Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

thực trạng và giải pháp đối với tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện nga sơn.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 87 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
CƠ SỞ THANH HÓA – KHOA KINH TẾ

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI :
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI TÍN DỤNG TRUNG – DÀI
HẠN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG
THÔN HUYỆN NGA SƠN
GIÁO VIÊN HD : TRẦN THỊ HƯỜNG
SINH VIÊN TH : MAI THỊ LOAN
MSSV : 10005743
LỚP : DHTN6TH
THANH HÓA, THÁNG 6 NĂM 2014
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn Trần Thị Hường –
người đã luôn ở bên cạnh tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu
chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Em xinh chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trường Đại học Công nghiệp
Tp. Hồ Chí Minh, đặc biệt là các thầy cô giáo khoa Tài chính –Ngân hàng,
những người đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thanh hóa, ngày 25 tháng 06 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Mai Thị Loan
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 i
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN




















Thanh Hóa, Ngày … tháng … năm 2014
GIẢNG VIÊN
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 ii
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TT TỪ VIẾT TẮT DIỄN GIẢI
1 NHNN Ngân hàng nhà nước
2 NHTM Ngân hàng thương mại
3 TCTD Tổ chức tín dụng
4 TCKT Tổ chức kinh tế
5 TG Tiền gửi
6 SXKD Sản xuất kinh doanh
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 iii

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
MỤC LỤC
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 iv
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, hệ thống các ngân hàng thương mại
ở Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, lớn mạnh về mọi mặt, kể cả
số lượng, qui mô và chất lượng. Trong những năm qua, hoạt động ngân hàng
nước ta đã góp phần tích cực huy động vốn, mở rộng vốn đầu tư cho lĩnh vực
sản xuất phát triển. Như vậy hệ thống Ngân hàng thương mại thực sự là ngành
tiên phong trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế, đóng góp to lớn vào công
cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế xã hội nước ta.
Tuy hoạt động Ngân hàng ở nước ta gặp nhiều khó khăn và còn nhiều vẫn
đề tồn tại nhất là trong khâu tín dụng của các NHTM. Tín dụng là hoạt động
kinh doanh cơ bản của NHTM nhưng chất lượng tín dụng chưa cao đang là mối
quan tâm không chỉ đối với các cấp lãnh đạo, các cấp quản lý và điều hành hệ
thống Ngân hàng mà còn là mối quan tâm của toàn Xã hội.
Tuy nhiên trong lĩnh vực tín dụng đặc biệt là tín dụng trung dài hạn Ngân
hàng cũng gặp không ít khó khăn, tín dụng trung dài hạn có vị trí quan trọng
trong hoạt động của Ngân hàng. Bởi vậy chất lượng tín dụng trung dài hạn là
vấn đề mà Ngân hàng cần đặc biệt quan tâm.
Xuất phát từ lý do trên, em đã chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp đối
với tín dụng trung - dài hạn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn huyện Nga Sơn”
2. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống lại, làm rõ hơn vai trò của tín dụng trung và dài hạn trong việc
phát triển kinh tế - xã hội và vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài
hạn trong ngân hàng.
Nghiên cứu và đánh giá chất lượng tín dụng, thực trạng hoạt động tín dụng

trung và dài hạn của ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn hiện nay.
Đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao chất lượng tín dụng trung
và dài hạn, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn huyện Nga Sơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Bài chuyên đề tập trung nghiên cứu vào hoạt động tín dụng và thực trạng
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 Trang 1
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
nông thôn huyện Nga Sơn trong những năm gần đây.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài chuyên đề sử dụng một số phương pháp sau: phương pháp thu thập và
phân tích số liệu, phương pháp tổng hợp, diễn giải, quy nạp, so sánh nhằm nêu
bật mục đích và nội dung nghiên cứu.
5. Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì kết cấu chuyên đề gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của
NHTM
Chương 2: Thực trạng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn huyện Nga Sơn
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Nga Sơn
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 Trang 2
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về tín dụng ngân hàng
1.1.1. Khái niệm tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi xã hội ngày càng phát triển, đời

sống của người dân càng cao, các doanh nghiệp Nhà nước cũng như doanh
nghiệp cổ phần hay tư nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ thì cụm từ “tín dụng”
ngày càng được nhắc đến nhiều hơn.
Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay
và người đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất
định.
Hay nói cách khác, tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ
kinh tế trong đó một cá nhân hay một tổ chức nhường quyền sử dụng một khối
lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hoặc tổ chức khác với những ràng
buộc nhất định về thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi.
Theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc
NHNN định nghĩa như sau về hoạt động cho vay: “Cho vay là một hình thức cấp
tín dụng, theo đó TCTD giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử
dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn
trả cả gốc lẫn lãi”.
Trong mỗi hành vi tín dụng, hai bên cam kết với nhau như sau: bên cho vay
thì giao ngay một số tài sản hay tiền bạc còn bên đi vay phải cam kết sẽ hoàn lại
những đối khoản của số tài sản đó trong một thời gian nhất định và theo một số
điều kiện nhất định nào đó.
Do tính đa dạng về các chủ thể tham gia trong quan hệ tín dụng cũng như
do sự phát triển của nền kinh tế thị trường và các hình thức SXKD đã cho ra đời
nhiều hình thức tín dụng:
Tín dụng thương mại: là quan hệ tín dụng bằng hàng hóa giữa các doanh
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 Trang 3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
nghiệp hoạt động trực tiếp trong lĩnh vực sản xuất, lưu thông hàng hóa, được
thực hiện dưới hình thức mua bán, bán chịu hàng hóa. Về bản chất, quan hệ tín
dụng thương mại thể hiện việc kéo dài thời gian thanh toán của người mua. Do
đó, trong quan hệ tín dụng thương mại, người cho vay chính là người bán chịu
hàng hóa, còn người vay là người mua chịu hàng hóa.

