghiên cứu có thể khẳng định được tính chính xác của thông tin.
2
Phương pháp thống kê: Tổ chức sử lý các số liệu ,thu thập số liệu về đối
tượng nghiên cứu
Phương pháp tra cứu, thu thập tài liệu: Đây là phương pháp có tính hệ thống
cao ,mang lại hiệu quả nhất định cho người thực hiện ,phương pháp này ta phải thu
thập thông tin chính xác nhất, cần thiết nhất phù hợp với mục đích và yêu cầu của bài.
5. Những đóng góp và điểm mới của khóa luận
Khóa luận đánh giá được tiềm năng và thực trạng khai thác du lịch tại khu
di tích Đền Hùng. Ngoài ra khóa luận cũng góp ý kiến của mình trong bảo vệ khu
di tích Đền Hùng, đồng thời giúp mọi người hiểu được những giá trị mà di tích
Đền Hùng mang lại.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, lời cảm ơn, danh mục các tài liệu tham khảo,
phụ lục bao gồm:
Chương 1: cơ sở lý luận về phát triển du lịch bền vững
Chương 2: Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch tại khu di tích lịch sử Đền
Hùng-Phú Thọ
Chương 3:Định hướng và giải pháp phát triển du lịch bền vững tại khu di tích lịch
sử Đền Hùng –Phú Thọ
Kết luận
3
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG
1.1.Du lịch và phát triển du lịch
1.1.1. Các khái niệm du lịch
Ngày nay trên phạm vi toàn thế giới du lịch đã trở thành nhu cầu không thể
thiếu trong đời sống văn hóa của con người và hoạt động du lịch đang có những
bước phát triển một cách mạnh mẽ khi mà đất nước đang thực hiện công nghiệp
hóa-hiện đại hóa và trở thành một nền kinh tế mũi nhọn.
Với nhu cầu du lịch ngày càng tăng, thuật ngữ du lịch cũng trở nên thông
dụng hơn. Thuật ngữ du lịch này bắt nguồn từ tiếng pháp tour nghĩa là đi vòng
quanh dạo chơi và khách du lịch la touriste- người đi dạo chơi.Do hoàn cảnh thời
gian, khu vực khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau mỗi nhà nhà
nghiên cứu có những cách hiểu về du lịch cũng khác nhau.
Theo Liên Hợp Quốc các tổ chức lữ hành chính thức (International Union of
oficial Travel Organization (IUOTO): “du lịch được hiểu là hành động du hành
đến một nơi khác với địa điểm cư trú thường xuyên của mình nhằm mục đích
không phải để làm ăn,tức không phải để làm một việc hay một nghề để kiếm tiền
sinh sống…”
Tại hội nghị Liên Hợp Quốc về du lịch họp tại Roma-Ytalia(21/8-5/9/1963)
các chuyên gia đưa ra định nghĩa về du lịch: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ,
hiện tượng và hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá
nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với
mục đích hòa bình.Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ”.
Hội nghị Quốc tế về thống kê du lịch ở Otâ,Canada tháng 6/1991 đã định
nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường
xuyên (nơi ở của mình) trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã
4
được các tổ chức du lịch quy định trước,mục đích của chuyến đi không phải là để
tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm”
Theo điều 10 Pháp lệnh du lịch của Việt Nam thì: “ Du lịch là hoạt động của
con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham
quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong khoảng thời gian nhất định”.
Các học giả biên soạn Từ điển Bách Khoa toàn thư Việt Nam(1966) đã tách
hai nội dung cơ bản của du lịch thành hai phần riêng biệt.Nghĩa thứ nhất ( đứng
trên góc độ mục đích của chuyến đi): Du lịch là một dạng nghỉ dưỡng sức tham
quan tích cực của con người ngoài nơi cư trú với mục đích :nghỉ ngơi, giải trí, xem
danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa, nghệ thuật…”.Nghĩa thứ
hai( đứng trên góc độ kinh tế: Du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu
quả cao về nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử về
văn hóa và dân tộc, từ đó góp phần tăng thêm tình yêu đất nước. Đối với người
nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình; về mặt kinh tế, du lịch là lĩnh vựu
kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn, có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hóa và
dịch vụ tại chỗ”.
Việc phân định rõ ràng hai nội dung cơ bản của khái niệm có ý nghĩa góp
phần thúc đẩy sự phát triển du lịch. Cho đến nay, không ít người, thậm chí cả các
cán bộ, nhân viên đang làm trông ngành du lịch, chỉ cho rằng du lịch là một ngành
kinh tế. Do đó, mục tiêu được quan tâm hàng đầu là mang lại hiệu quả kinh tế.
Điều đó cũng có thể đồng nghĩa với việc tận dụng triệt để mọi nguồn tài nguyên,
mọi cơ hội để kinh doanh. Trong khi đó, du lịch cò là một hiện tương xã hội, nó
góp phần nâng cao dân trí, phục hồi sức khỏe cộng đồng, giáo dục lòng yêu nước,
tinh thần đoàn kết …. Chính vì vậy, toàn xã hội phải có trách nhiệm đóng góp hỗ
trợ, đầu tư cho du lịch phát triển như đối với giáo dục, thể thao hoặc một lĩnh vực
văn hóa nào khác… Như vậy có thể hiểu, có nhiều khái niệm về du lịch nhưng
tổng hợp lại ta thấy du lịch hàm chứa các yếu tố cơ bản sau:
- Du lịch là một hiện tượng kinh tế xã hội.
5
- Du lịch là sự di chuyển và tạm thời lưu trú ngoài nơi ở thường xuyên của các
cá nhân hoặc tập thể nhằm thỏa mãn các nhu cầu đa dạng của họ
- Du lịch là tập hợp các hoạt động kinh doanh phong phú và đa dạng nhằm
phục vụ cho các cuộc hành trình, lưu trú tạm thời và các nhu cầu khác của cá nhân
hoặc tập thể khi họ ở ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ.
1.1.2. Nguyên tắc phát triển du lịch
Theo điều 5 của luật du lịch:
Nguyên tắc phát triển du lịch:
- Phát triển du lịch bền vững theo quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm hài hòa giữa
kinh tế, xã hội và môi trường; phát triển có trọng tâm, trọng điểm theo
hướng du lịch văn hóa- lịch sử, du lịch sinh thái, bảo tồn tôn tạo, phát huy
giá trị của tài nguyên du lịch.
