Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

chuyên đề 1 đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng u não

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.05 MB, 53 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
U não là thuật ngữ thường dùng có tính quy ước để chỉ các u trong sọ.
Bệnh hay gặp trong hệ thống thần kinh trung ương. Theo tổ chức Y tế Thế
giới (World Health Organization, WHO), hàng năm, tỷ lệ mắc u não từ 3 -
5/100.000 người và con số này ngày càng gia tăng. Tần suất mắc bệnh chủ
yếu gặp ở 2 nhóm tuổi từ 3 - 12 và 40 - 70. Tại Mỹ tỷ lệ mắc u não là
4,5/100.000 người, tỷ lệ tử vong đứng thứ 5 sau các bệnh ung thư phổi, dạ
dày, tử cung và vú [20,21,25]. Ở Việt Nam, theo thống kê mới nhất năm
2000, tỷ lệ mắc u não chiếm 1,3/100.000 người [1].
U não có thể gặp ở bất cứ vị trí nào trong não, đặc biệt u thân não. U
thân não bao gồm: u trung não, cầu não và hành não. Đây là vị trí đặc biệt
quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới các chức năng vận động, hô hấp, tuần hoàn
của cơ thể. Bệnh nhân mắc u thân não tiên lượng thường rất xấu, điều trị khó
khăn, bệnh tiến triển nhanh, thời gian sống ngắn, tỉ lệ tử vong cao. Các biểu
hiện lâm sàng thường gặp của u thân não: liệt các dây thần kinh sọ, thất điều,
mất phối hợp, rung giật nhãn cầu, dấu hiệu bó tháp và rối loạn cảm giác các
chi ở một hoặc hai bên. Thoát vị hạnh nhân tiểu não qua lỗ chẩm ép vào thành
não gây khó thở, suy tuần hoàn và tử vong.
Chẩn đoán u não dựa vào: đặc điểm lâm sàng, điện não đồ, chụp cắt lớp
vi tính, chụp 64 dãy, chụp mạch xoá nền, chụp cộng hưởng từ, chụp cộng
hưởng từ phổ với chất lượng cao, chụp PET/CT (Positron Emission
Tomography /Computer Tomography), mô bệnh học u não. Đặc biệt chụp
cộng hưởng từ phổ và mô bệnh học giúp chẩn đoán chính xác, lựa chọn các
phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả.
Để cung cấp thông tin cho đề tài: “Nghiên cứu hiệu quả điều trị u thân não
bằng phương pháp xạ phẫu dao gamma quay (Rotating Gamma Knife)”,
chúng tôi tiến hành tìm hiểu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng u não.
2
I. Đặc điểm lâm sàng u não [2]
1.1. Triệu chứng chung


Đau đầu: là triệu chứng phổ biến nhất của u não. Đau đầu trong u não
thường dai dẳng tăng dần, đặc biệt tăng về ban đêm và gần sáng, đau có đáp
ứng với thuốc giảm đau giai đoạn đầu nhưng sau đó không đáp ứng hoặc đáp
ứng kém. Đau đầu có thể khu trú hoặc toàn bộ đầu. Đau đầu là do sự chèn ép
của u não với tổ chức vùng đáy sọ, xoang tĩnh mạch, màng cứng.
Nôn hoặc buồn nôn: thường xuất hiện muộn hơn đau đầu, cũng có
khi xuất hiện cùng với đau đầu. Nôn không liên quan tới bữa ăn. Triệu
chứng nôn thường đi kèm với chóng mặt và ù tai do u não đè ép vào trung
tâm gây nôn ở sàn não thất IV.
Phù gai thị: là triệu chứng khách quan nhất của u não khi có tăng áp
lực nội sọ. Phát hiện phù gai thị bằng soi đáy mắt. Phù gai thị có thể đi kèm
với xuất huyết, xuất tiết gai thị, muộn hơn có thể dẫn tới teo gai thị gây mất
thị lực.
Rối loạn ý thức nhiều mức độ: từ ngủ gà, lú lẫn đến hôn mê. Đối với
trẻ em triệu chứng tăng áp lực nội sọ kín đáo, khó phát hiện: thóp phồng, kém
ăn, thay đổi ý thức.
Rối loạn tâm thần: thay đổi tính tình, hay cáu gắt, trầm cảm, chậm
chạp, giảm trí nhớ cũng thường gặp trong u não.
Những triệu chứng khác của u não: thay đổi thị lực, thị trường, liệt
các dây thần kinh sọ não, rối loạn nội tiết.
1.2. Triệu chứng khu trú
1.2.1. U não thuỳ trán
Triệu chứng rối loạn tâm thần tương đối hay gặp trong u não thuỳ trán
với biểu hiện: trạng thái vô cảm, tâm thần lờ đờ, giảm trí nhớ và sức chú ý.
3
Thường hay xuất hiện trạng thái khoái cảm bệnh lý, đùa tếu, châm chọc,
cười không duyên cớ.
Khi u đè ép vào dây thần kinh khứu giác thì bệnh nhân mất khả năng
ngửi, khi u chèn ép vào dây thị giác sẽ gây mờ hoặc mù mắt.
1.2.2. U thuỳ thái dương

Khi u đè ép vào hồi móc sẽ gây nên ảo thính, ảo khứu và ảo vị. Những
cơn chóng mặt tiền đình - vỏ não là triệu chứng khá đặc trưng đối với tổn
thương thuỳ thái dương. Rối loạn hoặc mất ngôn ngữ do tổn thương trung khu
ngôn ngữ ở thuỳ thái dương của bán cầu ưu thế.
Nếu u ở đáy sọ chèn ép dây thần kinh vận nhãn chung thì bệnh nhân có
biểu hiện sụp mi, giãn đồng tử, kết hợp với liệt nửa người bên đối diện do
chèn ép cuống não.
1.2.3. U thuỳ chẩm
Triệu chứng của u thuỳ chẩm là giảm thị lực và bán manh cùng bên. U
kích thích dây thần kinh lều tiểu não xuất hiện đau lan xuyên ra nhãn cầu, đau
khi ấn vào nhãn cầu và gây chảy nước mắt.
1.2.4. U thuỳ đỉnh
U chèn ép vào thuỳ vận động gây liệt nửa người đối bên.
1.2.5. U não thất
U to làm tắc lưu thông của dịch não tuỷ gây giãn các não thất, xuất hiện
sớm các triệu chứng của hội chứng tăng áp lực nội sọ. U chèn ép vào vùng
dưới đồi gây các triệu chứng dưới đồi như: ăn nhiều, uống nhiều, đái nhiều,
rối loạn sinh dục, rối loạn chuyển hoá nước, muối, đường, rối loạn giấc ngủ
1.3. U ở vị trí thân não
Thân não bao gồm: trung não, cầu não và hành não.
Những u ở vị trí thân não gây nên các hội chứng định khu.
4
1.3.1. Các hội chứng trung não
Hội chứng Weber: các cấu trúc chính bị ảnh hưởng là các bó vỏ gai
và vỏ hành trong cuống não, các sợi của dây III đi qua phần cuống để ra
khỏi trung não. Với tổn thương bên phải, bệnh nhân sẽ yếu hoặc liệt nửa
người trái và liệt dây III phải.
Hội chứng Benedikt: liệt dây III cùng bên kèm với thất điều tiểu não
đối bên do tổn thương ở trung não ảnh hưởng đến dây III khi nó đi ngang gần
dây đó. Tổn thương ở nhân đỏ làm gián đoạn các sợi từ bán cầu tiểu não bên