Tín dụng ngân hàng: là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các ngân hàng, các
tổ chức tín dụng với các đối tác kinh tế - tài chính của toàn xã hội, bao gồm
doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước. Trong đó ngân hàng
giữ vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
Tín dụng nhà nước: là quan hệ tín dụng giữa nhà nước với doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế - xã hội và các cá nhân Trong đó nhà nước là người đi vay
bằng cách phát hành các giấy tờ có giá.
Tín dụng quốc tế: là mối quan hệ giữa các quốc gia, trong đó chủ thể tham
gia là nhà nước, ngân hàng, các doanh nghiệp và các tổ chức tài chính tín dụng
quốc tế.
Tín dụng hợp tác xã: là quan hệ tín dụng tập thể, hình thành trong nội bộ
các xã viên hợp tác xã.
1.1.2. Tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng, một
tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là các tổ chức, cá
nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay vừa là
người cho vay.
Ngân hàng là một trung gian tài chính, với tư cách là người đi vay, ngân
hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội bằng các hình thức
như nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân hoặc phát hành chứng
chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội. Đồng thời, với tư cách là
người cho vay, ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân
khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt động sản xuất, kinh doanh
và tiêu dùng.
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng có ba loại quan hệ chủ yếu:
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 Trang 4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
Quan hệ tín dụng ngân hàng với doanh nghiệp.
Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với dân cư.
Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các ngân hàng khác trong và ngoài

nước.
Có thể nói tín dụng ngân hàng ngày nay đã và đang là nhân tố thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, điều tiết và di chuyển vốn, tăng thêm tính hiệu quả
của vốn tiền tệ trong nền kinh tế thị trường.
Tín dụng ngân hàng mang bản chất chung của tín dụng, vì tín dụng ngân
hàng là một hình thức của tín dụng. Ta có thể thấy rõ bản chất của tín dụng ngân
hàng thông qua quá trình luân chuyển của nó qua các giai đoạn:
Phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay: giai đoạn này vốn tiền tệ từ
ngân hàng hay còn gọi là trung gian tài chính đến người đi vay.
Sử dụng vốn: người đi vay sau khi nhận được lượng giá trị đó sẽ sử dụng
cho các mục đích khác nhau như tiêu dùng hay đầu tư sản xuất. Tuy nhiên tiền
tệ là một loại hàng hóa đặc biệt, do đó người đi vay chỉ được sử dụng trong một
thời gian nhất định chứ không được quyền sở hữu nó.
Hoàn trả tín dụng: đây là giai đoạn kết thúc để hoàn thành một chu trình
quay vòng vốn, vốn tín dụng lại quay trở lại với ngân hàng nhưng có thêm phần
giá trị tăng thêm, người vay phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng.
Như vậy, hoàn trả là bản chất của tín dụng nói chung và của tín dụng ngân
hàng nói riêng. Hoàn trả tín dụng là sự quay trở về của giá trị và luôn phải được
bảo tồn về mặt giá trị và có phần tăng thêm dưới hình thức lợi tức.
1.1.3. Các hình thức tín dụng ngân hàng
Dựa vào các tiêu thức khác nhau mà chúng ta tiến hành phân loại các hình
thức tín dụng ngân hàng.
1.1.3.1. Căn cứ theo phương thức tín dụng
Cho vay từng lần: cho vay từng món theo hồ sơ đề nghị vay vốn, theo từng
dự án SXKD riêng lẻ, không ổn định.
Cho vay theo hạn mức tín dụng: phương thức cho vay này áp dụng với
khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên, SXKD ổn định, có uy tín trong
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 Trang 5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
quan hệ tín dụng với ngân hàng; thường ưu tiên các doanh nghiệp Nhà nước.

1.1.3.2. Căn cứ theo thời hạn cho vay
Cho vay ngắn hạn: thời hạn cho vay tối đa là 12 tháng và được xác định
phù hợp với chu kỳ SXKD và khả năng trả nợ của khách hàng.
Cho vay trung hạn: thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến trên 60 tháng.
Cho vay dài hạn: từ 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động
còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và
không quá 15 năm đối với dự án đầu tư phục vụ đời sống.
1.1.3.3. Căn cứ theo tài sản đảm bảo
Cho vay có tài sản thế chấp: là việc ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách
hàng để đảm bảo cho khả năng trả nợ của khách hàng. Loại hình này bao gồm
các hình thức: cho vay cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh.
Cho vay không có tài sản thế chấp: là việc ngân hàng cho vay trên cơ sở tin
tưởng khách hàng, tài sản đảm bảo là uy tín, danh dự của khách hàng. Ngoài ra
còn có hình thức cho vay thông qua việc bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức
đoàn thể chính trị - xã hội cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn.
1.1.3.4. Căn cứ theo mục đích sử dụng
Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất:
phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, … hoặc mua sắm máy
móc phục vụ hoạt động nông nghiệp.
Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung
vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại
dịch vụ.
Cho vay tiêu dùng cá nhân: là loại vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng
như mua sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay ngân hàng còn thực hiện cho vay
để trang trải chi phí thông thường của đời sống thông qua hoạt động phát hành
thẻ tín dụng.
1.1.3.5. Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Cho vay hoàn trả một lần: các khoản cho vay sẽ được hoàn trả một lần vào
thời gian xác định trong hợp đồng tín dụng, lãi vay có thể hoàn trả theo thỏa
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 Trang 6