- Bảo đảm chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
- Bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng, lợi ích chính đáng và an ninh
an toàn cho khách du lịch, quyền và lợi ích hợp pháp của du lịch, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch.
- Bảo đảm sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư trong
phát triển du lịch.
- Góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và giao lưu quốc tế để quảng bá hình
ảnh đất nước, con người Việt Nam.
- Phát triển đồng thời du lịch trong nước và quốc tế, tăng cường thu hút ngày
càng nhiều khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam.
- Trong các nguyên tắc trên thì nguyên tắc phát triển bền vững được đặt lên
hàng đầu. Điều đó chứng tỏ loại hình du lịch tuy vào nước ta muộn nhưng
nhận được sự hưởng ứng và đồng tình của mọi người. Đảng và nhà nước ta
đã sớm ý thức được những lợi ích to lớn mà du lịch bền vững mang lại cũng
như vai trò thiết thực của nó trong quá trình phát triển du lịch ở Việt Nam.
6
1.2. Môi trường và mối quan hệ giữa du lịch và môi trường
1.2.1. Khái niệm môi trường
Luật bảo vệ môi trường năm 2005 được quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 8 đã đưa ra khái niệm về môi trường,
theo đó: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh
con người, có ảnh hưởng đến đời sống sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con
người và sinh vật.
Thành phần của môi trường được định nghĩa: “ Thành phần của môi trường
được hiểu là yếu tố vật chất tạo thành môi trường như đất, nước, không khí, âm
thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái và các hình thái vật chất khác. Như vậy thành
phần môi trường là hết sức phức tạp, chứa đựng nhiều yếu tố vô sinh và hữu sinh.
Môi trường sống của con người theo chức năng gồm hai loại:
Môi trường tự nhiên: bao gồm các nhân tố thiên nhiên, đó là ánh sáng mặt
trời, núi sông, biển cả, không khí, đất… Môi trường tự nhiên cho ta không khí để
thở, đất đai cho ta xây dựng nhà cửa, cung cấp cho con người các loại khoáng sản
dùng cho sản xuất, cung cấp cảnh đẹp để tham quan giải trí, để cuộc sống thêm
phong phú.
Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Đó là
những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định… ở các cấp khác nhau như
Liên Hợp Quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, cơ quan, tỉnh huyện,…Môi trường
xã hội định hướng hoạt động của con người theo khôn khổ nhất định, tạo nên sức
mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cuộc sống của con người khác với các
sinh vật khác.
1.2.2. Khái niệm môi trường du lịch
Điểm 21 điều 3 Luật du lịch ghi rõ: “ Môi trường du lịch là môi trường tự
nhiên và môi trường xã hội nhân văn nơi diễn ra các hoạt động du lịch.
7
Điều 9 của Luật du lịch cũng quy định các nội dung bảo vệ môi trường du
lịch như sau:
Môi trường tự nhiên, môi trường xã hội nhân văn cần được bảo vệ, tôn tạo
và phát triển nhằm đảm bảo môi trường du lịch xanh, sạch, đẹp, an ninh, an toàn,
lành mạnh và văn minh.
Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình ban hành
các quy định nhằm bảo vệ, tôn tạo và phát triển môi trường du lịch.
Ủy ban nhân dân các cấp có biện pháp để bảo vệ, tôn tạo và phát triển môi
trường du lịch phù hợp với thực tế của địa phương.
Tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch có trách nhiệm thu gom, khắc phục,
xử lý các loại chất thải trong quá trình hoạt động kinh doanh.
Khách du lịch, cộng đồng dân cư địa phương và các tổ chức, cá nhân khác
có trách nhiệm bảo vệ và gìn giữ cảnh quan, môi trường, bản sắc văn hóa, thuần
phong mỹ tục của dân tộc, có thái độ ứng xử văn minh lịch sự nhằm nâng cao hình
ảnh đất nước, con người và du lịch Việt Nam.
1.2.3. Mối quan hệ giữa môi trường và du lịch
Tác động tích cực: Du lịch góp phần tăng trưởng kinh tế ( chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, xuất khẩu tại chỗ), tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận
cộng đồng dân cư địa phương (y tế, vui chơi giải trí) kèm theo các hoạt động phát
triển du lịch.
Bảo tồn, nâng cao giá trị và khôi phục các di sản kiến trúc, nghệ thuật, vật
thể, văn hóa, thủ công mỹ nghệ, trang phục, phong tục truyền thống… bằng các
nguồn kinh phí thu trực tiếp từ hoat động du lịch.
Phát triển du lịch tạo tiền đề cho việc khôi phục các sinh hoạt văn hóa truyền
thống của cộng đồng vốn đã bị mai một, đặc biệt là các lễ hội. Nhiều lễ hội truyền
thống địa phương riêng lẻ đã được nâng cấp thành các lễ hội du lịch, thu hút số
lượng lớn khách từ các vùng miền khác cùng tham gia.
8
Tác động tiêu cực: Hoạt động du lịch cũng gây ra những tác động tiêu cực
đến đời sống văn hóa- xã hội, đó là:
Các giá trị văn hóa truyền thống của nhiều cộng đồng dân cư trên các vùng núi
cao thường khá đặc sắc nhưng rất dễ bị biến đổi do tiếp xúc các nền văn hóa xa lạ.
Các di sản văn hóa, lịch sử, khảo cổ dễ bị xuống cấp khi chịu tác động của
khách đến thăm nếu không có các biện pháp bảo vệ.
Do tính chất mùa vụ của hoạt động du lịch, các nhu cầu tại thời kỳ cao điểm
vượt qua khả năng cđáp ứng về dịch vụ công cộng và cơ sở hạ tầng của địa phương.
Mâu thuẫn nảy sinh giữa những người làm du lịch với dân địa phương do
việc phân bố lợi ích từ du lịch trong nhiều trường hợp chưa được công bằng.
1.2.3.1. Hoạt động du lịch tác động đến môi trường
Tác động tích cực: Hoạt động du lịch góp phần tăng hiệu quả sử dụng quỹ
đất còn trống hoặc sử dụng không hiệu quả. Giảm sức ép do khai thác tài nguyên
quá mức từ các hoạt động dân sinh, kinh tế từ các khu vực nhạy cảm( vườn quốc
gia, khu bảo tồn thiên nhiên…)
Góp phần đảm bảo chất lượng nước trong và ngoài khu vực phát triển du
lịch nếu như các giải pháp kỹ thuật trong cấp thoát nước được áp dụng.