đối diện qua nhân đỏ lên đồi thị và vỏ não.
1.3.2. Các hội chứng cầu não trong: các tổn thương của nhân dây VI làm liệt
chức năng nhìn ngang về phía tổn thương. Nếu các sợi từ nhân dây VI đối
diện bị ảnh hưởng khi chúng bắt chéo vào bó dọc giữa, thì động tác nhìn vào
trong của nhóm cơ thẳng trong cùng bên cũng bị yếu (Hội chứng một rưỡi).
Dây thần kinh VII cũng có thể bị ảnh hưởng vì đường đi của nó vòng qua
nhân dây VI trước khi ra khỏi cầu não. Các tổn thương ảnh hưởng dây VI ở
đoạn ngang qua cầu não có thể cũng ảnh hưởng đến liềm trong hoặc ảnh
hưởng bó vỏ gai ở nền cầu não (gây ra giảm thị trường thái dương cùng bên
và mất cảm giác sâu đối bên).
1.3.3. Hội chứng hành não bên (Hội chứng Wallenberg): đây là tổn thương thân
não phổ biến nhất. Bó gai đồi thị bị ảnh hưởng gây ra mất cảm giác đau do nhiệt
ở dưới cổ nửa người đối bên. Ảnh hưởng nhân bó xuống của dây V làm mất cảm
giác đau do nhiệt ở nửa mặt cùng bên tổn thương. Ảnh hưởng bó giao cảm
xuống gây ra hội chứng Horner (hẹp khe mi, co đồng tử và giảm tiết mồ hôi
cùng bên). Ảnh hưởng nhân mơ hồ gây yếu cơ vùng miệng và khó nuốt. Ảnh
hưởng cuống tiểu não dưới gây thất điều tiểu não cùng bên tổn thương.
5
1.4. U vị trí tiểu não: u ở vị trí tiểu não thường gây ra triệu chứng rối loạn
tiền đình: đi lại mất thăng bằng, loạng choạng, xiêu vẹo. Trường hợp khối u
chèn ép não thất gây ra hội chứng tăng áp lực nội sọ.
II. Đặc điểm cận lâm sàng u não
2.1. Các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm (lab)
Các xét nghiệm trong phòng lab về hóa sinh máu và các dịch cơ thể
liên quan thường ít có giá trị chẩn đoán xác định trừ việc xét nghiệm dịch não
tủy có thể được sử dụng để chẩn đoán phân biệt. Thành phần protein trong
dịch não tủy có thể tăng lên. Tuy nhiên do nguy cơ nhiễm trùng và tăng áp lực
nội sọ của thủ thuật này mà việc lưu ý đánh giá lâm sàng và chẩn đoán hình
ảnh trước khi chỉ định là cực kỳ quan trọng.
Chẩn đoán mô bệnh học chỉ thực hiện khi lấy được mẫu bệnh phẩm. Tuy

nhiên những khối u não ở vị trí sâu, nguy hiểm thường khó khăn trong việc lấy
mẫu bệnh phẩm, những trường hợp này việc chẩn đoán chủ yếu dựa vào dấu hiệu
lâm sàng và đặc điểm của u trên các phương tiện chẩn đoán hình ảnh khác.
2.2. Đặc điểm hình ảnh u não
U não là nhóm bệnh được nghiên cứu từ lâu. Lịch sử nghiên cứu u
não gắn liền với sự ra đời và những tiến bộ của các phương pháp chẩn
đoán cận lâm sàng.
Trước đây, chẩn đoán u não thường chỉ dựa vào lâm sàng với hai hội
chứng chính là tăng áp lực nội sọ và dấu hiệu thần kinh khu trú.
Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh được áp dụng trong chẩn đoán u
não từ trước đến nay:
2.1.1. Chụp Xquang sọ não [3,7,50]
Hình ảnh tăng áp lực nội sọ: các đường khớp bị tách xa nhau (hay
gặp ở trẻ em). Trường hợp tăng áp lực nội sọ kéo dài, có thể thấy “dấu ấn
6
ngón tay” của các hồi não ở mặt trong vòm hộp sọ; thường phải tăng áp lực
nội sọ từ hơn 6 tháng thì mới có hình ảnh trên. Lưng và nền hố yên bị mỏng
và mất chất vôi do tăng áp lực nội sọ lâu ngày.
Hình ảnh đóng vôi trong u não: u sọ hầu có thể thấy hình ảnh ngấm
vôi toàn bộ. U màng não có thể thấy đóng vôi lấm tấm hoặc đóng vôi đậm
đều. U thần kinh đệm ít nhánh (Oligodendroglioma) hay đóng vôi hơn và có
hình đóng vôi dài và cong. Loại u tế bào đệm hình sao (Astrocytoma) có thể
đóng vôi thành nốt nhưng thưa hơn trong u màng não.
Hình ảnh dày xương: hình ảnh dày xương tại chỗ ở bản trong sọ nơi u
bám vào màng cứng hay gặp trong u màng não. Hình ảnh dày xương lan vào
hốc mắt trong trường hợp u nền sọ trước, ở cánh xương bướm.
Hình ảnh tiêu xương, thưa xương: các u góc cầu tiểu não làm mỏng
bản nền và các mỏm góc yên sau. U dây thần kinh số VIII làm lỗ tai trong
rộng ra và thay đổi bờ trên xương đá ở tư thế chụp Stenvers. Mỏm yên vẹt, hố
yên giãn rộng trong u tuyến yên hay u vùng tuyến yên. Hình ảnh huỷ xương