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
thuận trong hợp đồng, chẳng hạn theo tháng, theo quý hoặc theo năm.
Cho vay trả góp: việc hoàn trả được tiến hành theo định kỳ, các khoản này
có thể bằng nhau hay không bằng nhau tùy theo thỏa thuận và được thực hiện
theo nguyên tắc trả dần trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng.
1.1.4. Các hình thức đảm bảo tín dụng
1.1.4.1. Cầm cố
Cầm cố là hình thức mà theo đó người nhận tài trợ của Ngân hàng phải
chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho Ngân hàng trong một thời
gian nhất định. Nếu tài sản cầm cố có đăng kí quyền sở hữu thì có thể thảo thuận
bên cầm cố giữ tài sản hoặc giao cho bên thứ 3.
Đối tượng cầm cố có thể là các loại giấy tờ có giá, sổ tiết kiệm, ngoại tệ
mạnh, kim loại quý. Đây chủ yếu là những tài sản có tính thanh khoản cao, có
thể chuyển đổi thành tiền mặt bất cứ lúc nào, dễ quản lý và không chịu ảnh
hưởng của môi trường bên ngoài.
Mục đích của cầm cố là để hạn chế, phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra mà
người vay vốn không có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Khi thời gian hợp đồng
theo thỏa thuận đã hết nếu người vay không trả nợ được thì ngân hàng có quyền
thanh lý các tài sản cầm cố, còn người vay trả đủ cả vốn và lãi cho ngân hàng thì
sẽ được trả lại tài sản cầm cố. Khi tiến hành cầm cố ngân hàng và người vay
phải tiến hành định giá các tài sản đó sao cho hợp lý, quy định rõ ràng quyền và
nghĩa vụ giữa các bên để khi có tranh chấp xảy ra có thể đó là cơ sở để giải
quyết.
1.1.4.2. Thế chấp
Thế chấp là hình thức mà theo đó người vay phải chuyển các giấy tờ chứng
nhận quyền sở hữu các tài sản đảm bảo sang Ngân hàng trong một thời gian nhất
định. Thế chấp tài sản phải lập thành văn bản và phải có chứng nhận của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, điều này do hai bên thỏa thuận hoặc pháp luật
quy định.
Đối tượng thế chấp thông thường là các tài sản có tính thanh khoản thấp

hơn so với các tài sản cầm cố như: bất động sản, máy móc thiết bị. Điểm khác
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 Trang 7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
nhau giữa cầm cố với thế chấp là tài sản thế chấp khi đã được giao cho NHTM
thì người sở hữu nó vẫn có quyền sử dụng nhưng phải tránh các hoạt động làm
biến dạng tài sản, còn đối với tài sản cầm cố thì người sở hữu nó không thể sử
dụng cho đến lúc hết thời gian cầm cố.
1.1.4.3. Bảo lãnh
Bảo lãnh là hình thức ngân hàng yêu cầu người nhận tài trợ phải có sự bảo
lãnh của một cá nhân, tổ chức, hay một Ngân hàng nào đó về khoản vay. Các cá
nhân, tổ chức này sẽ đứng ra trả nợ thay cho người nhận tài trợ nếu họ không có
khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Điểm khác nhau cơ bản giữa hình thức này và hai hình thức trên là khá rõ
ràng. Đối với cầm cố, thế chấp bắt buộc phải có sự tham gia của các tài sản
trong hợp đồng còn đối với bảo lãnh thì chỉ cần uy tín và khả năng tài chính của
bên nhận bảo lãnh là có thể thực hiện được.
1.2. Các vấn đề cơ bản về tín dụng trung và dài hạn trong nền kinh tế
thị trường
1.2.1. Khái niệm tín dụng trung và dài hạn
Tín dụng trung và dài hạn: “là hoạt động tài chính tín dụng cho khách hàng
vay vốn trung và dài hạn nhằm thực hiện các dự án phát triển SXKD, phục vụ
đời sống”. Tuỳ theo từng quốc gia, từng thời kỳ mà có những quy định cụ thể
của hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Ở Việt Nam, về thời hạn cho vay được
xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của
khách hàng và tính chất nguồn vốn vay của tổ chức tín dụng. Hiện nay thời hạn
của tín dụng trung và dài hạn được xác định như sau:
Thời hạn cho vay trung hạn từ 12 tháng đến 60 tháng.
Thời hạn cho vay dài hạn từ trên 60 tháng trở lên nhưng không quá thời
hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với
pháp nhân và không quá 15 năm đối với các dự án phục vụ đời sống.