Tăng thêm mức độ đa dạng sinh học tại những điểm du lịch nhờ các dự án
thường có yêu cầu tạo thêm cây xanh, cảnh quan, hồ nước…
Tác động tiêu cực: Hoạt động du lịch làm tăng áp lực về chất thải sinh hoạt,
làm tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường…
Làm tăng sức ép lên quỹ đất tại các vùng ven biển vốn đã rất hạn chế, miền
núi trung du… do bị khai thác cho mục đích xây dựng các bến bãi, hải cảng, nuôi
trồng thủy sản và phát triển đô thị.
Các hệ sinh thái và môi trường rất nhạy cảm và dễ bị tổn thương do sức ép
của phát triển du lịch.
9
Các khu vực có tính đa dạng sinh học cao như: các khu rừng nhiệt đới, hang
động… thường hấp dẫn du khách, nhưng dễ bị tổn thương do phát triển du lịch.
Ngoài ra, cuộc sống và tập quán của người dân, của các động vật hoang dã
có thể bị ảnh hưởng do lượng khách đến trong các thời điểm du lịch.
Do vậy trong quá trình phát triển du lịch phải lồng ghép các yêu cầu và giải
pháp bảo vệ môi trường ngay từ khâu lập kế hoạch, xây dựng các chiến lược và
phát triển du lịch tối ưu nhất.
1.2.3.2. Tác động của môi trường tới du lịch
Tác động tích cực: Môi trường du lịch luôn tỉ lệ thuận với khách du lịch, môi
trường tốt, phong phú và hấp dẫn sẽ thu hút khách du lịch, nâng cao lợi nhuận và
thu nhập cho nền kinh tế quốc gia, địa phương.
Phát triển du lịch đồng nghĩa với khai thác các giá trị tài nguyên và môi
trường. Tại điểm du lịch có tài nguyên, các giá trị về văn hóa, lịch sử thì sẽ phát
triển du lịch và khách cũng sẽ phát triển.
Tác động tiêu cực: Trên thực tế cả tài nguyên du lịch nhân văn và tài nguyên
du lịch tự nhiên đang bị hao mòn. Thiên nhiên bị xâm hại do sự có mặt thường
xuyên của du khách. Xã hội, nguồn tài nguyên nhân văn đạng bị biến đổi từng
ngày bởi hoạt động du lịch. Khi tự nhiên không còn đa dạng, phong phú, hoang sơ,
khi môi trường không còn trong lành, khi văn hóa bản địa không còn nết riêng của
mình… thì du lịch sẽ mất dần ý nghĩa.
1.3. Phát triển du lịch bền vững
1.3.1. Khái niệm phát triển bền vững
Để phát triển được thì ta phải hiểu được thế nào là phát triển bền vững. Khái
niệm phát triển bền vững được đề cập và phổ biến rộng rãi từ 1987 từ báo cáo
Brundtland của Uỷ ban môi trường và phát triển thế giới ( WCED) nay là Uỷ ban
Brundtland. Báo cáo ghi rõ: “phát triển bền vững là phát triển có thể đáp ứng được
những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng ,tổn hại đến những khả năng đáp ứng
10
nhu cầu của các thế hệ tương lai…” hay nói cách khác, phát triển bền vững phải
đảm bảo sự phát triển kinh tế hiệu quả xã hội công bằng và môi trường được bảo
vệ, gìn giữ và phát triển. Phát triển bền vững đảm bảo 3 khía cạnh sau:
- Khía cạnh môi trường
- Khía cạnh xã hội
- Yếu tố kinh tế
Phát triển bền vững ngày càng được chú trọng và nó dần trở thành trung tâm
của sự phát triển trong mọi lĩnh vực khi mà Việt Nam đã bước vào thế kỷ 21. Vấn
đề ô nhiễm môi trường lại đang trở thành vấn đề được cả thế giới quan tâm, song
với sự đi lên nhanh chóng của nền kinh tế thì điều này ít được chú trọng hơn. Thu
nhập của người dân ngày càng đảm bảo hơn và được cải thiện rõ rệt, mức sống
được nâng dần lên ở cả thành thị lẫn nông thôn, trong khi đó thì khoảng cách giàu
nghèo ngày càng rõ rệt. Vì vậy phát triển bền vững sẽ giúp mọi người hiểu được sự
cấp thiết của vấn đề này, luôn biết bảo vệ chính hành tinh mà mình đang sống, để
có thể nâng cao chất lượng môi trường.
Để đạt được điều này, tất cả mọi người trong xã hội cần chung tay gây dựng
hành tinh này luôn trong sạch không bị ô nhiễm. Tất cả các thành phần kinh tế- xã
hội, các nhà cầm quyền,… phải bắt tay nhau thực hiện để có thể giảm được nguy
cơ ô nhiễm nặng nề hơn. Có thể dung hòa ba lĩnh vực: kinh tế, xã hội, môi trường.
1.3.2. Các nguyên tắc phát triển bền vững
Chương trình môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP) trong tác phẩm “Hãy
cứu lấy trái đất- chiến lược cho một cuộc sống bền vững”, 1991 đã nêu ra 9 nguyên
tắc của một xã hội bền vững. Tuy nhiên, các nguyên tắc này thực sự khó áp dụng
vào thực tế của một thế giới đầy biến động về chính trị, kinh tế, văn hóa. Thực tế
đòi hỏi cần thiết lập một hệ thống nguyên tắc khác có tính khả thi và sát thực tế
hơn. Luc Hens (1995) đã lựa chọn trong số các nguyên tắc của tuyên bố Riô về
môi trường và phát triển để xây dựng một hệ thống 7 nguyên tắc mới của phát triển
bền vững. Những nguyên tắc đó là:
11
Nguyên tắc về sự ủy thác của nhân dân: Nguyên tắc này yêu cầu chính quyền
phải hành động để ngăn ngừa các thiệt hại môi trường ở bất cứ đâu xảy ra, bất kể
đã có hoặc chưa có các điều luật quy định về cách ứng xử các thiệt hại đó.