cũng gặp trong một số u ác tính, u di căn.
2.1.2. Chụp mạch não (Angiographie)
Đây là phương pháp giúp chẩn đoán u não tốt nhất khi chưa có chụp
cắt lớp vi tính. Với những u có nhiều mạch nuôi như u màng não sẽ thấy
nhiều mạch tăng sinh tại một vùng, nguồn mạch nuôi từ động mạch màng
não giữa hay động mạch cảnh trong với u màng não (Meningioma) và các
dị dạng mạch máu. Với u có ít mạch nuôi cho chẩn đoán gián tiếp khi u
đẩy lệch đường đi của các động mạch não. Tuy nó chính xác và đặc hiệu
hơn trong các tổn thương mạch, nhưng trong một số trường hợp như u não
thất, u nhỏ, u không làm dịch chuyển đường giữa thì chẩn đoán xác định
thường khó [45,50].
7
Theo các tài liệu của OMS phương pháp này có độ nhạy khoảng 60%
và độ đặc hiệu 30% đối với các u nội sọ [42].
Hiện nay, chụp mạch não giúp đánh giá nguồn cấp máu cho u, đường đi
của mạch trong u, điều này đặc biệt có giá trị trong phẫu thuật hoặc xạ trị
tránh làm tổn thương các động mạch chính trong não. Chụp mạch định hướng
cho nút mạch nuôi dưỡng u, hạn chế chảy máu trong phẫu thật loại bỏ u.
Chụp mạch số hoá xoá nền (Digital Subtraction Angiography, DSA) là
phương pháp chẩn đoán hình ảnh kết hợp giữa việc chụp X-quang và xử lý số,
sử dụng thuật toán để xóa nền trên 2 hình ảnh thu nhận được trước và sau khi
tiêm chất cản quang vào cơ thể người bệnh nhằm mục đích nghiên cứu mạch
máu trong cơ thể. Chụp mạch số hoá xoá nền ứng dụng trong chụp mạch máu
não, đánh giá sự cấp máu cho khối u…
2.1.3. Xạ hình não (Scintigraphie)
Từ những năm 40 của thế kỷ 20, chất phóng xạ đã được sử dụng để
nghiên cứu trong y học. Năm 1948 Moore là người đầu tiên dùng chất phóng
xạ để phát hiện u não. Phương pháp này được áp dụng vào Việt Nam từ năm
1983. Có thể thấy vùng tập trung phóng xạ bất thường ở nơi tăng sinh mạch
máu trong u màng não (Meningioma), u nguyên bào thần kinh đệm

(Glioblastoma).
Theo Đinh Văn Bền, xạ hình não có thể phát hiện tới 86% các trường
hợp u não, đặc biệt là u di căn [5].
2.1.4. Siêu âm não
Thường được dùng để khám qua thóp ở trẻ em dưới 2 tuổi. Phương pháp
này thường ít có giá trị trong các loại u nằm phía sau (u thùy chẩm) hay u
nằm phía trước (u thùy trán).
2.1.5. Điện não đồ
Năm 1924, Berger là người đầu tiên ghi được điện não trên người. Theo
ông sóng chậm là sóng của u não.
8
Theo Đinh Văn Bền, u bán cầu đại não có 97% trường hợp điện não
đồ không bình thường. Việc xác định vị trí tổn thương phù hợp chẩn đoán
cuối cùng là 65%.
Điện não đồ có giá trị chẩn đoán vị trí trong các trường hợp u vỏ não, đó
cũng là xét nghiệm cần thiết trong các trường hợp động kinh cục bộ. Tuy
nhiên với u hố sau, các trường hợp tăng áp lực nội sọ nặng thì điện não đồ có
giá trị giới hạn [4].
2.1.6. Xạ hình cắt lớp đơn Photon (Single Photon Emission Computed
Tomography, SPECT)
Xạ hình cắt lớp đơn Photon (SPECT) là một thiết bị ứng dụng kỹ thuật
y học hạt nhân để chẩn đoán hình ảnh chức năng của các cơ quan trong cơ
thể. Hình ảnh mà SPECT thu được không phải là hình thể giải phẫu mà là
hình ảnh phản ánh chức năng của cơ quan. Thông qua hình ảnh SPECT bác sĩ
có thể đánh giá được lượng máu đi đến các mô và cơ quan; từ đó thu được
thông tin về những sự bất thường của vùng cơ quan đó.
Với hình ảnh SPECT chụp não, bác sĩ dễ dàng chẩn đoán trạng thái và
các tổn thương xảy ra trong não, phát hiện các u não giai đoạn sớm.
2.1.7. Ghi hình não với
18

FDG (Fluorine-18-DeoxyGlucose) – PET và
PET/CT (Positron Emission Tomography/CTscanner) [13,15]
Ghi hình não với
18
FDG – PET là một trong các kỹ thuật được thực hiện
phổ biến nhất trong lĩnh vực y học hạt nhân.
18
FDG - PET có giá trị trong phát
hiện khối u, xác định mức độ lan rộng, độ ác tính của khối u cũng như đánh
giá đáp ứng điều trị. Phương pháp này còn giúp phân biệt giữa mô u còn tồn
tại với mô hoại tử do tia xạ khi kết quả trên hình ảnh cộng hưởng từ (MRI)
còn nghi ngờ.
11
C - methionine (MET) là chất tham gia vào tổng hợp protein của khối
u, nó rất hữu dụng cho việc phát hiện các khối u não. Một đặc trưng quan
trọng của MET là có độ chính xác cao hơn so với
18
FDG trong việc phát hiện
những khối u não có độ ác tính thấp. Các hợp chất khác bao gồm: [
11
C],
18
F-
choline và
18
F - fluoro-thymidine (FLT) hiện tại đang được sử dụng trong các
thử nghiệm lâm sàng; dự kiến có các kết quả tốt hơn.
9
Tuy nhiên, khi ghi hình não với
18

FDG - PET cần lưu ý tới đặc điểm sinh
lý của quá trình hấp thu glucose của tổ chức não. Năm 2012, Mai Trọng Khoa
đã tiến hành phân tích các đặc điểm hấp thu sinh lý
18
FDG-PET tại một số cơ
quan của người Việt Nam bình thường, trong đó có tổ chức não [13]. Điều
này rất có ích, giúp chúng ta có cơ sở phân biệt, phân tích và so sánh với các
đặc điểm hình ảnh bình thường hay bệnh lý ở não.
Sau hàng thập kỷ ứng dụng
18
FDG-PET trong lâm sàng, người ta đã
biết rõ hơn các ưu nhược điểm của dược chất phóng xạ này.
18
FDG-PET
có thể giúp phát hiện được một số vùng tổn thương trong nhu mô não
trước và sau điều trị bằng sự thay đổi chuyển hóa glucose ở các mức độ
khác nhau (hình 1).
Hình 1: U tế bào sao độ IV vùng thái dương trán phải còn lại sau điều trị
Ở hình 1, các hình ảnh FDG-PET ở mặt phẳng cắt ngang (từ trên xuống
dưới) biểu hiện bằng một khu vực rộng lớn có các ổ tăng và giảm chuyển hoá
hỗn hợp, bao gồm thuỳ trán sau phải và trước phải đến thuỳ thái dương giữa
phù hợp với khối u còn sau điều trị.
Việc xác định chính xác vị trí khối u đóng vai trò quan trọng trong hoạch
định chiến lược điều trị. Trong trường hợp u não có chỉ định phẫu thuật, việc xác
định ranh giới khối u để phẫu thuật rất quan trọng; việc này giúp cho quá trình
phẫu thuật ít ảnh hưởng đến chức năng của tổ chức não còn lại. Hơn nữa, đối với
các khối u không mổ được, thì xác định chính xác ranh giới khối u đặc biệt quan
10
trọng cho việc xác định thể tích xạ trị, từ đó giúp lập kế kế hoạch xạ trị được
chính xác và bảo vệ tổ chức não lành xung quanh khối u tốt hơn.