1.2.2. Đặc điểm tín dụng trung và dài hạn
Một là, tín dụng trung và dài hạn được cấp cho khách hàng nhằm hỗ trợ
cho họ trong việc mua sắm, tạo lập tài sản cố định, mở rộng SXKD. Do đó, đối
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 Trang 8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
tượng cho vay chủ yếu của ngân hàng trong hình thức tín dụng này là vốn tài trợ
ổn định trong các doanh nghiệp.
Hai là, do gắn liền với tài sản cố định và vốn cố định của khách hàng, tín
dụng trung và dài hạn của NHTM thường gắn liền với các dự án đầu tư. Tuy
nhiên, với tín dụng trung hạn thường đầu tư để mở rộng, trong khi đó tín dụng
dài hạn tập trung cho các dự án đầu tư theo chiều sâu.
Ba là, tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại có thời gian
hoàn vốn chậm. Nguồn trả tiền vay cho ngân hàng chủ yếu được lấy từ quỹ khấu
hao và một phần từ lợi nhuận của chính dự án mang lại. Vì thế, khách chỉ có thể
hoàn trả khoản vay có quy mô lớn thành nhiều lần khác nhau, thời hạn cho vay
kéo dài trong nhiều năm.
Bốn là, tín dụng trung và dài hạn thường có thời gian kéo dài, quy mô tín
dụng thường lớn, nguy cơ rủi ro cao vì nền kinh tế quốc gia luôn biến động. Sự
biến động này có thể tích cực hoặc tiêu cực mà chúng ta không thể biết được.
Do đó mà một khoản vay dài hạn thường đem lại nhiều rủi ro hơn là một khoản
vay ngắn hạn vì thời gian càng dài thì xác suất xảy ra những biến động này càng
lớn hơn. Mặt khác, lãi suất của cho vay trung và dài hạn thường lớn hơn lãi suất
cho vay ngắn hạn. Vì độ rủi ro cao hơn và thời gian thu hồi vốn lâu hơn.
1.2.3. Các hình thức tín dụng trung và dài hạn
Tín dụng trung và dài hạn bao gồm các hình thức sau
1.2.3.1. Tín dụng theo dự án đầu tư
Thứ nhất là cho vay đồng tài trợ: là hình thức cho vay của một nhóm
TCTD (từ 2 TCTD trở lên) cho một dự án, do một TCTD làm đầu mối, phối hợp
với các bên bên đồng tài trợ để thực hiện, nhằm phân tán rủi ro của các TCTD.
Hình thức này được được áp dụng trong các trường hợp: Các dự án đầu tư

đòi hỏi một khoản vốn lớn mà các ngân hàng riêng lẻ thì không đáp ứng hết
được. Thông thường, ngân hàng chỉ được phép đầu tư vốn tới một mức độ nhất
định so với tổng nguồn vốn của mình và không được đầu tư quá nhiều vốn vào
một khoản để đảm bảo an toàn vốn tài sản. Thậm chí đối với một vài dự án ngân
hàng có thể đáp ứng toàn bộ nhưng rủi ro quá lớn ngân hàng không muốn đảm
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 Trang 9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
nhận hết. Do vậy, cho vay đồng tài trợ là một hoạt động tín dụng giúp ngân hàng
phân tán rủi ro và có thể sử dụng tối đa nguồn vốn của họ cho đầu tư vào các dự
án dài hạn.
Thứ hai là cho vay trực tiếp theo dự án: đây là hình thức tín dụng trung và
dài hạn phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Ngân hàng thương mại tiến hành
mọi hoạt động và tự chịu trách nhiệm với từng dự án đầu tư của khách hàng mà
họ đã lựa chọn để tài trợ.
Chính vì vậy, công việc của ngân hàng không chỉ đơn thuần là cho vay mà
còn phải quán xuyến hàng loạt các công việc khác có liên quan trực tiếp đến
hiệu quả của dự án như: quy hoạch sản xuất, quy trình thiết kế, quy trình công
nghệ, tiêu chuẩn thiết bị máy móc, giá cả thị trường, hiệu quả đầu tư. Bởi vì việc
quy định cấp một khoản tín dụng sẽ ràng buộc ngân hàng với người vay trong
một số thời gian, cho nên cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc và xem xét
kỹ lưỡng các rủi ro có thể xảy ra.
1.2.3.2. Tín dụng thuê mua
Tín dụng thuê mua hay còn gọi là cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng
trung và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ
chức tín dụng với khách hàng thuê. Khi hết thời hạn thuê, khách hàng có thể
thuê tiếp hoặc mua lại theo các thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn
thuê các bên không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng.
Về mặt pháp lý, tài sản thuê thuộc quyền sở hữu của người cho thuê, còn đi
thuê chỉ được quyền sử dụng. Vì vậy, người đi thuê không được bán chuyển
nhượng cho người khác. Nhưng ngược lại, họ lại được hưởng những lợi ích do

việc sử dụng tài sản đó đem lại như được trích khấu hao, đồng thời cũng phải
chịu phần rủi ro có liên quan đến tài sản.
1.2.3.3. Thấu chi
Thấu chi tức là ngân hàng chấp thuận cho khách hàng được quyền chi vượt
số dư trên tài khoản tiền gửi với những điều kiện nhất định. Chi phí cơ bản đối
với người vay là lãi suất đánh vào số dư thấu chi ngày. Người vay nói chung chỉ
phải trả lãi số tiền đã sử dụng vì không có yêu cầu số dư bồi thường và cho
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 Trang 10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
trong giai đoạn số tiền bị lấy đi. Vì lý do đó, chi phí hữu hiệu của một khoản nợ
thấu chi là lãi suất được định ra trên số dư thấu chi.
1.2.3.4. Bảo lãnh trung và dài hạn mua thiết bị trả chậm
Bảo lãnh trung và dài hạn mua thiết bị trả chậm là cam kết của ngân hàng
về việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho chủ đầu tư - người nhập khẩu máy
móc, thiết bị với thời hạn trên 12 tháng trong trường hợp khách hàng không thực
hiện được nghĩa vụ trả nợ đối với nhà xuất khẩu. Hình thức này được áp dụng
khi chủ đầu tư không đủ khả năng trả nợ ngay một lần. Họ ký hợp đồng với bên
xuất khẩu xin trả nợ dần theo giá trị của thiết bị hàng năm dưới sự bảo lãnh của
ngân hàng. Hình thức này rất có lợi cho chủ đầu tư vì họ không phải bỏ ra một
khoản tiền lớn để mua máy móc thiết bị mà khoản tiền này sẽ được trả dần hàng
kỳ khi các tài sản này có khả năng sinh lời. Tuy nhiên, nếu chủ đầu tư không
thực hiện được nghĩa vụ trả nợ cho nhà xuất khẩu thì ngân hàng bảo lãnh phải
đứng ra trả nợ thay cho chủ đầu tư, lúc này ngân hàng trở thành chủ nợ chính
của nhà đầu tư.
1.2.4. Nguyên tắc và điều kiện vay vốn
1.2.4.1. Nguyên tắc cho vay
Khách hàng vay vốn phải đảm bảo các nguyên tắc như sau:
Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Phải hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng
tín dụng.