Nguyên tắc phòng ngừa: Ở những nơi có thể xảy ra các sự cố môi trường
nghiêm trọng và không đảo ngược được, thì không thể lấy lý do là chưa có hiểu
biết chắc chắn và trì hoãn các biện pháp ngăn ngừa sự suy thoái môi trường.
Nguyên tắc bình đẳng giữa các thế hệ: Việc thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ
hiện nay không được làm phương hại đến các thế hệ tương lai thỏa mãn nhu cầu
của họ.
Nguyên tắc bình đẳng trong nội bộ thế hệ: Con người trong cùng thế hệ hiện nay
có quyền được hưởng lợi một cách bình đẳng trong việc khai thác các tài nguyên và bình
đẳng trong việc chung hưởng một môi trường trong lành và sạch sẽ.
Nguyên tắc phân quyền và ủy quyền: Các quyết định cần phải được soạn thảo
bởi chính các cộng đồng bị tác động bởi tổ chức thay mặt họ và gần gũi nhất với
họ. Các quyết định cần ở mức quốc gia hơn là mức quốc tế, mức địa phương hơn là
mức quốc gia.
Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền: Người gây ô nhiễm phải chịu
mọi chi phí ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm, phải nội bộ hóa tất cả các chi phí môi
trường nảy sinh từ các hoạt động của họ, sao cho các chi phí này được thể hiện đầy
đủ trong giá cả của hàng hóa và dịch vụ mà họ cung ứng.
Nguyên tắc người sử dụng phải trả tiền: Khi sử dụng hàng hóa hay dịch vụ,
người sử dụng phải trả đủ giá tài nguyên cũng như các chi phí môi trường liên
quan tới việc chiết tách, chế biến và sử dụng tài nguyên.
1.3.3. Các mục tiêu của phát triển bền vững
Mục tiêu tổng quát của phát triển du lịch bền vững là đạt được sự đầy đủ về
vật chất, sự phong phú về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và
sự đồng thuận về xã hội, sự hài hòa giữa con người với tự nhiên, phát triển phải kết
12
hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa được 3 mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội
và phát triển nhân văn và bảo vệ môi trường.
Mục tiêu phát triển bền vững về xã hội và nhân văn: Là đạt được kết quả cao
trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, ổn định dân số, bình đẳng giới,
đảm bảo chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, mọi người có cơ hội học hành và có
việc làm, giảm tỉ lệ đói nghèo, nâng cao đời sống, duy trì phát huy được tính đa
dạng và bản sắc văn hóa các dân tộc, không ngừng nâng cao trình độ văn minh về
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Mục tiêu phát triển kinh tế: Là đạt được sự tăng trưởng ổn định với cơ cấu
kinh tế hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống nhân dân, tránh được sự
suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, tránh để gánh nặng nợ nần cho các thế hệ
tương lai mai sau.
Mục tiêu phát triển bền vững môi trường: Là khai thác hợp lý, sử dụng tiết
kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Ngăn chặn, phòng ngừa, xử lý có kiểm
soát ô nhiễm môi trường. Khắc phục suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường.
Tóm lại, phát triển bền vững là một quá trình dàn xếp thỏa hiệp giữa các hệ
thống kinh tế, tự nhiên và xã hội. Để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, mỗi
phân hệ cần phải có những tiêu chí cụ thể, đó là cần có sự nỗ lực về kinh tế- Xã
hội- Môi trường. Bên cạnh đó, thì cần phải cân nhắc những lĩnh vực cụ thể để đạt
được mục tiêu đó. Đó là lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, sản xuất, công nghệ,
lĩnh vực quốc tế và lĩnh vực hành chính.
1.3.4.Khái niệm phát triển du lịch bền vững
Khái niệm phát triển du lịch bền vững không tách rời khái niệm phát triển
bền vững. Từ năm 1990, các nhà khoa học trên thế giới đã đề cập nhiều đến việc
phát triển du lịch với mục đích đơn thuần về kinh tế đang đe dọa, hủy hoại môi
trường sinh thái, đến các nền văn hóa bản địa. Hậu quả của tác động này sẽ lại ảnh
hưởng tới sự phát triển lâu dài của ngành du lịch. Chính vì vậy đã xuất hiện nhu
13
cầu “nghiên cứu phát triển bền vững” nhằm hạn chế sự tác động tiêu cực của hoạt
động du lịch đảm bảo sự phát triển lâu dài.
Một số loại hình quan tâm đến khía cạnh môi trường đã xuất hiện như: Du
lịch sinh thái, du lịch xanh, du lịch dựa vào thiên nhiên, du lịch khám phá, du lịch
mạo hiểm… đã góp phần nâng cao hình ảnh về một hướng phát triển du lịch có
trách nhiệm, đảm bảo sự phát triển bền vững, có rất nhiều khái niệm về du lịch bền
vững, sau đây là một số khái niệm điển hình:
- Theo định nghĩa của tổ chức du lịch thế giới(WTO) đưa ra hội nghị về môi
trường và phát triển của Liên Hợp Quốc tại Rio de janeiro năm 1992 thì:
“Du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng
nhu cầu hiện tại của khách du lịch và người dân bản địa trong khi vẫn
quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các tài nguyên cho việc phát triển
hoạt động du lịch trong tương lai. Du lịch bền vững sẽ có kế hoạch quản
lý các nguồn tài nguyên nhằm thỏa mãn các nhu cầu về kinh tế, xã hội,
thẩm mỹ của con người trong khi đó vẫn duy trì được toàn vẹn văn hóa,
đa dạng sinh học, sự phát triển của các hệ sinh thái và các hệ thống hỗ trợ
cho cuộc sống của con người”.
- Khái niệm du lịch bền vững của World Conservation Union, 1996: “du lịch
bền vững là việc di chuyển và tham quan đến các vùng tự nhiên một cách có
trách nhiệm với môi trường để tận hưởng và đánh giá cao tự nhiên và tất
cả các đặc điểm văn hóa kèm theo( có thể là trong quá khứ và cả hiện tại)
theo cách khuyến cáo về bảo tồn, có tác động thấp từ du khách và mang
lại những lợi ích cho sự tham gia chủ động về kinh tế- xã hội của cộng
đồng địa phương”.