Hình 2: Hình ảnh MRI và hình ảnh FET-PET của một bệnh nhân u
nguyên bào thần kinh (Gliomablastoma)
Trong khi dấu hiệu tăng tỷ trọng trên T2W của MRI cho thấy kích thước
khối u quá lớn, bao gồm cả các phần phù não xunh quanh (không phải tổn
thương u), vùng tăng tương phản trên MRI ở T1W thì lại ước tính khối u quá
nhỏ. Trong khi đó, hình ảnh trên FET-PET chỉ rõ kích thước khối u (hình 2).
Để xác định khối u với tổ chức não lành xung quanh thì sử dụng chất
đánh dấu là các amino acid (amino acid tracers) tỏ ra có nhiều ưu việt hơn
FDG. FDG không thể xác định chính xác ranh giới khối u vì các khối u não
có chuyển hóa thấp hoặc tương đồng với vỏ não và thường xuất hiện trong
hoặc gần chất xám. Spence và cộng sự cho rằng để xác định Gliomas tốt hơn
nên dùng FDG xem hình ảnh ở những pha chậm vì các khối u tăng tập trung
hơn so với chất xám ở pha chậm. Tuy nhiên, một câu hỏi đặt ra là “tính khả
thi và có thể tiến hành thường quy được không?”. Nhiều nghiên cứu về vấn đề
này cho rằng có thể dùng amino acid để chẩn đoán khối u.
Năm 1989, Mosskin và cộng sự đã sử dụng sinh thiết định vị bằng
MET-PET thấy tốt hơn so với phương pháp hình thái học của MRI và CT.
Những nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng MET phát hiện u đặc và sự xâm lấn
của u với độ nhạy và độ đặc hiệu cao hơn. Phương pháp này góp phần chẩn
đoán chính xác u não và quản lý tốt bệnh nhân u não. Cũng tương tự như
vậy, các nghiên cứu khẳng định dùng MRI và FET - PET cải thiện đáng kể
11
độ chính xác trong chẩn đoán phân biệt tổ chức gliomas với tổ chức não
xung quanh. Đặc biệt là các tổn thương không phá vỡ hàng rào máu não và
tổn thương lan rộng tăng tín hiệu ở T2 trên MRI.
Trong hầu hết các trường hợp, ở vùng tăng tương phản trên MRI thì
thường được đánh giá thấp hơn kích thước thật của khối u. Toàn bộ tổn
thương tăng tín hiệu ở T2 trên MRI đánh giá lớn hơn kích thước thật của
khối u (hình 2).
Đặc biệt là đối với những bệnh nhân trước khi mổ hoặc trước khi tia xạ,

MET-PET góp phần đáng kể vào việc xác định tổ chức u còn lại, u tái phát,
những thay đổi sau điều trị và giúp xác định chính xác thể tích bia xạ trị.
Trong lập kế hoạch xạ trị, nếu kết hợp hình ảnh chuyển hóa chức năng (MET-
PET) với hình ảnh hình thái học (CT, MRI) sẽ cho kết quả xạ trị tốt hơn, tăng
thời gian sống thêm cho bệnh nhân một cách rõ rệt so với việc chỉ lập kế
hoạch điều trị chỉ bằng hình thái học giải phẫu đơn thuần (CT, MRI ).
2.1.8. Chụp cắt lớp vi tính (CLVT, Computed Tomography Scanner, CTScanner)
Chụp CLVT không tiêm thuốc cản quang cho phép nhận biết các cấu
trúc sau: xương sọ, chất xám và chất trắng ở nhu mô não, dịch, vôi, mỡ và
khí. Trong chẩn đoán u não trong trục chụp CLVT thường thấy hiện tượng
phù chất trắng, hiệu ứng khối, có thể thấy vôi hóa hoặc và chảy máu trong
u đồng thời thấy được vị trí của khối. Chụp CLVT có tiêm thuốc cản quang
iod vào tĩnh mạch giúp đánh giá sự bình thường hay tổn thương của hàng
rào mạch máu não, mức độ ngấm thuốc hay không của khối choán chỗ.
Thực tế, khi chụp CLVT có tiêm thuốc cản quang đã cho phép thấy nhiều
tổn thương khó phát hiện.
Từ năm 1971 đến nay, chụp CLVT đã qua bốn thế hệ kỹ thuật và
mốc tiến bộ quan trọng nhất là chụp xoắn ốc với chất lượng ảnh đẹp [11].
Tại một số cơ sở như bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Hữu Nghị đã có máy
CLVT 64 dãy đầu thu là một phương tiện hiện đại với thời gian chụp ngắn,
chất lượng hình ảnh tốt, có thể phát hiện khả năng ngấm thuốc của khối với
độ phân giải hình ảnh cao đã đóng vai trò lớn trong phát hiện u não.
12
Ưu điểm của chụp CLVT: dễ thực hiện vì tính phổ biến của các máy
chụp, có thể áp dụng trong những trường hợp cấp cứu.
Tuy vậy, chụp CLVT cũng có hạn chế là không cho thấy được tổn thương
nhỏ, tổn thương có cùng tỷ trọng với nhu mô não cũng như đánh giá tính chất
ngấm thuốc của tổn thương không nhạy bằng CHT, khó đánh giá các tổn thương
vùng nền sọ và hố sau do nhiễu ảnh. Ngoài ra có chống chỉ định khá rộng rãi
như đối với phụ nữ có thai trong ba tháng đầu, bệnh nhân suy gan, suy thận và

nhất là với những bệnh nhân có dị ứng với thuốc cản quang.
2.1.9. Chụp cộng hưởng từ (Magnetic Resonance Imaging, MRI)
Ngày nay, CHT hạt nhân được ứng dụng rộng rãi, hình ảnh thu được
bằng kỹ thuật này hơn hẳn các hình ảnh Y học khác từ trước tới nay. CHT có
nhiều tính ưu việt: độ phân giải cao, quan sát ở cả ba mặt phẳng ngang, đứng
ngang, đứng dọc, thấy rõ hình ảnh và những biến đổi về cấu trúc của các tổ
chức, đánh giá được liên quan của tổn thương với các cấu trúc lân cận. Ngoài
ra CHT còn thấy được hình dòng chảy như mạch máu, tái tạo không gian 3D
[12]. Tại Việt Nam đã trang bị được những máy CHT có từ lực cao (1,5
Tesla) đồng thời áp dụng thêm các chuỗi xung mới như chuỗi xung khuếch
tán (Diffusion), cộng hưởng từ phổ (MRS: magnetic resonance spectroscopy)
nên vai trò của CHT trong chẩn đoán u não được đánh giá là phương pháp tối
ưu nhất. CHT đã và đang dần thay thế các phương pháp chẩn đoán có tính
chất can thiệp và những phương pháp có giá trị chẩn đoán thấp khác. Như vậy
với phương pháp chẩn đoán CHT thường quy, chúng ta có thể đánh giá được
những yếu tố sau trong bệnh lý u não: xác định có khối hay không có khối, số
lượng và vị trí khối, tính chất và thành phần của khối (thành phần tổ chức,
thành phần ngấm thuốc, thành phần dịch, thành phần vôi, chảy máu hay hoại
tử ); xác định liên quan với nhu mô xung quanh, đánh giá tình trạng màng
não, vùng phù, hiệu ứng khối , mạch máu trong nhu mô não đồng thời đánh
giá độ khuếch tán của dịch trong khối góp phần chẩn đoán phân biệt với
những trường hợp abces não
13
Ngoài ra còn có một vài phương pháp khác như chụp não thất, siêu âm não,
điện não đồ tuy nhiên hiện giờ không còn hoặc rất ít được áp dụng do có tính chất
xâm phạm đồng thời không mang lại nhiều thông tin chẩn đoán [19].
2.1.10. Chụp cộng hưởng từ phổ (CHTP)
Qua nhiều thập kỷ nghiên cứu, các nhà thần kinh học nội khoa, ngoại
khoa và các nhà ung bướu học đã có được những cơ sở để thấy rằng CHTP là
một công cụ lâm sàng hữu ích [32].