Tiền vay được phát bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản theo mục đích sử
dụng tiền vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
1.2.4.2. Điều kiện vay vốn
Một là, có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách
nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân Việt Nam:
Pháp nhân phải có năng lực pháp luật dân sự.
Cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực pháp luật và năng
lực hành vi dân sự.
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 Trang 11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
Đại diện của hộ gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi
dân sự.
Đại diện của tổ hợp tác phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân
sự.
Thành viên hợp danh của công ty hợp danh phải có năng lực pháp luật và
năng lực hành vi dân sự.
Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân nước ngoài: phải có năng
lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật của
nước mà pháp nhân đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân, hoặc pháp luật
nước ngoài đó được Bộ Luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam quy định hoặc được điều ước
quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định.
Hai là, có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp: không sử dụng vốn vay trái
với các điều khoản ghi trong hợp đồng, thực hiện các hoạt động kinh doanh
buôn bán, sản xuất các ngành nghề mà pháp luật cấm, gây tổn hại cho xã hội và
người tiêu dùng.
Ba là, có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
Có vốn tự có tham gia vào dự án, phương án SXKD dịch vụ đời sống theo
quy định. Vốn tự có được tính cho tổng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh trong

kỳ hoặc từng lần cho một dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời
sống. Mức vốn tự có của khách hàng tham gia vào dự án, phương án sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ và đời sống cụ thể như cho vay trung dài hạn thì khách hàng
phải có vốn tự có tối thiểu 20% trong tổng nhu cầu vốn.Trường hợp khách hàng
có tín nhiệm (được chấm điểm mức tốt nhất), khách hàng là hộ gia đình sản xuất
nông - lâm - ngư nghiệp vay vốn không phải bảo đảm bằng tài sản, nếu vốn tự
có thấp hơn quy định trên giao cho Giám đốc Ngân hàng cho vay quyết định.
Kinh doanh có hiệu quả, có lãi, trường hợp lỗ thì phải có phương án khả thi
khắc phục lỗ, đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Đối với khách hàng vay
vốn phục vụ nhu cầu đời sống, phải có nguồn thu ổn định để trả nợ ngân hàng.
Bốn là, có dự án đầu tư, phương án SXKD khả thi và mang lại hiệu quả,
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 Trang 12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy
định của pháp luật.
Năm là, thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của
Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Nếu là hộ gia đình vay không phải áp dụng biện pháp bảo đảm cần có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, nếu chưa được cấp phải có xác nhận của UBND
xã, phường về diện tích đất đang sử dụng không có tranh chấp.
Đối với khách hàng là pháp nhân và cá nhân nước ngoài phải có năng lực
pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật của nước
mà pháp nhân đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân, nếu pháp luật nước
ngoài đó được Bộ luật Dân sự của nước CHXHCN Việt Nam, các văn bản pháp
luật khác của Việt Nam quy định hoặc được điều ước quốc tế mà CHXHCN
Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định.
1.2.5. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn trong nền kinh tế thị trường
1.2.5.1. Đối với nền kinh tế
Tín dụng có vai trò quan trọng trọng nền kinh tế, hoạt động tín dụng trung
và dài hạn nếu có hiệu quả sẽ có tác động tới mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã

hội. Xuất phát từ chức năng tập trung và phân phối lại vốn trong nền kinh tế tín
dụng trung và dài hạn đã thu hút được nguồn vốn dư thừa, tạm thời nhàn rỗi để
đưa vào SXKD, đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, từ đó phục vụ cho sự
tăng trưởng của nền kinh tế.
Mặt khác, trong quá trình huy động vốn và cho vay cũng như tổ chức thanh
toán cho khách hàng, ngân hàng có thể đánh giá được tình hình tiêu thụ sản
phẩm, tình hình SXKD cũng như khả năng thanh toán chi trả của khách hàng.
Trong quá trình cho vay, để tránh rủi ro ngân hàng luôn đánh giá, phân tích khả
năng tài chính và thường xuyên giám sát hoạt động SXKD để có thể điều chỉnh,
tác động kịp thời khi cần thiết, hướng cho hoạt động của doanh nghiệp đi đúng
hướng, từng bước tạo tiền đề vật chất cho xã hội.
Mặc dù là một đơn vị kinh doanh, nhưng các ngân hàng quốc doanh vẫn là
một bộ phận của nhà nước, hoạt động tín dụng trung và dài hạn cũng nhằm thực
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 Trang 13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia thông qua các chính sách ưu đãi
trong tín dụng. Về nguyên tắc, ngân hàng ưu đãi đối với các công trình sản xuất
trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng hoá và thắt chặt điều kiện vay vốn với doanh
nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ.
Đầu tư tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng theo trọng điểm của ngành
và trong nội bộ từng ngành góp phần hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Hoạt
động tín dụng theo chiều sâu đã tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật vững chắc cho nền
kinh tế phát triển lâu dài, góp phần tăng cường kim ngạch xuất khẩu, tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Nhiều công ty với máy móc hiện đại sản xuất ra sản phẩm thay thế hàng nhập
khẩu. Tất cả các kết quả đó góp phần tiết kiệm chi ngoại tệ, tăng thu ngoại tệ,
tạo cán cân thanh toán quốc tế.
Ngoài ra, tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng còn góp phần ổn định
đời sống, tạo ra công ăn việc làm và ổn định trật tự xã hội bởi lẽ tín dụng trung
-dài hạn đầu tư vào những lĩnh vực mới, cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất

nên sẽ tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Tín dụng trung và dài hạn cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển
dịch cơ cấu đầu tư, làm cho cơ cấu của nền kinh tế trở lên hợp lý từ đó làm tiền
đề cho sự ổn định và phát triển của toàn xã hội.
1.2.5.2. Đối với doanh nghiệp
Trong môi trường kinh tế cạnh tranh, để có thể tồn tại và phát triển được thì
các doanh nghiệp phải không ngừng đầu tư vào tài sản cố định. Bởi lẽ tài sản cố
định là tư liệu chủ yếu, là yếu tố quan trọng quyết định lợi thế cạnh tranh. Tuy
nhiên, trong thực tế giá trị tài sản cố định thường rất cao, nếu chỉ trông chờ vào
nguồn vốn tự tích luỹ thì cần phải mất rất nhiều thời gian doanh nghiệp mới đổi
mới được trang thiết bị và mở rộng quy mô và sẽ bị tụt lại xa so với các doanh
nghiệp có vốn đã trang bị hiện đại. Vì thế lối thoát duy nhất cho doanh nghiệp là
đi vay để đổi mới.
Việc đi vay vốn trung và dài hạn ở ngân hàng sẽ làm cho doanh nghiệp có
thể tự chủ về khả năng kiểm soát độc lập hoạt động SXKD của mình mà không
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 Trang 14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
bị pha loãng quyền kiểm soát doanh nghiệp với các cổ đông mới trong trường
hợp phát hành thêm cổ phiếu mới.
Trong trường hợp phát hành trái phiếu, không phải doanh nghiệp nào khi
cần huy động vốn trung và dài hạn chỉ cần bán trái phiếu là có người mua ngay
mà còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa như uy tín của doanh nghiệp trên
thị trường. Các nhà đầu tư chỉ tiến hành mua trái phiếu của doanh nghiệp khi họ
thật sự tin tưởng vào doanh nghiệp mà yếu tố này không phải bất cứ một doanh
nghiệp nào cũng có được.
Khi doanh nghiệp vay vốn trung và dài hạn của ngân hàng, ngân hàng sẽ có
thể điều chỉnh được kỳ hạn nợ, nghĩa là họ có thể trả nợ sớm hơn thời gian đến
hạn trả nợ khi họ không cần phải sử dụng đến vốn vay trung và dài hạn. Khi
doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc trả nợ tại một thời điểm nhất định thì
cũng có thể xin ngân hàng gia hạn nợ. Còn việc huy động vốn thông qua hình

thức phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu thì doanh nghiệp luôn phải đối mặt với
việc trả lãi trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi khi công việc kinh doanh gặp khó khăn.
Việc trả nợ vốn vay trung và dài hạn cũng được ấn định theo một sự phân
chia hợp lý và ổn định, vì vậy các doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm các
khoản trả nợ một cách dễ dàng hơn.
Như vậy, tín dụng trung và dài hạn đã giúp các doanh nghiệp đầu tư xây
dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị để cải tiến công nghệ sản xuất, nâng
cao chất lượng sản phẩm tạo điều kiện mở rộng quy mô SXKD và mở rộng
chiếm lĩnh thị trường mới. Có thể nói, tín dụng trung và dài hạn là trợ thủ đắc
lực cho các doanh nghiệp đạt được mục tiêu kinh doanh là tối đa hóa lợi nhuận.
1.2.5.3. Đối với ngân hàng
Nếu ngân hàng có một nguồn vốn ổn định trong thời gian dài để đầu tư dài
hạn sẽ tạo ra lợi nhuận cao hơn rất nhiều so với việc dùng nó để cho vay ngắn
hạn, vì mỗi món vay trung và dài hạn cấp cho doanh nghiệp thường là rất lớn,
lãi suất cao. Bên cạnh khoản lợi nhuận hấp dẫn, tín dụng trung và dài hạn còn là
vũ khí cạnh tranh rất có hiệu quả giữa các ngân hàng với nhau. Với các sản
phẩm này, ngân hàng sẽ phục vụ tốt hơn cho khách hàng của mình và thu hút
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 Trang 15
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng. Khi xác định mở rộng cho vay
trung và dài hạn, các ngân hàng không chỉ nhìn vào lợi ích trước mắt mà còn
nhìn vào lợi ích lâu dài hơn đó là mở rộng tín dụng trung và dài hạn để đẩy
mạnh cho vay ngắn hạn. Các doanh nghiệp sau khi được ngân hàng cho vay vốn,
trang bị máy móc mới hay xây dựng mở rộng, năng lực sản xuất sẽ tăng lên,
doanh nghiệp lại cần có nhiều vốn lưu động hơn để đáp ứng cho quá trình
SXKD. Lúc này, người đầu tiên mà doanh nghiệp tìm đến chính là các ngân
hàng đã đầu tư cho họ. Bởi lẽ, doanh nghiệp dễ dàng tìm được sự thông cảm vì
hai bên đã hiểu nhau, ngân hàng đã nắm được tình hình tài chính và các khoản
thu chi của doanh nghiệp nên việc cho vay sẽ diễn ra nhanh chóng và dễ dàng
hơn.