Như vậy có thể coi “phát triển du lịch bền vững” là một nhánh của “phát
triển bền vững” đã được hội nghị Uỷ ban Thế giới và Môi trường xác định năm
1987. Hoạt động phát triển du lịch bền vững là hoạt động phát triển ở một khu vực
cu thể sao cho nội dung, hình thức và quy mô là thích hợp và bền vững theo thời
14
gian, không làm suy thoái môi trường, làm ảnh hưởng đến khả năng hỗ trợ các hoạt
động phát triển khác. Ngược lại, tính bền vững của hoạt động phát triển du lịch
được xây dựng trên nền tảng sự thành công trong phát triển các ngành khác, sự
phát triển bền vững chung của khu vực.
Trọng tâm của phát triển du lịch bền vững là đấu tranh cho sự cân bằng giữa
các mục tiêu về kinh tế, xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường và văn hóa cộng
đồng trong khi phải tăng cường sự thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của
du khách. Sự cân bằng này có thể thay đổi theo thời gian, khi có sự thay đổi về các
quy tắc xã hội, các điều kiện đảm bảo môi trường sinh thái và sự phát triển của
khoa học công nghệ. Mặc dù vậy, phương pháp tiếp cận đảm bảo cho sự phát triển
du lich bền vững phải dựa vào sự cân bằng tài nguyên môi trường với quy hoạch
thống nhất.
“Du lịch bền vững” ở Việt Nam là một khái niệm còn mới. Mặc du còn
những quan điểm chưa thực sự thống nhất về khái niệm phát triển du lịch bền
vững, nhưng cho đến nay, đa số ý kiến các chuyên gia trong lĩnh vực du lịch và các
lĩnh vực khác có liên quan khác ở Việt Nam đều cho rằng: “ phát triển du lịch bền
vững là hoạt động khai thác có quản lý các giá trị tự nhiên và nhân văn nhằm thỏa
mãn nhu cầu đa dạng của khách du lịch, có quan tâm đến các lợi ích kinh tế dài hạn
trong khi vẫn đảm bảo sự đống góp cho bảo tồn và tôn tạo các tài nguyên, duy
trì được sự toàn vẹn về văn hóa để phát triển hoạt động du lịch trong tương lai,
cho công tác bảo vệ môi trường và góp phần nâng cao mức sống của cộng đồng
địa phương”.
1.3.5.Các nguyên tắc của phát triển du lịch bền vững
Sử dụng nguồn lực một cách bền vững:
Việc bảo tồn và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên, văn hóa-
xã hội là rất cần thiết. Nó giúp cho việc kinh doanh phát triển lâu dài. Du lịch là
ngành kinh tế có sự định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên du lịch lại được coi
là sản phẩm du lịch quan trọng nhất và là mục đích chuyến đi của du khách. Vì
15
vậy, trong quá trình quy hoạch các dự án phát triển du lịch cần xây dựng những
phương cách, chiến lược bảo tồn, tôn tạo, khai thác tài nguyên du lịch theo hướng
tiết kiệm, hợp lý để lưu lại cho thế hệ tương lai một nguồn tài nguyên như thế hiện
tại đang hưởng.
Duy trì tính đa dạng:
Việc duy trì và tăng cường tính đa dạng của thiên nhiên, văn hóa – xã hội là
hết sức quan trọng với du lịch bền vững, là cơ sở cho việc tồn tại, phát triển du
lịch. Trong quá trình xây dựng và thực hiện các dự án quy hoạch du lịch, cũng như
sự phát triển du lịch do nhiều nguyên nhân khác nhau nên dễ làm mất đi tính đa
dạng của thiên nhiên, văn hóa- xã hội. Vì vậy trong quá trình quy hoạch du lịch
cần phải xây dựng, thực hiện các phương cách, chiến lược nhằm duy trì bảo tồn
được tính đa dạng của tự nhiên và văn hóa – xã hội.
Giảm tiêu thụ quá mức và giảm chất thải:
Sự tiêu thụ quá mức tài nguyên thiên nhiên dẫn đến sự hủy hoại môi trường,
làm cạn kiệt tài nguyên mà còn không đảm bảo nguồn tài nguyên cho sự phát triển
lâu dài của ngành du lịch. Các chất thải của phương tiện vận chuyển, khách, nước
thải, chất thải từ dịch vụ du khách, cũng như việc xả rác bừa bãi của khách du lịch
nếu không được thu gom, xử lý, tái chế thì chúng sẽ trở thành nguyên nhân gây ô
nhiễm môi trường.
Do vậy, việc quy hoạch phát triển du lịch đúng đắn ngay từ khi lập dự án là
phải tiến hành đánh giá tác động từ hoạt động du lịch đến tài nguyên môi trường,
từ đó dự kiến những biện pháp phòng ngừa hữu hiệu nhằm giảm tiêu thụ quá mức
tài nguyên và giảm lượng chất thải vào môi trường là cần thiết.
Hợp nhất quy hoạch du lịch vào quá trình quy hoạch phát triển kinh tế- xã
hội:
Cần hợp nhất phát triển du lịch vào trong khuôn khổ hoạch định chiến lược
của địa phương và quốc gia. Quy hoạch phát triển du lịch là một bộ phận của quy
hoạch kinh tế- xã hội, nó làm tăng khả năng tồn tại, phát triển lâu dài của ngành du
16
lịch. Do vậy, trong quá trình quy hoạch du lịch cần phải tính đến sự hòa hợp quy
hoạch phát triển kinh tế- xã hội.
Hỗ trợ kinh tế địa phương và thu hút tham gia của cộng đồng địa phương:
Hỗ trợ kinh tế địa phương: Nguồn tài nguyên mà ngành du lịch sử dụng
vốn thuộc quyền sở hữu chung của người dân bản địa. Hoạt động du lịch một mặt
mang lại hiệu quả tích cực cho nền kinh tế- xã hội của địa phương, mặt khác lại để
lại những hậu quả tiêu cực cho tài nguyên môi trường và kinh tế- xã hội của địa
phương. Do vậy ngành du lịch có trách nhiệm đóng góp một phần thu nhập cho
phát triển kinh tế địa phương.
Thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương: Việc tham gia của cộng đồng
địa phương vào du lịch không chỉ mang lại lợi ích cho họ và môi trường mà còn
góp phần duy trì, phát triển du lịch, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm
du lịch, tạo sự hấp dẫn đối với du khách.