Trên hình ảnh CHTP của nhu mô não bình thường giữa chất trắng và
chất xám, sự khác biệt chủ yếu là trong chất xám có nhiều Cr hơn.
Cho đến nay CHTP đã được sử dụng trong các bệnh lý như u não, viêm
não, nhồi máu não hay rối loạn chuyển hóa
14
Bảng 1: Giá trị và tỷ lệ một số chất chuyển hóa chính ở nhu mô não bình
thường
NAA Creatinin Choline mIns
Ởngười lớn 8.89 ± 0,17 7,49 ± 0,12 1,32 ± 0,07 6,56± 0,45
Bảng 2: Giá trị các chất chuyển hóa chính của nhu mô não bình thường ở
người lớn (mmol/l)
Chất chuyển hóa Chất trắng Chất xám
NAA 8,8 ± 1,0 11,7 ± 2,2
Cr 6,1 ± 0,8 8,2 ± 1,4
Cho 1,8 ± 0,2 1,4 ± 0,3
mIns 4,7 ± 1,0 6,2 ± 1,1

Bảng 3: Tỷ lệ các chất chuyển hóa ở các lứa tuổi [39]
Vị trí Chỉ số
Nhóm tuổi
<16 16-25 25-37 >37
Chất
trắng
NAA/Cr 1,54 ± 0,09 1,49 ± 0,07 1,41 ± 0,12
NAA/Cho
Cho/Cr 0,77 ± 0,05 0,78 ± 0,06 0,82 ± 0,02
mI/Cr 0,59 ± 0,03 0,6 ± 0,03 0,63 ± 0,04
Chất
xám
NAA/Cr 1,53 ± 0,13 1,41± 0,08 1,36 ± 0,08 1,26 ± 0,09

NAA/Cho 3.43 ± 1,04
Cho/Cr 0,49 ± 0,16 0,56 ± 0,05 0,76 ± 0,08 0,6 ± 0,05
mI/Cr 0,6 ± 0,04 0,6 ± 0,04 0,59 ± 0,06
Bệnh lý u não
Một số nghiên cứu trên thế giới đã đưa ra các ứng dụng của CHTP
trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý u não đặc biệt là các khối u nguyên phát
trong trục, khối u thứ phát. CHTP đã mang lại những giá trị nhất định với 5
mục đích chính hướng tới: chẩn đoán phân biệt tổn thương là khối u hay
15
không u; u nguyên phát hay u thứ phát; u bậc thấp hay bậc cao; đánh giá sự
lan rộng của khối u; đánh giá tổ chức u còn sót sau phẫu thuật. Bởi vậy, nó
là một phương pháp định lượng góp phần tiếp cận chẩn đoán tế bào học và
bậc của khối u, đồng thời là một phương pháp chẩn đoán loại trừ u não với
các bệnh lý khác nhất là abcès não và nhồi máu não. Đây cũng là một
phương tiện được sử dụng để đánh giá đáp ứng điều trị mà hiện nay trên
thế giới đang áp dụng [46,47,48].
Chẩn đoán phân biệt tổn thương là khối u hay không u
Các khối u não thường biến đổi phổ như tăng Cho, giảm NAA và Cr do
tăng chu chuyển tế bào dẫn tới tăng cường năng lượng và tăng sinh màng tế bào
u. NAA sụt giảm là do các tế bào não bình thường bị phá hủy và thay thế bởi các
tế bào u. Theo một số nghiên cứu, tỷ lệ Cho/NAA>1,5 hoặc tỷ lệ Cho/Cr>1,5
gợi ý đến tổn thương dạng u [40,48,51]. Trong u não thường thấy đỉnh Lac tăng
do chuyển hóa u vượt quá khả năng cung cấp oxy trong máu dẫn đến chuyển hóa
Glucose theo con đường yếm khí. Tại vùng hoại tử của tổ chức u, Lipid có đỉnh
tăng cao hơn nhiều so với các thành phần khác của u hay so với tổ chức nhu
mô não bình thường.
Nhu mô não bình
thường
16
Hình 3: Biến đổi phổ cộng hưởng từ kỹ thuật đơn thể tích ở bệnh nhân

Glioblastoma multiform []
Hình 4: Bản đồ màu đánh giá độ tập trung khác nhau của các chất
chuyển hóa với kỹ thuật đa thể tích [49]
Màu đỏ biểu thị mức độ tập trung các chất chuyển hóa cao, giảm dần là
màu vàng, màu xanh lá cây và màu xanh lục.
Chẩn đoán u nguyên phát hay u thứ phát
CHTP xác định nguồn gốc khối u thông qua việc đánh giá nhu mô xung
quanh. U nguyên phát như các loại Giloma có biến đổi phổ như tăng Cho viền
xung quanh do tính chất thâm nhiễm, trong khi đó những khối u thứ phát
thường không biến đổi phổ ở vùng phù não xung quanh. Tác giả Riyadh N.
Vùng phù quanh
của khối
Vùng ngấm thuốc
của khối
17
Al- Okaili đã tiến hành nghiên cứu trên 27 bệnh nhân có đối chiếu với GPB,
sử dụng tiêu chí đánh giá là tỷ lệ Cho/NAA đo ở vùng phù ngoài vị trí ngấm
thuốc. Tác giả nhận thấy sự khác biệt về tỷ lệ này giữa hai nhóm u nguyên
phát và thứ phát là có ý nghĩa thống kê, chỉ có 5 trường hợp chẩn đoán nhầm
(trong đó có 4 trường hợp u nguyên phát bị cho là di căn và 1 trường hợp di
căn cho là u nguyên phát) [46]. Ngoài ra, với u màng não thứ phát thường
không có tăng Alanine tại 1,48 ppm trong khi đó chất này lại là đặc trưng của
u màng não nguyên phát [40,51].
Chẩn đoán bậc của u
Khi tổn thương càng ác tính, các chất NAA và Cr càng giảm. Trong khi
đó Cho, Lac và sản phẩm thoái hoá tế bào là Lipid tăng. NAA giảm do khối u
phát triển thay thế hoặc phá hủy Neuron thần kinh. Bậc của khối u tăng tỷ lệ
thuận với hoạt động chuyển hóa (trong đó có chuyển hoá yếm khí), tiêu thụ năng
lượng dự trữ, sự sinh sản tế bào dẫn đến giảm Cr và tăng Cho, xuất hiện Lac
[40,51]. Như vậy, CHTP góp phần phân bậc khối u và tiếp cận chẩn đoán tế bào