1.3. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của NHTM
1.3.1. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn hiện
nay
1.3.1.1. Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn là đòi hỏi bức thiết đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng phù hợp với sự
phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của ngân hàng. Chất
lượng tín dụng trung và dài hạn chính là vốn cho vay trung và dài hạn của ngân
hàng được khách hàng đưa vào quá trình SXKD dịch vụ để tạo ra một số tiền
lớn hơn thông qua đó ngân hàng sẽ thu được cả gốc và lãi đúng thời hạn, bù đắp
được chi phí và mang lại lợi nhuận.
Ngày nay cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín
dụng cũng ngày càng phát triển nhằm cung cấp thêm các phương tiện giao dịch
để đáp ứng nhu cầu giao dịch ngày càng tăng trong xã hội. Trong điều kiện đó,
chất lượng tín dụng ngày càng được quan tâm và không ngừng nâng cao.
Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để ngân hàng làm tốt vai trò
trung tâm thanh toán, khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay
vốn tín dụng, với một khối lượng tiền như cũ, có thể thực hiện số lần giao dịch
lớn hơn, tạo điều kiện tiết kiệm tiền trong lưu thông, củng cố sức mua của đồng
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 Trang 16
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
tiền.
Chất lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng
trưởng kinh tế, tăng uy tín quốc gia. Xuất phát từ chức năng tập trung và phân
phối lại vốn trong nền kinh tế, tín dụng trung và dài hạn đã thu hút những nguồn
vốn dư thừa, tạm thời nhàn rỗi để đưa vào hoạt động SXKD, đáp ứng nhu cầu
vốn cho doanh nghiệp từ đó phục vụ cho sự tăng trưởng nền kinh tế. Đảm bảo
chất lượng tín dụng sẽ tạo khả năng giảm bớt lượng tiền thừa trong lưu thông,
góp phần hạn chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng uy tín quốc gia bằng việc phát
huy tác dụng của các sản phẩm, dịch vụ trương tương lai của các công trình đầu

tư.
Tín dụng là công cụ để thực hiện chủ trưởng của Đảng và Nhà nước về
phát triển kinh tế - xã hội theo từng ngành, từng lĩnh vực. Mặt khác, thông qua
sự phân tích đánh giá khả năng phát triển của đối tượng định đầu tư để có những
quyết định đầu tư đúng đắn nhằm khai thác khả năng tiềm tàng về tài nguyên,
lao động, tiền vốn để tăng cường năng lực sản xuất, cung cấp ngày càng nhiều
sản phẩm cho xã hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao
động. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn được nâng cao sẽ góp phần tăng hiệu
quả sản xuất của nền kinh tế quốc gia, đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các
vùng, các ngành trong cả nước, ổn định và phát triển kinh tế.
Chất lượng tín dụng trung và dài hạn góp phần làm lành mạnh quan hệ tín
dụng: hoạt động tín dụng được mở rộng với các thủ tục đơn giản hoá, thuận tiện
nhưng vẫn tuân thủ các nguyên tắc tín dụng sẽ góp phần cho vay đúng các đối
tượng cần thiết, giảm thiểu và đi đến xoá bỏ nạn cho vay nặng lãi còn tồn tại ở
một số vùng nông thôn, trình độ dân trí thấp.
Tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng có mối quan hệ
mật thiết với nền kinh tế - xã hội, thiết lập một mối cơ chế chính sách đồng bộ,
có hiệu quả sẽ có tác động tích cực với mọi mặt của nền kinh tế - xã hội.
1.3.1.2. Nâng cao chất lượng tín dụng quyết định sự tồn tại và phát triển của
các NHTM
Chất lượng tín dụng trung và dài hạn tốt làm tăng khả năng cung cấp dịch
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 Trang 17
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
vụ của các NHTM do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng được vòng quay vốn tín
dụng và thu hút được nhiều khách hàng bởi các hình thức của sản phẩm, dịch vụ
tạo ra một hình ảnh về biểu tượng và uy tín của ngân hàng và sự trung thành của
khách hàng.
Chất lượng tín dụng trung và dài hạn tốt làm tăng khả năng sinh lợi của sản
phẩm, dịch vụ ngân hàng do giảm được sự chậm trễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi
phí quản lý, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn vay đã cho vay. Mặt

khác, nó còn đảm bảo khả năng thanh toán và lợi nhuận của ngân hàng, tạo năng
lực cạnh tranh, tạo thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài của ngân hàng vì chất lượng
tín dụng tốt tạo cho ngân hàng có nhiều khách hàng trung thành và những khoản
lợi nhuận để bổ xung vốn đầu tư. Bên cạnh đó, chất lượng tín dụng tốt giúp ngân
hàng củng cố các mối quan hệ xã hội bằng những điều kiện tốt nhất.
Chính vì những lý do trên, mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng là sự
cần thiết khách quan để ngân hàng có thể tồn tại và phát triển bền vững đồng
thời tạo ra hiệu quả kinh tế cho toàn xã hội.
1.3.2. Khái niệm chất lượng tín dụng trung và dài hạn
Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một loại hàng hoá nào sản xuất ra cũng
phải là những hàng hoá mang tính cạnh tranh. Điều đó có nghĩa là mọi loại hàng
hoá sản xuất ra đều phải có chất lượng. Chất lượng của bất kỳ một loại hàng hoá
nào cũng đều được thể hiện bằng giá trị sử dụng của nó. Muốn tạo ra được
những loại hàng hoá mang giá trị sử dụng cao thì đòi hỏi người sản xuất ra
chúng phải trả lời được 3 câu hỏi quan trọng. Đó là: sản xuất ra cái gì? cho ai
cần chúng và sản xuất như thế nào? Và các nhà kinh tế đã nhận xét rằng: “Chất
lượng là sự phù hợp mục đích của người sản xuất và người sử dụng về một loại
hàng hoá nào đó” hay “Chất lượng là năng lực của một sản phẩm hoặc dịch vụ
thoả mãn nhu cầu khách hàng”.
Từ đó ta có thể hiểu: “Chất lượng tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng một cách
tốt nhất yêu cầu của khách hàng trong quan hệ tín dụng, đảm bảo an toàn hay hạn
chế rủi ro về vốn, tăng lợi nhuận của ngân hàng, phù hợp và phục vụ sự phát triển
kinh tế xã hội”. Chất lượng tín dụng là hiệu quả của việc cho vay, mở rộng tín
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 Trang 18
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
dụng mang lại khả năng thu hồi vốn gốc và lãi đúng hạn theo quy định. Chất
lượng tín dụng có ý nghĩa lớn với hoạt động kinh doanh của ngân hàng và góp
phần quan trọng để đạt được những mục tiêu mà bất cứ ngân hàng nào cũng phải
vươn tới nếu muốn tồn tại và phát triển.
Chất lượng tín dụng là một khái niệm tương đối, nó vừa cụ thể được thể