Lấy ý kiến của quần chúng và các đối tượng có liên quan:
Việc lấy ý kiến của cộng đồng địa phương, các tổ chức và cơ quan khác nhau,
các doanh nghiệp du lịch là rất cần thiết. Đây là một bước nhằm nâng cao nhận
thức của các bên tham gia với dự án quy hoạch, cùng nhau giải quyết các mâu
thuẫn tiềm ẩn về quyền lợi. Đồng thời điều này giúp cho các bên tham gia có thể
ủng hộ cho việc thực hiện các dự án quy hoạch. Do vậy, trong quá trình triển
khai các dự án quy hoạch du lịch, cần vận dụng nguyên tắc này trong điều tra xã
hội học.
Tiến hành nghiên cứu:
Thông tin, số liệu để xây dựng dự án và ngay cả khi dự án được thực hiện đều
không sẵn có. Để cả dự án quy hoạch có hiệu quả cần: đầu tư nhiều cho công tác
điều tra, thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp mới có thể xây dựng được các mục
tiêu định hướng, các giải pháp của dự án phù hợp.
Đào tạo nguồn nhân lực:
17
Con người luôn là yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, nhất
là đối với sự phát triển của ngành du lịch, ngành kinh tế đòi hỏi cao về “lao động
sống”. Vì vậy trong quá trình phát triển du lịch bền vững, ngoài các yếu tố kể trên,
thì cần phải có đội ngũ quản lý, đội ngũ lao động trực tiếp được đào tạo cơ bản về
mọi mặt, có trình độ chuyên môn cao, đem lại lợi ích kinh tế cho ngành và nâng cao
chất lượng sản phẩm du lịch, đồng thời góp phần bảo vệ tài nguyên và môi trường.
Nâng cao trách nhiệm trong hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch.
Đối với phát triển du lịch, đặc biệt là phát triển du lịch bền vững thì việc
tuyên truyền, xúc tiến và quảng bá luôn là hoạt động rất quan trọng. Tiến hành xúc
tiến quảng bá sẽ đảm bảo khả năng thu hút khách du lịch, tăng cường khả năng
cạnh tranh của các sản phẩm du lịch.
1.3.6. Mục tiêu phát triển du lịch bền vững
Phát triển bền vững về kinh tế:
Điều này có nghĩa để phát triển du lịch bền vững phải tăng nguồn lợi kinh tế
đóng góp cho ngân sách địa phương và cho ngân sách nhà nước, tối ưu hóa đóng
góp của ngành du lịch vào thu nhập quốc dân, góp phần thúc đẩy những ngành
kinh tế khác phát triển.
Phát triển bền vững về môi trường:
Phải đảm bảo tài nguyên luôn luôn được bền vững, luôn được bảo vệ , quản
lý sử dụng và kiểm soát được những tác động đến môi trường, truyền thông và
giáo dục, xây dựng các mối quan hệ đối tác bền vững để tạo ra sự ổn định trong
kinh doanh mà không ảnh hưởng đến môi trường xung quanh.
Cụ thể hơn, trong du lịch bền vững xác định năm mục tiêu cơ bản sau:
- Phát triển, gia tăng sự đóng góp của du lịch vào kinh tế và môi trường
- Cải thiện tính công bằng xã hội trong phát triển.
- Cải thiện chất lượng sống của cộng đồng bản địa.
18
- Đáp ứng cao nhu cầu tất yếu của du khách .
- Duy trì chất lượng môi trường.
Phát triển bền vững về xã hội:
Mục tiêu xã hội( thì xét về tác động đến nền văn hóa bản địa và du khách
,lợi ích của người lao động trong ngành du lịch được hưởng): hệ thống di sản văn
hóa đã được giữ gìn ,có sự tham gia của cộng đồng, dịch vụ và cơ sở hạ tầng ngày
càng được nâng cấp, chất lượng cuộc sống ngày càng được cải thiện.
1.3.7. Các tiêu chí cơ bản để phát triển du lịch bền vững
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng và xã
hội hóa cao với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong xã hội. Sự phát
triển của ngành du lịch phụ thuộc nhiều vào kinh tế, chính trị, xã hội…. Của đất
nước cũng như của khu vực. Tuy nhiên không phải vì vậy mà có thể đánh giá phát
triển du lịch bền vững một cách tùy tiện mà phải dựa trên các tiêu chí cơ bản về
phát triển du lịch bền vững bao gồm:
1.3.7.1. Các tiêu chí về kinh tế
Phát triển du lịch bền vững phải đảm bảo sự tăng trưởng liên tục và ổn định
lâu dài của các chỉ tiêu kinh tế du lịch. Tuy nhiên, tùy thuộc vào trình độ phát triển
và mức khởi điểm của các chỉ tiêu kinh tế ở mỗi nước, mỗi địa phương mà mức độ
tăng trưởng sẽ cao thấp khác nhau, được lựa chọn để đánh giá tính bền vững. Với
chỉ tiêu này cần đề cập những chỉ tiêu cụ thể sau.
Chỉ tiêu khách du lịch:
Là chỉ tiêu quan trọng hàng đầu đối với quá trình phát triển du lịch. Chỉ tiêu
này bao gồm: số lượng tuyệt đối về khách, số ngày lưu trú trung bình, số khách
quay trở lại, khả năng thanh toán, mức độ hài lòng của khách.
Chỉ tiêu thu nhập và tổng sản phẩm quốc nội ngành du lịch. Đây là chỉ tiêu
đánh dấu sự phát triển của du lịch cả nước nói chung và địa phương nói riêng, là
thước đo mức độ phát triển và cho sự thành công của ngành du lịch.
19
Tài nguyên du lịch ( của một vùng lãnh thổ nào đó ) bao gồm tất cả các
khoản thu được do khách du lịch chi trả ( trên lãnh thổ đó) cho du lịch như lưu trú,
ăn uống, vận chuyển khách ( không kể vận chuyể quốc tế), các dịch vụ vui chơi giả
trí… và các dịch vụ bổ sung khác.
Giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là chỉ tiêu quan trọng hàng đầu, là
thước đo sự phát triển của ngành kinh tế nói chung và từng ngành nói riêng.