học của khối u.
Đánh giá sự lan rộng của khối u
CHTP đánh giá sự lan rộng khối u chi tiết hơn CHT thường quy bởi có
thể đánh giá được sự biến đổi phổ của tổ chức phù quanh khối u do sự xâm
lấn của tế bào u hay do sự phù nề của các tế bào thần kinh không phải u.
Đánh giá tổ chức u sau điều trị
Việc xác định tổ chức ngấm thuốc sau xạ trị là u còn sót, u tái phát sau
điều trị hay tổn thương do chính xạ trị là rất quan trọng. Điều này sẽ quyết định
hướng điều trị tiếp theo. Trên CHTP, cả hai trường hợp này đều có tăng Lipid và
Lac ở tổ chức hoại tử. Tuy nhiên, nếu kèm theo tăng Cho thì đây là tổ chức u,
còn với tổn thương do tia xạ sẽ biểu hiện là giảm NAA, Cr và Cho [40,51].
III. Đặc điểm hình ảnh u não trên phim CLVT và MRI
3.1. U tế bào hình sao (Astrocytome)
3.1.1. U sao bào thể lông (Pilocytic astrocytoma)
U sao bào thể lông là u lành tính của u thần kinh đệm hình sao. Tỷ lệ
gặp 5% - 10% trong số các u thần kinh đệm [27]. U tiến triển chậm, rất ít khi
chuyển thành ác tính. U thuộc nhóm có độ ác tính thấp nhất (độ I) theo phân
18
độ của tổ chức Y tế thế giới. U thường gặp ở trẻ em và người trẻ tuổi, cũng có
thể gặp ở bệnh nhân bị đa u xơ thần kinh type I (NFI).
Vị trí u hay gặp lần lượt theo thứ tự: tiểu não (60%), dây II và giao thoa
thị giác (25 - 30%), còn lại là não thất III và thân não (10 – 15%). Những u có
kích thước lớn thường gặp ở tiểu não, kích thước nhỏ ở dây II và giao thoa thị
giác. Về hình thái gặp chủ yếu u dạng nang, với u dây II dưới dạng hình thoi
kéo dài theo dây thần kinh, có điểm thắt tại đáy hốc mắt [28].
Nguồn Trung tâm Y học hạt nhân và ung bướu Bệnh viện Bạch Mai
Hình 5: Hình ảnh u trên phim cắt lớp vi tính
Trên phim không tiêm thuốc cản quang: hay gặp u dạng nang (đồng
hoặc tăng nhẹ tỷ trọng so với dịch não tuỷ), u dạng đặc ít gặp. Hình ảnh vôi
hoá trong u gặp 20%, hiếm khi có chảy máu trong u. Có thể gặp u làm tắc

lưu thông dịch não tủy, là nguyên nhân gây giãn não thất. Phù não quanh u
thỉnh thoảng có thế gặp [28].
Trên phim cắt lớp vi tính có tiêm thuốc cản quang: Ở dạng u nang, 50%
không tăng tỷ trọng và chỉ tăng tỷ trọng mạnh ở phần nhân đặc. Với những u
dạng đặc trên 95% trường hợp có tăng tỷ trọng và thường không đồng nhất,
40% có hoại tử trung tâm u [28].
Hình ảnh cộng hưởng từ, MRI
MRI có giá trị chẩn đoán chính xác cao đối với u sao bào thể lông. Ở
tiểu não là hình ảnh giảm hoặc đồng tín hiệu với dịch não tuỷ trên phim T1 và
tăng tín hiệu trên phim T2, nhân đặc trên vỏ nang hoặc u đặc đồng hoặc giảm
tín hiệu so với chất xám trên phim T1 và tăng tín hiệu mạnh so với chất xám
trên phim T2. Với u vùng giao thoa thị giác hay vùng đồi thị, ở trên bệnh
Hình 5: U sao bào thể lông trên
phim CLVT và CHT; (A): u sao bào
thể lông trên phim chụp CLVT. (B): u
sao bào thể lông trên phim chụp CHT
A
B
19
nhân bị bệnh NF1 khó phân biệt với các loại u khác bằng phim cộng hưởng
từ, khi đó kết hợp với lâm sàng sẽ có chẩn đoán chính xác [28].
Chẩn đoán phân biệt
Trên hình ảnh u sao bào thể lông cần phân biệt với các loại u sau [28]:
U nguyên bào tuỷ (Medulloblastoma): u gặp ở trẻ nhỏ khoảng 2 - 6 tuổi
là hình ảnh lấp đầy não thất IV và tăng tín hiệu ở giữa u.
U tế bào đệm ống nội tuỷ (Ependymoma): hình ảnh giãn rộng trong não
thất IV. Có thể có vôi hoá trong u, chảy máu trong u, có thể ở dạng nang, tăng
tín hiệu không đồng nhất.
U nang mạch (Hemangioblastoma): u nang lớn, có nhân nhỏ tăng tín
hiệu ở vách u. U thường gặp ở người lớn.

U tế bào đệm hạch thần kinh (Ganglioglioma): u có ranh giới rõ, dạng
đặc hoặc nang, thường có vôi hoá trong u. U nằm ở nền vỏ não thường tăng
tín hiệu.
3.1.2. U tế bào hình sao lan toả (Astrocytoma grade II)
U tế bào hình sao lan toả là loại u hay gặp của nhóm u sao bào, chiếm 25-
30% u thần kinh đệm ở người lớn, 10 - 15% của các u sao bào nói chung. Tuổi
thường gặp từ 20 – 45 tuổi. U có xu hướng tiến triển thành u sao bào kém biệt hoá.
U nằm ở chất trắng, khu trú hoặc xâm lấm vào tổ chức xung quanh. Trên
phim, u không tăng tín hiệu so với chất trắng. U gặp chủ yếu ở bán cầu đại não
(2/3 u nằm trên lều tiểu não); trong đó 1/3 ở thùy trán, 1/3 thùy thái dương, ngoài
ra còn gặp ở thùy đỉnh và thùy chẩm. Còn 1/3 u nằm dưới lều tiểu não và thân
não (50% u thần kinh đệm ở thân não là u sao bào độ ác tính thấp).
Đây là loại u của chất trắng, có thể xâm lấn ra vỏ não. Khoảng 20% u
xâm lấn vào chất xám, vùng đồi thị và các nhân xám trung ương. Về hình
thái, u đồng nhất lan rộng và xâm lấn tổ chức xung quanh. U có thể có ranh
giới trên hình ảnh nhưng trên giải phẫu bệnh tế bào u vẫn được tìm thấy ở
những tổ chức xung quanh [28].
Trên phim cắt lớp vi tính
20
Trên phim không có thuốc cản quang: u có hình ảnh đồng nhất, giảm
hoặc đồng tỷ trọng so với chất trắng. Hình ảnh vôi hoá trong u gặp 20%
trường hợp, ít khi là u nang. Hiếm khi u xâm lấn ra vòm sọ.
Trên phim có thuốc cản quang: u không tăng tỷ trọng hoặc tăng nhẹ. Nếu u
có hình ảnh tăng tỷ trọng có thể u đang trong giai đoạn tiến triển thành ác tính [28].
Trên phim cộng hưởng từ
Hình ảnh của u trên phim cộng hưởng từ là vùng giảm tín hiệu đồng
nhất ở chất trắng, có thể có ranh giới hoặc không có ranh giới trên phim T1,
không ngấm hay ngấm ít đối quang từ, tăng tín hiệu trên phim T2. U có thể
lan rộng trong chất trắng và ra vỏ não gần kề. Trên phim, u có thể có giới hạn;
nhưng trên GPB, tế bào u xâm lấn vào tổ chức não xung quanh. Hình ảnh vôi