hiện thông qua một số chỉ tiêu định lượng như tổng dư nợ, doanh số cho vay, nợ
quá hạn, vừa trừu tượng thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng hoặc tác động
đến nền kinh tế.
Hơn nữa chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ
thích nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức
mạnh của ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
Tín dụng ngân hàng được coi là một sản phẩm của ngân hàng và cũng như
các sản phẩm khác nó cũng có chất lượng, tuy nhiên vì ngành ngân hàng là một
ngành kinh tế đặc biệt, liên quan chặt chẽ đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế nên
chất lượng tín dụng có những đặc trưng riêng thể hiện qua hiệu quả của nó mang
lại cho ngân hàng và mức độ hài lòng của khách hàng.
Chất lượng tín dụng trung và dài hạn là chất lượng của các khoản vay có
thời hạn trên 12 tháng, được đánh giá là có chất lượng tốt khi vốn vay được sử
dụng đúng mục đích, đem lại hiệu quả, đồng thời khách hàng phải đảm bảo trả
nợ cho ngân hàng đúng hạn, từ đó ngân hàng có thể vừa bù đắp được chi phí,
vừa có lợi nhuận, vừa đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội.
Chất lượng tín dụng trung và dài hạn được thể hiện:
Đối với ngân ngân hàng: chất lượng tín dụng trung và dài hạn thể hiện ở
phạm vi, mức độ giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực theo hướng tích
cực của ngân hàng và phải bảo đảm được khả năng cạnh tranh trên thị trường,
làm lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế, phục vụ tăng trưởng và phát triển. Chất
lượng tín dụng trung và dài hạn thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận cao, dư nợ tăng
trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý, đảm bảo cơ cấu giữa nguồn vốn ngắn hạn, trung
và dài hạn phù hợp với nền kinh tế.
Đối với khách hàng: chất lượng tín dụng trung và dài hạn là sự thoả mãn
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 Trang 19
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
yêu cầu hợp lý của khách hàng với lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản đảm bảo thu
hút khách hàng nhưng vẫn tuân thủ đúng những quy định của NHNN, góp phần
làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của doanh nghiệp, cải thiện hoạt động

SXKD và duy trì sự tồn tại, phát triển của ngân hàng.
Đối với nền kinh tế: khoản tín dụng trung và dài hạn có chất lượng phải
hỗ trợ kịp thời cho hoạt động SXKD, giải quyết công ăn việc làm, xây dựng cơ
sở hạ tầng kinh tế, vừa thúc đẩy tiêu dùng, thu hút tối đa nguồn vốn trong nước,
đồng thời tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài phục vụ cho quá trình phát triển kinh
tế.
Để nâng cao chất lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng phải được mở rộng
và có hiệu quả, quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở của sự tin cậy và
uy tín của ngân hàng trong hoạt động của mình.
1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn
1.3.3.1. Nhóm chỉ tiêu định tính
Nhóm chỉ tiêu định tính được thể hiện qua các quy chế, chế độ tín dụng.
Đảm bảo nguyên tắc cho vay: mỗi tổ chức kinh tế hoạt động đều dựa trên
một nguyên tắc nhất định. Ngân hàng là một tổ chức đặc biệt, hoạt động của nó
ảnh hưởng lớn đến tình hình kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước. Do vậy,
các NHTM đều hoạt động dựa trên nguyên tắc nhất định, trong đó, nguyên tắc
cho vay là một nguyên tắc quan trọng. Để đánh giá chất lượng của một khoản
cho vay, trước tiên phải xem xét xem khoản vay đó có đảm bảo nguyên tắc cho
vay hay không.
Quá trình thẩm định là chỉ tiêu định tính quan trọng nhất, quyết định tới
chất lượng khoản cho vay. Quá trình thẩm định là cách tốt nhất để Ngân hàng
nắm được thông tin về khách hàng, về năng lực pháp luật, đạo đức của khách
hàng, tình hình tài chính của khách hàng, khả năng trả nợ của khách hàng. Đây
là khâu không thể thiếu trong quá trình quyết định cho vay và theo dõi khoản
vay. Quá trình thẩm định phải tuân theo các quy định về quy trình thẩm định và
nội dung thẩm định cho vay của từng ngân hàng. Một khoản vay có chất lượng
SVTH: Mai Thị Loan- MSSV: 10005743 Trang 20

×