Đối với ngành du lịch, việc tăng trưởng thường xuyên và liên tục của chỉ
tiêu GDP không những đảm bảo cho sự phát triển về mặt kinh tế mà còn cho thấy
vị trí của ngành trong tổng thể ngành kinh tế quốc dân. Tỉ trọng này cao, ổn định
và tăng trưởng theo thời gian thì ngành du lịch ngày càng phát triển gần với mục
tiêu phát triển bền vững.
Chỉ tiêu hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch:
Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch bao gồm các cơ sở lưu trú, ăn
uống, vui chơi giả trí, khu du lịch… là thước đo phản ánh sự phát triển của ngành
du lịch. Vì vậy nó trở thành yếu tố quan trọng trong sự phát triển bền vững của
ngành du lịch.
Chỉ tiêu nguồn nhân lực trong ngành du lịch:
Đây là chỉ tiêu quan trọng quyết định chất lượng và giá cả của sản phẩm
dịch vụ, là yếu tố quyết định sự hài lòng của khách. Bởi thế, nên sự phát triển về
mặt số lượng, chất lượng và cơ cấu của đội ngũ lao động du lịch, sẽ đảm bảo cho
sự phát triển du lịch bền vững.
1.3.7.2. Các tiêu chí về mặt tài nguyên môi trường
Phát triển bền vững phải đảm bảo khai thác và sử dụng một cách hợp lý, có
hiệu quả các tiềm năng tài nguyên và điều kiện môi trường. Việc khai thác, sử
dụng nguồn tài nguyên cho phát triển du lịch cần được quản lý và giám sát để
không những đáp ứng được nhu cầu hiện tại mà còn đảm bảo cho nhu cầu hiện tại
mà còn đảm bảo cho nhu cầu phát triển du lịch tương lai, tiêu chí này bao gồm:
20
Số lượng( tỉ lệ ) các khu, điểm du lịch được đầu tư, tôn tạo và bảo tồn: các
khu, điểm du lịch là nơi chứa tài nguyên du lịch- yếu tố cơ bản hấp dẫn khách du
lịch. Thực tế cho thấy, tài nguyên du lịch càng phong phú, đa dạng thì sức hấp dẫn
và hiệu quả của hoạt động du lịch ngày càng cao. Tuy nhiên, tài nguyên thiên
nhiên phần lớn không có khả năng tái tạo, vì vậy chỉ tiêu về tỉ lệ các khu, điểm du
lịch cần được bảo tồn và tôn tạo được coi là một trong những yếu tố cơ bản của sự
phát triển bền vững của hoạt động du lịch về mặt tài nguyên – môi trường
Áp lực lên môi trường tại các khu du lịch: Một trong những mục tiêu mà
phát triển du lịch bền vững hướng tới là bảo vệ môi trường. Việc phát triển quá
nhanh các hoạt động du lịch mà không chú trọng đến công tác đánh giá, quản lý
đến tác động môi trường tại các khu vực phát triển du lịch sẽ là nguyên nhân chính
gây ra những hậu quả nghiêm trọng về môi trương dẫn đến sự phát triển thiếu bền
vững. Để hạn chế những tác động tiêu cực, giảm thiểu các chất thải ô nhiễm môi
trường thì việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên cũng như việc bảo tồn và
bảo vệ môi trường là việc hết sức cần thiết để phát triển du lịch hiện tại và trong
tương lai.
1.3.7.3. Các tiêu chí về xã hội
Đây là yêu tố rất quan trọng thể hiện tính bền vững trong phát triển du lịch.
Yếu tố này đòi hỏi ngành du lịch phải có những đóng góp cho quá trình phát triển
của toàn xã hội: tạo công ăn việc làm cho người lao động, tham gia xóa đói giảm
nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, chia sẻ lợi ích từ các hoạt động du lịch,
đảm bảo sự công bằng trong phát triển và góp phần hỗ trợ các ngành khác cùng
phát triển.
1.3.8. Vai trò của môi trường đến phát triển du lịch bền vững
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, môi trường tự nhiên nói chung và
môi trường du lịch tự nhiên nói riêng luôn chịu sự tác động của nhiều yếu tố. Nếu
trong quá trình phát triển đó, các tác động tiêu cực đến môi trường không được
kiểm soát thông qua những biện pháp bảo vệ môi trường, giải pháp quản lý hữu
21
hiệu thì hậu quả sẽ dẫn tới sự suy thoái môi trường, ảnh hưởng trực tiếp tới phát
triển du lịch bền vững. Vì vậy, nói cách khác, hoạt động phát triển du lịch có bền
vững hay không phụ thuộc một phần rất quan trọng vào tình trạng môi trường.
Tiểu kết chương 1
Hoạt động du lịch gắn liền với môi trường. Bởi môi trường có được bảo vệ
xanh- sạch – đẹp thì phát triển du lịch mới được bền vững
Điều đó chứng tỏ, môi trường là yếu tố quan trọng trong việc phát triển bền vững
Vì vậy việc thực hiện tốt công tác quản lý và bảo vệ môi trường là chúng ta
đang phát triển du lịch bền vững.
22
CHƯƠNG 2: TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TẠI KHU DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỀN HÙNG
2.1. Tiềm năng phát triển du lịch tại khu di tích lịch sử Đền Hùng
2.1.1. Giới thiệu tỉnh Phú Thọ
Vị trí địa lý:
Phú Thọ là tỉnh thuộc khu vực miền núi, trung du phía Bắc, nằm trong khu
vực giao lưu giữa vùng Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng và Tây Bắc (vị trí địa lý
mang ý nghĩa trung tâm của tiểu vùng Tây – Đông - Bắc). Phía Đông giáp Hà Tây,
phía Đông Bắc giáp Vĩnh Phúc, phía Tây giáp Sơn La, phía Tây Bắc giáp Yên Bái,
phía Nam giáp Hoà Bình, phía Bắc giáp Tuyên Quang. Với vị trí “ngã ba sông”
cửa ngõ phía Tây của Thủ đô Hà Nội, Phú Thọ cách Hà Nội 80 km, cách sân bay
Nội Bài 60 km, cách cửa khẩu Lào Cai, cửa khẩu Thanh Thuỷ hơn 200 km, cách
Hải Phòng 170 km và cảng Cái Lân 200 km.
Phú Thọ nằm ở trung tâm các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt và
đường sông từ các tỉnh thuộc Tây - Đông - Bắc đi Hà Nội, Hải Phòng và các nơi
khác. Là cầu nối giao lưu kinh tế - văn hoá - khoa học kỹ thuật giữa các tỉnh đồng
bằng Bắc Bộ với các tỉnh miền núi Tây Bắc.