hoá trong u và chảy máu trong u có thể gặp, ít khí là u nang. Ít phù hoặc không
có phù não quanh u [28].
Hình 6: U sao bào lan tỏa độ II (A): CLVT; (B,C,D): CHT
Nguồn Trung tâm Y học hạt nhân và ung bướu Bệnh viện Bạch Mai
A B C D
21
Trên phim cộng hưởng từ phổ: tăng tỷ lệ chuyển hóa Cho/NAA và Cho/Cr
Chẩn đoán phân biệt
Trên hình ảnh u sao bào lan toả cần phân biệt với các loại u sau [28]:
U tế bào sao kém biệt hoá (Anaplastic astrocytoma): u nằm ở chất
trắng của bán cầu đại não, thường không tăng tín hiệu. U khu trú hoặc xâm
lấn. Khi có tiêm thuốc đối quang từ có hình ảnh tăng tín hiệu rõ. Đôi khi khó
phân biệt, phải phân biệt bằng giải phẫu bệnh.
Nhồi máu não (Ischemia): giảm tín hiệu trên phim T1 và tăng tín hiệu
trên phim T2. Hình ảnh tổn thương tương ứng, giới hạn theo vùng động mạch
não nuôi dưỡng. Bệnh xuất hiện đột ngột và cấp tính. Vùng tổn thương
thường có hình chêm gồm cả chất xám và chất trắng.
Viêm não (Cerebritis): có hình ảnh phù não nhiều, tăng tín hiệu
loang lổ, thường không có hình ảnh xâm lấn. Toàn thân có tình trạng nhiễm
trùng cấp tính.
U tế bào thần kinh đệm ít nhánh (Oligodendroglioma): u thường nằm ở
vùng vỏ não, tăng tín hiệu không đồng nhất. Hay gặp hình ảnh vôi hoá trong
u. Có thể không phân biệt được trên hình ảnh.
3.1.3. U tế bào thần kinh đệm hình sao kém biệt hoá (Anaplastic astrocytoma)
Là u não ác tính độ III theo phân độ của tổ chức Y tế thế giới. Tỷ lệ
mắc hàng năm ở châu Âu 0,3/100.000 dân; chiếm 4% các bệnh lý ác tính của
hệ thần kinh trung ương. Ở châu Âu, khoảng 60% bệnh nhân được chẩn đoán
là Anaplastic astrocytoma ở lứa tuổi 45- 69 tuổi.
U gặp chủ yếu ở chất trắng của bán cầu đại não, thường gặp ở thùy trán
và thùy thái dương. Ở trẻ em có thể gặp ở cầu não, đồi thị và tủy sống. U có

kích thước to hay nhỏ tuỳ thuộc u được phát hiện sớm hay muộn. Trên hình
ảnh u có thể có ranh giới, nhưng trên giải phẫu bệnh tế bào u đã xâm lấn ra
các tổ chức xung quanh [28].
Hình ảnh u trên phim cắt lớp vi tính
Trên phim không tiêm thuốc cản quang: hình ảnh khối giảm tỷ trọng,
ranh giới không rõ gây đè đẩy các tổ chức xung quanh, có phù não quanh u.
Có thể có hình ảnh vôi hoá hoặc chảy máu trong u.
22
Trên phim có tiêm thuốc cản quang: phần lớn u không tăng tỷ trọng,
một số trường hợp tăng tỷ trọng thường tập trung không đồng nhất và loang
lổ. Nếu trên phim có tăng tỷ trọng, viền quanh u là hình ảnh u đang tiến triển
thành thể ác tính cao u nguyên bào thần kinh đệm (Glioblastoma) [28].
Hình ảnh trên phim cộng hưởng từ
Trên phim T1 có thể giảm hoặc đồng nhất tín hiệu, trên phim T2 tăng
tín hiệu không đồng nhất. U có ranh giới không rõ, thường xâm lấn tổ chức
não xung quanh, một số ít có thể thấy ranh giới trên phim. U ở chất trắng có
thể xâm lấn ra tận vỏ não, thường có phù não quanh u. Ít khi gặp các hình ảnh
vôi hoá, chảy máu, dạng nang trong u. Khi có tăng tín hiệu viền quanh u thể
hiện u đang tiến triển thành u nguyên bào thần kinh đệm [28].
Hình 7: U tế bào thần kinh đệm kém biệt hóa (A,B): CLVT; (C,D):CHT
Nguồn Trung tâm Y học hạt nhân và ung bướu Bệnh viện Bạch Mai
Chẩn đoán phân biệt
U sao bào giảm biệt hoá trên phim cắt lớp và cộng hưởng từ cần phân
biệt với các loại u sau [28]:
U tế bào sao lan toả (Astrocytoma grade II): u khu trú hoặc xâm lấn ở
vùng chất trắng. U ở bán cầu không tăng tín hiệu. Đôi khi khó phân biệt, phải
dựa vào kết quả giải phẫu bệnh.
U nguyên bào thần kinh đệm (Glioblastoma): trên hình ảnh, 95% trường
hợp có hoại tử trong u, tăng tín hiệu viền quanh u. Có tăng tín hiệu rộng quanh u
(hình ảnh phù não) trên phim T2 Flair; có thể có chảy máu trong u.