Quốc lộ 2 qua Phú Thọ đi Tuyên Quang, Hà Giang sang Vân Nam (Trung
Quốc), quốc lộ 70 đi Yên Bái, Lào Cai sang Vân Nam (Trung Quốc), quốc lộ 32
qua Phú Thọ đi Yên Bái, Sơn La, cùng với các tỉnh bạn trong cả nước và quốc tế.
Phú Thọ có 12 đơn vị hành chính gồm thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ, huyện
Đoan Hùng, Hạ Hoà, Thanh Đa, Cẩm Khê, Phù Ninh, Lâm Thao, Tam Nông,
Thanh Thuỷ, Thanh Sơn và Yên Lập. Thành phố Việt Trì là trung tâm chính trị
- kinh tế - văn hoá của tỉnh; 274 đơn vị hành chính cấp xã gồm 14 phường, 10
thị trấn và 250 xã, trong đó có 214 xã miền núi, 7 xã vùng cao và 50 xã đặc biệt
khó khăn.
23
Khí hậu:
Phú Thọ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có một mùa đông lạnh.
Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23
0
C, lượng mưa trung bình trong năm khoảng
1.600 đến 1.800 mm. Độ ẩm trung bình trong năm tương đối lớn, khoảng 85 –
87%. Nhìn chung khí hậu của Phú Thọ thuận lợi cho việc phát triển cây trồng, vật
nuôi đa dạng.
Địa hình:
Phú Thọ là tỉnh miền núi, trung du nên địa hình bị chia cắt, được chia thành
tiểu vùng chủ yếu. Tiểu vùng núi cao phía Tây và phía Nam của Phú Thọ, tuy gặp
một số khó khăn về việc đi lại, giao lưu song ở vùng này lại có nhiều tiềm năng
phát triển lâm nghiệp, khai thác khoáng sản và phát triển kinh tế trang trại. Tiểu
vùng gò, đồi thấp bị chia cắt nhiều, xen kẽ là đồng ruộng và dải đồng bằng ven
sông Hồng, hữu Lô, tả Đáy. Vùng này thuận lợi cho việc trồng các loại cây công
nghiệp, phát triển cây lương thực và chăn nuôi.
Sông ngòi:
Phú Thọ có 3 con sông lớn chảy qua: sông Hồng (đoạn từ Lao Cai đến Việt
Trì được gọi là sông Thao), sông Lô và sông Đà, chúng hợp lại với nhau ở Thành
phố Việt Trì. Chính vì thế mà đây được gọi là "ngã ba sông".
2.1.2. Tài nguyên du lịch tự nhiên
Các điều kiện tự nhiên của Phú Thọ, đặc biệt là địa hình đa dạng đã tạo cho
Phú Thọ có một nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên khá phong phú và hấp dẫn, có
thể khai thác các loại hình du lịch như: tham quan, vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng,
chữa bệnh và du lịch sinh thái.
Phú Thọ được thiên nhiên ưu đãi ban tặng các tài nguyên thiên nhiên có giá
trị như: Vườn quốc gia Xuân Sơn là một trong 30 vườn quốc gia của Việt Nam, có
đa dạng sinh thái phong phú, đa dạng sinh học cao; mỏ nước khoáng nóng Thanh
Thủy có trữ lượng lớn hàm lượng nguyên tố vi lượng hữu ích rất thích hợp cho
24
công việc tắm ngâm, phục hồi sức khỏe và chữa bệnh… Với những lợi thế đó,
nhiều loại hình du lịch có sức hấp dẫn du khách như tham quan, vui chơi giải trí,
nghỉ dưỡng chữa bệnh, du lịch sinh thái… đang được tỉnh chú trọng phát triển và
khai thác
Đầm Ao Châu: Cách Việt Trì 70km về phía Tây Bắc, với diện tích trên 1.000ha,
trong đó có trên 400ha mặt nước thuộc thị trấn Hạ Hoà, huyện Hạ Hoà. Nhìn trên
bản đồ, đầm giống như đầu một con trâu có 2 sừng choãi ra 2 phía sông Thao và
sông Lô, gồm hàng chục ngách đan xen nhau theo các dãy đồi, thu nước của các
con suối lớn nhỏ từ bốn phía đổ về. Nước đầm trong xanh, xung quanh là những
đồi cây trái xum xuê và có nhiều loài cá, chim, thú quý hiếm. Đây là một trong
những tiềm năng du lịch lớn của Phú Thọ.
Đền Hùng không chỉ là di tích lịch sử có giá trị văn hóa to lớn mà nó còn là
một quần thể kiến trúc tuyệt vời trên núi Nghĩa Lĩnh. Đền Hùng được xây dựng
trên núi Hùng, toàn bộ khu di tích bao gồm 4 đền, 1 chùa và một lăng hài hòa trong
cảnh thiên nhiên, có địa thế cao rất ngoạn mục, đất đầy jkhis thiêng của sơn thủy
hội tụ.
2.1.3. Tài nguyên du lịch nhân văn
Phú Thọ nằm ở đỉnh tam giác châu thổ Bắc Bộ, nơi tiếp giáp giữa đồng bằng
và miền núi, là cửa ngõ phía Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội, nằm trên tuyến hành
lang kinh tế Côn Minh (Trung Quốc) – Hà Nội – Hải Phòng (Việt Nam). Phú Thọ
có lịch sử lâu đời, được coi là đất tổ của dân tộc Việt. Theo truyền thuyết, đây là
nơi các vua Hùng chọn làm đất đóng đô, đặt tên là kinh đô Văn Lang (kinh đô đầu
tiên của Việt Nam). Khu di tích lịch sử Đền Hùng hiện nay là di tích lịch sử đặc
biệt quan trọng của quốc gia. Toàn tỉnh có 1.372 di tích lịch sử văn hóa, di chỉ
khảo cổ, trong đó có 72 di tích được xếp hạng quốc gia, 172 di tích được xếp hạng
cấp tỉnh. Phú Thọ còn nổi tiếng với loại hình hát Xoan, tín ngưỡng thờ cúng Hùng
Vương (đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo
vệ khẩn cấp của nhân loại), hát Ghẹo cùng nhiều lễ hội truyền thống độc đáo.
25