Viêm não (Cerebritis): phù não nhiều, tăng tín hiệu loang lổ. Thường
không có hình ảnh xâm lấn. Toàn thân có tình trạng nhiễm trùng cấp tính.
Nhồi máu não (Ischemia): giảm tín hiệu trên phim T1 và tăng tín hiệu
trên phim T2. Hình ảnh tổn thương tương ứng, giới hạn theo vùng động mạch
A
B C D
23
não nuôi dưỡng, bệnh xuất hiện đột ngột, cấp tính. Vùng tổn thương thường
có hình chêm, gồm cả chất xám và chất trắng.
U tế bào thần kinh đệm ít nhánh (Oligodendroglioma): u vùng nền vỏ
não, tăng tín hiệu không đồng nhất. Hay gặp hình ảnh vôi hoá trong u. Có thể
không phân biệt được trên hình ảnh.
3.1.4. U nguyên bào thần kinh đệm (Glioblastoma)
Là u não tiên phát có độ ác tính cao (độ IV) theo phân độ của tổ chức Y
tế thế giới. U chiếm 5/100.000 dân/ năm tại Bắc Mỹ. Đây là 1 trong những u
hay gặp của hệ thống thần kinh trung ương. U có thể gặp ở mọi lứa tuổi,
nhưng hay gặp nhất ở tuổi 65-74 [29],[36].
U hay gặp trên lều tiểu não: thùy trán, thái dương, thùy đỉnh; u ở thuỳ
chẩm ít gặp hơn. Vị trí u hay gặp xếp theo thứ tự u: bán cầu đại não, thân não,
tiểu não; trong đó u ở thân não, tiểu não gặp chủ yếu ở trẻ em. Về hình thái: u
ranh giới không rõ, xâm lấn tổ chức xung quanh. U có thể xâm lấn sang bán
cầu bên đối diện [28].
Hình ảnh trên phim cắt lớp vi tính
Trên phim không tiêm thuốc cản quang: u đồng hoặc giảm tỷ trọng, có
thể là giảm tỷ trọng ở trung tâm do hoại tử trong u. U gây đè đẩy tổ chức và
phù não rộng xung quanh. Trong u, có thể có hình ảnh chảy máu; ít gặp hình
ảnh vôi hóa ,nếu có thường là u tiến triển từ u sao bào giảm biệt hoá.
Trên phim có tiêm thuốc cản quang: 95% trường hợp u bắt thuốc mạnh
và viền quanh u bắt thuốc mạnh hơn, mức độ bắt thuốc không đồng nhất.
Hình ảnh trên phim cộng hưởng từ

U thường lan rộng xâm lấn các tổ chức xung quanh, đồng hoặc giảm
tín hiệu so với chất trắng trên phim T1, tăng tín hiệu không đồng nhất và viền u
tăng tín hiệu mạnh trên phim T2. Trong u có nhiều nang, có hình ảnh hoại tử và
có thể có chảy máu trong u. Kèm theo là hình ảnh phù não rộng, đè đẩy tổ chức
xung quanh. Thường hình ảnh tăng sinh mạnh khi tiêm thuốc đối quang từ,
ngấm thuốc dạng viền. Đây là loại u có nhiều nang trong u tạo ra hình ảnh tăng
tín hiệu không đều trên phim T2 Flair [28].
24
Hình 8: U nguyên bào thần kinh đệm. (A):CLV; (B,C): CHT
Nguồn Trung tâm Y học hạt nhân và ung bướu Bệnh viện Bạch Mai
Trên phim chụp cộng hưởng từ phổ: tăng tỷ lệ chuyển hóa Cho/NAA và
Cho/Cr.
Chẩn đoán phân biệt
U nguyên bào thần kinh đệm trên hình ảnh cần chẩn đoán phân biệt với
các loại u sau [28]:
Áp xe não (Abscess): Viền tăng tín hiệu quanh u mỏng hơn, chỉ bắt
thuốc cản quang ở viền u. Trên phim T2 của cộng hưởng từ, viền u giảm tín
hiệu, không có hình ảnh xâm lấn.
U di căn (Metastasis): u có ranh giới rõ trên hình ảnh, phù não rộng
quanh u, có ung thư tiên phát ở cơ quan khác.
U tế bào sao kém biệt hoá (Anapalstic astrocytoma): u nằm ở chất
trắng của bán cầu đại não, thường không tăng tín hiệu. U khu trú hoặc xâm
lấn. Khi có tiêm thuốc đối quang từ tăng tín hiệu không đồng đều. Nhiều khi
khó phân biệt.
U lymphoma: u tăng tín hiệu quanh não thất và thường lan qua thể vân.
Nhồi máu não bán cấp (Subacute ischemia): hình ảnh tổn thương tương
ứng, giới hạn theo vùng động mạch não nuôi dưỡng. Vùng thiếu máu có thể
gây đè đẩy xung quanh, giảm tín hiệu trên T1, tăng tín hiệu trên T2. Vùng tổn
thương thường có hình chêm, gồm cả chất xám và chất trắng.
A B C

25
3.2. U máu thể hang (Cavernome) ở não [22,26,28]
U máu dạng mao mạch hoặc u máu thể hang (Cavernoma) chiếm 0,1-
0,5% dân số. Đây là một tổ chức mạch máu hoặc tổn thương bất thường
được tạo thành bởi nhiều khoang nhỏ (tiểu thùy) giống như hình tổ ong
hoặc hình quả dâu.
U máu thể hang có thể ở tất cả các vị trí trong não: ở nội sọ (trong não)
hoặc ngoài hộp sọ (ngoài não). Hầu hết u máu thể hang thường ở hai bán cầu
đại não, đôi khi gặp ở vùng hố sau hoặc thân não, hiếm khi gặp ở vùng tủy
sống. Nếu gặp ở tủy sống, u máu thể hang thường kếp hợp với nhiều tổn
thương u máu thể hang trên não (Barker và cs, 2001).
Hình ảnh trên phim cắt lớp vi tính
Trên phim không tiêm thuốc cản quang: chỉ thấy hình ảnh xuất huyết não
mà không phát hiện được u máu thể hang.
Trên phim có tiêm thuốc cản quang: khoảng 70-94% các u máu thể hang
có ngấm thuốc nhẹ hoặc trung bình; có hình tròn hoặc hình oval. Tổn thương
có thể tăng tỷ trọng và không gây hiệu ứng khối (không đè đẩy tổ chức lân
cận). Có thể có vùng calci hóa và vùng có những vách ngăn, bên trong là các
hồ máu nhỏ. Vùng vách ngăn tỷ trọng không đồng nhất, dạng lốm đốm là
vùng vách ngăn xơ hóa, vùng ngoại vi vỏ mỏng là các tế bào thần kinh đệm
xung quanh tổn thương.
Hình ảnh trên phim cộng hưởng từ
• T1W1: Đa dạng phụ thuộc vào giai đoạn hoặc có xuất huyết hay không.
Thường là “hình tròn bỏng ngô” (Popcorn Ball) gồm nhiều ổ chứa máu tín
hiệu hỗn hợp (tăng hoặc giảm). Hình ảnh ít phổ biến hơn: xuất huyết cấp
và thường không đặc hiệu.
• T2W1: Tổn thương dạng lưới “giống bỏng ngô” là phổ biến nhất: gồm
có các nhân tín hiệu hỗn hợp và một vòng hemosiderin giảm tín hiệu hoàn
toàn, các ổ chứa máu với các mức dịch/dịch. Cũng có thể gặp giảm tín
hiệu nhưng ít phổ biến hơn.

×